You are on page 1of 6

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

3.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Một là, giai cấp công nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và ngành nghề.

Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp, giai
cấp công nhân nước ta có số lượng không lớn và khá thuần nhất về cơ cấu thành phần và ngành nghề,
công nhân làm việc chủ yếu trong thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Quá trình đổi mới,
mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan
trọng đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát triển nhanh. Điều đó đã tạo sự
chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội, làm cho lực lượng công nhân - lao động công nghiệp và dịch
vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu. Trong đó, số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân
và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, hiện nay, tổng số công nhân nước ta chiếm khoảng 13%
số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế trong nước, đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số lao động giản đơn
trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể(6). Số lượng công nhân tăng nhanh chủ yếu ở các loại hình
doanh nghiệp tại những khu công nghiệp trọng điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc,
Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai... h
Hai là, giai cấp công nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp
từng bước được nâng lên.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế không thể không
tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động của ngành công
nghiệp. Điều này, đòi hỏi phải khắc phục triệt để những hạn chế về tác phong và kỷ luật lao động của thời
kỳ thực hiện cơ chế hành chính, tập trung bao cấp và phải nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của
công nhân. Nếu không, doanh nghiệp và công nhân không thể tồn tại và phát triển. Đây là đòi hỏi rất cao,
yêu cầu rất lớn và nghiêm ngặt đối với doanh nghiệp và công nhân, cũng là động lực thúc đẩy trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của công nhân từng bước được nâng lên. Cùng với đó là việc rèn
luyện, nâng cao tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại và hình thành ngày càng đông đảo bộ
phận công nhân trí thức.

Ba là, giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của giai cấp
công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, đi đầu, năng động, sáng tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân
Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đó là truyền thống tiên phong cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn,
gian khổ, quyết liệt, năng động, sáng tạo trong sản xuất... Đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, thắng lợi của mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH.
Bốn là, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm; sự phân tầng xã
hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.
Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do việc đổi mới, sắp xếp lại các
doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp chuyển thành doanh nghiệp, công ty cổ phần. Bên cạnh đó,
sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc do chênh lệch ngày
càng lớn về thu nhập giữa các bộ phận công nhân. Thu nhập của công nhân trong khu vực kinh tế nhà
nước thường cao và ổn định hơn so với công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc biệt, sự
chênh lệch về thu nhập và mức sống ngày càng tăng giữa những công nhân có cổ phần với những công
nhân không có cổ phần trong các doanh nghiệp, công ty cổ phần, giữa những công nhân có trình độ
chuyên môn và tay nghề cao (công nhân trí thức) với những công nhân có tay nghề và trình độ chuyên
môn thấp và lao động giản đơn. Điều này dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội trong
giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.
Năm là, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân nước ta ngày càng đa dạng, nhưng chủ yếu
vẫn là từ nông dân.

So với thời kỳ trước đổi mới, thành phần xuất thân của giai cấp công nhân ngày càng đa dạng hơn, không
thuần nhất như trước đây. Tuy nhiên, với đặc điểm của một nước nông nghiệp, thành phần xuất thân của
giai cấp công nhân phần lớn vẫn từ nông dân, trình độ và chuyên môn nghề nghiệp còn hạn chế và còn
chịu sự chi phối bởi tác phong, lề lối làm việc của người nông dân tiểu nông, chưa thích nghi với tác
phong, kỷ luật lao động công nghiệp hiện đại. Đa phần chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống nên trình
độ và chuyên môn, nghề nghiệp hạn chế, năng suất lao động và thu nhập thấp, khoảng cách giàu nghèo và
sự phân tầng xã hội trong giai cấp công nhân gia tăng. Một bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế trong
giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị và hiểu biết về chính sách, pháp luật, gây khó khăn nhất định cho việc
phát triển đảng viên là công nhân.

3.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình, xứng
đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải quyết các vấn đề là thu
hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao
như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,…

Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận
chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn xã
hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận:

Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ
chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột,
xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ
mới.

3.3 Phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
3.3.1 Phương hướng
Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của
từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ
chức xã hội có nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân
phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa
chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.

Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến trình độ văn hóa, năng lực
chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chính trị của họ. Xây dựng giai cấp công nhân phải thể
hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn. Cần xem việc
đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ
tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác. Một thế hệ công nhân mới giỏi về chuyên môn, vững vàng về ý thức
chính trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức đối đầu với mọi thách thức. Nâng tầm trí tuệ, năng lực
chuyên môn và ý thức chính trị cho đội ngũ giai cấp công nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự ổn
định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị - xã hội của Đảng trong thời kỳ mới.

Hai là: Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống
còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một
câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức
chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào Đoàn, chưa
hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ.

Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hình
thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức
trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống
vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc.
Ba là: Phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công nhân . Ký các hợp đồng lao
động với công nhân phải được xem là tiêu chuẩn bắt buộc đối với các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng
lao động cần chú trọng thanh kiểm tra điều kiện làm việc và cường độ lao động, không để và không cho
phép chủ lao động ép công nhân làm việc vượt quá mức về cường độ, thời gian làm việc.

Vấn đề này cần phải sớm được pháp luật quy định cụ thể. Quan tâm thích đáng đến đời sống tinh thần,
hình thành những tiêu chí có tính pháp quy về ăn ở, nơi vui chơi giải trí, các tiện ích văn hóa công, chế độ
nghỉ dưỡng, thưởng thức các chương trình văn hóa nghệ thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân
cư và các khu công nghiệp tập trung.

Khuyến khích động viên và khen thưởng, cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt, phê bình và xử lý
thích đáng các đơn vị cố tình không làm tốt, hoặc làm có tính chất đối phó, chiếu lệ… Sự thiếu thốn và
nghèo nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ làm cho đại bộ phận lao động trẻ sống và làm việc trong môi
trường không có cảm hứng sáng tạo, tính tích cực xã hội không có điều kiện phát huy, lao động chắc chắn
sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn, thiệt thòi trước hết cho chính các doanh nghiệp.
3.3.2 Giai pháp
1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn
định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm
an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Một xã hội ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa không chỉ
là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của giai cấp công nhân mà còn của mọi người dân trong xã hội.

2. Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch nền kinh tế, vùng
kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích các
tập thể cá nhân phát triển sản xuất - kinh doanh, chủ động và tích cực tham gia vào thị trường lao động
quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng
những khu công nghiệp, khu chế xuất mới... Đây sẽ là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều
lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công
nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.

3. Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của người công nhân còn nhiều khó khăn, nên trong
quan niệm của xã hội hiện nay, hình ảnh người công nhân chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều
kiện như thế, để giai cấp công nhân có điều kiện khẳng định được vai trò, vị trí của mình cũng như hoàn
thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình cần có một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp
trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí
quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
4. Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai cấp
công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát triển giai cấp công nhân
trong tình hình mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc
thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự
cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp
và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động, nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và
tăng trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản,
đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường
là việc làm không ổn định, lao động giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với
sự sôi động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu
cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế.

5. Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong xã hội hiện nay,
cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần
của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến,
ưu tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến
lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung
đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó, trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở
và tiền lương. Có như thế, giai cấp công nhân mới thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện
học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó
sâu sắc với sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

6. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và
chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải được thực hiện trong một môi
trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân luôn có điều kiện phát huy năng lực của mình và được
thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra. Muốn thế, cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân
chủ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một khi người công nhân được tôn trọng, được thực sự
góp phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công
nhân yên tâm và hăng say làm việc, sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản thân.

Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu tranh chống tham nhũng
cũng là một vấn đề gây bức xúc trong không ít các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp cổ phần. Tham nhũng đang tạo ra khoảng cách giàu - nghèo giữa công nhân, viên chức và
người lãnh đạo doanh nghiệp, gây nên sự bất bình trong dự luận công nhân, mất đoàn kết nội bộ, mâu
thuẫn trong doanh nghiệp. Nếu không kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng sẽ dễ dẫn tới tình trạng bất
ổn, làm sản xuất đình đốn. Kiên quyết đấu tranh loại trừ tệ tham nhũng ra khỏi các doanh nghiệp đó là
một việc làm vừa có ý nghĩa phát triển sản xuất, kinh doanh vừa có ý nghĩa bảo vệ cán bộ và công nhân
không bị rơi vào trạng thái mâu thuẫn trên. Đó chính là một con đường thiết thực góp phần xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp.
7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp phù
hợp với tình hình mới. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các
doanh nghiệp được đề cập ở đây là trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong
quá trình chuyển đổi vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp cũng như đối với các
tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp còn lúng túng, có nhiều bất cập. Chính vì vậy, vị thế, vai
trò của Đảng trong các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt. Các tổ chức
chính trị - xã hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng trong phương hướng hoạt động, không
hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.

You might also like