« Home « Kết quả tìm kiếm

Truyền thuyết và lễ hội hội Chùa Dâu


Tóm tắt Xem thử

- Lịch sử nghiên cứu.
- Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội.
- Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết.
- Lịch sử nghiên cứu về lễ hội.
- Lịch sử nghiên cứu Truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu.
- Khái niệm về vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc.
- Khái niệm vùng văn hóa.
- Vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc.
- Thuận Thành - không gian văn hóa đặc sắc.
- Sự hình thành không gian văn hóa Dâu - Luy Lâu.
- Đặc điểm văn hóa dân gian.
- Khái niệm về truyền thuyết.
- Truyền thuyết Man Nƣơng và hệ thống Chùa Tứ Pháp.
- Truyền thuyết Man Nƣơng và hệ thồng Tứ Pháp.
- 2.1: Khảo sát về truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc nhân dân kể lại.
- Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ngƣời dân vùng Dâu kể lại.
- Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc nhà Chùa kể lại.
- 2.1.3.Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ngƣời dân vùng Công Hà kể lại.
- Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ghi chép trong bản Cổ Châu Phật bản hạnh.
- Truyền thuyết Man Nƣơng trong sách Lĩnh Nam chích quái.
- Truyền thuyết Man Nƣơng đƣợc ghi chép trong Thần tích - Thần sắc tại Đình Khƣơng Tự.
- Giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ qua truyền thuyết Man Nƣơng.
- Lễ hội chùa Dâu.
- Nguồn gốc lễ hội chùa Dâu.
- Mô tả lễ hội.
- Ý nghĩa của lễ hội.
- Ý nghĩa bảo tồn và lƣu truyền văn hóa.
- Văn học dân gian rất phong phú và đa dạng về thể loại, trong đó truyền thuyết được coi là một thể loại văn học độc đáo và hết sức đặc biệt với đặc trưng của thể loại truyền thuyết đã cho ta thấy được những giá trị to lớn trong việc lưu truyền lịch sự văn hóa dân tộc.
- Theo GS- Lê Chí Quế truyền thuyết có thế phân chia thành bốn loại: Truyền thuyết lịch sử.
- truyền thuyết anh hùng.
- truyền thuyết về các danh nhân văn hóa.
- truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo..
- 1.1 Có thể nói trong bốn loại truyền thuyết nói trên thì truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo không chỉ góp phần lưu giữ văn hóa dân tộc mà nó còn đi sâu vào đời sống tâm linh của người Việt Nam.
- Truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo có nguồn gốc từ cơ sở thực tiễn: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm, gió mùa, thiên nhiên phong phú và đa dạng.
- Điều này được thể hiện rõ nhất ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, trong đó có Bắc Ninh ngày nay.
- văn hóa vùng miền Kinh Bắc xưa ta không thể bỏ qua một dấu ấn về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu – một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, là cái nôi của trung tâm phật giáo Việt Nam..
- Do vậy nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu là công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc làm sáng tỏ hơn thể loại truyền thuyết dân gian Việt Nam..
- Trong sự đa dạng và phong phú của văn hóa truyền thống dân tộc, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của truyền thuyết và lễ hội ở địa phương, vùng, miền, nó góp phần tạo nên giá trị của văn hóa cổ truyền dân tộc.
- Cho đến nay số lượng các công trình của các nhà khoa học nghiên cứu, sưu tầm về truyền thuyết đã gặt hái được những thành tựu đáng kể.
- Tuy nhiên mảng truyền thuyết và lễ hội ở địa phương nghiên cứu theo góc độ VHDG vẫn còn ít được quan tâm.
- Trong xu thế chung ấy truyền thuyết và lễ hội chùa Dâu – Thuận Thành – Bắc Ninh cũng đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học nghiên cứu.
- Hơn nữa trong điều kiện hiện nay xã hội Việt Nam cần có sự tiếp nối nguồn mạch văn hóa truyền thống dân tộc.
- Có một thời kỳ do những quan điểm lệc lạc, nhiều giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc bị phá bỏ vì coi là mê tín dị đoan.
- Những năm gần đây đặc biệt sau đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) với tinh thần đổi mới văn hóa dân tộc, nhiều đền đài, chùa chiền … được chú ý trùng tu, khôi phục, các lễ hội được tổ chức long trọng hơn trong đó có lễ hội Chùa Dâu -Thuận Thành - Bắc Ninh..
- Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay, xu hướng nghiên cứu thể loại truyền thuyết trong mối quan hệ với lễ hội ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước đã thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học và các học giả, hướng nghiên cứu này mang lại ý nghĩa rất thiết thực trong việc bảo tồn các di sản văn hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng..
- Tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu, giúp chúng ta thêm một lần nữa hiểu sâu về văn học dân gian nói chung và truyền thống nói riêng của dân tộc, vừa là một hiện tượng văn học vừa là một hiện tượng văn hóa..
- Là một giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn văn học nói chung trong đó có văn học dân gian nói riêng, ở huyện Thuận Thành, nơi tọa lạc Chùa Dâu, thì việc nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu là cơ hội để người viết tích lũy kiến thức về kho tàng truyền thuyết từ đó bồi đắp cho học sinh lòng tự hào về truyên thống quý báu của dân tộc, khơi dậy trong các em ý thức về việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc.
- Để truyền thống văn hóa của dân tộc được lưu truyền một cách rộng rãi, không bao giờ bị mai một..
- Trên đây là tất cả những lý do khiến người viết lựa chọn đề tài “Truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu - Thuận Thành - Bắc Ninh”..
- Lịch sử nghiên cứu..
- Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội..
- Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết..
- Trong khoa học nghiên cứu văn hóa dân gian ở nhiều nước trên thế giới, việc coi truyền thuyết là một thể loại riêng biệt đã trở thành truyền thống.
- Còn ở nước ta thể loại truyền thuyết xuất hiện khá sớm “thế kỷ XIV, XV” nhưng thuật ngữ truyền thuyết và vấn đề nghiên cứu truyền thuyết thì ra đời muôn, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XX.
- Giáo sư Nguyễn Đổng Chi trong lời tựa “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” cho rằng: Truyền thuyết thường dùng để chỉ những câu chuyện cũ những sự việc lịch sự còn được quần chúng truyền lại nhưng không đảm bảo về mặt chính xác (có thể do truyền rộng mà sai lệch) và truyền thuyết phần nhiều chưa được xây dựng thành truyện.
- Nó mới chỉ là những câu chuyện còn nếu nó phát triển đến mức hoàn thiện thì tùy theo nội dung nó có thể là cổ tích hoặc thần thoại : hiện nay truyền thuyết Việt Nam tìm được rất ít ỏi đượm khí cổ tích nhiều hơn thần thoại vì thế khi sưu tầm thì thường xếp lẫn với cổ tích và coi như truyện cổ tích..
- Trong giáo trình trường đại học sư phạm xuất bản 1961 – 1970 đã đưa truyền thuyết vào cơ cấu các thể loại văn hóa dân gian nhưng đã đặt bên cạnh thần thoại..
- Như vậy cách sắp xếp truyền thuyết trong hệ thống các thể loại văn bản dân gian có khác nhau nhưng điểm tương đồng giữa các nhà khoa học Việt Nam là khi nghiên cứu truyền thuyết bao giờ cũng đặt nó trong mối quan hệ với thần thoại và cổ tích..
- Đáng chú ý hơn cả là công trình truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam tập trung những bài nghiên cứu về truyền thuyết được xuất bản năm 1971.
- Trong đó đặc biệt đáng lưu ý là truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của Kiều Thu Hoạch.
- Đến những năm 1973 trong bài tìm hiều quan hệ giữa thần thoại truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục, tác giả Nguyễn Khắc Xương nêu rõ mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội “thần thoại, truyền thuyết lưu truyền bằng miệng trong dân gian đã được tái hiện cụ thể và sinh động trước dân gian qua nghệ thuật diễn xướng hỗn hợp”..
- Ý kiến của thủ tướng Phạm Văn Đồng tuy không chú ý đến định nghĩa truyền thuyết nhưng nó có ý nghĩa cho các nhà nghiên cứu văn học dân gian .
- Thủ tướng cho rằng : “những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó một tâm tính thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên tác phẩm văn hóa mà đời con cháu ưa thích”.
- của đại học tổng hợp được viết lại, Giáo sư Lê Chi Quế đã dành một phần viết về truyền thuyết, trong đó Giáo sư đã đưa ra khái niệm và đặc biệt là phân loại truyền thuyết một cách hợp lý, đầy tính thuyết phục hơn..
- Tác giả Lê Văn Kỳ trong một bài viết năm 1991 mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội các anh hùng “cũng đã đề cập đến định nghĩa hội, lễ, mối quan hệ giữa hội lễ như hội lễ Hai Bà Trưng.
- Giáo trình văn học dân gian của trường đại học sư phạm hà nội dùng cho hệ đào tạo Đại Học từ xa, tác giả Nguyễn Bích Hà biên soạn về phần truyền thuyết.
- Tác giả đã đề cập đến khái niệm, đặc trưng, phân loại, nội dung, ý nghĩa của truyền thuyết..
- Điểm qua các ý kiến nghiên cứu chuyên hoặc không chuyên về thể loại truyền thuyết trong VHDG Việt Nam chúng tôi rút ra một số nhận định sau:.
- Thời kỳ đầu các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Truyền thuyết ra đời sau thần thoại nhưng vẫn có yếu tố song trùng với thần thoại.
- Mặt khác truyền thuyết và cổ tích cũng có những nét gần gũi nhau.
- Thời kỳ về sau các nhà nghiên cứu đều coi truyền thuyết là một thể loại riêng của văn học dân gian..
- Đặc biệt các tác giả đã chứng minh và đi sâu phân tích về đặc trưng, nội dung, ý nghĩa và phân loại truyền thuyết một cách rõ ràng và độc lập so với thể loại khác trong văn học dân gian..
- Những năm gần đây có nhiều hướng nghiên cứu mới về truyền thuyết trong đó nổi bật là hai hướng nghiên cứu: Hướng nghiên cứu dựa trên văn bản và hướng nghiên cứu truyền thuyết gắn với hoạt động diễn xướng đặc biệt, thông qua lễ hội.
- Nghiên cứu về Truyền thuyết và lễ hội Chùa Dâu chúng tôi cũng đã kế thừa các hướng nghiên cứu này..
- Lƣợc điểm Lịch sử nghiên cứu về lễ hội..
- Lê hội cổ truyền của Viện văn hóa dân gian, Nxb khoa học xã hội (1992).
- Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam của các tác giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam, Nxb Văn hóa dân tộc (1993)..
- Từ điển hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết, Nxb Văn hóa thông tin (2000)..
- Lễ tục, lẽ hội truyền thống xứ Thanh của Lê Huy Trâm - Hoàng Anh Nhân, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà nội - 2001.
- Đáng kể là công trình gần đây của GS.TS Ngô Đức Thịnh “Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền” Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội 2007.
- Như vậy điểm qua các công trình nghiên cứu về lễ hội, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, đề tài này đã được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, nhằm khôi phục, gìn giữ bẳn sắc văn hóa của dân tộc..
- Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội chùa Dâu..
- Phan Anh-Thanh Hương, (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 1, Nxb Ty văn hóa Hà Bắc..
- Phan Anh-Thanh Hương, (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 2, Nxb Ty văn hóa Hà Bắc..
- Phan Anh-Thanh Hương, (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3, Nxb Ty văn hóa Hà Bắc..
- Hội đông lịch sử Hà Bắc, (1986), Lịch sử Hà Bắc tập 1, Nxb Ty văn hóa Hà Bắc..
- Đặng Việt Bích, Đi tìm nguồn gốc con Rồng, Tạp chí nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 2..
- Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, NXB Văn hóa thông tin..
- Tôn Thất Bình (1997) Lễ hội dân gian, Nxb Sở văn hóa Bình Trị Thiên..
- Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia..
- Phạm Đưc Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội..
- Thuận Hải, Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thong vận tải..
- Đặng Văn Lung (2003), Mục Liên báo ân trong lễ Vu Lan, Nxb Văn hóa thông tin..
- Trần Đình Luyện (2000), Chùa Dâu và lễ hội rước Tứ Pháp, Nxb Phòng văn hóa thể thao huyện Thuận Thành..
- Trần Đình Luyện (2003), Lễ hội Bắc Ninh, Nxb Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh..
- Nguyễn Trí Nguyên, Bản chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân gian, Tạp chí Di sản văn hóa số 7..
- Lê Chí Quế (1999), Văn hóa dân gian Việt nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội..
- Phạm Thuận Thành (2004), Danh nhân, danh thắng Xứ Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc..
- Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt, Nxb Trẻ..
- Chu Quang Trứ (2001), Từ lễ hội Chùa Dâu nghĩ về một nét văn hóa dân tộc, Nxb Mỹ thuật Hà Nội.