You are on page 1of 26

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA XUẤT BẢN

--

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài : Những điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Ngọc Uyên Thi

Mã sinh viên: 2058020050

Lớp: Xuất bản điện tử K40

Giảng viên hướng dẫn: Vũ Minh Thành


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 02

NỘI DUNG ...................................................................................................... 04

I, Khái quát về giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân............. 04

1. Khái niệm giai cấp công nhân ....................................................................... 04

2. Sự ra đời giai cấp công nhân tại Việt Nam ................................................... 04

3. Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ............................................................. 05

II, Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ..... 06

1. Điều kiện do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định ...................... 07

2. Điều kiện do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định........ 12

III, Điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ....... 15

1. Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân .............................................. 16

2. Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân

thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. ................................................. 18

3. Thực hiện khối liên minh giai cấp giữa công nhân với nông dân, trí thức;

vươn lên nắm ngọn cờ dân tộc và thực hiện chủ nghĩa quốc tế. ....................... 20

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 22

1
LỜI MỞ ĐẦU

Sự phát triển không ngừng của xã hội loài người chính là sự phản ánh rõ

ràng nhất của dòng chảy lịch sử. Theo dòng chảy đó, các hình thái kinh tế - xã

hội lần lượt ra đời, thay thế nhau, từ cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,

chế độ phong kiến, đến tư bản chủ nghĩa và cuối cùng đến nay là xu hướng quá

độ lên cộng sản chủ nghĩa. Trong mỗi bước phát triển đó, lịch sử đều lựa chọn

một giai cấp để đảm nhận sứ mệnh lịch sử của thời đại, đó là một đòi hỏi tất yếu

và khách quan. Việt Nam chúng ta trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh

tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có sự mệnh lịch sử chính là

những nhiệm vụ thiêng liêng, quan trọng cần phải thực hiện với tư cách là giai

cấp tiên phong, lực lượng đi đầu đưa xã hội phát triển.

Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc xác định và hiểu biết về các

điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là cần thiết cả

về mặt lý luận cũng như áp dụng trong thực tiễn.

Trong bối cảnh Việt Nam xây dựng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân

dưới sự lãnh đạo của Đảng thực hiện sự mệnh to lớn: tổ chức lãnh đạo nhân dân

đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bất

công, xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức, bóc lột, bất công để xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Với sứ mệnh lịch sử mang tính thời đại như vậy, đòi hỏi

giai cấp công nhân những điều kiện nhất định.

2
Mục đích của bài tiểu luận nhằm tập trung phân tích, làm rõ những điều

kiện bao gồm những điều kiện tất yếu khách quan và những điều kiện nhân tố

chủ quan theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lenin. Những điều kiện này thể hiện

qua địa vị của giai cấp công nhân trên các phương diện xã hội từ lúc ra đời cho

đến nay và sự phát triển của chính giai cấp cũng như ảnh hưởng của những nhân

tố chủ quan tác động vào giai cấp.

3
NỘI DUNG

I, KHÁI QUÁT KHÁI NIỆM VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP

CÔNG NHÂN.

1. Khái niệm giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân là những người lao động bán sức lạo động để đổi lấy

tiền lương và không sở hữu phương tiện sản xuất. Theo chủ nghĩa Mác - Lenin,

giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp

đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.

Cũng theo C.Mác, họ tạo ra các giá trị thặng dư và sự giàu có cho xã hội.

Tuy được gọi với nhiều thuật ngữ khác nhau giai cấp vô sản; giai cấp vô

sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công nhân đại công nghiệp…,

song giai cấp công nhân được C.Mác và Ăngghen xác định trên hai phương diện

cơ bản: kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội, “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai

cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô

sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử.”

2. Sự ra đời của giai cấp công nhân tại Việt Nam.

Trước khi Pháp tiến hành nổ súng xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là xã

hội phong kiến với hai giai cấp cơ bản: giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp

công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền cùng với

quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp bắt đầu từ nửa cuối

thế kỉ XIX.
4
Sau khi cuộc xâm lăng đã cơ bản hình thành, thực dân Pháp bắt tay vào

cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô lan rộng ra cả nước. Các nhà

máy , các ngành công nghiệp mới như khai khoáng, đường sắt,... lần lượt ra đời,

cùng với đó là những đội ngũ công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân dần

hình thành. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, công nhân Việt Nam có

khoảng trên 10 vạn người chủ yếu tại những thành phố lớn: Hà Nội, Sài Gòn,

Hải Phòng,.... Sau chiến tranh lần thứ nhất, để bù đắp tổn thất do cuộc chiến,

chúng thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với sự tăng cường quy mô

và tốc độ lớn. Vào đầu năm 1929, số công nhân Việt Nam với số lượng phát

triển đến gần 22 vạn người, giai cấp công nhân bị áp bức, bóc lột nặng nề bởi

chế độ thực dân, phong kiến.

3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

a, Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất

và cách mạng nhất, là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu có sứ mệnh lịch sử:

xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp

công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp

bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa

và cộng sản chủ nghĩa. Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp thực hiện trên ba nội

dung: kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá - tư tưởng.

b, Đặc điểm sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân.

5
Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp là một trong những đóng góp

quan trọng và vĩ đại của học thuyết Mác - Lenin. Sứ mệnh lịch sử chỉ có thể

đảm nhận bởi giai cấp công nhân có những đặc điểm phù hợp với thời đại.

Thứ nhất, sứ mệnh lịch sử của giai xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã

hội của sản xuất mang tính xã hội hóa. Thứ hai, thực hiện sứ mệnh lịch sử của

giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng không chỉ bản thân giai cấp công

nhân mà còn là của đông đảo quần chúng và mang lại lợi ích cho đa số. Thứ ba,

sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư

nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để chế độ tư

hữu về tư liệu sản xuất. Cuối cùng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực

thống trị xã hội là tiền đề để cải tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và

xây dựng thành công xã hội mới với mụctiêu cao nhất là giải phóng con người.

II, ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ GIAI

CẤP CÔNG NHÂN.

Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng

định tính tất yếu của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân “...Cùng với sự phát

triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản dã sản

xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó,đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản.

Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ

của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sảnđều là tất yếu như nhau”.

Hai ông còn nhấn mạnh rằng giai cấp tư bản sẽ bị lật độ bởi chính cuộc

6
cách mạng do giai cấp vô sản cách mạng và Đảng cộng sản lãnh đạo “Giai cấp

tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những

người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại,

những người vô sản”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ

mệnh lịch sử của giai cấp vô sản toàn thế giới, tuy nhiên giai cấp công nhân

không lật đổ tư bản chủ nghĩa chỉ vì sự nghiệp giải phóng mình mà còn là thực

hiện sứ mệnh cao cả giải phóng nhân dân, tổ quốc khỏi áp bức bóc lột tiến lên

chủ nghĩa xã hội.

Tất cả những sứ mệnh đó đều mang tính tất yếu quy định bởi điều kiện

khách quan bao gồm hai vấn về địa vị kinh tế và địa vị chính trị - xã hội của giai

cấp công nhân và chỉ có thể đảm nhận bởi giai cấp công nhân.

1, Điều kiện do địa vị kinh tế của giai cấp công nhận quy định.

1.1. Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực

lượng sản xuất hiện đại.

Theo quan điểm C.Mác, lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự

tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để đánh

giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong bất cứ hình

thái kinh tế - xã hội nào, người lao động luôn là yếu tố quan trọng nhất trong lực

lượng sản xuất. Địa vị kinh tế xã hội khách quan của giai cấp công nhân trong

chủ nghĩa tư bản đã chỉ ra rằng giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng

sản xuất tiên tiến nhất, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân song hành với sự

7
phát triển của nền công nghiệp. V.I.Lê-nin khẳng định: “Lực lượng sản xuất

hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”

a, Giai cấp công nhân với phương thức lao động trong nền sản xuất tư bản chủ

nghĩa.

Trong quá trình phát triển của giai cấp công nhân, khác với thợ thủ công

trông nghề thủ công, họ sẽ sử dụng công cụ của mình tạo ra các sản phẩm thủ

công. Còn với người công nhân trong công xưởng thì họ phải phục vụ máy móc

dù theo cách trực tiếp hay gián tiếp, vận hành các công cụ sản xuất có tính chất

công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao và tạo ra những sản phẩm

công nghiệp. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, công nhân công nghiệp công xưởng là

bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.

b, Giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong

quá trình sản xuất, là một trong những biểu hiện quan trọng của quan hệ xã hội,

giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu

tiên, quyết định những quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: Quan

hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức lao động sản xuất, quan hệ

phân phối sản phẩm lao động.

Về bản chất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn được hiểu là giai cấp

tư sản bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để làm giàu cho mình.

8
Nói một cách rõ hơn, quan hệ sản xuất tư bản chủ được hình thành dựa

trên hai yếu tố chính: vốn và đội ngũ công nhân làm thuê. Quý tộc và thương

nhân trở nên giàu có, họ có trong tay nguồn vốn, lập ra những công xưởng với

quy mô lớn, những đồn điền,.. và trở thành giai cấp tư sản. Họ đầu tư vốn để

mua tư liệu sản xuất và sức lao động của đội ngũ nhân công. Vì tư liệu sản xuất

và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công

nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở

hữu của nhà tư bản. Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng

thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định - giá trị

công nhân lao động sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị

những nhà tư bản chiếm đoạt, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư. Để

có càng nhiều lợi nhuận, giai cấp tư sản đã dùng mọi cách để bóc lột kiệt quệ

sức lao động của công nhân, dẫn đến sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa rất sớm ở Châu Âu.

Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những

người lao động không sở hữu những tư liệu sản xuất. Họ phải bán sức lao động

cho giai cấp tư bản và bị bóc lột giá trị thặng dự và bị lệ thuộc hoàn toàn vào

quá trình phân phối kết quả lao động của họ . Đối diện nhà tư bản, công nhân là

những người lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của mình.

Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, cũng

như một món hàng hóa có thể đem bán như bất cứ món hàng nào khác. Trong

tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph.Ângghen từng chỉ ra
9
rằng: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng

việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư

bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết toàn bộ sự

sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình

chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những biến động của cuộc

cạnh tranh không gì ngăn cản nổi.”

 Nền sản xuất hiện đại với xu thế xã hội hóa cao đã tạo ra “tiền đề thực tiễn

tuyệt đối cần thiết” (C.Mác) cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Giai cấp công nhân hiện đại là chủ thể và là sản phẩm tiêu biểu của quá trình

sản xuất vật chất hiện đại. Ph.Ăngghen viết: “Cuộc cách mạng công nghiệp

chiếm lĩnh hết ngành sản xuất này đến ngành sản xuất khác thì giai cấp này

cũng càng lớn lên không ngừng”.

1.2. Mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là điều kiện kinh

tế khách quan, quy định giai cấp công nhân là lực lượng phá vỡ quan hệ sản

xuất tư bản chủ nghĩa.

a, Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.

C. Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực

lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản

chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai

cấp tư sản. Cũng như đối với xã hội có giai cấp trước đây, trong xã hội tư bản,

đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội.


10
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn

giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư

bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu

thuẫn cơ bản này thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp

công nhân và giai cấp tư sản. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc của

giá trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc

lột được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư. Như vậy, trong quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi

ích của tư bản chủ nghĩa, chính điều khiến giai cấp công nhân là giai cấp đối

kháng với giai cấp tư sản.

b, Mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là điều kiện kinh tế

khách quan, quy định giai cấp công nhân là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa.

Mâu thuẫn đó cho thấy, tính chất đối kháng không thể điều hòa giữa giai

cấp công nhân (giai cấp vô sản) với giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa và trong chế độ tư bản chủ nghĩa.

Nền sản xuất hiện đại với xu thế xã hội hóa cao đã tạo ra “tiền đề thực

tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác) cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Điều kiện

khách quan này là nhân tố kinh tế, đồng thời, V.I.Lê-nin đã chỉ rõ : “Lực lượng

sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”. Với

điều kiện khách quan là nhân tố kinh tế và tính chất như vậy, giai cấp công nhân

11
là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính

quyền về tay mình, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp

công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng

duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc

để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, không

còn chế độ người áp bức, bóc lột người.

2, Điều kiện do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhận quy định.

Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có được

những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và

kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải

phóng xã hội. Những phẩm chất đó của giai cấp công nhân được hình thành từ

địa vị kinh tế - xã hội trong nền sản xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại mà

giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một cách khách quan, ngoài ý

muốn của nó.

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt

của bộ phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện ban đầu cho sự phát triển giai

cấp công nhân: “Nói chung, sự phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp được

quy định bởi sự phát triển của giai cấp tư sản công nghiệp. Chỉ có dưới sự

thống trị của giai cấp này thì sự tồn tại của giai cấp vô sản công nghiệp mới có

được một quy mô toàn quốc, khiến nó có thể nâng cuộc cách mạng của nó lên

12
thành một cuộc cách mạng toàn quốc...”

C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu giai cấp công nhân (giai cấp vô sản),

đã không những đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp công nhân mà còn làm

sáng tỏ những đặc điểm quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách

mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Những điều kiện khách quan đã tạo cho giai

cấp công nhân có những đặc điểm chính trị - xã hội mà những giai cấp khác

không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây.

2.1. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.

Giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền

với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, do đó họ là giai cấp tiên

phong cách mạng. Đó là giai cấp được trang bị bởi lý luận khoa học, tư tưởng

cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu

xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp

được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.

2.2. Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời

đại ngày nay.

Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng

trong thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành

được chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông

dân, những giai cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách

13
mạng dân chủ tư sản. Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư

sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản.

Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ

thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư

bản chủ nghĩa.

Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” , C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:

"Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai

cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng...”

Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, thợ thủ công và nông

dân, tiểu thương, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống

còn của họ với tính chất là những tầng lớp trung đẳng. “Cho nên họ không cách

mạng mà bảo thủ". Chính bởi tính chất như vậy, họ không thích hợp để làm giai

cấp lãnh đạo cách mạng.

2.3. Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ

thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương

buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc

sống đô thị hoá, hiện đại hoá tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ

cho giai cấp công nhân.

14
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường và phát huy

khi nó phát triển thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự

giác ngộ bởi lý luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó -

đảng Cộng sản. Giai cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì

không thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và

xây dựng chế độ xã hội mới.

2.4. Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế.

Giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn

bóc lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển

mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của

nước này có thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản

phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều

quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra

đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó

giữa phong trào công nhân các nước, có như vậy, phong trào công nhân mới có

thể giành được thắng lợi. V.I.Lênin chỉ rõ: "... không có sự ủng hộ của cách

mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách mạng vô sản là không thể có

được", "Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên

minh quốc tế".

15
III, ĐIỀU KIỆN CHỦ QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ GIAI CẤP

CÔNG NHÂN.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,

để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân

tố chủ quan. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ

quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

1. Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất

lượng.

Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công

nhân cùng với quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng

của công nghiệp, của kỹ thuật và công nghệ.

Sự phát triển về lượng của giai cấp công nhân bao gồm sự phát triển số

lượng, tỷ lệ và cơ cấu… phù hợp với yêu cầu của sản xuất công nghiệp hiện đại

và cơ cấu kinh tế. Thông qua sự phát triển về lượng có thể thấy được trình độ,

quy mô của công nghiệp hóa và sự chuẩn bị về lượng của giai cấp công nhân để

thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới kéo theo sự

phát triển của giai cấp công nhân. Điều này được khẳng định: theo thống kê,

năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân, đến 1990 có hơn 600 triệu, đến

1998 tăng đến 800 triệu. Nguyên nhân của sự gia tăng này đó là do chiến lược

công nghiệp hóa – hiện đại hóa của các nước tư bản, và ngày nay là của các
16
nước đang phát triển. Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời trong quá

trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tính đến năm 1929, tổng số công

nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, (trong

đó 5,3 vạn thợ mỏ; 8,6 vạn công nhân các ngành công, thương nghiệp; 8,1 vạn

công nhân các đồn điền).

Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện trên hai mặt:

năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, ý thức dân tộc.

Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, năng

lực làm chủ công nghệ hiện đại của công nhân xác nhận vị thế đại diện cho

phương thức sản xuất tiên tiến, vì họ là giai cấp thường trực của xã hội hiện đại

gắn liền với những tiến bộ của sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Với tư

cách là chủ thể của sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân cần phải đạt tới trình độ

giác ngộ cao về chính trị, trước hết ở trình độ giác ngộ về giai cấp; phải hiểu

biết ở tầm lý luận về “mình là gì và cần phải làm gì với lịch sử” được tập trung

trong nhận thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong xã hội hiện

đại, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho lợi ích chân chính của dân tộc;

cùng với dân tộc và những tầng lớp khác để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử

trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc - đó là phẩm chất chính trị cần

được tu dưỡng với giai cấp công nhân và chính đảng của nó.

Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”, Mác đã nêu ra một số nhân tố đem

lại cho giai cấp công nhân những tri thức: “đó là sự đấu tranh của giai cấp tư

sản chống lại xã hội cũ, tầng lớp quý tộc”. Mác viết “Giai cấp tư sản sống
17
trong một trạng thái chiến tranh không ngừng : trước hết chống lại quý tộc; sau

đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai cấp tư sản mà quyền lợi xung đột

với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư

sản của tất cả các nước ngoài. Trong hết thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai

cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức,

và do đó, lôi cuốn họ vào phong trào chính trị. Thành thử giai cấp tư sản đã

cung cấp cho những người vô sản một phần những tri thức chính trị và những

tri thức phổ thông của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân

nó.”

 Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất lượng

giai cấp công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ

mệnh lịch sử của mình. Chất lượng giai cấp công nhân phải thể hiện ở trình độ

trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận

thức được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp

công nhân phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa

Mác-Lênin. Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến,

chất lượng giai cấp công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ

khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.

Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động sâu sắc vào

sản xuất, vào quản lý và đời sống xã hội nói chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu

sắc tính chất, phương thức lao động của công nhân: lao động bằng trí óc, bằng

năng lực trí tuệ, bằng sức sáng tạo sẽ ngày càng tăng lên, lao động giản đơn, cơ
18
bắp trong truyền thống sẽ giảm dần bởi sự hỗ trợ của máy móc, của công nghệ

hiện đại, trong đó có vai trò của công nghệ thông tin. Trình độ học vấn, tay nghề,

bậc thợ của công nhân, văn hóa sản xuất, văn hóa lao động đáp ứng yêu cầu của

kinh tế tri thức là những thước đo quan trọng về sự phát triển chất lượng của

giai cấp công nhân hiện đại. Chỉ với sự phát triển như vậy về số lượng và chất

lượng, đặc biệt về chất lượng là điều kiện chủ quan cần thiết để giai cấp công

nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của nó.

2. Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công

nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.

Giai cấp công nhân đã có sự trưởng thành vượt bậc với tư cách là giai cấp

cách mạng tiên bộ. Sự ra đời của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp

công nhân và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu chỉ rõ giai

cấp công nhân đã trở thành giai cấp tự giác và trưởng thành về chính trị, tư

tưởng và tổ chức để thực hiện sứ mệnh lịch sử.

Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp

giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủnghĩa Mác-Lênin với phong trào công

nhân. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen

đã chỉ rõ: "Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập

với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách

khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản". Đảng cộng sản là tổ chức chính trị

cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công

19
nhân và toàn thể nhân dân lao động.

Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan

trọng nhấ tcủa Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành

đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộng sản đại biểu

trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh

của Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên

hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,với quần chúng lao động đông đảo trong

xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảnglãnhđạo đểgiải phóng giai cấp và giải

phóng xã hội.

Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cũng chính

là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh

đạo của mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng

cộng sản với giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung

những công nhân tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận

cách mạng, do vậy đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và

bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.

Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,

Đảng Cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sơ lý luận

chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn

cách mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương tĩnh, đường lối cách mạng

phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của

20
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng viên là những người được trang

bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận

còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết

quả chung của phong trào vô sản" . Cán bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ

biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần

chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp,

lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.

Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp

công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác

ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập

hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong

trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện

và khi đó đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới

thực hiện được. Cương lĩnh của Đảng năm 1991 xác định:

“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,

đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của

cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Marx - Engels - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh

làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm

nguyên tắc tổ chức cơ bản.”.

21
3.Thực hiện khối liên minh giai cấp giữa công nhân với nông dân, trí thức;

vươn lên nắm ngọn cờ dân tộc và thực hiện chủ nghĩa quốc tế.

3.1. Liên minh giai cấp công - nông.

Ngoài hai yếu tố chủ quan trên, để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ

mệnh lịch sử cần sự liên minh giai cấp giữa cong nhân, tầng lớp tri thức, nông

dân và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên

phong của là Đảng Cộng sản lãnh đạo.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết

luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi

nếu giai cấp nông dân ủng và tham gia vào những cuộc đấu tranh của giai cấp

vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” của cách mạng vô sản sẽ trở thành “ai điếu”,

cách mạng vô sản không thể thắng lợi nếu chỉ có giai cấp công nhân. Tuy nhiên,

sự cần thiết của liên minh công - nông không còn cả từ giai cấp nông dân. Giai

cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể tự mình

thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng

một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không

trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. Trong Báo cáo tình hình

và nhiệm vụ tại Hội nghị lần thứ III của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

II, tháng 4 năm 1952, do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã nhấn mạnh: “Chỉ

có giai cấp công nhân lãnh đạo, thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có

thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách

mạng thắng lợi.”


22
3.2. Giai cấp công nhân là một phần giai cấp vô sản quốc tế.

Đồng thời còn cần yếu tố về sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và đoàn kết,

hợp tác hành động của giai cấp công nhân trên toàn thế giới đã được liên hiệp

lại để chống chủ nghĩa tư bản toàn cầu và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội

cộng sản chủ nghĩa trên thế giới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ: “Tình

cảnh của công nhân tất cả các nước đều giống nhau, bởi lẽ lợi ích của họ thống

nhất, những kẻ thù của họ cùng là một, cho nên họ cần hiệp lực đấu tranh

chung và họ cần đem liên minh anh em của công nhân tất cả các dân tộc đối lập

với cái liên minh anh em của giai cấp tư sản tất cả các dân tộc.”

Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa quốc tế đó trước tiên xuất phát từ tính chất xã

hội hóa của sản xuất hiện đại. Do sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp

hiện đại với quy mô mở rộng và trình độ công nghệ ngày càng cao đã “nối liền

tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau” và phụ thuộc vào nhau. Chủ nghĩa

quốc tế của giai cấp công nhân về cơ bản thống nhất với lợi ích chính đáng của

các dân tộc và nó cũng đối lập với các biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa dân tộc.

23
KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chủ

nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi lẽ chỉ có giai cấp công nhân hội

tụ cả điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.

Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp

công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khách

quan. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được hình thành một cách khách

quan song để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó phải kể đến vai trò của các

yếu tổ chủ quan. Đầu tiên là sự phát triển của chính bản thân giai cấp công nhân,

ngoài ra việc thành lập ra chính đảng của giai cấp: Đảng Cộng Sản, sự lãnh đạo

của Đảng Cộng Sản là nhân tố chủ quan quyết định, đảm bảo vai trò lãnh đạo

của giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên sứ

mệnh lịch sử không phải chỉ là việc riêng của giai cấp công nhân, cách mạng

thắng lợi và tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể thiếu sự liên minh giai cấp công

- nông, cũng như sự đồng lòng của những tầng lớp xã hội khác.

Hiện nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá ngày nay cũng như sự

biến đổi, vận động không ngừng tại xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói

chung, những điều kiện cũng vì thế mà thay đổi theo. Bởi vậy, chúng ta cần biết

vận dụng những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí để

nghiên cứu những điều kiện của giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm

sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.

24
PHỤ LỤC

Tài kiệu tham khảo.

[1] Giáo trình: Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2006.

[2] Giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

[3] Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Karl Marx và Friedrich Engels.

[4] Tạp chí Cộng Sản, Cơ quan lý luận chính trị của ban chấp hành Trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam.

[5] Trương Tất Thịnh, Giai cấp công nhân và các điều kiện cần có của một giai

cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử của thời đại, Báo Công đoàn công thương Việt

Nam, 2016.

[6] PGS. TS Nguyễn An Ninh, Tư tưởng Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của

giai cấp công nhân - Giá trị và những vấn đề cần bổ sung, phát triển hiện nay,

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

25

You might also like