« Home « Kết quả tìm kiếm

Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa


Tóm tắt Xem thử

- Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóatrước thời kì đổi mớia.
- Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa_ Hoàn cảnh: Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng9-1960) của Đảng.
- Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tìnhhình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều.
- Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước tacó khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 côngnghiệp hóa ở miền Bắc và từ công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giaiđoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt._ Đặc điểm.
- Năm 1960, công nghiệp chiếm tỷ trọng18,2% và 7%lao động xã hội.
- 100% hộ tư sảnđược cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào HTX tiểu thủ công nghiệp).
- Trong bốicảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủnghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại.
- Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng.
- (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ lên 22,2%/1965.
- Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: •Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
- •Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
- •Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
- (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần) •Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
- (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định.
- Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…”tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng (1976) nhưng chínhsách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơsở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sảnxuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sởphát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nôngnghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trungương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địaphương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo một sựthay đổi nhất định trong phát triển:+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627 cơ sởnăm 1980 và 3220 cơ sở năm công nghiệp phát triển khá.
- Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồnviện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu,bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp trungương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểu hiện của tư tưởngnóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên giữa côngnghiệp và nông nghiệp.
- Khắc phục thời kì 2: -Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiêncủa thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức pháttriển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
- việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặngtrong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quảcho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Cụ thể là:+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng công nghiệp Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, tiểu thủ côngnghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh và công tư hợpdoanh 56,5.
- Tỷ trọng công nghiệp tăng từ lên Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ 1976-1980xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985.
- Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫnxác định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệpnặng tương đối phát triển làm nòng cốt”.
- Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mớiNhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóatheo kiểu cũ với các đặc trưng cơ bản sau đây:- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triểncông nghiệp nặng.- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nướcxã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhànước.
- việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tậptrung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đếnhiệu quả kinh tế xã hội.2.
- Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa • Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức hạn chế và trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
- Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan trọng.
- Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
- Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa.
- Trong điều kiện đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thì những kết quả đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.b) Hạn chế và nguyên nhân - Hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới còn nhiều hạn chế.
- Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nên kinh tế quốc dân.
- Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
- Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.II.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:1.
- Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa.
- Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìnthẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sailầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ mà trực tiếp làmười năm từ 1975 đến 1985: Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơsở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạochủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trươngđẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổimới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉxuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệpvới nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và nhữngcông trình quy mô lớn , không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực,thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nôngnghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịpthời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội X: Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dungchính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện chobằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm.
- Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng.
- Tạo một sự chuyển biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng như tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
- Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “ lấy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”.
- Từ đó dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập trung vào những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn.
- Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
- -Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
- Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm .
- Tương ứng công nghiệp tăng .
- Cơ cấu kinh tế .
- Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội (20,8 tỷ USD)Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định:nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầucủa thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành chophép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan niệm như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạtđộng sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủcông là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiệnvà phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học,công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
- Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu độtphá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu.
- Gắn công nghiệp hóa với hiệnđại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tốtrung tâm của CNH, HDH.
- Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóatrong những năm trước mắt là “đặc biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệpnông thôn.
- Kết quả là:+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng công nghiệp .
- Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung vànhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa.
- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với cácnước đi trước.
- Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước,chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa cónhững bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
- phát huy những lợi thế của đất nước, gắncông nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệuquả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuấtkhẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lậptự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trongmột nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.a.
- Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành mộtnước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệsản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vậtchất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội côngbằng dân chủ văn minh.
- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệphóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạngkém phát triển.
- Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trithứca.
- Nội dung Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnhquốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế trithức.
- Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa,hiện đại hóa”.Nội dung cơ bản của quá trình này là.
- Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnhcông nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyếtđồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.+ Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
- Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị.
- Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ.
- Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa.
- Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa.
- Ở nước ta, trong những năm qua, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng.
- Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá trình này là: Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
- Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.+ Về quy hoạch phát triển nông thôn: Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% tổng số lao động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còncông nghiệp, dịch vụ thì tăng lên.
- Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn côngnghiệp, xây dựng và dịch vụ.- Đối với công nghiệp và xây dựng: Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng.
- Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc để tạo bước phát triển ngành “công nghiệp không khói” này.
- Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam thànhnhững trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày cànglớn cho sự phát triển chung của cả nước.
- Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành một sốhành lang kinh tế ven biển.Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải:- Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồngbộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượnglao động xã hội.- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạngkhoa học và công nghệ.
- Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoahọc và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong từngngành, lĩnh vực của nền kinh tế.- Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thựcsự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiệnđại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
- Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhàkhoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và côngnhân kỹ thuật có tay nghề cao.- Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đặc biệt là cơ chế tài chính phùhợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ.Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cảithiện môi trường tự nhiên được xác định.- Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sảnvà rừng.
- Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩaSau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó cónhững thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạchậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp, khuchế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác, cơkhí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
- Ngành công nghiệp sản xuất tư liệunhư luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã vàđang có những bước phát triển mạnh mẽ.
- Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranhđược trên thị trường trong và ngoài nước.
- Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trungbình của cả nước.
- Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạtđược những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông,lâm nghiệp và thủy sản giảm (giai đoạn tỷ trọng công nghiệp và xây dựngtăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005.
- Từ năm tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăngtừ 12,1% lên 17,9%.
- Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọngđưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến nay đạt trên7,5%/năm.
- Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm.
- Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít.
- Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt