You are on page 1of 5

Đề tài: Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của

C.Mác
và Ph.Ăngghen. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam.
ĐỀ CHƯƠNG CHI TIẾT

1. Những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C.Mác và
Ph.Ăngghen
1.1. Về số lượng và cơ cấu giai cấp công nhân hiện đại.
- Số lượng : số lượng giai cấp công nhân tăng nhiều và đáng kể, trở thành lực
lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội hiện đại.
- Cơ cấu : cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế cũng đa dạng hơn.
Trong đó số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỉ trọng càng lớn.
1.2. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa
- Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển của
kinh tế tri thức , giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa.
- Tri thức và tri thức hóa công nhân là hai mặt của một quá trình, của xu hướng
trí tuệ hóa công nhân và giai cấp công nhân. Hiện nay có nhiều khái niệm mới
để chỉ công nhân theo xu hướng này: “công nhân trí thức”, “công nhân tri
thức”, “ công nhân áo trắng”, lao động trình độ cao. Nền sản xuất và dịch vụ
hiện đại đòi hỏi người lao động phải có tri thức sâu rộng và có kĩ năng nghề
nghiệp.
- Báo cáo phát triển nhân lực Ngân hàng thế giới đã nêu rõ “Tri thức là một động
lực cơ bản cho việc gia tăng năng suất và cạnh tranh toàn cầu. Nó là yếu tố
quyết định trong quá trình phát minh, sáng kiến và tạo ra của cải xã hội”.
- Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ không còn thuần túy
là hao phí sức lực cơ bản. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và
thường xuyên được đào tạo lại đáp ứng sự thay đổi nhanh của công nghệ trong
nền sản xuất và nhu cầu về vật chất tinh thần và văn hóa ngày càng đa dạng,
phong phú đa dạng của nhân dân.
 Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ, với năng lực sáng tạo trong nền sản
xuất hiện đại, người công nhân hiện đại đang có thêm những điều kiện vật chất để
tự giải phóng. Công nhân hiện đại với trình độ trí thức và làm chủ công nghệ cao
với sự phát triển năng lực trí tuệ trong kinh tế tri thức, trở thành nguồn lực cơ bản,
nguồn vốn xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của xã hội hiện đại.
1.3. Tính xã hội hóa của lao động công nghiệp mang nhiều biểu hiện mới
- Tính xã hội hóa của giai cấp công nhân hiện nay mang nhiều biểu hiện mới: sản
xuất công nghiệp trong thế giới toàn cầu hóa đang mở rộng thành “chuỗi giá trị
toàn cầu”.
- Quá trình sản xuất một sản phẩm liên kết nhiều công đoạn của nhiều vùng, quốc
gia, khu vực. Khác với truyền thống, trong nền sản xuất hiện đại dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và công nghệ cao, đã xuất hiện những hình thức liên
kết của những mô hình lao động kiểu mới như “xuất khẩu lao động tại chỗ”,
“làm việc tại nhà”, “nhóm chuyên gia quốc tế”, “quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản
xuất công nghiệp”.
- Tính chất lao động xã hội hóa của lao động hiện đại ngày nay càng được mở
rộng và nâng cao. Lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt qua khỏi phạm vi quốc
gia mang tính chất quốc tế, trở thành lực lượng sản xuất của thế giới toàn cầu.
1.4. Ở nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo và
trở thành Đảng cầm quyền.
- Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ
 Giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới
chủ nghĩa tư bản, là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ
yếu . Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho sự tiến bộ
của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
 Giai cấp công nhân được trang bị bởi lý luận khoa học cách mạng và luôn đi
đầu trong phong trào cách mạng theo mục tiêu xoá bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây
dựng xã hội mới tiến bộ. Nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp,
tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
 Giai cấp công nhân xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động
khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước,
sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên
khối công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta.
- Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức, tính kỷ luật, tác phong công
nghiệp.
 Vì điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai cấp
công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ.
 Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có
trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ,
làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm
ngặt kỷ luật lao động.
 Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản – là một giai
cấp có tiềm lực về kinh tế – kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh
bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
2. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam
2.1. Tăng mạnh về số lượng, chất lượng, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có những bước phát triển
tích cực mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng và có nhiều đóng góp quan trọng vào
tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay,
giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao động xã
hội, song hàng năm đã tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo
60% nguồn thu ngân sách nhà nước. Những đóng góp của giai cấp công nhân khẳng
định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
2.2. Đa dạng hóa về cơ cấu nghề nghiệp.
- Lực lượng công nhân - lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu: “công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa
dạng về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó, số công nhân trong
khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn”
- Cơ cấu ngành kinh tế của nước ta hiện nay đang vận động theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là đẩy mạnh phát
triển các ngành dịch vụ. Với cơ cấu kinh tế như vậy, xuất hiện ngày càng đông bộ
phận công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ.
 Vì vậy, bên cạnh đội ngũ công nhân truyền thống, đã xuất hiện đội ngũ công nhân
trong các ngành nghề mới. Trong đó, đa phần là lớp công nhân trẻ, có sức khỏe, có
trình độ học vấn, có khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại.
2.3. Công nhân tri thức là lực lượng lao động chủ đạo.
- Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm cho nền kinh tế nước ta đang chuyển biến nhanh
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó tạo động lực để giai cấp công nhân
nước ta ngày càng phát triển cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
- Trình độ của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao đã từng bước “hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức”. Đây là bộ phận đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập; góp phần nâng cao chất
lượng, bảo đảm giữ vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta còn được rèn luyện
tính kỷ luật, tác phong công nghiệp, thích ứng với các thể chế quy định quốc tế.
2.4. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đứng trước thời cơ phát triển nhưng
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Trước sự thay đổi về nhiều mặt từ ngoài thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam đang
đứng trước những thách thức vô cùng to lớn.
- Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo dài
và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia
tăng đe dọa giai cấp công nhân.
- Hàng chục vạn công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
phải thuê nhà ở, sinh hoạt trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an
toàn.
- Tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời
gian lao động, thậm chí có nơi lương công nhân không đủ nuôi sống bản thân, đời
sống gặp nhiều khó khăn.
- Điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Công nhân lao động không có
thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận
công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp
luật còn rất hạn chế.
2.5. Điểm then chốt để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay là xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm cho đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh.
Để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay cần phải có những giải pháp đồng bộ, trong đó cần có những nghiên cứu khoa học
về vấn đề này, làm rõ nội dung, phương thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo xây
dựng giai cấp công nhân của Đảng.
- Đảng cần phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn làm cho Đảng thực sự trong sạch vững
mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức.Đảng phải thường xuyên nâng cao tính tiền
phong của Đảng, mà trước hết là tính tiền phong về trí tuệ. Đảng phải hết sức tránh
không để phạm phải những sai lầm, nhất là sai lầm về đường lối, dẫn tới chệch hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân
để xem xét và giải quyết các vấn đề về đối nội và đối ngoại, luôn kiên định với đường
lối chiến lược và những vấn đề có tính nguyên tắc, thực hiện đúng phương châm hòa
nhập nhưng không hòa tan không được để mất quyền độc lập, chủ dẫn tới bị lệ thuộc
vào nước ngoài.
- Đảng phải thường xuyên tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Cùng với xây dựng Đảng, phải đặc biệt chăm lo xây dựng giai cấp công nhân ngày
càng vững mạnh vì giai cấp công nhân là lực lượng cốt lõi đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, giai cấp công nhân có ổn định về mọi mặt
trong tinh thần và đời sống thì khi đó họ mới có thể yên tâm tham gia sản xuất, học tập
nâng cao tri thức, trình độ của bản thân từ đó củng cố quá trình đổi mới của đất nước.

You might also like