You are on page 1of 34

Vì sao nói giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất?

Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ nội dung sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Phương hướng và giải
pháp của Đảng ta về xây dựng GCCN VN hiện nay.

 GCCN là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt
để nhất là Vì:
Trong chế độ TBCN, GCCN có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi
ích cơ bản của GCTS, bị bóc lột nặng nề => là giai cấp tiên phong, có tinh thần
CM triệt để nhất (ý thức được địa vị của mình).
Họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Được trang bị bởi một lý luận khoa học,
cách mạng và luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng.
Họ không gắn với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, lập
trường kiên định, tính cách mạng triệt để nhất còn những giai cấp khác còn lo việc
ảnh hưởng đến lợi ích nhỏ cá nhân của họ nên dẫn đên không triệt đề

 Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trước tiên ta cần hiểu rỏ nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu
tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ áp bức bốc lột và xây dựng
xã hội mới – xã hội XHCN và CSCN.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
 Nội dung sứ mệnh LSCGCCN chính là nhiệm vụ mà giai cấp công nhân
cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu trog cuộc
cách mạng xác lập hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa được thể hiện toàn
diện trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.
+ Nội dug kinh tế: là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa
cao, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất
dựa trên chế độ công hữu về tư lieuej sản xuất, đại biểu cho phương thức sản
xuất tiến bộ nhất thuôc về xu thế phát triển của lịch sử xã hội.
+ Nội dung chính trị- xã hội: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ
quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa
tư bản, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thiết lập
nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa
+ Nội dung văn hóa, tư tưởng: tập trung xây dựng hệ giá trị mới : lao động( lao
động cho mình, vì mình và lợi ích chung của cộng đồng xã hội, lao động tự giác,
sáng tạo và làm chủ...); công bằng( hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể
và lợi ích xã hội); dân chủ( gắn liền quyền với lợi ích, quyền với trách nhiệm và
nghĩa vụ). Dân chủ cho số đông, tuyệt đại số); bình đẳng ( về chính trị và địa vị làm
chủ của những người lao động được cách mạng giải phóng) và tự do ( phát triển
mọi khả năng, năng lực sáng tạo của mình, sự phát triể tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người)...
 Liên hệ nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay
 Phương hướng và giải pháp của Đảng ta về xây dựng GCCN VN hiện
nay.
- Phương hướng phát triển giai cấp công nhân VN:
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định:
+” Côi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc sinh
hoạt Đảng”, Đồng thời,” chú trọng xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công
nhân, nông dân, đội ngủ tri thức đội ngủ doanh nhân đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước trong thời kì mới”,
+ Đảng và nhà nước phải” quan tâm giáo dục đào tạo bồi dưỡng phát triển
giai cấp công nhân về cả chất lượng và số lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp kỉ luật lao
động của công nhân; bảo đảm việc làm nhà ở các công trình phúc lợi phục vụ cho
công nhân, sửa đổi, bổ sung các chính sách pháp luật về tiên lượng, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi nâng cao đời sống
vật chất tinh thần của công nhân”.
- Giải pháp phát triển giai cấp công nhân
+ Một là, Nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN. Sự lớn
mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết đảm bảo thành công của
công cuộc đổi mới, công nghiệp háo hiện đại hóa đất nước.
+ Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn kết hữu cơ với xây dựng,
phát huy súc mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã
hôi trông khối đại đoàn kết dân tộc- động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước:
đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác đoàn kết quốc tế với giai cấp công nhân
trên toàn thế giới.
+ Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết
chặc chẻ với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế. Xữ lý đúng đắn giữa mối quan hệ tăng trưỡng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, châm lo xây dựng giai cấp công nhân;
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người lao động, Nhà nước và toàn xã hội;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cônh nhân quan tâm giải
quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.
+ bốn là, đào tạo bồi dưỡng, năng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không
ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan
tâm xây dựng đối với hệ công nhân trẻ, có học vấn chuyên môn kỉ năng nghề
nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế. Có lập trường giai cấp và bản lĩnh
chính trị vũng vàng, trở thành bộ phận nồng cốt của giai cấp công nhân.
+ Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của toàn xã hội và sự nổ lực vươn lên của bản thân mỗi người
công nhân, sự tham gia đống gốc tích cực của nười sữ dụng lao động. Sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò
quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân, Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh găn liền với xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính
trị, tư tưỡng, tố chức và đạo đức, xây dựng tổ chức Công đoànm Đoàn Thanh niên
Cộng sản HCM và các tổ chức chính trị- xã hội khác trong giai cấp công nhân.
( ý này là thêm nếu có hỏi về suy nghỉ của em về các giải pháp chính sách
trên).
nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu cho nên để và muốn phát triển giai
cấp công nhân thì trước hết phải thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
trong đó cốt lõi là phải công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn để
xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại tại trong đó công nghiệp dịch vụ là lĩnh vực
trọng tâm nông nghiệp thì phải từng bước hiện đại hóa cơ giới hóa. Thêm nữa Ba
muốn phát triển giai cấp công nhân và để cho giai cấp công nhân có thể thực hiện
được sứ mạng đó là lãnh đạo thông qua đội Tiên Phong là đảng cộng sản thì cần
phải nâng cao trình độ cho giai cấp công nhân và nâng cao trình độ giác ngộ lý
luận chính trị cho giai cấp công nhân Vì sao như vậy bởi vì Nước ta nằm nước
nông nghiệp lạc hậu cho nên trình độ của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
nói riêng và người lao động nói chung còn ở mức độ rất thấp hiện nay ai mới có
khoảng hơn 20% lao động Việt Nam mới qua đào tạo trong đó thì ở khu vực thành
thị là chiếm trên 30% ở khu vực nông thôn thì chỉ khoảng trên 10% lao động mới
qua đào tạo do đó nâng cao trình độ cho người lao động đặc biệt là cho giai cấp
công nhân ăn ngoài trình độ về học vấn về chuyên môn kỹ thuật thì cần phải nâng
cao trình độ chính trị cho giai cấp công nhân để giai cấp công nhân nhận thức rõ
được sứ mệnh lịch sử của mình và làm chủ được khoa học công nghệ trong điều
kiện cuộc cách mạng mạng công nghệ 4.0 phát triển mạnh và một số nước phát
triển đã chuyển sang nền kinh tế tri thức thì công nhân Việt Nam cần phải được trí
thức hóa cần phải được nâng cao về trình Độ Bên cạnh đó thì giai cấp công nhân
cần phải liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức khối liên minh công
nông trí thức ngày càng phải được tăng cường nhưng phải đảm bảo vai trò lãnh
đạo áo của Đảng cộng sản khối liên minh này là lòng tốt của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
2/ Vì sao nói giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử? Phân tích nội
dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ nội dung sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Phương hướng và giải
pháp của Đảng ta về xây dựng GCCN VN hiện nay.( đã nêu ở câu 1)
 Vì sao nói giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử?

Ω Điều kiện khách quan quy đinh sứ mệnh lịch sử của giai cấp nhân.
- Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
+ Họ vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Giai cấp công nhân có những ưu điểm sau:
Trong quá trình phát triển của xã hội tư bản tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong, còn giai cấp vô sản lại ngày càng phát triển với hai hình thức lao động
chân tay và trí óc
Do điều kiện làm việc và sinh sống, giai cấp công nhân có thể đòan kết chặt chẽ với
nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Lợi ích của giai cấp công nhân với đại đa số quần chúng nhân dân lao động là
thống nhất nhau, do vậy họ có khả năng đòan kết các tầng lớp, các giai cấp khác.
- Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân:
+ Thứ nhất, họ là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng
triệt để nhất.
Vì:
Họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại.
Được trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn đi đầu trong mọi
phong trào cách mạng.
Họ không gắn với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên trong cuộc đấu
tranh này học không mất gì cả nếu thành công họ sẻ được mất đi xiền xích nô
lệ. Do vậy, lập trường kiên định, tính cách mạng triệt để nhất
+ Thứ hai, họ là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Do:
Hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền; kỷ luật lao động nghiêm ngặt;
cuộc sống đô thị tập trung…
Khi được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra
được chính đảng của nó, Đảng Cộng sản thì tính tổ chức và kỷ luật cao sẽ
phát huy tác dụng tích cực
+ Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế
Vì: Giai cấp tư sản không chỉ bóc lột công nhân trong nước mà còn ở các
thuộc địa.
.
Ω Điều kiện chủ quan quy định SMLSGCCN:
- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân.
- Vai trò lãnh đạo của ĐCS trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
Như vậy so sánh với các giai cấp và tầng lớp trung gian: nông dân, tầng lớp trí
thức, tiểu thương, tiểu chủ… không có những đặc điểm như GCCN Chỉ duy nhất
GCCN có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ CNTB, từng bước xây dựng CNXH, CNCS
trên phạm vi toàn thế giới

3/ Trình bày đặc trưng bản chất của CNXH. Liên hệ đặc trưng bản chất của
CNXH VN trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Từ đó chỉ ra điểm
mới đặc trưng bản chất của CNXH trong Cuong lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011 so với Cương lĩnh 1991
 Trình bày đăc trưng bản chất của CNXH.
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có
sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào
cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội như sau:
 . Liên hệ đặc trưng bản chất của CNXH VN trong Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011. Từ đó chỉ ra điểm mới đặc trưng bản chất của
CNXH trong Cuong lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 so với Cương lĩnh
1991
Tại đại hội VII nhận thức Đảng Cộng sản VN về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội đã sáng tỏ hơn, không chỉ dừng ở nhận thức định hướng,
định tính mà từng bước đại tới trình độ định hình định lượng.

Đến đại XI trên cơ sở tổng kết 25 nănm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có buóc phát triển nới. năm
2011 trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đaã được bổ sung phát triển thành 8 đặc trưng cơ bản đó là:
* Điểm mới đặc trưng bản chất của CNXH trong Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011 so với Cương lĩnh 1991:
- Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc
trưng mới: 1/ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và 2/ Có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng
quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta xây dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu
chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta
hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và
bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến
lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện
vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ
thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân
xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền
lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc
đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng
ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên
quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
''do nhân dân lao động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh
2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ
ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so
với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991.
Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức
mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù
đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3
yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành
quan hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rút ra một trong những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.
- Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc
trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất
công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại
hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi
điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng
đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.
- Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều
kiện phát triển toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người ...
được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác
thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo
điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
- Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn
kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc
trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ
''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc
trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn kiện
Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
- Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh
2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ
ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể
hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân
các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của
các nước trên thế giới.
→ Mọi kết quả nhận thức đều do thực tiễn quy định: Phải xuất phát từ
thực tiễn và được chính thực tiễn kiểm nghiệm. Đó là biện chứng của quá
trình nhận thức. Đặc biệt, việc xác định đúng và trúng những đặc trưng bản
chất, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội - một xã hội hoàn toàn mới và chưa từng có
tiền lệ trong lịch sử phát triển xã hội của dân tộc ta, như cách nói của
V.I.Lênin, chỉ có thể dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội của hàng triệu người khi họ bắt tay vào hành động. Hơn nữa,
thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng; do đó, lý luận cũng phải có sự
thay đổi tương ứng nhằm phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với thực tiễn.
Nghĩa là, sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội cho sát với thực tế khách quan luôn là việc làm cần thiết và phải được
tiến hành thường xuyên. Đó cũng chính là ý nghĩa của nguyên tắc mang tính
phương pháp luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra: lý luận phải gắn liền với
thực tiễn
4/ Phân tích đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH. Liên hệ đặc điểm
của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN. Theo bạn, VN quá độ lên CNXH bỏ
qua thời kỳ TBCN có trái với quy luật lịch sử tự nhiên không? Vì sao?
 Phân tích đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo
cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xậy dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ
thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kì lâu dài, gian
khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhan và nhân dân lao động giành được
chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội có thể khái quát
những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
 Liên hệ Việt Nam:
 Theo bạn, VN quá độ lên CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN có trái với quy
luật lịch sử tự nhiên không? Vì sao?
Việt Nam quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa khônng
trái với quy luật tự nhiên ngược lại còn phù hợp với hoàn cảnh của đất nước
và dân tộc. Là vì:

       Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thông
trị của quan hệ sản suất và kiến trúc thượng tần tư bản chủ nghĩa. Song
vẫn tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
 khi chủ nghĩa tư bản cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, chúng gây chiến tranh với nhau đòi chia lại thị trường thế
giới gây ra nhiều đau thương cho nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc, những mâu thuẫn đó chính là điều kiện, là thời cơ để Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động ở các nước đó
vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền.Bản
thân nhân dân lao động Việt Nam đã có kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc
về chế độ thực dân tư bả với những tệ nạn xấu xa của nó trong việc áp bức
bóc lột quần chúng và họ từ chối con đường tư bản chủ nghĩa, đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa
 ảnh hưởng của phong trào công nhân quốc tế, sự ra đời của một số
nước xã hội chủ nghĩa đã làm thức tỉnh nhiều dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc. Việt Nam là một nước điển hình nằm trong số đó
Như vậy, nước ra quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là sự lựa chọn có tính lịch sử phù hợp với lợi ích của dân tộc và nhân
dân, phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của thời đại
5/ Phân tích bản chất của nền dân chủ XHCN. Liên hệ ở Việt Nam
 Phân tích bản chất của nền dân chủ XHCN
* Bản chất của nền dân chủ XHCN:
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ bảo đảm quyền làm chủ thực tế của
nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của ĐCS, sự quản lý của Nhà nước XHCN.
.

* Liên hệ ở Việt Nam ( trong sách trang 82 khá dài).


Dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đòi hỏi tất cả quyền lực nhà nước
phải thuộc về nhân dân
-Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. 
- Trong cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ
XHCN là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1992
cũng khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được
thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ.
- Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công
mục tiêu “tối thượng” của cách mạng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân
chủ XHCN vì nó là mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
- Bản chất chính trị của giai cấp công nhân đòi hỏi phải dùng phương pháp
dân chủ để quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước
kiểu mới trong tiến trình lịch sử, dân chủ XHCN là thực hiện quyền nhân dân
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
6/ Phân tích nội dung và định hướng xây dựng NN pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở VN. Theo em, cần làm gì để góp phần xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
* Phân tích nội dung và định hướng xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở VN:
- Nhà nước pháp quyền được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi
công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ
pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh, trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả
vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
- Cương lĩnh xây dựng nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến
nhà nước pháp quyền:
+ Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật.
+ Đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người.
+ Tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công
của các nhánh quyền lực, phân cấp, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp
chính quyền nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân tránh lạm quyền.
- Với chủ trương: “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,
vì dân”. Đảng ta xác định: Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp quyền, mọi cơ
quan, tổ chức cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến
pháp và pháp luật.
- Nhận thức đó là tiền đề Đại hội XII của Đảng là thống nhất, có sự phân công
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
* Phương hướng:
- Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước.
+ Thứ nhất, tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho
cử tri tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao đổi, nhận xét,
lựa chọn và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ sở có sự lãnh
đạo, hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu.
+ Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội,
Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân
dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Các cơ quan hành
chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ quan dân
cử trong trách nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy định và chịu sự kiểm
tra, giám sát của các cơ quan dân cử.
+ Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân. Nhà nước giảm tối đa cơ chế xin
phép - cho phép trong từng vụ việc; rút kinh nghiệm về cơ chế “một cửa” đã 26
thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương để chỉ đạo áp dụng rộng ở các
ngành các cấp.
+ Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì
hoãn, chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách
nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cần có quy chế tạo thuận lợi để
người dân trình bày ý nguyện, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình,
ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu
khống, gây rối.
+ Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa
đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ thể,
rõ ràng về quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực sản xuất,
phân phối, thu chi ngân sách, tài chính, các chế độ thu và sử dụng học phí,
viện phí... trong các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, trường học, bệnh
vện.
+ Thứ sáu, nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước
hết ở cấp cơ sở.
- Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức quốc hội. Nâng cao hơn
nữa chất lượng hoạt động lập pháp. Nâng cao năng lực quyết định các vấn đề
trọng đại của đất nước. Nâng cao chất lượng giám sát. Tiếp tục đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy.
- Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của Chính phủ. Đẩy mạnh phân cấp quản lý. Đổi mới công tác thanh tra,
kiểm tra.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Kiện toàn chính
quyền cơ sở. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
+ Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước
hết về đường lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; được
bố 32 trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước, có thể được luân
chuyển từ trung ương về địa phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa
phương này ra địa phương khác. Nghiên cứu bổ sung cơ chế chọn cử, điều
động các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cho phù hợp. Riêng đối
với chức danh chủ tịch Uỷ ban nhân dân, trong trường hợp chưa đến thời hạn
bầu cử Hội đồng nhân dân mà cần bố trí một đồng chí không phải là thành
viên Hội đồng nhân dân làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp thì đưa ra Hội
đồng nhân dân bầu để đồng chí đó làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
+ Xúc tiến ban hành thể chế và tổ chức thực hiện việc kê khai về tài sản, trước
hết là về nhà, đất của cán bộ. Quy định chặt chẽ các chế độ, tiêu chuẩn của
cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành về sử dụng ô tô, trang bị nơi làm việc,
nhà và đất ở... với tinh thần tiết kiệm, công bằng, chống lãng phí, chống đặc
quyền, đặc lợi.
- Đẩy mạnh cải cách tư pháp.
+ Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc,
chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của công dân.
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của viện kiểm sát theo chức năng quy định
trong Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công bố và kiểm soát hoạt động
tư pháp.
+ Đổi mới hệ thống toà án nhân dân.
+ Kiện toàn các cơ quan điều tra, bổ trợ tư pháp.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước.
* Theo em, cần làm gì để góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay:
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri tiếp
xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao đổi, nhận xét, lựa chọn
và bầu cử đại biểu cho mình.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử để các cơ quan
này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà
nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, của địa phương.
- Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực
tiếp liên quan đến đời sống nhân dân.
- Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân trình bày ý nguyện, thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của mình, ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối.
- Các cơ quan có thẩm quyền xây dựng các văn bản pháp luật với các quy
định cụ thể, rõ ràng về quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh
vực sản xuất, phân phối, thu chi ngân sách, tài chính, chống quan liêu, tham
nhũng.

7/ Vì sao phải thực hiện liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Phân tích nội dung liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở VN. Liên hệ vào việc thực hiện khối liên kết 4 nhà
(nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nước), tìm vai trò và
lợi ích của 4 nhà trong khối liên kết đó.
* Vì sao phải thực hiện liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH:
- Xuất phát từ những quan điểm lý luận của CN Mác – Lênin và tính tất yếu
của liên minh công - nông - trí thức trong xây dựng CNXH, và xuất phát từ đặc
điểm của nước ta là từ 1 nước nông ngiệp, đại đa số dân cư là nông dân,
trong quá trình cách mạng, đòi hỏi đảng ta phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề
liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp ở nước ta cũng là 1 tất yếu khách quan,
bởi cả ba giai tầng đều cùng chung cảnh ngộ mất nước, đều bị áp bức, bóc lột
và cùng chung 1 mục tiêu giải phóng. Quan điểm, đường lối của Đảng ta về
tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức được thể hiện từ văn kiện Đại
hội II của Đảng lao động VN (1951): “chính quyền của nước VN dân chủ cộng
hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông
dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
- Trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” và
trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta đặc biệ coi trọng mối liên minh này và coi đó
là nền tảng của nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Đến Đại Hội lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khảng định tính tất yếu và còn đặt
biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tầng lớp trí
thức do Đảng lãnh đạo”.

 Phân tích nội dung liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở VN
Nông dân, công nhân tri thức và toàn xã hội.
* Liên hệ vào việc thực hiện khối liên kết 4 nhà (nhà nông - nhà doanh
nghiệp - nhà khoa học - nhà nước), tìm vai trò và lợi ích của 4 nhà trong
khối liên kết đó.
- Liên kết bốn nhà trong nông nghiệp là sự liên kết giữa nông dân với doanh
nghiệp và nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của nhà nước nhằm gắn sản xuất với
chế biến và tiêu thụ để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền
vững; tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại
- Trong sản xuất của nông dân, nhà khoa học đã liên kết với họ, giúp tạo ra
sản lượng cao, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
xã hội. Sản phẩm của nhà nông được trao đổi trên thị trường, chuyển đến
người tiêu dùng thông qua các doanh nghiệp. Việc các nhà doanh nghiệp hỗ
trợ nông dân, liên kết nông dân, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm cũng là mắt
xích quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhà nước, chính
quyền (trong đó có ngân hàng) là người điều tiết, dung hòa và điều khiển các
mối quan hệ này.
- Các nhà khoa học đã giúp nông dân có được giống mới đúng với tên, địa chỉ
xuất xứ của chúng, chuyển giao, huấn luyện họ thực hiện đúng kỹ thuật canh
tác một cách nghiêm ngặt. Chính vì thế, các sản phẩm trên ngày càng chiếm
được uy tín trên thị trường. Các nhà khoa học giúp xây dựng thương hiệu cho
các sản phẩm của nhà nông như: Tám thơm Hải Hậu, vải thiều Thanh Hà...
Đây là những liên kết dựa trên cơ sở giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm. Từ sản
phẩm được mang tên thương hiệu, qua các doanh nghiệp kinh doanh, sản
phẩm đã đi vào thị trường, thúc đẩy ngành sản xuất lúa tám thơm Hải Hậu cổ
truyền và vải thiều Thanh Hà phát triển.
- Một thực tế nữa chứng minh cho tác dụng của liên kết bốn nhà, đó là việc
các nhà khoa học đã đưa cây điều ghép mở rộng ra trồng ở vùng ven biển
Bắc Trung Bộ - vùng còn nhiều đất trống, đồi núi trọc, cát trắng mênh mông
thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và Quảng Bình. Cây điều ghép đã
phát triển thành công trên vùng đất cát và đất đồi ở vùng này, bắt đầu cho thu
hoạch thành sản phẩm hàng hóa. Như vậy, sản phẩm mới - cây điều ghép, đã
tạo ra do sự liên kết giữa nông dân và nhà khoa học. Nhà máy điều Ninh
Thuận, Công ty TNHH Bảo Lâm Quảng Trị là hai doanh nghiệp xuất khẩu hạt
điều, sẵn sàng thu mua toàn bộ hạt điều mà nông dân vùng Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Bình sản xuất.
- Mặc dù còn rất ít hợp đồng ký liên kết bốn nhà giữa nhà khoa học - nhà nông
- nhà doanh nghiệp và Nhà nước nhưng đây là một thực tế đòi hỏi trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta. Có sản phẩm hàng hóa là tất yếu có người tiêu
thụ (doanh nghiệp). Bên cạnh đó có nhà khoa học giúp nông dân áp dụng
KHCN để đạt sản lượng cao, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đáp ứng yêu cầu
của thị trường. Có Nhà nước cho nông dân vay vốn phát triển ngành hàng
(ngân hàng) và bảo đảm sự phát triển bền vững, ổn định ngành hàng mà nông
dân sản xuất ra.
- Trong thực tế, có thể thấy rõ sự hỗ trợ lẫn nhau của mối liên kết bốn nhà.
Mặc dù, có liên kết nhưng chưa chặt chẽ, còn lỏng lẻo, chưa thấy rõ trách
nhiệm và gắn bó trách nhiệm với nhau.
- Nhà khoa học giúp nông dân nhưng không thành công, gây thiệt hại về kinh
tế cho nông dân thì nhà khoa học phải chịu trách nhiệm gì? Và nếu liên kết
nông dân sản xuất thành công sản phẩm thì nhà khoa học được gì? Ngay
trong mối liên kết này thực tế cho thấy sản xuất mà không áp dụng khoa học,
thiếu khoa học là thất bại. Nhưng mối liên kết này không chặt chẽ, chưa thể
hiện trách nhiệm bằng liên kết kinh tế với nhau. Hoặc có thể hiện nhưng chưa
toàn diện, chưa đều khắp, mới ở từng bộ phận.
- Nhà khoa học ở đây mới hiểu ở nghĩa "giúp nông dân", chưa hiểu hết với
nghĩa "liên kết với nông dân". Đã là liên kết nông dân thì phải cùng cộng đồng
trách nhiệm với nông dân và thua cùng chịu với nông dân. Đây mới là mối liên
kết đích thực, mối liên kết chặt chẽ trong sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Nhà khoa học mới chỉ giúp nông dân, chưa mang đầy đủ trách nhiệm là liên
kết nông dân cho nên sản phẩm làm ra hàm lượng chất xám còn thấp và như
vậy, giá trị sản phẩm chưa cao.
- Vấn đề liên kết giữa nông dân - người sản xuất sản phẩm với nhà doanh
nghiệp, đến giai đoạn hiện nay vẫn là một liên kết "thuận mua, vừa bán". Sản
phẩm tốt thì giá bán cao, sản phẩm xấu thì giá hạ. Nhà doanh nghiệp bao giờ
cũng cần có lãi cao, lợi nhuận lớn. Nông dân cũng cần bán được sản phẩm
với giá cao. Trong thực tế, một doanh nghiệp muốn lợi nhuận cao nên đã ép
giá nông dân. Mối liên kết này phải thực chất hơn khi doanh nghiệp phải gắn
lợi nhuận của họ với nông dân, coi nhà nông như là bạn đồng hành, coi nhà
nông như là thành viên cổ đông trong doanh nghiệp. Nhà máy đường Lam
Sơn là điển hình về sự liên kết này. Doanh nghiệp đầu tư vốn, giống, phân
bón ban đầu cho nông dân để sản xuất mía và thu sản phẩm mía vào cuối
năm. Hộ nông dân là cổ đông của nhà máy.  Chúng tôi cho đây là mối liên kết
rất XHCN, làm theo năng lực, hưởng theo việc làm. Mỗi người cùng thi đua
làm việc, lợi nhuận cùng hưởng, thua lỗ cùng chịu.
Vai trò của Nhà nước trong mối liên kết bốn nhà thể hiện ở điểm nào?
- Nhà nước mới chỉ ở chỗ điều chỉnh sự hoạt động của ba nhà (nhà nông, nhà
khoa học, nhà doanh nghiệp), hỗ trợ hoạt động của ba nhà ở chừng mực nhất
định như: chính sách cho vay, lãi suất thấp để khuyến khích sản xuất; hỗ trợ
nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất, phục vụ nhà nông, nhà doanh nghiệp;
điều tiết việc xuất nhập khẩu vật tư qua thuế xuất, nhập khẩu để kích thích sản
xuất phát triển... Mối liên kết này chủ yếu dựa trên luật pháp và chính sách
phát triển nông nghiệp của Nhà nước qua mỗi giai đoạn, qua mỗi thời kỳ.
- Gốc rễ của mối liên kết bốn nhà vẫn là giúp nhà nông tiêu thụ sản phẩm.
Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, mối liên kết này còn lỏng lẻo, mới chỉ
dừng ở mức giúp đỡ nhau mà chưa xuất phát từ mối liên kết, ràng buộc, chịu
trách nhiệm với nhau. Mối liên kết bốn nhà phải dựa trên cơ sở ràng buộc lẫn
nhau về lợi ích kinh tế, có sự trợ giúp của liên kết xã hội, cộng đồng.
- Hội Nông dân là đại biểu tiêu biểu cho tổ chức của nhà nông, rất gần gũi,
gắn bó với các nhà nghiên cứu khoa học nông nghiệp phục vụ nông dân. Hội
Nông dân cũng rất gần với các doanh nghiệp và Nhà nước. Về mặt xã hội thì
Hội Nông dân cũng là đại biểu tiêu biểu cho mối liên kết xã hội, cộng đồng.
Chính vì thế Hội Nông dân có thể là tổ chức chủ trì việc liên kết bốn nhà, chủ
trì việc khâu nối, điều tiết mối quan hệ hữu cơ giữa các nhà với nhau.
- Phong trào liên kết bốn nhà giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm đã và đang đi
vào đời sống thực tế trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Đây là mối liên
kết công - nông - trí rõ rệt, mang đậm mầu sắc của một xã hội xã hội chủ
nghĩa. Nó bảo đảm sản xuất bền vững và công bằng xã hội. Vẫn cần nhiều
hơn sự quan tâm của Nhà nước.
8/ Phân tích quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn
đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN.
9/ Phân tích bản chất, nguồn gốc tính chất của tôn giáo. Liên hệ đặc điểm
tôn giáo ở VN và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Về bản chất tôn giáo
- nguồn gốc và tính chất của tôn giáo.
(ý tóm tắt)
 Liên hệ đặc điểm tôn giáo ở VN
 chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
10/ Phân tích chức năng cơ bản của gia đình. Liên hệ sự biến đổi trong
thực hiện các chức năng của gia đình ở VN hiện nay. Theo bạn, trong các
chức năng cơ bản của gia đình, chức năng nào là quan trọng nhất? Vì sao?
b. Gia đình có những chức năng cơ bản sau đây:
+ Chức năng tái sản xuất ra con người: sinh sản là một nhu cầu tự nhiên.
Nếu không có hoạt động này thì xã hội loài người sẽ bị diệt vong. Nhưng sinh
bao nhiêu là vừa, là đủ. Vấn đề này nó còn tùy thuộc vào trình độ phát triển
của mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà có chiến lược
phát triển dân số phù hợp. Nếu như vào đầu thời kì đồ đá mới (khoảng mười
ngàn năm trước đây) các bộ lạc nguyên thủy chỉ xấp xỉ khoảng 1 triệu người
được phân bố rải rác trên các lục địa. Đầu công nguyên dân số trên trái đất có
chừng 150 - 200 triệu người. Năm 1000 sau công nguyên đã có gần 300 triệu
người. Đến nay dân số trên thế giới đã lên đến con số báo động trên 6 tỷ
người. Ở nhiều nước, tốc độ tăng dân số đến chóng mặt, nhất là ở các nước
chậm phát triển, số sinh ra vượt quá mức so với sức sản xuát lương thực, về
điều kiện nhà ở, về điều kiện y tế, giáo dục, về phúc lợi v..v… Theo báo cáo
của Liên hợp quốc thì hiện nay có khoảng 40 triệu người đang sống trên
miệng hố của sự chết đói, nhiều nước Á, Phi, Mĩ La tinh tuổi thọ thấp (trung
bình 35 tuổi) sự thay thế của các thế hệ xảy ra nhanh. Tình hình đó ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Vì vậy, vấn đề bùng nổ dân số
đang là vấn đề gay gắt đang được đặt ra không chỉ ở mỗi nước, mà còn là vấn
đề chung của toàn nhân loại. Ở nước ta, để khắc phục tình trạng dân số tăng
nhanh, trong khi nền kinh tế đang còn thấp, do đó chúng ta phải coi nhiệm vụ
kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ
hàng đầu trong chính sách xã hội. Theo thống kê 2004 người ta tính cứ 1 phút
có 3 em bé chào đời, thì một năm tăng 1,2 triệu người, nếu so sánh giữa tăng
trưởng kinh tế và mức độ tăng dân số như hiện nay đang là một vấn đề bức
xúc. Vì vậy việc phấn đấu hạ thấp tỷ lệ tăng dân số kết hợp với việc tổ chức lại
lao động, đất đai, ngành nghề làm cho mọi người lao động đều có việc làm đó
là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài nhằm đảm bảo sự phát triển
cân đối về kinh tế - xã hội đem lại cuộc sống văn minh, hạnh phúc cho nhân
dân.
+ Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống của gia đình: trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, mỗi gia đình đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự
chủ trong sản xuất kinh doanh, mọi gia đình, mọi cá nhân đều có thể làm giàu
chính đáng bằng sản xuát kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với các
gia đình công nhân viên chức cũng được khuyến khích tuy các loại gia đình
này không trực tiếp kinh doanh, nhưng cũng có vai trò tác động đến sản xuất
qua lĩnh vực tiêu dùng.
+ Chức năng giáo dục: nội dung giáo dục trong gia đình bao gồm cả về
vật chất lẫn tinh thần, nó là trách nhiệm của các bậc cha mẹ và được thực
hiện ở mọi chu trình sống của con người. Từ lúc còn ẵm ngữa, giai đoạn tuổi
thơ, khi đã trưởng thành, lúc già cả…Ở từng chu trình ấy phải có những nội
dung và hình thức giáo dục phù hợp. Nếu ở giai đoạn tuổi thơ là lời ru của mẹ,
tấm gương sống và làm việc của người thân, những lời nhắn nhủ của cha mẹ,
giảng giải của ông bà và ngay cả trong sinh hoạt tình dục, sinh hoạt tiêu dùng
cũng phải được giáo dục…” học ăn, học nói, học gói, học mở” “ ăn trông nồi
ngồi trông hướng…” Trong chủ nghĩa xã hội, giáo dục của gia đình có vai trò
rất quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, xây dựng con người mới
có đạo đức, văn hóa có trí thức. Do đó, giáo dục con người phải có sự kết hợp
chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội.
+ Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý tình cảm: có nhiều vấn đề
tâm, sinh lý chỉ có thể bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình với những
người thân. Do đó sự hiểu biết tâm sinh lý, sở thích của nhau để phù hợp với
mỗi thành viên là rất cần thiết.
Tóm lại, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện
những chức năng trên mà có sự tác động đến sự tiến bộ chung của xã hội.
Các chức năng được thực hiện trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, nhưng việc
phân chia các chức năng cũng chỉ là tương đối. Nhiều khi, các chức năng
được thực hiện tổng hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt động của gia
đình. Ở từng nơi và các giai đoạn khác nhau, nội dung và vị trí của mỗi chức
năng có sự biến đổi, nhưng dù ở đâu thời đại nào thì vai trò của người phụ
nữ, mà trước hết là người vợ, người mẹ phải là trung tâm của tình cảm gia
đình. Phụ nữ góp công sức nhiều nhất cho công việc của gia đình, giàu tình
yêu và có ý thức hơn vì hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn
hiện tượng đối xử không bình đẳng đã làm cho người phụ nữ phải gánh vác
những công việc nặng nhọc trong gia đình và công việc xã hội.
 Theo bạn, trong các chức năng cơ bản của gia đình, chức năng nào là
quan trọng nhất? Vì sao?
4 chức năng đam nhân vai trò nhất định tác động qua lại lẫn nhau đều quan
trọng. Tuy nhiên theo em chức năng quan trong nhất trong thời kì hiện nay
là chức năng kinh tế và tổ chức đời sống của gia đình.
Vì:
+ Đó là chức năng đảm bảo việc thực hiện các chức năng khác một cách
hiệu quả nhất tốt nhất. Không có kinh tế thì sẻ khó có thể thực hiện chưc
năng khác khó trong việc nuôi dưỡng giáo dục con cái….

You might also like