You are on page 1of 123

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM QUANG MINH

CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT


NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ HIỆP ĐỊNH NÔNG
NGHIỆP
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2006

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM QUANG MINH

CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT


NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ HIỆP ĐỊNH NÔNG
NGHIỆP
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

Chuyên ngành : Luật quốc tế


Mã số : 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến

Hµ néi - 2006

2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Quang Minh

3
Lêi C¶m ¥n

Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn


Bá Diến, Trưởng Bộ môn Luật Quốc tế, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô giáo, bạn
bè, đồng nghiệp và gia đình - những người đã giúp
đỡ em hoàn thành luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Quang Minh

4
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MộT Số VấN Đề CHUNG Về NÔNG NGHIệP 9
TRONG Tổ CHứC THƯƠNG MạI THế GIớI
WTO
1.1. Lịch sử ra đời, hình thành phát triển của WTO 9
1.2. Lịch sử ra đời Hiệp định nông nghiệp trong WTO 19
1.3. Một số khái niệm cơ bản trong Hiệp định nông nghiệp 27
Chương 2: hiệp định nông nghiệp và việc thực thi tại một 29
số nước
2.1 Các nội dung chính của Hiệp định nông nghiệp 29
2.2. Chính sách pháp luật nông nghiệp của một số nước theo Hiệp 39
định nông nghiệp

2.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong nông nghiệp của WTO 68
Chương 3: thực trang bảo hộ nông nghiệp việt nam, định 75
hướng chính sách xây dựng pháp luật nông
nghiệp trong khuôn khổ wto
3.1. Cơ hội và thách thức của pháp luật nông nghiệp Việt Nam khi 76
gia nhập WTO

3.2. Thực trạng chính sách bảo hộ nông sản 80


3.3. Giải pháp xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp 106
KẾT LUẬN 117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118

5
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Về mặt lý luận

Trước sự phát triển của nền kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới
luôn tự thích nghi và điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật của nước mình
phù hợp với pháp luật quốc tế.

WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh, gồm các Hiệp
định và quy tắc về kinh tế, thương mại v.v..., trong đó các quy định về tổ chức
và thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế chiếm một số lượng lớn. Đặc biệt các
quy tắc về nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển
của WTO, có thế nói rằng, nông nghiệp là một trong các trụ cột chính của
WTO do tích phức tạp ảnh hưởng đến hàng tỷ nông dân và người tiêu dùng
trên toàn thế giới. Việc đưa ra các nghiên cứu Hiệp định nông nghiệp cũng
như các đáng giá thực hiện Hiệp định này trong nước đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc ban hành chính sách pháp luật nông nghiệp quốc gia.

Để thực hiện được Hiệp định và các nguyên tắc này, nhằm đem lại
hiệu quả cao cho sự phát triển của quốc gia, rất cần có một nghiên cứu về
Hiệp định và nguyên tắc về nông nghiệp của WTO, nhằm:

1. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về nông nghiệp của Hiệp
định nông nghiệp trong WTO ở một số quốc gia.

2. Nhằm hiểu biết sâu sắc các quy định trong Hiệp định nông nghiệp;

3. Trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn quản lý đối với nền kinh tế
trong nước và các hoạt động chuyên ngành;

4. Đưa ra các giải pháp về sửa đổi, bổ sung những thiếu sót trong hệ
thống pháp luật.

6
Với các mục đích trên, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp
Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)"
sẽ giải quyết được một số vấn đề cơ bản như:

1. Các kiến thức cơ bản về WTO.

2. Đưa ra các nghiên cứu, phân tích về Hiệp định nông nghiệp của WTO.
3. Hệ thống chính sách, pháp luật hiện tại về nông nghiệp của Việt Nam.

4. Các đề xuất nhằm nội địa hóa Hiệp định này, thông qua việc xây
dựng các chính sách, pháp luật phù hợp với sự phát triển của Việt Nam

Về mặt thực tiễn

Hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề đã được Đảng và
Nhà nước Việt Nam quan tâm sâu sắc. Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước ta đã coi hợp tác kinh tế quốc tế là nhiệm
vụ hàng đầu. Nhưng mãi gần 10 năm sau, năm 1995, Nhà nước Việt Nam mới
chính thức nộp đơn gia nhập WTO. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành nước
thành viên của ASEAN-Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, năm 1998 trở
thành thành viên của APEC (Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương), và
đến nay, qua hơn 10 năm đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đang đứng
trước vận hội mới trở thành quốc gia thành viên của tổ chức thương mại lớn
nhất hành tinh này.

WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, với sự góp mặt của
149 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu, tiền thân của WTO là GATT - một
hiệp định về thương mại và thuế quan được các quốc gia thiết lập năm 1947
nhằm thúc đầy thương mại kinh tế giữa các quốc gia sau thế chiến thế giới thứ
II. Sau này, do GATT không đủ khả năng điều chỉnh sự phát triển kinh tế của
các quốc gia, WTO đã được thành lập với phạm vi và mục đích rộng hơn rất
nhiều. Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
thông qua các hình thức đầu tư, thuế quan, tài chính, ngân hàng v.v... tạo điều
kiện cho pháp luật quốc gia hội nhập vào pháp luật quốc tế.

7
Việt Nam là một trong các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế
chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với dân
số trên 80 triệu dân, trong đó hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn và
hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến sản
xuất nông nghiệp. Do đó, sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, nông nghiệp là một lĩnh vực rất
nhậy cảm đối với các tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vào
năm 2010, khi các rào cản thuế quan và phi quan thuế bị loại bỏ, nền nông
nghiệp Việt Nam, với quy mô sản xuất nhỏ lẻ và tư liệu sản xuất lạc hậu sẽ
phải đối mặt với cạnh tranh tự do gay gắt của nền kinh tế thị trường quốc tế.

Một trong các hiệp định chính của WTO là Hiệp định nông nghiệp.
Hiệp định nông nghiệp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các chính sách,
luật pháp của các quốc gia thành viên như: Các quy định về tiếp cận thị
trường, hỗ trợ trong nước, và trợ cấp xuất khẩu. Các quy định trong Hiệp định
này tương đối phức tạp và cũng rất khó trong việc thực hiện vì nó liên quan
trực tiếp đến việc sửa đổi luật pháp trong nước trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chính vì thế, các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang tiến
hành nhiều nghiên cứu, và đưa ra các biện pháp, giải pháp để làm hài hoà
chính sách, luật pháp trong nước phù hợp với Hiệp định này. Tuy nhiên, đây
là vấn đề không đơn giản không chỉ với các quốc gia đang phát triển mà ngay
cả đối với các quốc gia phát triển, làm thế nào để thực hiện được Hiệp định
này cũng là điều hết sức phức tạp. Phức tạp ở chỗ phải tiến hành sửa đổi luật
pháp trong nước theo hướng phù hợp với các quy định trong Hiệp định,
nhưng ngược lại, việc sửa đổi này cũng nhằm bảo vệ thị trường nông sản
trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi
của người nông dân trong quá trình hội nhập.

Cơ hội đối với ngành nông nghiệp khi tham gia WTO

Minh bạch hoá chính sách pháp luật: Trước hết phải nói rằng việc
tham gia vào Hiệp định Nông nghiệp buộc các nước thành viên phải tiến hành

8
cải cách chính sách pháp luật trong nước của mình phù hợp với các quy định
của Hiệp định. Các vấn đề cải cách chính sách pháp luật tập trung vào chính
sách luật pháp về thuế quan, phi thuế quan, bảo hộ, cạnh tranh v.v… do đó,
pháp luật về nông nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn đối với việc sửa đổi chính
sách phù hợp với quốc tế và trong nước.

Khả năng mở rộng thị trường: Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được các
nước thành viên khác dành cho quy chế tối huệ quốc quy chế không phân biệt
đối xử có mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu nông
sản, mở rộng hạn ngạch thuế quan, giảm dần thuế đối với hàng nông sản chế
biến và xoá bỏ các rào cản phi thuế khác sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản
của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thâm nhập vào thị trường
các nước phát triển. Thị trường tiêu thụ được mở rộng không những trong khu
vực mà cả trên thế giới.

Về đầu tư: Môi trường kinh tế - xã hội ổn định, kết hợp với triển vọng
hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực tới đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
nông nghiệp. Nhiều nước đã đầu tư lớn vào Việt Nam như: Đài Loan, Hồng
Kông, Pháp, Trung Quốc. Gia nhập WTO, hệ thống pháp lý sẽ được điều
chỉnh theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra môi trường kinh doanh
trong nước bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, nhất là các
doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tham gia đầu tư vào ngành nông nghiệp. Thị
trường tiêu thụ nông sản được mở rộng cũng là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hơn.

Về khoa học công nghệ: Hoạt động hợp tác khoa học kỹ thuật, công
nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO.
Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hy vọng được tham gia nhiều
hơn các chương trình hợp tác về khoa học công nghệ cũng như tăng thêm các
nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Nông nghiệp Việt
Nam sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng nông sản hàng hoá và khả năng cạng tranh của hàng nông sản.

9
Nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước: Gia
nhập WTO, Việt Nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành
viên dành cho nhau, ngược lại, Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ dành ưu đãi cho các nước thành viên khác. Việt Nam cũng phải mở
cửa thị trường hàng nông sản nhiều hơn, chính sách pháp luật minh bạch và
bình đẳng hơn, các chính sách, pháp luật trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông nghiệp
không phù hợp với WTO phải dần bị loại bỏ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của
nhà nước được nữa. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp
nhận cạnh tranh. Áp lực này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn
lên nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và các doanh nghiệp.

Thách thức

Xuất phát điểm khi gia nhập WTO của Việt Nam nói chung và nền
nông nghiệp nói riêng là quá thấp, lại thêm những quy định của WTO đòi hỏi
ngày càng khắt khe hơn, chắc chắn sẽ đem lại cho nông nghiệp Việt Nam
những thách thức lớn, cụ thể:

- Khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản nước ta còn thấp
do năng suất, chất lượng thấp, thiết bị và công nghệ chế biến lạc hậu nên giá
thành sản phẩm cao như mía đường, ngô, đậu tương… khi giảm thuế nhập
khẩu và bỏ các rào cản phi thuế sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với hàng nông
sản nhập khẩu.

- Mặc dù nước ta đã đạt được khá nhiều thành tựu về nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi, nhưng do quy mô sản xuất quá nhỏ bé (bình quân cả
nước là 0,8 ha đất nông nghiệp/hộ gia đình) nên năng suất lao động rất thấp.
Thu nhập của hộ gia đình nông dân thấp dẫn đến nông dân không có vốn tái
đầu tư mở rộng và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Chất lượng nông
sản hàng hoá nhìn chung còn thấp và không đồng đều cũng là một thách thức
rất lớn đối với cả thị trường trong nước và xuất khẩu.

10
- Song song với quá trình đàm phán gia nhập WTO, nước ta cũng
đang tham gia tích cực vào quá trình tự do hoá thương mại khu vực như Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc (AC-FTA) v.v… Các cam kết về mở cửa thị trường trong nước
sẽ đem lại nhiều thách thức cho nông lâm sản nói chung, nhất là đối với
ngành hàng có khả năng cạnh tranh yếu như ngành chăn nuôi (thịt, trứng,
sữa), mía đường, ngô, bông vv… Kể cả trong những ngành hàng có khả năng
cạnh tranh khá thì cũng có nhiều doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ triền
miên. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với ngành nông nghiệp.

Như đã đề cập ở trên, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, từ chỗ
là một nước thiếu đói triền miên, Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu
trong khu vực về xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp như: gạo, cà phê, chè,
hồ tiêu cao su...Đứng trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành nông
nghiệp cũng đang tích cực triển khai thực hiện đường lối đổi mới phù hợp với
quá trình hội nhập chung của đất nước.

Xuất phát từ nhu cầu trên, cần thiết phải có các nghiên cứu, đề tài về
vấn đề thực hiện Hiệp định này, làm thế nào có thể hài hoà các chính sách,
luật pháp trong nông nghiệp với các quy định của Hiệp định theo hướng có
lợi cho Việt Nam, làm thế nào để điều tiết nền kinh tế nông nghiệp Việt
Nam đem lại nhiều lợi ích hơn cho nông dân, và các giải pháp đưa ra nhằm
giúp cho các nhà làm chính sách luật pháp tham khảo và áp dụng, đề tài
"Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)" về cơ bản sẽ góp phần giải
quyết được vấn đề này.

2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài

1. Cung cấp các khái niệm cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Các tác động của quá trình này đối với lĩnh vực nông nghiệp.

11
2. Nghiên cứu các nội dung chính của hiệp định nông nghiệp WTO và
việc thực hiện hiệp định này.

3. Nghiên cứu chính sách pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong
quá trình thực hiện Hiệp định này và đưa ra một số định hướng chính sách
xây dựng pháp luật nông nghiệp Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu

Hợp tác kinh tế quốc tế là một khái niệm rộng, do đó đề tài chỉ giải
quyết các vấn đề về:

1. Khái niệm cơ bản của quá trình hội nhập trong lĩnh vực nông nghiệp

2. Áp dụng, thực hiện Hiệp định nông nghiệp.

3. Chính sách, pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong thực hiện,
áp dụng Hiệp định này và các giải pháp.

3. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện dựa trên một số tài liệu tham khảo của các Bộ,
ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ
Thương mại, Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Trường Đại học
Ngoại thương, Đại học Quốc gia Hà Nội…, đồng thời trong quá trình nghiên
cứu, hệ thống pháp luật quốc gia về lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế nói
chung, về chính sách pháp luật nông nghiệp nói riêng đã được sử dụng theo
phương pháp thông kê, phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những nhận xét cụ
thể về từng lĩnh vực.

Dựa trên những tài liệu có được từ việc thông kê, những nhận định từ
việc phân tích, tổng hợp, và thực tế của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số
khuyến nghị về việc xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp cho phù hợp
với các quy định trong Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).

12
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nông nghiệp trong Tổ chức thương
mại thế giới WTO.
Chương 2: Hiệp định nông nghiệp và việc thực thi tại một số nước.

Chương 3: Thực trạng bảo hộ nông nghiệp Việt Nam, định hướng
chính sách xây dựng pháp luật nông nghiệp trong khuôn khổ WTO.

13
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÔNG NGHIỆP

1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI, HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA WTO

1.1.1. WTO có nguồn gốc từ sự ra đời của GATT

WTO ra đời dựa trên sự kế thừa GATT và tiếp tục phát triển ở mức
cao hơn với hàng loạt các quy định mới và tiên tiến hơn [15].

Sau hơn 8 năm đàm phán, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh, các Bộ
trưởng đại diện cho tất cả các bên ký hiệp định chung về thuế quan và thương
mại - gọi tắt là GATT 1947, đã nhất trí ký kết văn kiện cuối cùng với 500
trang văn bản và 26.000 trang danh mục, cam kết thừa nhận kết quả của vòng
đàm phán Urugoay. Đó là Hiệp định thành lập WTO. WTO chính thức hoạt
động từ ngày 1/1/1995 [17].

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với nhiều tàn dư nặng nề đề lại
cho nền kinh tế - thương mại của các nước trên thế giới, để khắc phục hậu quả
chiến tranh, các nước đã có sáng kiến về việc tạo ra cơ chế hợp tác đa
phương, nhằm kết hợp và phát huy tối đa các nguồn lực, cũng như khả năng
của các nước trong những vấn đề đòi hỏi có sự hợp tác chung của các quốc
gia. Ý tưởng ban đầu là các nước muốn thành lập một tổ chức thương mại
quốc tế (ITO) làm cột trụ thứ ba trong hệ thống "Bretton Wood" cùng với hai
thiết chế tài chính khác là Ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF). Hơn 50 nước tham dự hội nghị của Ủy ban kinh tế - Xã hội Liên hợp
quốc vào tháng 6/1946 đã đề ra Dự thảo Hiến chương ITO bao trùm không
chỉ các nguyên tắc thương mại mà còn cả những lĩnh vực khác như lao động,
thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ.

14
Ngay trước khi Hiến chương này được phê chuẩn, 23 trong số 50
nước trên vào năm 1947 đã quyết định cùng đàm phán để cắt giảm hàng rào
thuế quan, nhằm nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch và điều chỉnh lại
những biện pháp bảo hộ được duy trì từ đầu những năm 1930. Kết quả của
vòng đàm phán đầu tiên này là 45.000 nhượng bộ về thuế quan ảnh hưởng
đến thương mại trị giá 10 tỷ USD, tức là gần 1/5 tổng thương mại trên toàn
thế giới. Tổng hợp những quy định và cam kết đã thoả thuận được đưa vào
một văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị ràng buộc đối với các nước. Văn kiện
pháp lý đó chính là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).
GATT đã được 23 nước chính thức ký vào ngày 23/10/1947 và có hiệu lực
vào ngày 1/1/1948, trong khi Hiến chương của ITO vẫn đang được các nước
đàm phán. 23 nước ký GATT sau này đã trở thành những thành viên sáng
lập của WTO, vì GATT không phải là một tổ chức mà chỉ là một Hiệp định,
nên các nước lúc đó tham gia GATT được gọi là các bên ký kết (Contracting
parties) [17].

Mặc dầu, ITO cuối cùng được thông qua tại Hội nghị Liên hợp quốc
về thương mại và làm việc tại Havana tháng 3/1948, Quốc hội một số nước,
đặc biệt là Quốc hội Mỹ đã không thông qua Hiến chương này, và vì vậy, tổ
chức ITO đã không tồn tại. GATT, mặc dù chỉ mang tính tạm thời đã trở
thành công cụ pháp lý duy nhất mang tính đa biên, điều tiết thương mại thế
giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1945.

Đặc điểm nổi bật của GATT: Trải qua 48 năm tồn tại, GATT đã tổ
chức được 8 vòng đàm phán. Nội dung chủ yếu của các vòng đàm phán là vấn
đề thuế. Ở 6 vòng đầu, giảm thuế là vòng đàm phán duy nhất, sở dĩ như vậy là
do thuế là công cụ trực tiếp nhất để nhà nước tác động lên hoạt động trao đổi
thương mại với bên ngoài, là rào cản đáng kể nhất đối với tiến trình tự do hoá
và ổn định môi trường thương mại quốc tế. Nội dung của các vòng đàm phán
này có thể tóm tắt được như sau [17]:

15
Các vòng đàm phán của GATT
Số Hạng mục
Năm Địa điểm Các kết quả khác
quốc gia giảm thuế
1947 Geneve 23 45.000 Ảnh h­ëng ®Õn 10 tØ USD hµng ho¸
bu«n b¸n, b»ng 1/5 gi¸ trÞ th­¬ng
m¹i thÕ giíi
1949 Annecy 32 5.000 Thuế suất giảm trung bình 35%, số
hàng được giảm thuế chiếm 5,6% giá
trị hàng hoá buôn bán của thế giới
1950-1951 Torquay 38 8.700 Thuế suất giảm trung bình 26%
1956 Geneve 26 3.000 Thuế suất giảm trung bình 15%, ảnh
hưởng tới 2,5 tỉ USD kim ngạch
thương mại thế giới
1960-1961 Geneve 26 4.400 Thuế suất giảm trung bình 20%, ảnh
(vòng Dillon) hưởng tới 4,5 tỉ USD kim ngạch
thương mại thế giới
1964-1967 Geneve 62 30.300 Giảm trung bình 35%, ảnh hưởng tới
(vòng Kennedy) 40 tỉ USD kim ngạch thương mại thế
giới
1973-1979 Geneve 102 33.000 Thuế suất bình quân sản phẩm chế
(vòng Tokyo) biến giảm xuống còn 4,7% (so với
mức 40% khi thành lập GATT)
1986-1994 Geneve 123 Các nước phát triển đưa số hạng mục
(vòng Urugoay) hàng hoá cam kết giảm thuế từ 78%
lên 99%, các nước đang phát triển:
từ 21% lên 73%

Nguồn: Tài liệu Ban Thư ký WTO chuẩn bị cho chương trình đào tạo
về WTO ở các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (4/1997).

Qua bảng có thể thấy, tại 2 vòng đàm phán sau này do sự hình thành
của các nước đang phát triển và cũng với mong muốn phát triển thương mại
quốc tế, nhiều nước đang phát triển đã gia nhập GATT, nâng số lượng GATT
lên 102 (năm 1979) và 123 nước (1994), các nước đang phát triển với tư cách
là các nước tham gia GATT, cũng đã cam kết đưa hạng mục hàng hoá cam
kết giảm thuế từ 21-73%. Tại Vòng đàm phán Tokyo, (1973-1979), do tình
hình thương mại thế giới có nhiều thay đổi, nên một số lĩnh vực mới được bổ
sung và đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán tại vòng Tokyo

16
rồi tiếp đến là vòng Urugoay diễn ra trong bối cảnh của các cuộc khủng
hoảng, khủng hoảng chu kỳ gắn liền hoặc liên tiếp xen kẽ khủng hoảng cơ
cấu, đưa nền kinh tế vào suy thoái trầm trọng. Trong tình hình khó khăn như
vậy, xung đột thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn trở nên gay gắt, rồi
bùng nổ dưới hình thức các cuộc chiến tranh thương mại nhằm tranh dành
những khoản lợi nhuận đang càng trở nên khan hiếm. Các biện pháp cạnh
tranh không lành mạnh và các hàng rào phi thuế được dựng lên để bảo hộ thị
trường trong nước làm cho thương mại quốc tế xấu đi trông thấy. Tình hình
đó đặt ra cho các thành viên của GATT yêu cầu khách quan là phải đưa
những vấn đề liên quan đến phi thuế vào thương lượng để tìm ra các lợi ích
dung hoà cho nhau [17].
Bởi vậy, tại vòng đàm phán thứ 7, vòng Tokyo, với nỗ lực đầu tiên
nhằm cải tổ hệ thống, các nước đã đưa ra một loạt các Hiệp định mới với hệ
thống quy tắc về hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên, trong phần lớn trường
hợp chỉ có một số ít các thành viên của GATT (chủ yếu là các nước công
nghiệp phát triển) tham gia vào các hiệp định này. Cho đến vòng đàm phán
Urugoay, một số Hiệp định đã được điều chỉnh lại và trở thành các cam kết
mang tính nhiều bên. Đó là các Hiệp định về mua sắm chính phủ, về thịt bò,
về sản phẩm sữa và về máy bay dân dụng.
Các hệ thống quy tắc của vòng WTO

Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Điều 6, 16 và 23)


Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
Các thủ tục cấp phép nhập khẩu
Mua sắm chính phủ
Định giá hải quan
Chống phá giá
Thoả thuận về sản phẩm thịt bò
Thoả thuận về các sản phẩm sữa quốc tế
Thoả thuận về mua bán máy bay dân dụng

17
Nguồn: Đại học Melbourne, Luật Quốc tế - Chương 7, tr. 7.
Tiếp tục phát huy các thành tựu đó, vòng đàm phán cuối cùng trong
khuôn khổ hiệp định GATT, vòng Urugoay đã đem đến một bước tiến dài
trong nỗ lực của các nước, nhằm cải tổ và mở rộng hệ thống thương mại đa
biên. Phạm vi các vấn đề thuộc chương trình nghị sự này rất lớn, bao trùm tới
15 lĩnh vực khác nhau của thương mại quốc tế. Và đặc biệt hơn, chúng mang
tính cả gói, theo đó các nước thoả thuận rằng, nếu việc đàm phán trong một
lĩnh vực nào đó bị thất bại thì kết quả của tất cả các cuộc đàm phán khác cũng
sẽ bị huỷ bỏ. Điều này thể hiện quyết tâm của các nước là muốn đi đến cùng
trong việc thương lượng về những lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm như nông sản
và hàng vải sợi may mặc, dù biết trước là sẽ có khó khăn.
Với phạm vi chương trình Nghị sự rộng lớn như vậy, việc nảy sinh rất
nhiều các mâu thuẫn giữa các bên trong quá trình đàm phán là tất yếu. Để
giàn xếp những bất đồng đó, các nước tham gia GATT đã mất gần 8 năm.
Trong thời gian đó, các nước đã phải lần lượt tháo gỡ những điểm khúc mắc
nghiêm trọng nhất như thương mại nông sản, thương mại dịch vụ, các quy tắc
chống bán phá giá và việc thành lập một tổ chức mới. Kết quả là vòng đàm
phán có quy mô lớn nhất lịch sử thương mại thế giới này cũng kết thúc thắng
lợi, với 28 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan đến hầu hết các khía cạnh
pháp lý của lĩnh vực thương mại và đặc biệt WTO đã ra đời. Tuy nhiên ghi
nhận lại kết quả của 8 vòng đàm phán đều có những khó khăn trong tự do hoá
thương mại. Những kết quả của 8 vòng đàm phán cũng là những nội dung mà
WTO phải điều chỉnh [17].
Chủ đề đàm phán tại vòng Urugoay

1. Thuế quan
2. Hàng rào phi thuế quan
3. Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên
4. Hàng dệt may
5. Nông sản

18
6. Sản phẩm nhiệt đới
7. Các điều khoản của GATT
8. Các hệ thống quy định của vòng đàm phán Tokyo
9. Chống phá giá
10. Trợ cấp
11. Sở hữu trí tuệ
12. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
13. Giải quyết tranh chấp
14. Thương mại dịch vụ
15. Thế chế hoá hệ thống hợp tác thương mại toàn cầu

1.1.2. Sự khác nhau giữa GATT và WTO

Từ GATT đến WTO là một bước tiến dài của xu hướng quốc tế hoá và
toàn cầu hoá nền thương mại thế giới do đó, WTO không phải là sự thay thế
giản đơn của GATT mà là sự kế thừa và hoàn thiện ở một trình độ cao hơn, có
sự biến đổi về chất. Sự khác biệt giữa hai hệ thống này có thể tóm tắt như sau:

Thứ nhất: Sự biến đổi về chất trong mục tiêu hoạt động của WTO.
Như đã nêu ở những dòng đầu tiên của Hiệp định thành lập, WTO sẽ kế thừa
tôn chỉ mục đích của GATT đó là "nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ công
ăn việc làm, thúc đẩy tăng thu nhập thực tế và nhu cầu thực sự của người dân,
mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tận dụng được các nguồn tài
nguyên của thế giới sao cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng bền vững và
cuối cùng là bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế". Hơn thế nữa,
WTO còn phát triển ở mức cao hơn bằng việc đưa vào phương hướng hành
động của mình những điểm rất tiến bộ mà trước đây GATT chưa chính thức
tuyên bố, đó là "nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc gia đang phát triển,
đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nhất duy trì được tỷ phần tăng trưởng
trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển của quốc gia đó.
Đây là những thành tựu đặc biệt có ý nghĩa là kết quả của cuộc đấu tranh lâu

19
dài của các quốc gia nhỏ và yếu thuộc thế giới thứ ba trong việc xây dựng
từng bước một "Trật tự kinh tế thế giới mới-New World Order" dân chủ và
công bằng hơn, đảm bảo quyền lợi cho những nước đang phát triển [17].
Thứ hai: GATT chỉ là tập hợp các nguyên tắc được thực hiện bởi các
bên ký kết hoặc có thể được sửa đổi để hoạt động như một tổ chức nếu tổ
chức đó ra đời. Trong khi đó, WTO và các hiệp định của nó mang tính thường
trực lâu dài. Với tư cách là một tổ chức quốc tế, WTO có nền tảng vững chắc
bởi vì muốn gia nhập WTO, các thành viên phải thông qua cả gói Hiệp định,
hàm chứa các nguyên tắc vừa có tính thể chế, vừa có tính cụ thể tạo thành một
cơ chế pháp lý đặc thù của WTO và chính các cơ chế pháp lý này đã quy định
phương thức vận hành, hoạt động và phát triển của tồ chức này.
Thứ ba: WTO là một tổ chức chặt chẽ có các nước thành viên (members)
còn GATT chỉ có các bên ký kết tham gia (contracting parties). WTO có tư
cách pháp nhân. Điều này có nghĩa WTO có các quyền, nghĩa vụ và năng lực
pháp lý đầy đủ khi tham gia vào các mối quan hệ pháp lý thương mại quốc tế.
Thứ tư: GATT chỉ giải quyết các vấn đề của thương mại hàng hoá,
còn lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO rộng hơn nhiều, bao gồm cả
thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương
mại trong đầu tư.
Thứ năm: cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, về mặt pháp lý
mang tính chặt chẽ, tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT, do vậy
mà giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Các phán quyết của
WTO cũng có giá trị hiệu lực cao hơn và việc thi hành được đảm bảo hơn.
Tóm lại, sự khác nhau cơ bản giữa GATT và WTO chính là tính hoàn
thiện của hệ thống pháp lý hàm chứa trong WTO nhằm điều chỉnh thương mại
trong phạm vi toàn cầu. GATT mang tính chất là những thoả thuận tự nguyện
giữa các quốc gia, còn WTO là thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại thế
giới với mục tiêu là thiết lập cơ chế pháp lý, ở quy mô toàn cầu, cho lĩnh vực

20
thương mại quốc tế, trong đó có những ràng buộc liên quan đến trách nhiệm
và cả việc xử lý vi phạm của các nước thành viên WTO.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ các nguyên tắc cơ bản của WTO
Nhiệm vụ của WTO là từng bước xây dựng một môi trường thương
mại thế giới tự do và lành mạnh, tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động
thương mại phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng và thịnh vượng chung của
kinh tế toàn cầu. Đồng thời phối hợp với các tổ chức quốc tế khác thúc đẩy
nhanh hơn quá trình tự do hoá thương mại và hội nhập toàn diện của nền kinh
tế thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ này, WTO có 6 chức năng sau [15]:
1. Tổ chức các cuộc đàm phán đa biên.
2. Xây dựng mới, sửa đổi các nguyên tắc, quy tắc pháp lý quốc tế
3. Giải quyết các tranh chấp về thương mại quốc tế.
4. Đánh giá định kỳ về chính sách thương mại của các nước nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
5. Giám sát việc thực hiện các Hiệp định đa phương của WTO.
6. Phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong việc tham gia hoạch
định những chính sách thương mại toàn cầu.
Sáu chức năng này cũng đã được quy định rất rõ tại Hiệp định Marrakesh
về thành lập WTO.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO
WTO hoạt động và vận hành theo 6 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất
của WTO kế thừa từ GATT. Nguyên tắc này sử dụng hai công cụ pháp lý
song song để điều chỉnh mối quan hệ thương mại giữa các thành viên là chế
độ Đãi ngộ tối hệ quốc (MFN) và chế độ đãi ngộ quốc gia (NT).
Nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)

21
Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành, ngay lập tức và
không điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ hay nhà đầu tư
của các nước thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi
ngộ mà mỗi nước thành viên đó đã dành cho hàng hoá, dịch vụ có xuất xứ từ
hay được giao tới bất kỳ một nước thành viên nào khác. Nói cách khác, chế
độ này dẫn đến kết quả là hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên được
đãi ngộ như nhau trên thị trường tất cả các thành viên khác của WTO. Chế độ
MFN là chế độ pháp lý quốc tế hướng vào mục tiêu tạo sự bình đẳng giữa tất
cả các nước thành viên của WTO trong thương mại quốc tế.

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)

Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành cho hàng hoá,
dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, nhà đầu tư… của các nước thành viên khác
sự đãi ngộ trên thị trường nội địa nước mình (tức là không có những quy định
bảo hộ đối với sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu so với dịch vụ, sản
phẩm của nước xuất khẩu) sau khi hàng đã được nhập khẩu, không kém phần
thuận lợi hơn sự đãi ngộ đã được dành cho hàng hoá, dịch vụ hay quyền sở
hữu trí tuệ, hay nhà đầu tư …của chính nước mình.

Nếu như chế độ MFN hướng về sự không phân biệt đối xử giữa hàng
hoá, dịch vụ của một thành viên của WTO với hàng hoá, dịch vụ …của tất cả
các thành viên khác của WTO thì chế độ NT hướng về sự không phân biệt đối
xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu …

Nguyên tắc tự do hoá thương mại

Tất cả các nước, kể cả nước nghèo nhất đều có lợi khi tham gia vào
thương mại quốc tế vì mỗi nước đều có lợi thế so sánh tương đối trong việc sản
xuất một số loại hàng hoá, dịch vụ. Đó chính là thuyết lợi thế so sánh do nhà
kinh tế học Keynes tìm ra từ thế kỷ 19 nền tảng cơ bản của kinh tế học hiện đại.
WTO phát triển tư tưởng này lên, không chỉ khuyến khích tham gia mà còn tìm
cách tối đa hoá hiệu quả của việc tham gia này thông qua tự do hoá thương mại.

22
Để tự do hoá thương mại, Chính phủ các nước có thể sử dụng thuế
quan để làm công cụ bảo hộ thị trường trong nước, nhưng đòi hỏi phải cắt
giảm các hàng rào thuế quan theo một khuôn khổ đã quy định tại GATT 1994
và họ cũng cần xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu, ấn
định hạn ngạch hoặc các chính sách đối ngoại hỗ trợ xuất khẩu…

Nguyên tắc cạnh tranh

Trên thương trường, các yếu tố nội tại của hàng hoá là điều kiện quyết
định khả năng và sức sống của nó. Cơ chế cạnh tranh cho phép nhà sản xuất
có được đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất, với giá cạnh tranh,
người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm giá thấp nhất, qua đó nâng cao
đời sống nhân dân và nền sản xuất phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả.
WTO có định chế điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá hay đánh thuế
đối kháng nhằm triệt tiêu tác dụng của việc hàng hoá bị bán phá giá hay được
trợ cấp trực tiếp nhằm mục đích hoặc có tác dụng cạnh tranh không lành
mạnh. Tuy nhiên để tránh những sự thực hành thương mại không lành mạnh,
cá lớn nuốc cá bé qua bán phá giá và trợ cấp hoặc ngược lại lạm dụng các quy
định chống bán phá giá và thuế đối kháng để gây trở ngại trá hình cho thương
mại, WTO đã thoả thuận về những quy tắc chặt chẽ điều chỉnh lĩnh vực này.

Nguyên tắc công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng

Các nước được khuyến khích công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất
lượng. Có nghĩa là khi doanh nghiệp chứng minh được hàng hoá, dịch vụ họ
đạt được những tiêu chuẩn nội địa tương đương với tiêu chuẩn của nước nhập
khẩu thì nước này phải chấp nhận hàng hoá, dịch vụ đó. Tuy nhiên WTO vẫn
cho phép các nước được đưa ra những nguyên tắc riêng của mình với điều
kiện những nguyên tắc đó phải: Dựa trên cơ sở khoa học, không được gây cản
trở lớn cho hoạt động thương mại và không được phân biệt đối xử.

Nguyên tắc minh bạch hoá chính sách

23
Để thuận lợi hoá cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động
thương mại, các nước thành viên phải thực hiện minh bạch hoá chính sách.
WTO yêu cầu các nước thành viên phải thiết lập những đầu mối cung cấp
thông tin ở hai cấp: Chính phủ và doanh nghiệp. Các đầu mối ở cấp chính phủ
đưa ra thông tin về luật lệ, quy tắc điều chỉnh thương mại. Các đầu mối ở cấp
doanh nghiệp trực tiếp liên lạc với các nhà kinh doanh, cho họ biết về những
khía cạnh thương mại và kỹ thuật trong việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, tình
hình thị trường, các yêu cầu về chất lượng cần có…khi thực thi các biện pháp
có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại. Các chính phủ phải thông báo công
khai ở trong nước và ngoài nước.

Nguyên tắc khuyến khích cải cách hội nhập

Mục tiêu của WTO là đem lại sự phát triển kinh tế cho các nước thành
viên. Tuy nhiên nếu tất cả các nước đều tiến hành mở cửa thị trường, cho
phép tự do cạnh tranh ngay thì kết quả tất yếu sẽ là sự sụp đổ của các nền kinh
tế còn yếu kém. Vì vậy, với các nước đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển
cần có sự bảo hộ hợp lý và WTO đưa ra những quy định ưu đãi đáng kể đối
với những nước này. Ví dụ miễn giảm bớt nghĩa vụ trong việc thực hiện
TRIMS, TRIPS và GATS, thu hẹp phạm vi thực hiện các thoả thuận về thuế
quan, được phép áp dụng nguyên tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm, cho phép áp
dụng dài hơn; được phép giới hạn hàng nhập khẩu; đưa ra tổng hạn ngạch cho
phép nhập khẩu với từng nước.

1.2 LỊCH SỬ RA ĐỜI HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP TRONG WTO

1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994)

Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng và gây ra nhiều tranh cãi
trong vòng đàm phán Uruguay. Trong lĩnh vực tồn tại ba quan điểm của ba
nhóm nước gồm nhóm các nước xuất khẩu, nhóm các nước nhập khẩu và nhóm
trung gian là những nước tự túc được lương thực và tuỳ theo từng hoàn cảnh có
thể trở thành nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một loại nông sản nhất

24
định. Hàng nông sản trong phần này tập trung vào bốn nhóm chính: ngũ cốc
gồm lúa mạch, mỳ, gạo, hạt thô (ngô); hạt có dầu và sản phẩm từ hạt có dầu;
sữa và các sản phẩm của sữa; thịt và các sản phẩm thịt; và đường. Đây cũng là
những mặt hàng nông sản có khối lượng thương mại lớn trên thế giới. Hầu hết
các nước đang phát triển đều thuộc nhóm nước nhập khẩu nông sản hoặc thuộc
nhóm thứ ba là những nước tự túc được lương thực và tham gia xuất khẩu một
vài mặt hàng nông sản nhất định. Có rất ít các nước đang phát triển là nước
xuất khẩu chính tất cả 4 nhóm hàng nông sản trên. Mặc dù ít nước đang phát
triển có thể là những nước xuất khẩu chính về tất cả bốn nhóm hàng nông sản
nói trên, những mặt hàng nông sản có thế mạnh của từng nước đang phát triển
được xuất khẩu đều là những mặt hàng có tính sống còn với họ [8].

Những nhân tố chính thúc đẩy đàm phán Hiệp định nông nghiệp

Gánh nặng tài chính ngày càng gia tăng đối với các chính sách hỗ trợ
nông nghiệp ở các nước phát triển khiến nước này muốn thúc đẩy nhanh tiến
trình hoàn thiện Hiệp định nông nghiệp. Cung vượt quá cầu trong nông
nghiệp đã làm cho giá cả nông sản trên thế giới sụt giảm, gây sức ép ngày
càng lớn với việc tăng cường sự hỗ trợ trong nước cho nông dân các nước
phát triển [2].

Về cầu: Có bốn yếu tố chính cần phải tính đến gồm: tốc độ tăng dân
số, mức độ mà các nước có thể tự túc sản xuất được lương thực, mức sống
của người dân thể hiện qua thu nhập và điều kiện khí hậu tự nhiên. Tốc độ
tăng dân số cao, thu nhập đầu người thấp cộng với điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt sẽ khiến một quốc gia không thể tự túc được lương thực và buộc phải
nhập khẩu và ngược lại. Đối với thị trường nhập khẩu của các nước phát triển,
nếu xét theo trên cả bốn yếu tố trên sẽ thấy thị trường nhập khẩu nông sản của
những nước này có xu hướng giảm. Theo lý thuyết của các nước phát triển,
yếu tố thu nhập có ảnh hưởng nhiều hơn tới mức cầu trong nước, hay còn gọi
là quy luật biến đổi theo thu nhập. Những biến động trước mắt về thu nhập sẽ
khiến cầu biến động theo một cách tương đối. Tuy nhiên, trong lâu dài thì quy

25
luật này không có tác dụng. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là đối với các
nông sản như lương thực, đồ uống và đặc biệt nông sản thô thì dù thu nhập
của dân chúng có tăng lên đáng kể thì mức cầu cũng không tăng nhanh và
thâm chí còn chậm hơn thu nhập. Thêm vào đó, nhờ các yếu tố kỹ thuật tiên
tiến, các nước phát triển có thể có những sản phẩm thay thế làm giảm thêm
nữa lượng cầu về nông sản thô từ các nước đang phát triển. Do đó, nhìn chung
nhu cầu nhập khẩu của các nước đang phát triển về nông sản có xu hướng
tăng chậm nếu xét theo các yếu tố trên. Ngược lại, đối với thị trường nhập
khẩu của các nước đang phát triển, nếu xét trên bốn yếu tố này sẽ thấy trong
thời gian tới họ vẫn sẽ là nước nhập khẩu nông sản chính, đặc biệt nếu xét
theo góc độ tăng trưởng dân số. Với tốc độ tăng trưởng dân số nhanh hơn tốc
độ sản xuất thì ngay cả các nước đang phát triển xuất khẩu lương thực hiện
nay như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và thậm chí là Việt Nam trong mười
năm tới sẽ biến thành các nước nhập khẩu lương thực [2].

Về cung: Hai yếu tố chính ảnh hưởng tới cung trong nông nghiệp là
chính sách nông nghiệp và khoa học kỹ thuật. Cả hai yếu tố này đều quan
trọng như nhau và các nước phát triển đều có đủ hai yếu tố này. Nhờ những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, cộng với chính sách hỗ trợ nội địa và trợ cấp xuất
khẩu, các nước phát triển từ chỗ là các nước nhập khẩu lương thực đã nhanh
chóng trở thành các nước xuất khẩu lương thực. Tuy nhiên, do lượng cầu
trong nước không lớn nhưng lại có lượng cung lớn nên buộc các nước phát
triển phải xuất khẩu nông sản và một phần được xuất khẩu theo hình thức
viện trợ lương thực sang các nước đang phát triển. Lượng cung trên thế giới
lại càng lớn khi số lượng các nước đang phát triển tham gia xuất khẩu nông
nghiệp ngày càng tăng dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong lĩnh vực
nông nghiệp và giá nông sản nhìn chung sụt giảm nhanh chóng. Để đáp ứng
với sự sụt giá nông sản, các nước phát triển ngày càng phải tăng sự hỗ trợ cho
nông dân trong nước và đến lúc sự hỗ trợ này trở thành gánh nặng đối với họ.
Hơn nữa, về thực chất, gánh nặng tài chính này phần lớn lại đổ lên vai người

26
tiêu dùng của chính các nước phát triển do phải trả giá tiêu thụ cao hơn nhiều
so với giá thế giới. Vì vậy, làn sóng phản đối chính sách bảo hộ nông nghiệp
cũng gia tăng ở các nước phát triển [2].

Một yếu tố khác thúc đẩy quá trình đàm phán Hiệp định về nông
nghiệp cũng cần phải nhắc đến là sự gia tăng của các nước đang phát triển
trong suất khẩu nông sản. Sự phát triển này, cộng thêm với sự bất mãn vốn có
của các nước đang phát triển về sự bất lực của GATT trong lĩnh vực nông
nghiệp đã tạo ra sức ép mạnh mẽ buộc các nước phát triển phải mở cửa lĩnh
vực nông nghiệp.
Những vấn đề trong vòng đàm phán Uruguay

Xuất phát từ thực tế là quy luật cung cầu trong thương mại nông nghiệp
đã bị bóp méo trong suốt thời gian tồn tại của GATT, những vấn đề chính đặt
ra đối với lĩnh vực nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay gồm:

- Sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp
cộng với sự chênh lệch lớn về giá cả giữa thị trường thế giới và trong nước.
- Chủ nghĩa bảo hộ thông qua các chính sách hỗ trợ nội địa và trợ cấp
xuất khẩu và những tác động tiêu cực của nó đối với các nước đang phát triển.
- Sự thiếu hiệu quả của GATT và phản ứng của các nước đối với việc
mở của thị trường nông nghiệp.

- Gánh nặng tài chính ngày càng tăng đối với các nước phát triển trong
các chính sách hỗ trợ nông nghiệp khiến các nước này muốn thúc đẩy nhanh
quá trình đàm phán nông nghiệp.

Quan điểm của các nhóm nước trong vòng đàm phán Uruguay
EU phản ứng tiêu cực với việc tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp và cho
rằng nguyên nhân của các vấn đề trên chính là sự phát triển vượt bậc của khoa
học kỹ thuật chứ không phải do chính sách hỗ trợ của chính phủ. Sự gia tăng
nhanh chóng của sản lượng nông sản khiến cung vượt quá cầu đi đôi với sự

27
phát triển vượt bậc của sinh học trong việc tạo ra những giống vật nuôi và cây
trồng mới và đã tăng cường khả năng tự cung, tự cấp của các quốc gia. Trong
hoàn cảnh đó, thương mại trong nông nghiệp không những sẽ bị hạn chế như
hiện nay mà còn tiếp tục bị hạn chế trong tương lai do lượng cung tiếp tục
tăng. Thậm chí không có sự hỗ trợ của nhà nước, khoa học kỹ thuật sẽ tiếp tục
làm cho sản lượng nông nghiệp tăng vọt trong tương lai. EU đề nghị quá trình
tự do hoá trong nông nghiệp phải được tiến hàng theo giai đoạn và tuỳ theo
thị trường của từng loại nông sản khác nhau. Tại hội nghị bộ trưởng Brussel
tháng 12/1990. EU nhận ra rằng nếu không có sự nhân nhượng với những
nước đòi tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp thì khó có thể đi đến một Hiệp định
cụ thể. Tuy nhiên, nếu EU nhân nhượng trước khi cải tổ chương trình nông
nghiệp chung (CAP) của mình thì sẽ vấp phải sự phản kháng trong nội bộ. Do
đó, EU quyết định sẽ cải tổ phần nào CAP từ năm 1991 trước khi đi đến nhân
nhượng cụ thể [24].

Mỹ và nhóm Cairns: ủng hộ đẩy mạnh tự do hoá trong nông nghiệp và


cho rằng các chính sách như hỗ trợ nội địa, trợ cấp xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu là những nguyên nhân chính bóp méo thương mại, gây ra sự mất cân đối
giữa cung và cầu trong nông nghiệp. Mỹ đề nghị xoá toàn bộ trợ cấp nông
nghiệp và các chính sách nhập khẩu trong vòng 10 năm, đồng thời hoà hợp
các tiêu chuẩn sức khoẻ và vệ sinh dịch tễ [24].

Các nước đang phát triển nhập khẩu nông sản cho rằng cung vượt quá
cầu chỉ xảy ra đối với một số nông sản ở một số nước phát triển. Xét trên toàn
cầu, cung vẫn thấp hơn cầu. Trong một vài trường hợp, do các chính sách
trong nước, đặc biệt ở các nước phát triển đã khiến những nước này nhanh
chóng biến thành các nước xuất khẩu nông sản lớn. Tuy nhiên, vấn đề chính
trên thế giới đối với thương mại trong nông nghiệp là sức mua không đủ và sự
mất cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ trên phạm vi toàn cầu. Những nước này
khuyến nghị việc tự do hoá thương mại nông nghiệp phải tính đến lợi ích phát
triển của những nước nghèo như tăng thu nhập, việc làm, bảo đảm an toàn

28
lương thực không để xẩy ra các hậu quả chính trị, xã hội. Trong quá trình tự
do hoá cần có sự hỗ trợ thêm từ các nước phát triển đối với các nước đang
phát triển, ví dụ phải có những ưu đãi nhất định trong thực hiện các cam kết,
bảo lưu các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ nội địa vì đối với một số
nước đang phát triển nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng hàng đầu cho sự phát
triển của đất nước.

Do những quan điểm mâu thuẫn nhau, nên vòng đàm phán Uruguay
về nông nghiệp tiến triển chậm chạp. Đặc biệt cuộc cải tổ CAP của EU không
đạt được nhiều kết quả khả quan để tạo động lực thúc đẩy quá trình đàm phán
tiếp theo. Trước tình hình đó, giám đốc của GATT đã dự thảo một Hiệp định
về nông nghiệp, bao hàm những điều khoản nhân nhượng của các bên. Theo
dự thảo, quá trình tự do hoá trong nông nghiệp được thúc đẩy mạnh hơn với
nhiều ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển trong nhiều lĩnh vực. Mỹ và
nhóm Cairns tuyên bố chấp nhận dự thảo này trong khi EU phản đối mạnh
mẽ, đặc biệt là Pháp, và cho rằng nó sẽ đe doạ phá hoại lợi ích của EU. Ngày
20-11-1992, một dự thảo khác được soạn thảo được gọi là dự thảo Blair
house, Dự thảo này có phần thiên về các đòi hỏi của EU và được EU chấp
nhận trong khi Mỹ và nhóm Cainrs không hài lòng lắm. Hiệp định nông
nghiệp được thông qua với phần lớn nội dung lấy từ dự thảo Blair house.

1.2.2. Các yêu cầu của WTO liên quan đến nông nghiệp

Các Hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp

- Hiệp định nông nghiệp.

- Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.

- Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật.

- Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs).

- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPs).

29
Nông nghiệp là lĩnh vực rất nhạy cảm trong quan hệ thương mại thế
giới. Sau 8 năm đàm phán tại vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định Nông nghiệp
đã được ký kết (1994). Hiệp định nông nghiệp đã tăng cường các luật lệ và
các quy định điều chỉnh chính sách nông nghiệp theo ba nội dung chính như sau:

Mở cửa thị trường: Thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế và cam
kết thuế, coi thuế là biện pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước [4].

Trợ cấp trong nước: Tất cả các thành viên kê khai mức độ trợ cấp của
chính phủ đối với sản xuất nông nghiệp. Các chính sách thuộc diện đầu tư
phát triển, không mang tính bóp méo thương mại (nghiên cứu khoa học, đào
tạo, khuyến nông, cơ sở hạ tầng…) được khuyến khích áp dụng. Các hình
thức trợ cấp làm bóp méo thương mại phải cam kết cắt giảm nếu vượt quá
mức cho phép (mỗi mặt hàng không được vượt quá 5% đối với nước phát
triển và 10% đối với các nước đang phát triển giá trị của mặt hàng đó) [4].

Trợ cấp xuất khẩu: Hiệp định quy định các nước không trợ cấp xuất
khẩu. Đối với hiện đang trợ cấp xuất khẩu lớn sẽ phải cam kết cắt giảm cả về
khối lượng và giá trị trợ cấp (36% về giá trị và 21% về khối lượng các mặt
hàng được nhận trợ cấp xuất khẩu) [4].

Đối với các đang đàm phán WTO như Việt Nam, phải thực hiện đàm
phán với các nước thành viên cả ba lĩnh vực trên để đổi lại được hưởng quy
chế ưu đãi của họ, các nước thành viên WTO thường yêu cầu nước muốn gia
nhập phải cam kết các điều kiện ngặt nghèo hơn nhiều so với các nước đã là
thành viên của WTO.

Bên cạnh Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam cũng phải cam kết thực
hiện hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS),
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định về các biện pháp kỹ thuật trong
thương mại [4].

30
Nội dung Hiệp định kiểm dịch động thực vật bao gồm: Luật, pháp
lệnh, điều lệ, quy định về công tác thú y và bảo vệ thực vật, các thủ tục, quy
trình kiểm nghiệm, kiểm tra, đánh giá dịch hại, chứng nhận phê chuẩn, các
biện pháp cách ly, xử lý và các quy định về phương pháp thống kê, bao bì,
đánh dấu... Vì vậy, việc áp dụng SPS là một qúa trình xây dựng một hệ thống
văn bản pháp lý, chuẩn bị đội ngũ cán bộ được đào tạo với một cơ sở vật chất
đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của công tác kiểm dịch động thực vật từ trung ương
đến địa phương.
Các nước đang phát triển chung và Việt Nam nói riêng đều gặp các
khó khăn trong việc tuân thủ các biện pháp kiểm dịch động thực vật như quy
định tại Hiệp định này, nhất là khâu đánh giá tình hình dịch bệnh trong cả
nước để đề ra các tiêu chuẩn SPS phù hợp và khoa học. Vì vậy, Việt Nam
đang phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kiểm dịch trong
nước cũng như tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế để tạo thuận lợi cho thương
mại hàng nông sản.

1.2.3. Vai trò của Hiệp định nông nghiệp

Như đã đề cập, Hiệp định nông nghiệp của tổ chức thương mại thế
giới WTO được các quốc gia đàm phán trong vòng đàm phán Uruguay từ năm
1986-1994 và đây là bước quan trọng tiến tới sự cạnh tranh lành mạnh cũng
như ít bóp méo hơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Hiệp định bao gồm cam kết
từ phía các nước thành viên WTO nhằm cải thiện việc tiếp cận thị trường và
cắt giảm những hình thức trợ cấp bóp méo thương mại nông sản. Những quy
định trong Hiệp định được thực hiện bắt đầu từ năm 1995. Hiệp định nông
nghiệp có một số vai trò sau:

- Điều chỉnh một trong những vấn đề quan trọng nhất của kinh tế thế
giới, đó là lĩnh vực nông nghiệp: Tại rất nhiều quốc gia, gồm cả các nước phát
triển lẫn các nước đang phát triển, thương mại nông sản là một trong những

31
thành phần quan trọng trong nền kinh tế và có vai trò to lớn trong sản xuất
nông nghiệp quốc gia cũng như việc làm.

- Hiệp định nông nghiệp loại bỏ những quy định bóp méo thương mại
cũng như những thiệt hại gây ra bởi cơ chế phi thị trường, là nguyên nhân dẫn
tới việc sử dụng không hiệu quả nguồn lực.

- Có vai trò giảm đói nghèo: Ngân hàng thế giới đã tính toán rằng:
việc loại bỏ những bóp méo thương mại nông sản trong trợ cấp và thuế quan
có thể giúp tăng cường thương mại thế giới ít nhất là 0,5 nghìn tỷ USD và
giúp khoảng 159 triệu người thoát khỏi đói nghèo vào năm 2015.

- Giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh lương thực: hệ thống
thương mại cũng có những vai trò quan trọng trong an ninh lương thực toàn
cầu. Hiệp định đưa ra các cơ chế bảo đảm đáp ứng được sự thiếu hụt về lương
thực tại bất cứ quốc gia, khu vực bị ảnh hưởng thiên tai. Đối với các quốc gia
đang phát triển như Việt Nam, các điều khoản trong Hiệp định đưa ra những
cơ hội nhằm cải thiện tốc độ tăng trưởng thông qua thương mại hàng hoá, nơi
mà các quốc gia này có những lợi thế cạnh tranh hơn nếu như những điều
kiện thương mại ít bị bóp méo. Bên cạnh đó, sẽ loại bỏ được việc trồng những
loại cây gây nghiện.

Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và
xây dựng nền kinh tế mở đã thực sự trở thành những xu hướng có tính khách
quan. Nền kinh tế của mỗi nước trở thành một bộ phận cùa nền kinh tế toàn
cầu và chịu ảnh hưởng trực tiếp của những động thái kinh tế tòan cầu. Nhận
thức rõ bối cảnh đó, Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ
"Phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững".

1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP

32
Một số khái niệm trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO được hiểu
như sau [20]:

1. "Lượng trợ cấp tính gộp-AMS" có nghĩa là mức trợ cấp hàng năm
tính bằng tiền cho một nông sản dành cho các nhà sản xuất một loại nông sản
cơ bản nào đó, hoặc là mức trợ cấp không nhằm vào các mặt hàng cụ thể nào
dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp nói chung, khác với trợ cấp theo các
chương trình có đủ tiêu chuẩn được miễn trừ cắt giảm tại Phụ lục 2 của Hiệp
định nông nghiệp.

2. "Giai đoạn thực hiện" có nghĩa là giai đoạn 6 năm kể từ năm 1995
đối với các quốc gia phát triển. Ngoài ra, thời hạn này được áp dụng dài hơn
đối với các thành viên là các quốc gia đang phát triển (9 năm).
3. "Chi tiêu ngân sách" hoặc "chi tiêu" bao gồm cả phần thu ngân sách
bị bỏ qua.
4. "Diện sản phẩm" là các sản phẩm nông sản được đưa ra tại Phụ lục 1
của Hiệp định nông nghiệp.

5. "Tiếp cận thị trường" là khả năng một quốc gia cho phép các nước
thành viên khác trong tổ chức thương mại thế giới WTO tiếp cận với thị
trường nước mình, thông qua các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Nếu
hàng rào thuế quan/phi thuế quan cao - khả năng tiếp cận thấp; ngược lại, nếu
các thành viên hạ mức thuế quan/ phi thuế quan thấp thì cơ hội tiếp cận thị
trường cao hơn.
6. "Trợ cấp xuất khẩu" là những trợ cấp dựa trên kết quả thực hiện
xuất khẩu, kể cả các loại trợ cấp xuất khẩu trong danh mục tại Điều 9 của
Hiệp định. Là những trợ cấp từ phía nhà nước tạo điều kiện tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
7. "Hỗ trợ trong nước" là những chính sách tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động tới sản xuất nông nghiệp trong nước. Các chính sách này
theo hướng dẫn của ban thư ký WTO được chia làm ba loại chính: "gồm các

33
chính sách cho phép áp dụng tự do-Green box", "các chính sách áp dụng hạn
chế theo chương trình áp dụng-Blue box" và "các chính sách không được
phép áp dụng-Amber box".
Trong toàn bộ nội dung phân tích Hiệp định dưới đây chúng tôi sẽ
phân tích Hiệp định theo ba nội dung chính gồm: Tiếp cận thị trường, hỗ trợ
trong nước và trợ cấp xuất khẩu.

Chương 2

HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP


VÀ VIỆC THỰC THI TẠI MỘT SỐ NƯỚC

2.1. CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP

2.1.1. Mục tiêu của hiệp định nông nghiệp

Tại lời nói đầu của Hiệp định nông nghiệp đã chỉ ra mục tiêu là:

“Thiết lập một hệ thống thương mại nông sản công bằng và
theo định hướng thị trường". Đây là mục tiêu quan trọng nhất của Hiệp
định nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, phải được thực hiện
thông qua đàm phán cam kết về trợ cấp và bảo hộ, thông qua việc
thiết lập những luật lệ và quy tắc chặt chẽ và có hiệu quả hơn [20].

2.1.2. Các nội dung chính của Hiệp định

Hiện nay, Hiệp định nông nghiệp mới chỉ điều chỉnh việc sử dụng một
số biện pháp bảo hộ nhất định. Theo phân tích Hiệp định, cũng như các hướng
dẫn của ban thư ký WTO, Hiệp định nông nghiệp gồm có 13 phần, 21 điều và 5
phụ lục. Có thể tóm tắt nội dung như sau:

Phần 1: Gồm Điều 1,2: quy định về định nghĩa các thuật ngữ và diện
sản phẩm áp dụng tại Hiệp định.

34
Phần 2: Gồm Điều 3: quy định việc xây dựng những nhượng bộ và
cam kết-đưa ra các cam kết của các nước thành viên trong việc đàm phán thực
hiện Hiệp định nông nghiệp.

Phần 3: Gồm Điều 4, 5: Tiếp cận thị trường và Tự vệ đặc biệt.

Phần này được ban thư ký WTO hướng dẫn tương đối chi tiết đối với
các quốc gia đang gia nhập WTO như Việt Nam. Vấn đề này sẽ được đề cập
chi tiết hơn ở các phần sau.

Phần 4: Gồm Điều 6, 7: Cam kết hỗ trợ trong nước, Quy tắc chung về
hỗ trợ trong nước: phần này chủ yếu liệt kê các biện pháp hỗ trợ trong nước.

Theo hướng dẫn của Ban Thư ký WTO cam kết hỗ trợ trong nước
được quy định tương đối rõ ràng theo các chính sách như: Chính sách được
phép áp dụng, chính sách được áp dụng hạn chế theo các chương trình và
chính sách không được phép áp dụng. Vấn đề này cũng sẽ được đề cập chi tiết
hơn ở các phần sau.

Phần 5: Gồm Điều 8, 9, 10, 11, 12: quy định về các cam kết trợ cấp
xuất khẩu; theo đó Hiệp định liệt kê các các hình thức trợ cấp xuất khẩu phải
được các quốc gia thành viên cam kết cắt giảm. Vấn đề này sẽ được đề cập
chi tiết hơn ở các phần sau.

Các phần 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13: Gồm các điều 13-21 quy định về
các quy tắc hạn chế và cấm xuất khẩu (Điều 12), kềm chế cần thiết (điều 13),
các biện pháp kiểm dịch động thực vật (Điều 14), đối xử đặc biệt và khác biệt
(Điều 15), các nước chậm phát triển nhất và các nước đang phát triển nhập
siêu lương thực (Điều 16), Ủy ban nông nghiệp (Điều 17), rà soát thực hiện
cam kết (Điều 18), tham vấn và giải quyết tranh chấp (Điều 19), tiếp tục quá
trình cải cách (Điều 20) và điều khoản cuối cùng (Điều 21) là các phần cam
kết chung của các quốc gia thành viên, do đó không ảnh hưởng lớn đến việc
xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp của Việt Nam.

35
Theo hướng dẫn của Ban Thư ký WTO về thực hiện Hiệp định nông
nghiệp, các nước đang tiếp cận với WTO sẽ phải cam kết thực hiện Hiệp định
theo ba nội dung: Tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu.
Trên cơ sở thực tiễn thực hiện Hiệp định nông nghiệp của các quốc gia thành
viên WTO, hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp và thực trạng chính
sách pháp luật nông nghiệp của đang được xây dựng nhằm thực hiện Hiệp
định nông nghiệp, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và
Hiệp định nông nghiệp của Tồ chức thương mại thế giới (WTO)" sẽ tập trung
vào các nội dung này.

2.1.2.1. Cơ hội tiếp cận thị trường

Tiếp cận thị trường theo cách hiểu của các nước thành viên trong
WTO là việc hàng hoá, dịch vụ của một quốc gia xâm nhập vào thị trường
nước khác. Điều 4 - Tiếp cận thị trường của Hiệp định nông nghiệp gồm các
nội dung sau:
Nhân nhượng tiếp cận thị trường có trong các danh mục là
các cam kết ràng buộc và cắt giảm thuế quan, và các cam kết tiếp
cận thị trường khác được nêu tại đó...
Các thành viên sẽ không duy trì, viện đến, hoặc áp dụng lại
bất kỳ các biện pháp phi thuế thuộc loại đã được yêu cầu chuyển
sang thuế quan thông thường", ngoại trừ có quy định khác tại Điều
5 và Phụ lục 5 [20].

Theo hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp, thấy rằng:

Để khắc phục tình trạng mức thuế nhập khẩu thực tế rất cao sau khi
thuế hoá, trong Hiệp định nông nghiệp có 03 khái niệm cụ thể quy định các nước
phải dành cho hàng nông sản nhập khẩu các cơ hội tiếp cận thị trường-theo đó
phần giá trị nhập khẩu nằm trong giới hạn này sẽ được hưởng mức thuế thấp.

36
Cơ hội tiếp cận hiện tại: ít nhất là bằng với mức trung bình của 03
năm giai đoạn cơ sở 1986-1988.

Cơ hội tiếp cận tối thiểu: cơ hội tiếp cận thị trường tối thiểu trong năm
1995 phải ở mức không ít hơn 3% mức tiêu dùng hàng năm trong giai đoạn
1986-1988. Tỷ lệ này sẽ được tăng lên 5% vào cuối năm 2000 đối với các
nước phát triển và vào cuối năm 2004 đối với các nước đang phát triển.

Cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt (áp dụng đối với các mặt hàng không
tiến hành thuế hoá): đối với các nước phát triển, cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc
biệt là 4% mức tiêu dùng trung bình trong giai đoạn 1986-1988 và tăng dần
0,8% mỗi năm cho đến cuối năm 2000. Với các nước đang phát triển, tỷ lệ
quy định tương ứng là 1% mức tiêu dùng hàng năm, 2% vào năm 1999 và lên
đến 4% vào năm 2004.

Sở dĩ lấy giai đoạn cơ sở là 1986-1988 vì đây là khoảng thời gian 3 năm


đầu của vòng đàm phán Urugoay kéo dài 9 năm từ năm 1986-1994. Giai đoạn
cơ sở này có thể thay đổi với các nước đàm phán gia nhập sau.

Tuy nhiên, nếu như hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia thành viên
WTO bị đe doạ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, Điều 5 - Tự vệ đặc biệt
đã quy định như sau: Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước thành viên áp
dụng biện pháp đặc biệt mà không cần bất kỳ biểu hiện nào của việc gây ra
(hoặc đe doạ gây ra) ảnh hưởng đối với sản xuất trong nước, miễn là nông sản
đó đã được thuế hoá và trong biểu cam kết của thành viên có ký hiệu SSG ở
bên cạnh sản phẩm đó. Biện pháp tự vệ trong nông nghiệp sẽ được áp dụng
khi:

Giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá lẫy và hoặc

Lượng nhập khẩu vượt trên lượng nhập khẩu lẫy.

Mức giá lẫy là giá CIF nhập khẩu trung bình sản phẩm đó trong giai
đoạn 1986-1988 sẽ được các nước thành viên trình lên Uỷ ban nông nghiệp và

37
công bố công khai. Lượng nhập khẩu lẫy sẽ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ khối lượng
nhập khẩu trên tổng tiêu dùng trong nước của mặt hàng đó.

Tỷ lệ nhập khẩu/tổng tiêu dùng


Lượng nhập khẩu lẫy
trong nước
< 10% 125% lượng nhập khẩu trung bình
trong giai đoạn cơ sở
<10%<30% 110% lượng nhập khẩu trung bình
trong giai đoạn cơ sở
>30% 105% lượng nhập khẩu trung bình
trong giai đoạn cơ sở

2.1.2.2. Hỗ trợ trong nước

Hỗ trợ trong nước được hiểu là các chính sách, biện pháp được một
quốc gia ban hành ra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành nông nghiệp
phát triển, tăng tính cạnh tranh cho ngành/sản phẩm đó. Tại Điều 6, Điều 7,
Phụ lục 2, Phụ lục 3, Phụ lục 4: Cam kết về hỗ trợ trong nước, quy tắc chung
về hỗ trợ trong nước được hiểu như sau:

Theo hướng dẫn thực hiện Hiệp định nông nghiệp, Hiệp định nông
nghiệp chia các chính sách, quy định có tác dụng hỗ hỗ trợ trong nước thành
ba nhóm lớn: dạng chính sách không được áp dụng (Amber box hay còn gọi
là hộp hổ phách), chính sách được áp dụng theo các chương trình hạn chế
(Blue box-còn gọi là hộp xanh lơ) và chính sách được phép áp dụng tự do
(Green box- còn gọi là hộp xanh lá cây) căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của
các biện pháp này đối với thương mại trong nông nghiệp.

Trong toàn bộ phân tích Hiệp định nông nghiệp tới đây sẽ phân tích
việc thực hiện Hiệp định trên cơ sở các chính sách Amber box, Blue box và
Green box trong nhóm chính sách "Hỗ trợ trong nước".

- Hỗ trợ hộp mầu hổ phách(Amber box)

38
Đây là các chính sách, quy định, biện pháp không được miễn trừ và
phải bị cắt giảm. Theo đó, các biện pháp hỗ trợ này được lượng hoá trong
tổng AMS.

Tổng AMS sẽ tính cả phần chi tiêu ngân sách Chính phủ bỏ ra và phần
ngân sách đáng lẽ phải thu được nhưng bỏ qua không thu. Các nước thành
viên cam kết tổng AMS cho từng năm, tỷ lệ cắt giảm và mức cam kết trần
cuối cùng trong giai đoạn thực hiện.

Nước Giai đoạn thực hiện Tỷ lệ giảm


Phát triển 1995-2000 Giảm 20% tổng AMS
Đang phát triển 1995-2004 Giảm 13.3% tổng AMS

Mức hỗ trợ cho phép (de minimis): Các nước được duy trì mức độ
hỗ trợ dạng hộp hổ phách nhất định nếu tổng giá trị hỗ trợ này chiếm một tỷ
lệ nhỏ (5% đối với các nước phát triển và 10% đối với các nước phát triển)
trong giá trị sản xuất các sản phẩm cụ thể hoặc trong tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp.

- Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây (Green box)

Đây là những chính sách hỗ trợ chung cho ngành nông nghiệp, không
hoặc rất ít bóp méo giá trị thương mại và thường được xây dựng thành các
chương trình của Chính phủ. Các nước được tự do áp dụng và các biện pháp
phi thuế quan (Non-tariff measure-NTM) dạng này và không phải cam kết cắt
giảm với điều kiện các NTM này được cấp thông qua 1 chương trình do chính
phủ tài trợ và không liên quan tới các khoản thu từ người tiêu dùng và không
có tác dụng trợ giá cho người sản xuất.
Theo phụ lục II - Hiệp định nông nghiệp của WTO quy định các dạng
NTM thuộc nhóm này như sau:
Dịch vụ chung: các NTM thuộc loại này liên quan đến các chương
trình cung cấp dịch vụ phúc lợi cho nông nghiệp hoặc cộng đồng nông thôn,

39
cụ thể là các chương trình nghiên cứu, kiểm soát dịch bệnh và côn trùng, dịch
vụ đào tạo, dịch vụ tư vấn, dịch vụ kiểm tra, dịch vụ tiếp thị và xúc tiến
thương mại, cơ sở hạ tầng.
Dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực
Viện trợ lương thực trong nước
Thanh toán trực tiếp cho người sản xuất gồm:
Trợ cấp thu nhập dựa trên một số tiêu chí khách quan về thu nhập, nhà
sản xuất, mức sản xuất.
Sự tham gia của chính phủ trong các chương trình bảo hiểm thu nhập.
Thanh toán trực tiếp hoặc thực hiện bằng sự tham gia tài chính của
chính phủ trong các chương trình bảo hiểm mùa màng, nhằm giảm nhẹ thiệt
hại do thiên tai gây ra.
Trợ cấp điều chỉnh cơ cấu thông qua các chương trình hỗ trợ người
sản xuất ngừng hoặc từ bỏ sản xuất nông nghiệp.
Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua các chương trình giải phóng
nguồn lực khỏi hoạt động giải phóng nông nghiệp.
Trợ cấp đầu tư để người sản xuất cơ cấu lại hoạt động sản xuất.
Thanh toán theo các chương trình môi trường
Thanh toán các chương trình hỗ trợ vùng.
- Hỗ trợ dạng hộp xanh da trời(Blue box)
Đây là các biện pháp hỗ trợ không bị cam kết cắt giảm, được thanh
toán trực tiếp theo các chương trình hạn chế sản xuất và thoả mãn một trong
các điều kiện sau:
- Các khoản chi đó dựa trên diện tích hoặc sản lượng cố định.
- Các khoản chi trả đó tính cho 85% hoặc dưới 85% mức sản lượng
cơ sở.

40
- Các khoản chi trả đó tính trên số đầu gia súc/gia cầm cố định.
Các đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển:
Hiệp định nông nghiệp quy định rằng các nước đang phát triển sẽ không phải
cắt giảm các biện pháp trợ cấp sau:
- Trợ cấp đầu tư của Chính phủ.
- Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất có thu nhập thấp.
- Trợ cấp dành cho người sản xuất nhằm khuyến khích từ bỏ việc
trồng cây thuốc phiện.
2.1.2.3. Trợ cấp xuất khẩu
Như đã đề cập, trợ cấp xuất khẩu được thể hiện qua các Điều 8, 9, 10,
11, 12: quy định về các cam kết trợ cấp xuất khẩu. Nội dung trợ cấp xuất khẩu
được hiểu như sau:
Theo các quy định của WTO, trợ cấp có thể là một khoản thanh toán trực
tiếp từ ngân sách hoặc cũng có thể là việc nhà nước miễn một khoản phải thu.
Theo Hiệp định nông nghiệp WTO, các nước thành viên phải cam kết
cắt giảm trợ cấp xuất khẩu thông qua các năm trong giai đoạn thực hiện
(1995-2000 với nước phát triển và 1995-2004 đối với các nước đang phát
triển). Sự cắt giảm này tiến hành với cả hai yếu tố là tổng chi tiêu ngân sách
cho trợ cấp xuất khẩu và tổng giá trị hàng xuất khẩu được nhận trợ cấp.
Lịch trình cắt giảm

Hạng mục cắt giảm Phát triển Đang phát triển


Tổng chi tiêu ngân sách cho 36% 24%
trợ cấp xuất khẩu
Tổng giá trị hàng xuất khẩu 21% 14%
được nhận trợ cấp

Cụ thể các nước thành viên phải cam kết cắt giảm các biện pháp trợ
cấp sau:

41
- Trợ cấp trực tiếp của chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ liên
quan đến kết quả thực hiện xuất khẩu.
- Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào xuất khẩu.
- Việc bán và thanh lý nông sản phi thương mại của chính phủ với giá
thấp hơn giá so sánh trên thị trường nội địa.
- Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản do chính phủ thực hiện.
- Các khoản trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản
bao gồm cả chi phí vận chuyển và các chi phí chế biến khác; chi phí vận tải
quốc tế và cước phí.
- Phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất khẩu do
chính phủ cung cấp hoặc uỷ quyền với điều kiện thuận lợi hơn so với các
chuyến hàng nội địa.
Các nước đang phát triển được duy trì các biện pháp cuối.
Trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước có vai trò quan trọng đến phát
triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường
trong nước và quốc tế. Cụ thể trong trường hợp của Việt Nam, trợ cấp và hỗ
trợ của chính quyền là cần thiết và có vai trò quan trọng đối với nông nghiệp
trên các khía cạnh sau:
- Trợ cấp góp phần thúc đẩy nông nghiệp và điều chỉnh cơ cấu nông
nghiệp, phát triển kinh tế vùng.
- Trợ cấp góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
- Trợ cấp góp phần kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực và
khắc phục hiệu ứng tiêu cực.
Tuy nhiên, tính tích cực và lợi ích thu được thông qua trợ cấp xuất
khẩu không có tính lâu dài, chi phí cơ hội của trợ cấp xuất khẩu thường lớn,
làm méo mó quan hệ cạnh tranh và thương bị nước ngoài trả đũa.

42
2.2. CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC
THEO HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP

2.2.1. Xu hướng chung về bảo hộ nông nghiệp


Trong thương mại quốc tế, xu hướng bảo hộ nông nghiệp phát sinh
trước tiên tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Liên minh châu Âu và một số
nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến khác trên thế giới (trong nhóm CAIRN-
các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới như Canada, Newzealand,
Achentina, Australia…). Lịch sử đàm phán nông nghiệp từ trước đến nay
(GATT-WTO) về tự do hoá và bảo hộ nông sản luôn diễn ra rất phức tạp.
Riêng đối với Hoa Kỳ, bảo hộ nông nghiệp luôn mâu thuẫn và phức
tạp. Trước đây, trong các cuộc thương lượng, trao đổi giữa hai cường quốc là
Hoa Kỳ và Anh tại hội nghị Havana (3/1948) và GATT (10/1997), Hoa Kỳ đề
nghị tất cả các nước dỡ bỏ mọi hạn chế về định lượng. Tuy nhiên, riêng đối
với nông nghiệp, Hoa Kỳ lại muốn đặt vấn đề này ra ngoài vì theo quan điểm
của Hoa Kỳ họ có lợi thế so sánh lớn trong việc sản xuất nhiều loại nông sản,
và một lý do nữa là các nhà sản xuất nông sản của Hoa Kỳ lo ngại bị kìm hãm
sản xuất vì các hạn chế của các nước khác đối với nhập khẩu hàng nông sản.
Kết quả là chính do áp lực của Hoa Kỳ, các sản phẩm nông nghiệp được coi là
các ngoại lệ trong điều IX của GATT - Liên quan đến việc xoá bỏ những hạn
chế về định lượng. Trong thời kỳ này, chế độ trợ cấp nông nghiệp của EC
(nay là EU) đã bảo vệ các nhà sản xuất nông nghiệp châu Âu cũng được thiết
lập và duy trì.

Quyền miễn trừ cho Hoa Kỳ được duy trì từ năm 1950 đến năm 1995
khi Hiệp định nông nghiệp có hiệu lực. Mặc dù, trong các vòng đàm phán
Kennedy (1960) và Tokyo (1970), vấn đề nông nghiệp đã được các nước Hoa
Kỳ, Canada, Úc… đưa ra đàm phán, đặc biệt là trong nỗ lực hạn chế một số
biện pháp của khối EC vốn lâu nay đã gây thiệt hại cho buôn bán hàng nông
sản quốc tế. Tuy nhiên, những nỗ lực của Hoa Kỳ và một số nước đưa nông
nghiệp vào khuôn khổ GATT đều thất bại. Xu hướng bảo hộ nông nghiệp vẫn

43
là xu hướng nổi bật cho đến vòng đàm phán Uruguay - Đàm phán thương mại
đa phương.
Trong vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định nông nghiệp đã được ký
kết, theo những điều khoản về miễn trừ trong Hiến chương WTO, các quyền
miễn trừ đối với các thành viên, kể cả với Hoa Kỳ cũng không thể tồn tại [8].
Có thể nói, Hiệp định nông nghiệp rất phức tạp, nhưng đã cơ bản
thống nhất được nhiều vấn đề, hướng thương mại nông sản theo hướng tự do
hơn.Về căn bản, Hiệp định xử lý vấn đề nông nghiệp trong bốn nội dung:
Thứ nhất: Nghĩa vụ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan và dịch chuyển
tác dụng của các biện pháp đó thành thuế quan hay thuế quan hoá (tarrification).
Bên cạnh đó, các nước đã đàm phán để xác định những giảm nhượng trong
danh mục của họ, nêu rõ mức tăng tối thiểu cho mỗi loại nông sản, những cắt
giảm thuế quan và những ràng buộc thuế quan cho mọi nông sản.
Thứ hai: Đã đưa ra các cam kết về cắt giảm hỗ trợ nội địa. Hiệp định
đưa ra các biện pháp "hộp xanh" được miễn khỏi những biện pháp này. Tuy
nhiên cam kết chung cho các biện pháp không nằm trong danh sách "hộp
xanh" là việc cắt giảm từng bước các hỗ trợ trong nước theo các cam kết đã
đưa vào danh mục, có tính đến mọi chương trình hỗ trợ làm biến dạng thương
mại. Hiệp định nông nghiệp đưa ra khái niệm "lượng trợ cấp tính gộp -
(Aggregate Measurement of Support-AMS)". Đây là một quy trình phức tạp
để tính toán một con số mà nó ít nhiều biểu trưng cho giá trị hỗ trợ nội địa, và
sau đó đưa ra các yêu cầu cắt giảm con số AMS theo thời gian.
Thứ ba: Trợ cấp xuất khẩu. Mặc dù trong quá trình đàm phán, một số
quốc gia muốn loại bỏ từng bước rồi loại bỏ trọn vẹn mọi tài trợ xuất khẩu,
nhưng đàm phán trong lĩnh vực này dường như có những bước tiến triển
chậm, thiếu khả thi. Tuy nhiên, Hiệp định cũng đưa ra một số nghĩa vụ căn
bản đưa tới việc dần hạ thấp khối lượng tài trợ xuất khẩu.
Thứ tư: Hiệp định có một điều khoản hoà hoãn; nó thiết lập một nghĩa
vụ cho mọi chính phủ, trong vòng 09 năm đầu áp dụng Hiệp định nông nghiệp

44
(từ năm 1995), hạn chế không áp dụng thuế chống tài trợ trong nước, hoặc
khởi động các thủ tục giải quyết tranh chấp đối với một hành vi hay sản phẩm
nào đó.

Ngoài ra, Hiệp định nông nghiệp được "gắn liền" với một hiệp định
khác là Hiệp định SPS. Trong Hiệp định này đã đề ra nhiều loại tiêu chuẩn
hàng hoá và quy định an toàn, y tế đối với các nguy cơ từ các loại sâu bệnh ở
động vật, thực vật, các chất phụ gia, chất độc hoặc các tế bào sống gây bệnh
trong thực phẩm, thức uống hay các loại thức ăn gia súc.

Mặc dù Hiệp định nông nghiệp đã đi vào hoạt động, các nước phát
triển vẫn duy trì thuế quan bảo hộ cao, với mức hỗ trợ cho các sản phẩm
nông nghiệp ngày càng tăng. Điều này đã gây cản trở rất lớn cho các sản
phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển tiếp cận thị trường các nước
phát triển. Có thể thấy rằng, chính sách bảo hộ sản xuất và mậu dịch hàng
nông sản, cùng với quá trình tự do hoá thương mại vẫn đồng hành trong
chính sách thương mại của các quốc gia. Điều này gây rất nhiều khó khăn
trong quá trình đàm phán nông nghiệp đối với các quốc gia đang và chậm
phát triển tiếp cận.thị trường các nước phát triển. Có thể nói rằng, chính sách
bảo hộ sản xuất và mậu dịch hàng nông sản tồn tại song hành trong chính
sách thương mại của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại còn gặp
nhiều rào cản.

2.2.2. Tình hình áp dụng các rào cản thương mại nông sản của các
thành viên WTO

Hiệp định Nông nghiệp quy định các nước thành viên phải loại bỏ
hoàn toàn các hàng rào phi thuế quan và thay thế bằng các biện pháp thuế
quan. Hiệp định cũng quy định thành viên phải cắt bỏ các chính sách hỗ trợ
trong nước theo các điều khoản cam kết không thuộc diện miễn trừ. Trong
quá trình thực hiện các cam kết này các nước thành viên hầu như quan tâm
đến các yếu tố sau trong áp dụng.

45
2.2.2.1. Về tiếp cận thị trường

Một trong các biện pháp mà các nước thường sử dụng để chuyển các
hàng rào phi thuế là sử dụng nguyên tắc chênh lệch giá: lấy giá của mặt hàng
được bảo hộ trừ đi giá của mặt hàng ấy nhưng trong điều kiện không có bảo
hộ. Trên thực tế rất khó xác định giá của mặt hàng trong điều kiện không bảo
hộ nên các nước thành viên thường lấy giá quốc tế của các mặt hàng đó. Theo
Hiệp định nông nghiệp, thời gian cơ sở được chọn là năm 1986-1988. Tuy
nhiên, trong thời gian này giá cả của các nông sản trong nước của một số nước
phát triển là rất cao trong khi giá thế giới lại rất thấp. Do đó, mức thuế tương
đương với các hàng rào phi thuế quan là rất cao đối với một số mặt hàng tính
theo phương pháp này. Vì thế, sau khi áp dụng thuế hoá các nước nhập khẩu
nông sản lớn sẽ có mức thuế quan tương đương của một số sản phẩm cao đến
mức mà việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản này gần như là không thể.

Thuế quan sau khi được thuế hoá đối với một số nông sản

Canada Bơ (360%), Pho mát (289%), trứng (263,3%)


EU Lúa mỳ (388,8%)
Nhật Thịt bò (213%, lúa mỳ (167,7%), thịt cừu (144%)
Mỹ Đường (244,4%), hạt điều (173,8%), sữa (82,6%)

Nguồn: UNCTA, TD/B/WG

- Hạn ngạch thuế quan phân bổ không đồng đều và gây tranh cãi:
Sự phân bổ hạn ngạch thuế quan giữa các nước thành viên và giữa các
nhóm sản phẩm nông nghiệp cũng rất khác biệt. Hơn 80% hạn ngạch thuế
quan tập trung vào 5 trong số 12 nhóm sản phẩm nông nghiệp. Hơn một phần
tư tổng số hạn ngạch thuế quan áp dụng cho sản phẩm rau quả. Bốn nhóm sản
phẩm khác chịu ảnh hưởng mạnh của hạn ngạch là thịt, ngũ cốc, sản phẩm
sữa và hạt có dầu. Ba nước áp dụng hạn ngạch thuế quan cho nhiều mặt hàng
nhất là Nauy (232), Ailen (90) và EU (87).

46
Ngoài ra, việc phân bổ hạn ngạch thuế quan cũng là vấn đề gây nhiều
tranh cãi. Hiện tại, hạn ngạch được các nước phân bổ theo nhiều cách khác
nhau như: căn cứ trên nhu cầu, quyền ưu tiên đăng ký trước, đấu thầu v.v...
- Các quy định và tiêu chuẩn về sản phẩm:
Các quy định và tiêu chuẩn về sản phẩm là một trong số các vấn đề về
tiếp cận thị trường chủ yếu. Sự khác biệt về tiêu chuẩn sản phẩm giữa các
nước cũng như mức độ phức tạp và rắc rối của các quy định này đã gây nhiều
khó khăn cho các nhà xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp.
Đối với EU, mặc dù có rất nhiều các Hiệp định song phương với các
nước Úc, Canada, Newzeland, Thuỵ Sĩ, Mỹ và Nhật Bản về quy định và tiêu
chuẩn sản phẩm, nhưng theo dự đoán, cơ hội tiếp cận thị trường đối với các
nhà xuất khẩu nông sản vào thị trường này sẽ còn khó khăn hơn do ảnh hưởng
của chính sách an toàn thực phẩm mà EU áp dụng.
- Các biện pháp tự vệ đặc biệt:
Balan, Hungary và Thuỵ Sĩ là những nước bảo lưu được quyền tự vệ
cho nhiều mặt hàng nhất với 66%, 60% và 59% cho các dòng thuế nông
nghiệp bảo lưu quyền tự vệ đặc biệt. Trên thực tế việc sử dụng các biện pháp
tự vệ đặc biệt đã giảm đi rất nhiều. Từ năm 1995-1999, chỉ có 8 nước và
nhóm nước sử dụng biện pháp này. Trong đó, sử dụng biện pháp tự vệ đặc
biệt do giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá lẫy là các nước EU, Nhật,
Hàn Quốc, Mỹ, Thuỵ sỹ, Ba lan, Hungary. Do lượng nhập khẩu vượt quá
lượng nhập khẩu lẫy là Slovakia (Nguồn WTO).
2.2.2.2. Hỗ trợ trong nước
- Khái niệm AMS còn mang tính danh nghĩa:

Tổng hỗ trợ tính gộp giảm, nhưng hỗ trợ trong nước cho một số sản
phẩm cụ thể tăng. Tính đến tháng 4 năm 2000, 30 nhóm nước trong tổng số
136 nước thành viên có cam kết cắt giảm đối với tổng hỗ trợ tính gộp. Tuy
vậy, khuôn khổ các cam kết của các nước thành viên vẫn còn là các điều kiện

47
mang tính danh nghĩa. Việc cam kết cắt giảm tổng hỗ trợ tính gộp là một khái
niệm rộng đến mức mà chính phủ các nước thành viên có thể linh hoạt trong
việc tăng hỗ trợ của họ đối với một số sản phẩm cụ thể trong khi vẫn tôn trọng
cam kết cắt giảm tổng AMS. Đơn cử như Mỹ, từ năm 1997-2000 tổng chi tiêu
ngân sách cho lĩnh vực nông nghiệp đã tăng gấp 3 lần, vượt quá cả sự giảm
sút trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của nước này. Trong năm 2000,
Mỹ đã cấp gần 30 tỷ USD nhằm thanh toán trực tiếp cho nông dân - một biện
phắp trợ cấp không phải cam kết cắt giảm. Và do đó, lượng chi trả trực tiếp
này đã vượt hơn một nửa tổng thu nhập ròng trong nông nghiệp.

Bên cạnh đó, nhiều nước phát triển đã nêu ra một số bất cập xuất phát
từ thực tiễn áp dụng Hiệp định nông nghiệp liên quan đến cắt giảm hỗ trợ
trong nước. Các nước đang phát triển cho rằng, tỷ lệ cắt giảm theo quy định
của Hiệp định nông nghiệp là không công bằng khi các nước phát triển vốn có
mức trợ cấp lớn được duy trì tới 80% tổng giá trị các khoản trợ cấp bóp méo
thương mại (sau 6 năm) trong khi các nước đang phát triển (những nước hầu
như không áp dụng các biện pháp hỗ trợ bóp méo thương mại) lại chỉ có thể
trợ cấp cho nông dân không vượt quá 10% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
của mình (WTO G/AG/NG/W/55 Special and differential treatment for
developing countries in world agricultural trade).

Tổng hỗ trợ tính gộp giảm nhưng các biện pháp hỗ trợ trong hộp xanh
lá cây và hộp xanh da trời tăng.

Đối với nhiều nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, EU, hỗ trợ hộp xanh lá
cây đã tăng lên gấp đôi. Điều này chứng tỏ các nước đã cơ cấu lại chương
trình hỗ trợ, chuyển các biện pháp bóp méo thương mại theo hướng "ít bóp
méo thương mại hơn" bằng cách rút các chương trình hỗ trợ từ hộp hổ phách
trong Tổng AMS bị cấm và chuyển vào hộp xanh, do đó tránh được việc phải
cắt giảm thật sự hỗ trợ trong nước. Ví dụ, Mỹ, các thanh toán cho nông dân để
bù đắp sự chênh lệch giữa giá thị trường và giá được nhận (biện pháp trợ giá-

48
phải cắt giảm) đã được chuyển thành các thanh toán hợp đồng linh hoạt theo
sản xuất (thuộc hộp xanh - không bị cắt giảm).

Thực tế cho thấy các nước phát triển là những nước sử dụng nhiều
biện pháp thuộc hộp xanh lá cây nhất.
- Việc sử dụng và tính minh bạch của các biện pháp hỗ trợ trong nước
thuộc hộp xanh lá cây:

Theo quy định của Hiệp định nông nghiệp, các biện pháp thuộc hộp
xanh lá cây là những biện pháp không tác động hoặc tác động rất ít đến quy
mô sản xuất. Trên thực tế, rất khó xác định mối quan hệ giữa hỗ trợ thu nhập,
chi phí gia tăng và lợi nhuận, đặc biệt là khi mức hỗ trợ lên đến hàng tỷ USD.
Người nông dân nhận được trợ cấp thu nhập (mặc dù không liên quan đến loại
hình, sản lượng sản xuất, tư liệu sản xuất, giá nội địa và giá quốc tế) sẽ có
thêm vốn đầu tư cho sản xuất, mua máy móc, công nghệ tiên tiến. Mặt khác,
các khoản trợ cấp thu nhập kể trên cũng sẽ gián tiếp góp phần duy trì lượng
đất đai sử dụng cho sản xuất nông nghiệp không bị chuyển sang sử dụng cho
mục đích khác.
Mỹ là nước áp dụng các biện pháp này rất triệt để. Theo một số nhà
nghiên cứu, mặc dù không gắn chặt với sản xuất, nhưng hỗ trợ dạng hộp xanh
của Mỹ đã tác động lớn đến mức độ sản xuất vì:
- Các biện pháp này tác động đến thu nhập và phúc lợi của nông dân,
đồng thời giảm các rủi ro sản xuất trong tương lai cho họ.
- Nông dân sẽ mong chờ thêm các phản ứng hỗ trợ tương tự từ phía
chính phủ trong tương lai.
- Các nhà lãnh đạo của các công ty sẽ tìm thấy các động lực lâu dài để
phân bố lại nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp.
Chưa có tiêu chuẩn rõ ràng để đáng giá một biện pháp có thuộc hộp
xanh lá cây hay không. Khái niệm "Không hoặc chỉ bóp méo thương mại ở
mức tối thiểu" vẫn là một tiêu chuẩn rất rộng. Liệu các nước thành viên có thể

49
đảm bảo được rằng các khoản thu nhập phụ thêm của nông dân (vốn thường
được cấp dưới dạng chi trả trực tiếp) không được dùng để mua thêm nguyên
liệu đầu vào và do đó làm tăng mức độ sản xuất.

- Việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ trong nước thuộc hộp xanh da trời:

Biện pháp trong hộp xanh da trời không bị cam kết cắt giảm. Do đó,
một số nước trong đó có EU vẫn tiếp tục tăng giá trị hỗ trợ các biện pháp này
và cho rằng "việc thanh toán trực tiếp trong hộp xanh da trời là một công cụ
hữu ích được sử dụng nhằm cải cách các chính sách trong nước theo tiêu
chuẩn do WTO đặt ra. Năm 1992, việc cải cách chính sách nông nghiệp
chung đã chuyển các biện pháp trợ cấp thuộc dạng trợ giá thị trường sang các
khoản thanh toán theo hộp xanh da trời. Trong cải cách CAP gần đây nhất,
gọi là lịch trình 2000, EU cũng đã cung cấp rất nhiều các biện pháp hỗ trợ
thuộc hộp xanh da trời nhằm cải thiện khả năng phản ứng của nông dân với
các thay đổi thị trường.

Bên cạnh các biện pháp đối với hàng nhập khẩu, Cộng đồng châu âu
cũng đã tiêu tốn 45 tỷ Euro cho chính sách nông nghiệp chung vào năm
1999, khiến cho nông nghiệp trở thành hạng mục chi tiêu lớn nhất của cộng
đồng châu Âu (chiếm tới 45% ngân sách). OECD ước tính rằng mức độ hỗ
trợ cho người sản xuất nông nghiệp trong năm 98-99 của EU đạt mức kỷ lục
như năm 86-88. Các thanh toán trực tiếp (hạng mục thuộc phần chương trình
giới hạn sản xuất) đã tăng lên chiếm ¼ trong tổng mức hỗ trợ. Nhiều biện
pháp trợ giá cho các sản phẩm ngũ cốc, sữa, thịt đã chuyển thành các khoản
thanh toán trực tiếp cho người sản xuất theo chính sách nông nghiệp chung
trong năm 1999.

2.2.2.3. Trợ cấp xuất khẩu

Trong số 148 nước thành viên của WTO, 25 nước đã cam kết về mức
trợ cấp xuất khẩu đối với 428 nhóm sản phẩm. Các nhóm sản phẩm nông
nghiệp nhận được trợ cấp xuất khẩu nhiều nhất là lúa mỳ, đường, thịt, bơ, các

50
sản phẩm sữa và rau quả. Hiện tại, nhóm Cairns (Argentina, Úc, Bolivia,
Brazil, Canada, Colombia, Chile, Costarica, Fiji, Malaysia, Newzealand, Paragoay,
Phillipines, Nam Phi, Thái Lan, Urugoay) và Mỹ đã đề xuất loại bỏ hoàn toàn
trợ cấp xuất khẩu. Các nước EU cũng có những tiến bộ đáng kể trong các
chương trình cắt giảm trợ cấp xuất khẩu.

Các nước xuất khẩu vẫn còn duy trì trợ cấp xuất khẩu trong nông
nghiệp gồm: Mỹ, EU, Canada, Úc, Newzealand, Nauy, Aixlen, Thuỵ Sĩ.
Trong đó, EU chiếm tới 90% trị giá trợ cấp xuất khâu trong nông nghiệp được
thông báo lên WTO. Năm 1998, EU đã sử dụng xấp xỉ 5,4 tỷ ECU cho trợ cấp
xuất khẩu chiếm hơn 58% cam kết trợ cấp xuất khẩu của EU trong năm (xấp
xỉ 9,2 tỷ ECU). Đa số các mặt hàng như đường, thịt lợn và rượu đã vượt mức
cam kết cho phép trong năm 1998. Trợ cấp xuất khẩu của Mỹ đã giảm từ mức
8 tỷ USD (năm 1995) xuống còn 148 triệu USD năm 2000 và còn có xu
hướng tiếp tục giảm. Úc, Newzealand và Canada mặc dù đã bảo lưu quyền sử
dụng trợ cấp xuất khẩu nhưng hầu như không áp dụng biện pháp này. Trên
thực tế, nhiều nước đã chuyển các biện pháp trợ cấp xuất khẩu thành các biện
pháp được miễn trừ khác, ví dụ như đạo luật nông nghiệp Mỹ năm 1996 đã
chuyển các quỹ trợ cấp xuất khẩu thành các quỹ xúc tiến thương mại (thuộc
hộp xanh lá cây).
- Tín dụng xuất khẩu và một số chương trình bảo hiểm xuất khẩu, bảo
lãnh xuất khẩu:
Hiện tại vẫn chưa có quy định rõ ràng về tín dụng xuất khẩu và các
chương trình như bảo hiểm xuất khẩu, bảo lãnh xuất khẩu. Trong báo cáo
G/AG/NG/S/13 tháng 6 năm 2000 của Uỷ ban nông nghiệp WTO rà soát về
tín dụng xuất khẩu và các công cụ liên quan có nêu rõ:
Theo các yêu cầu thông báo của Uỷ ban nông nghiệp, không
có dữ liệu cụ thể nào về phần chi tiêu ngân sách và phần ngân sách
đáng lẽ ra sẽ thu được liên quan đến tín dụng xuất khẩu đã dùng để
trợ cấp, hoặc bất cứ dữ liệu cụ thể nào có liên quan đến khối lượng

51
hàng xuất khẩu nông sản mà được hưởng lợi từ các biện pháp như
vậy đã được thông báo. Thực tế hiện nay la nổi lên vấn đề là theo
quy định của Hiệp định nông nghiệp thì chưa có yêu cầu nào buộc
các nước thành viên phải thông báo các dữ liệu liên quan tới những
biện pháp như vậy trong bảng hỗ trợ ES: 1, trừ khi các biện pháp
rơi vào phạm vi điều chỉnh của một hoặc một vài tiểu đoạn trong
điều 9.1 (Các trợ cấp xuất khẩu là đối tượng cam kết cắt giảm theo
phạm vi của Hiệp định nông nghiệp) [24].

Một nghiên cứu gần đây của OECD chỉ ra rằng phần lớn các nước
phát triển đều sử dụng tín dụng xuất khẩu. Tổng các biện pháp tín dụng xuất
khẩu mà Mỹ sử dụng trong năm 1998 tính tương đương lên tới 191 triệu USD
trợ cấp, vượt quá tổng giá trị trợ cấp xuất khẩu của nước này trong năm -
147 triệu USD.

- Viện trợ lương thực thực phẩm:

Ngoài mục tiêu giúp đỡ các nước đang phát triển gặp khó khăn về
thâm hụt ngân sách và cán cân thanh toán, viện trợ lương thực thực phẩm coi
như một biện pháp nhằm giải quyết lượng lương thực dư thừa tại các nước
phát triển-một biện pháp có ảnh hưởng rất lớn đến thương mại, làm giảm giá
nông sản tại thị trường của các nước nhận viện trợ.

Có một nghịch lý là phần lớn các chương trình viện trợ lương thực
thực phẩm được cung cấp khi giá thế giới thấp và ít khi được cung cấp khi giá
nông sản trên thế giới cao. Nhưng các nước đang phát triển (thường là các
nước phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm) lại chỉ hay bị thiếu hụt trầm
trọng cán cân thanh toán khi giá nông sản thế giới tăng cao. Vì vậy, hiện nay
vấn đề đang được nhiều nước quan tâm là làm sao ngăn cản việc sử dụng các
chương trình viện trợ lương thực, thực phẩm như một biện pháp trá hình để
trợ cấp xuất khẩu mà vẫn không ảnh hưởng đến mục đích viện trợ cho dân cư
ở các nước đang phát triển.

52
2.2.2.4. Chính sách bảo hộ nông nghiệp cuả một số nước phát triển
(Mỹ, EU, Nhật Bản), và các nước đang phát triển (Trung Quốc và Thái Lan)

Hoa Kỳ:

Năm 2001, nông nghiệp Mỹ đóng góp 1,4% vào tổng thu nhập quốc
dân. Tuy nhiên, do điều kiện thiên nhiên thuận lợi và trình độ kỹ thuật cao,
nông nghiệp Mỹ vẫn đứng đầu thế giới. Hàng nông sản của Mỹ cũng có sức
cạnh tranh rất lớn cả về chất lượng cũng như giá cả sản phẩm. Tuy vậy, Mỹ
vẫn áp dụng nhiều biện pháp, chính sách để bảo hộ cho một số ngành nông
nghiệp duy trì sản lượng trước sự cạnh tranh của hàng nông sản trên thị
trường quốc tế và trong nước, đặc biệt là từ EU.

Bảo hộ nông nghiệp là một đặc điểm nổi bật cho chính sách bảo hộ
mậu dịch của Mỹ. Bảo hộ không chỉ được thực hiện bằng các công cụ chính
sách quản lý nhập khẩu mà còn được thực hiện thông qua các biện pháp hỗ
trợ sản xuất và xuất khẩu nông sản [16].

*Hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu nông sản:

Trợ giá: Chính phủ liên bang thông qua các khoản trợ cấp và cho vay
để ngăn chặn giá nông sản trượt giá với biên độ lớn nhằm ổn định thu nhập
của các chủ trang trại. Đây là một biện pháp quan trọng để bảo hộ nông
nghiệp của Mỹ.

Vào đầu năm 1990, do tình hình bội chi ngân sách tăng cao, nên trợ
cấp nông nghiệp bị cắt giảm. Sau khi tổng thống Bill Clinton lên nắm chính
quyền đã ủng hộ cơ chế tự do thị trường. Năm 1996, một đạo luật mới về
nông nghiệp gọi là đạo luật tự do nông nghiệp đã được quốc hội Mỹ thông
qua. Theo đạo luật này, chính sách trợ giá cho nông sản được áp dụng từ
những năm 1930 ở Mỹ đã chính thức chấm dứt. Đạo luật này còn nhấn mạnh
các chủ trang trại không chỉ phải chú ý tới thị trường nội địa mà còn phải
quan tâm đến thị trường quốc tế, từ đó thiết lập sản xuất và tiêu thụ trên cơ sở
tự do hoá.

53
Thế nhưng, ngày 8/5/2002 Tổng thống Mỹ Bush đã ký quyết định về
Đạo luật nông nghiệp mới, đi ngược lại với những gì đã làm trước đây, quay trở
lại con đường bảo hộ nông sản. Nội dung chủ yếu của đạo luật này bao gồm:

Những người trồng ngũ cốc và bông vẫn tiếp tục được tăng trợ cấp;

Những nhà sản xuất một số sản phẩm không được trợ cấp trong mấy
năm gần đây như lông cừu, mật ong sẽ được trợ cấp trở lại;

Chính quyền liên bang sẽ dành cho trợ giá nông nghiệp 190 tỷ USD
trong vòng 10 năm tới, tức tăng khoảng 70%. Cụ thể trong vòng 6 năm (2002-
2007) sẽ tăng 67% [16].

Việc tăng ngân sách chi cho trợ giá nông sản làm cho các nhà sản xuất
rau quả, chăn nuôi gia súc vốn ít khi được trợ cấp thì nay sẽ được lợi không
nhỏ từ khoản trợ cấp này.

Điều cần lưu ý là theo đạo luật nông nghiệp mới của Mỹ thì xu hướng
sẽ là từ tự do hoá thương mại nông sản quay trở lại bảo hộ. Mức bảo hộ có xu
hướng tăng dần trong một vài năm tới. Đây được coi là bước thụt lùi có thể
nói là đoạn tuyệt với các cam kết đã đạt được tại hội nghị WTO ở Doha
(Quata) vào tháng 11/2001, theo đó tất cả các nước phát triển từ bỏ những
chính sách cản trở tự do trao đổi và sản xuất.

Chính vì thế mà Liên minh Châu Âu và nhiều nước lên tiếng phản
đối. Còn Mỹ thì cho rằng với trợ cấp nông sản theo luật mới, Mỹ không vi
phạm các cam kết đã thoả thuận ở Doha. Theo đó số tiền trợ giá trần mà Mỹ
cam kết chỉ là 19.1 tỷ đô la để thực hiện "Hộp trợ cấp mầu hổ phách". Trong
khi luật nông nghiệp mới, năm 2002 ngân sách chi cho trợ cấp là gồm 19 tỷ
USD, trong đó có 5,2 tỷ đô la chi cho trợ cấp trực tiếp thuộc hộp trợ cấp mầu
xanh lá cây. Vì vậy, Mỹ đã không chi vượt quá mức quy định cho chính sách
thuộc "hộp mầu hổ phách". Hơn nữa, luật mới cũng cho phép Bộ Nông
nghiệp Mỹ nếu chi vượt quá mức cam kết với WTO thì được quyền cắt giảm
trợ cấp.

54
Hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ: Đây là biện pháp quan trọng của chính
sách nông sản lấy trợ cấp giá làm hạt nhân và là điều kiện để các chủ trang
trại có thể nhận được các khoản trợ cấp. Ở Mỹ, thường có ba hình thức chủ
yếu hạn chế sản xuất và tiêu thụ: Thứ nhất, phân phối diện tích đất gieo hạt;
thứ hai, chế độ hạn ngạch tiêu thụ hàng nông sản; thứ ba, ký hiệp định về thị
trường tiêu thụ - biện pháp này chủ yếu áp dụng đối với rau, quả và các sản
phẩm từ sữa.

Mở rộng thị trường xuất khẩu: Đây là một bộ phận quan trọng khác
của chính sách bảo hộ mậu dịch hàng nông sản. Để thực hiện chính sách này,
chính phủ dỡ bỏ các hạn chế và tạo cơ hội mở rộng tiêu thụ ra nước ngoài, từ
đó, giải quyết tình trạng số nông phẩm dư thừa. Chính phủ liên bang đã thành
lập Cục tiêu thụ nông sản và cục quản lý giao dịch nông sản để trực tiếp phụ
trách việc mở rộng xuất khẩu nông sản ra nước ngoài.

Để mở rộng xuất khẩu, Chính phủ Mỹ đã có những chương trình như


"Chương trình đẩy mạnh xuất khẩu-EEP". Theo chương trình này, các nhà
sản xuất Mỹ sẽ nhận được khoản trợ cấp bằng tiền mặt để nâng cao sức cạnh
tranh của nông sản Mỹ với nông sản các nước khác; chương trình đảm bảo
xuất khẩu-EGP cung cấp khoản đảm bảo chính phủ đối với các khoản vay
ngân hàng tư nhân ở mức lãi suất thị trường. Chương trình này được phân bổ
ngân sách hàng năm khoảng 5 tỷ đô la và mức trợ cấp hàng năm khoảng 800
triệu USD. Theo chương trình tăng cường xuất khẩu sữa-DEIP, và chương
trình cho vay Marketing-MLP nông dân Mỹ có thể trả các khoản vay với mức
lãi suất giữa mức lãi suất thị trường và mức lãi suất cho vay ban đầu. Mức
chênh lệch này sẽ do chính phủ trả và sẽ coi là khoản trợ cấp, hoặc nông dân
Mỹ có thể nhận khoản trợ cấp này thông qua hệ thống thanh toán các khoản
vay không có hiệu quả (do xuất khẩu).

Tiêu biểu của chương trình đẩy mạnh xuất khẩu EEP là chương trình
xuất khẩu gạo của Mỹ, được thực hiện thông qua cái gọi là viện trợ lương
thực và đảm bảo tính dụng. Viện trợ lương thực được chia làm hai loại:

55
Viện trợ theo chương trình: Lương thực được giao trực tiếp cho chính
quyền địa phương để xây dựng kho lương thực dự trữ hoặc để bán ra thị
trường lấy tiền mặt. Khoản viện trợ này chiếm khoảng 75% viện trợ lương
thực những năm 1960 và 60% cho đến những năm giữa 1990 [16].

Viện trợ lương thực theo dự án nhằm cung cấp lương thực cho các
nhóm đối tượng để hỗ trợ cho một hoạt động cụ thể nào đó.

Ở Mỹ, viện trợ lương thực được sử dụng như là một cơ chế để giải
quyết số dư thừa về gạo, nó gây ra tác động tiêu cực như bán phá giá để
khuyến khích xuất khẩu.

*Thuế quan:

Thuế quan cũng là một công cụ cần thiết để bảo hộ nông nghiệp Mỹ.
Theo Hiệp định nông nghiệp, Mỹ cam kết ràng buộc 100% số dòng thuế trong
biểu thuế của mình, bao gồm cả hàng công nghiệp và nông sản. Tuy nhiên,
Mỹ cũng có một tỷ lệ khá lớn số dòng thuế được quy định dưới hình thức thuế
đặc định và thuế kết hợp. Những dòng thuế này đã che dấu được mức bảo hộ
thuế quan của Mỹ, bởi vì việc quy đổi những dòng thuế đặc định và kết hợp
sang thuế tương đương là không dễ dàng.

Nếu so sánh với thuế nhập khẩu nông sản của các nước phát triển khác
thì mức thuế của Mỹ là thấp. Nếu như thuế suất ràng buộc của Mỹ chỉ có
5,5% thì con số tương ứng của Nhật Bản là 11,7% và của EU là 19,5%. Bên
cạnh đó mức độ phân tán của các mức thuế suất củng rất thấp. Đặc biệt, Mỹ
cam kết áp dụng 97,6% số dòng thuế có thuế suất dưới 15% và không có dòng
thuế nào có thuế xuất trên 100%. Đặc biệt có tới 27,9% số dòng thuế 0% [16].

Trên thực tế áp dụng thì hàng rào thuế quan của Mỹ còn thấp hơn
nhiều. Nếu xét chung cho cả 3 loại thuế (thuế theo giá, thuế theo lượng và
thuế kết hợp) thì năm 2000, thuế xuất trung bình của Mỹ là 5,4%. Trong đó,
lĩnh vực nông nghiệp vẫn là lĩnh vực được chính phủ Mỹ bảo hộ với mức độ
cao hơn so với công nghiệp. Điều này thể hiện ở thuế xuất trung bình áp dụng

56
cho các sản phẩm nông nghiệp là 10,4% và áp dụng cho các sản phẩm công
nghiệp chỉ có 4,5%. Tuy nhiên, những dòng thuế có thuế xuất cao chính là
những mặt hàng được bảo hộ cao, giá trị nhập khẩu thấp, nên nếu tính theo
bình quân gia quyền với quyền số là lượng nhập khẩu thì mức thuế suất trung
bình của Mỹ còn thấp hơn, chỉ có 4,6%/ năm 2000 và 4,5% năm 2001.

Ngoài ra, điểm đáng chú ý là mặc dù hàng rào thuế quan của Mỹ thấp,
nhưng vẫn có những mặt hàng mà hàng rào thuế quan tương đối cao. Tuy
nhiên, dẫu sao Mỹ vẫn là nước tham gia tích cực vào quá trình tự do hoá
thương mại trên thế giới. Vì thế hàng rào thuế quan của nước này có rất nhiều
những ưu đãi theo các thoả thuận khu vực mậu dịch tự do song phương và đa
phương. Phần lớn các thoả thuận này đã nới lỏng hàng rào thuế quan của Mỹ
đối với các sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt, mức độ ưu đãi lớn hơn rất nhiều đối
với các sản phẩm nông sản. Chính việc này đã làm cho các nước chỉ hưởng thuế
suất MFN của Mỹ khó khăn hơn trong việc thâm nhập thị trường này.

*Hạn ngạch và hạn ngạch thuế quan:

Đối với các sản phẩm nông nghiệp, theo kết quả của vòng đàm phán
Urugoay, các nước đều đã cam kết thuế hoá các biện pháp phi thuế khác. Vì
thế hiện nay, đối với nông sản nhập khẩu vào Mỹ, chỉ có rất ít mặt hàng chịu
sự kiểm soát của hạn ngạch.

Về hạn ngạch thuế quan, Mỹ đang áp dụng hạn ngạch thuế quan đối
với một số mặt hàng. Biện pháp này được áp dụng với khoảng 198 dòng thuế.
Nếu như thuế suất trong hạn ngạch đối với nông sản phần lớn là thuế theo giá
(chỉ có 28% là thuế suất không theo giá) thì thuế suất ngoài hạn ngạch chủ
yếu là thuế theo lượng và thuế kết hợp. Điều này phản ảnh mức độ cao của thuế
suất ngoài hạn ngạch. Nếu cùng quy đổi về thuế theo giá thì thuế suất trung
bình trong hạn ngạch chỉ có 9%, còn thuế suất ngoài hạn ngạch là 53% [16].

Trên thực tế mức độ thực hiện hạn ngạch khác nhau giữa các sản
phẩm và giữa các năm. Mặc dù nhờ kết quả của vòng đàm phán Urugoay, Mỹ

57
phải thực hiện cam kết mở cửa thị trường tối thiểu (minimum access tariff
quota) và mở cửa thị trường hiện tại (current access taiff quota). Tuy nhiên,
hạn ngạch thuế quan vẫn là công cụ bảo hộ chính của Mỹ.

Ngoài ra, phần lớn các lượng hạn ngạch thuế quan đều đã được phân
bổ cho các nước nhập khẩu theo Hiệp định nông nghiệp, có những mặt hàng
lượng hạn ngạch nhập khẩu đã được phân bổ trước cho một số nước nhất định
tới trên 90% lượng hạn ngạch quy định. Nói một cách khác, Mỹ đã quy định
rõ xuất xứ của những mặt hàng nông sản được nhập khẩu vào nước mình. Đây
sẽ là rào cản rất lớn đối với những nước xuất khẩu nông sản đang tìm cách
xâm nhập thị trường Mỹ, trong trường hợp nước đó chưa có hạn ngạch theo
kết quả vòng đàm phán Urugoay.

*Các biện pháp bảo hộ khẩn cấp (thuế đối kháng, thuế chống phá giá):

Mặc dù thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá là những công cụ
quản lý nhập khẩu được Mỹ rất ưa thích, nhưng trong lĩnh vực nông sản thì
phạm vi áp dụng của những công cụ này rất hạn chế. Tại thời điểm 31/12/2000,
các sản phẩm nông nghiệp chỉ chiếm 6,6% tổng số trường hợp áp dụng thuế
chống phá giá, đối với thuế đối kháng, con số này là 14,6%.

Ngoài ra, theo kết quả Hiệp định nông nghiệp, Mỹ cũng sử dụng biện
pháp bảo hộ nông nghiệp đặc biệt. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng không nhiều
nếu so sánh với các nước khác. Hai nhóm hàng được Mỹ quan tâm là sữa và
các sản phẩm sữa, cà phê.

*Hàng rào kỹ thuật:

Hiện nay có thể nói rằng, đây là công cụ bảo hộ nông sản chủ yếu của
chính phủ Mỹ. Một số quy định kỹ thuật của Mỹ đối với sản phẩm nông sản
như sau:

Pho mát và các sản phẩm pho mát phải tuân theo các quy định của cơ
quan quản lý thực phẩm và dược phẩm và Bộ Nông nghiệp Mỹ. Phần lớn việc

58
nhập khẩu Pho mát phải có giấy phép nhập khẩu và xin hạn ngạch của Bộ
Nông nghiệp, Cục nông sản nước ngoài.

Việc nhập khẩu sữa và kem phải tuân thủ các quy định của Luật Thực
phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm và Luật Nhập khẩu sữa. Ngoài ra, việc nhập
khẩu sữa và kem cũng phải chịu sự quản lý của hạn ngạch thuế quan.

Một số loại rau quả và hạt nhất định phải đáp ứng các yêu cầu nhập
khẩu của Mỹ về phẩm cấp, kích thước, chất lượng và độ chín. Những sản
phẩm này sẽ được kiểm định và phải có giấy chứng nhận của Cục an toàn
thực phẩm và kiểm định - Bộ Nông Nghiệp.

Gia súc và động vật phải thoả mãn các quy định của Cục Kiểm định
động thực vật. Ngoài ra, tất cả động vật được nhập khẩu đều phải có giấy
chứng nhận sức khỏe, đặc biệt là những nước có các bệnh lở mồm long móng
hoặc các bệnh dịch động thực vật khác không có ở Mỹ.

Tuy nhiên, điểm khó vượt qua nhất trong hàng rào kỹ thuật nông sản
của Mỹ chính là thủ tục trong các thủ tục lấy mẫu và kiểm tra Hải quan của
Mỹ. Một số sản phẩm như táo và lê phải thực hiện việc kiểm tra trước khi
thông quan để bảo đảm rằng lô hàng đó không mang những mầm bệnh không
tồn tại hoặc không phổ biến trên đất Mỹ.

Nhận xét:

Mặc dầu là cường quốc kinh tế có nền nông nghiệp hiện đại, năng suất
cao nhưng nông nghiệp Mỹ vẫn luôn là ngành được bảo hộ cao so với các
ngành kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ.

Mục tiêu bảo hộ là để bảo hộ lợi ích cho các chủ trang trại, tranh thủ
sự ủng hộ của giới chủ trang trại đối với chính quyền.

Bảo hộ nông nghiệp chủ yếu bằng thuế quan, nhưng lại gia tăng sử
dụng các công cụ phi thuế quan, đặc biệt là các rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch
tễ, thủ tục hải quan rất phức tạp.

59
Nhật Bản:

Nông nghiệp Nhật bản là một trong những khu vực được bảo hộ cao
trong quá trình hội nhập kinh tế quôc tế.

Chính sách, pháp luật bảo hộ nông nghiệp được hiểu là những chính
sách, quy định nhằm tăng sản lượng và thu nhập cho khu vực nông nghiệp
thông qua sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nông sản.

* Thời kỳ 1945-1994:

Trong nhiều thập kỷ sau chiến tranh, mặc dù Chính phủ Nhật bản đã
thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ nông nghiệp, nhưng tựu chung lại được chia
là ba nhóm sau:

-Biện pháp trợ giá, trợ cấp:

Nhiều nông sản được lợi nhờ trợ gía trực tiếp của Chính phủ, các biện
pháp bảo hộ qua giá rất đa dạng, từ việc trực tiếp quản lý giá mua, bán và
quản lý khâu phân phối đến việc định giá tối thiểu. Tỷ trọng các nguồn tài
chính dành riêng cho việc trợ giá nông sản chiếm khoảng 23% tổng ngân sách
dành cho nông nghiệp trong năm 1960và lên đến 80% tổng ngân sách cho
nông nghiệp năm 1984. Đồng thời với việc trợ giá, Chính phủ Nhật bản đã
đầu tư cho nông nghiệp để cải tạo đất, xây dựng hệ thống tưới tiêu, đường xá
và nghiên cứu phục vụ nông nghiệp. Lãi xuất cho khu vực nông nghiệp vay
chỉ bằng một nửa hoặc 2/3 so với lãi suất thị trường [16].

-Các hạn chế nhập khau nông sản:

Nhật bản đã sử dụng nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu nông sản,
trong đó biện pháp chặt chẽ nhất là hạn ngạch nhập khẩu, mặc cho điều đó
trái với các nguyên tắc của GATT. Năm 1962, số mặt hàng nông sản quản lý
bằng hạn ngạch nhập khẩu là 102. Sau đó việc nhập khẩu được tự do hoá dần,
năm 1970 còn 58 mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch và cho đến năm
1993 vẫn còn là 22 mặt hàng.

60
Do áp lực từ các nhà xuất khẩu Mỹ, Úc, Nhật bản đã thực hiện tự do
hoá thương mại nhưng lại được thay bằng chế độ thuế quan cao để bảo hộ các
nhà sản xuất trong nước. Việc quy định hạn ngạch và chế độ thuế quan cao
nhằm tránh sự cạnh tranh của các sản phẩm nước ngoài nhằm bảo hộ nông
dân của Nhật bản.
Ngoài ra, Nhật bản còn sử dụng hàng rào phi thuế quan để hạn chế
nhập khẩu. Chẳng hạn, các mặt hàng nông lâm sản muốn nhập khẩu vào Nhật
phải tuân theo luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật bản.
-Bảo hộ thông qua hệ thống thương mại nhà nước:
Do hoạt động thương mại nhà nước không vi phạm các nguyên tắc của
GATT nên nó được sử dụng rộng rãi ở Nhật bản để bảo hộ các sản phẩm lương
thực chủ yếu như gạo, lúa mỳ, lúa mạch. Tuy nhiên, những hạn chế buôn bán đối
với gạo đã bị chỉ trích gay gắt trong các cuộc đàm phán đa phương bởi chính
sách về gạo là một trong những trường hợp bảo hộ nghiêm ngặt ở Nhật Bản.
* Thời kỳ sau 1995:
Sau khi gia nhập Hiệp định nông nghiệp, chính sách bảo hộ nông
nghiệp Nhật có những nội dung sau:
-Thuế quan:
Nhật Bản cam kết đến năm 2000, tỷ suất thuế bình quân sẽ giảm
xuống còn 12%. Tuy nhiên, đối với từng mặt hàng thì biên độ giảm thuế lại
khác nhau. Mặc dù hầu hết các nông sản Nhật Bản đều cam kết thuế hoá,
nhưng mặt hàng gạo lại là trường hợp ngoại lệ. Năm 2000, thuế nhập khẩu
đánh vào mặt hàng gạo là 490%. Với mức thuế nhập khẩu như vậy, lượng
nhập khẩu gạo so với lượng tiêu thụ thụ trong nước chỉ tăng từ 3% năm 1995
lên 5% vào năm 2000 [16].
- Áp dụng chính sách bảo hộ theo hộp mầu xanh lá cây:
Bắt đầu từ năm 1995, Nhật bản đã chuyển việc áp dụng chính sách hỗ
trợ tài chính cho nông nghiệp từ hình thức trợ cấp sản xuất và lưu thông sang

61
hình thức cung cấp các dịch vụ công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng và điều
chỉnh cơ cấu hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp trong khuôn khổ chính sách
theo hộp mầu xanh lá cây mà WTO quy định. Ví dụ, năm 1997, ngân sách chi
cho nông nghiệp của Chính phủ Nhật Bản nằm trong hộp mầu xanh lá cây là
22 tỷ đô la. Trong khoản chi nói trên, trọng tâm dành cho xây dựng cơ sở hạ
tầng nông nghiệp, nghiên cứu phát triển, tuyên truyền phổ biến kỹ thuật,
phòng và kiểm dịch động thực vật, xây dựng thị trường bán buôn nông sản,
dự trữ lương thực, thực phẩm quan trọng, viện trợ lương thực trong nước…
Khoản hỗ trợ tài chính nằm trong hộp mầu xanh lá cây này chiếm 90% ngân
sách dành cho nông nghiệp của Chính phủ Nhật bản.

- Thực hiện hỗ trợ trong nước theo chính sách hộp mầu hổ phách:

Chính sách hỗ trợ trong nước thuộc hộp mầu hổ phách của Nhật bản
chủ yếu là áp dụng đối với các loại sản phẩm nông sản cơ bản được trợ giá thị
trường. Sự hỗ trợ này làm cho giá tiêu thụ ở ở thị trường nội địa luôn cao hơn
rất nhiều giá nhập khẩu. Qua đó, chính phủ thực hiện việc bảo hộ gián tiếp lợi
ích của nông dân và sản xuất nông nghiệp. Từ năm 1995 trở lại đây, thực hiện
chính sách này đã gây ra sự chênh lệch rất lớn. Số tiền chi cho việc thực hiện
chính sách hỗ trợ này cao hơn số chi cho ngân sách thuộc "hộp mầu xanh lá cây".

-Điều chỉnh chính sách nông nghiệp và nông thôn:

Bắt đầu từ năm 1995, Chính phủ Nhật bản sửa đổi, điều chỉnh mạnh
chính sách nông nghiệp trong nước nhằm thích ứng hơn nữa với những quy
tắc về nông nghiệp của WTO và bảo hộ, hỗ trợ cho sự phát triển của nông
nghiệp Nhật bản trong thế kỷ XXI.

Tháng 1/1995, Nhật bản thi hành Luật cân đối cung cầu và ổn định giá
cả lương thực chủ yếu" thay cho Luật kiểm soát lương thực được áp dụng từ
năm 1948, đánh dấu cơ chế quản lý lương thực bước sang thời kỳ mới.

Năm 1997, Nhật bản ban hành "Bộ Luật lưu thông gạo" theo đó thay
đổi phương thức bảo hộ giá cả đối với lương thực được duy trì trong một thời

62
gian dài, thu hẹp quy mô trợ cấp trực tiếp của Chính phủ đối với việc lưu
thông gạo.
Năm 1999, Nhật bản bắt đầu thi hành Luật cơ bản về thực phẩm, nông
nghiệp, nông thôn. Bộ Luật này thể hiện sự coi trọng của Nhật bản đối với an
ninh lương thực và cho thấy nông nghiệp có nhiều chức năng, ngoài chức
năng thương mại trong một đất nước hẹp, người đông. Đồng thời với việc
giảm thiểu trợ cấp trực tiếp cho sản xuất lương thực.
Nhận xét:
Nông nghiệp Nhật bản được bảo hộ mạnh mẽ và giá nông sản thực
phẩm ở nước này cao hơn hẳn so với các nước khác như Mỹ và cộng đồng
châu Âu. Chính phủ Nhật bản đã dùng nhiều chính sách biện pháp để hỗ trợ
sản xuất bảo hộ thương mại hàng nông sản, đặc biệt là lúa gạo. Mức độ bảo
hộ nông nghiệp Nhật bản đã gia tăng suốt ba bốn thập niên qua do nông
nghiệp đang dần mất đi lợi thế so sánh trong quá trình tăng trưởng. Mặc dù
được bảo hộ, nhưng Nhật bản đã trở thành một trong những nước nhập khẩu
nông sản nhiều nhất thế giới. Có thể nói chính sách bảo hộ sản xuất và thương
mại của Nhật bản cho ta nhiều bài học khác nhau:
- Luật Nông nghiệp (1952) quy định những kiểm soát chặt chẽ đối với
đất đai để bảo vệ những thành quả của cải cách ruộng đất. Theo luật này,
ruộng đất được mua bán theo giá thị trường, nhưng không đựơc vượt quá giới
hạn cho phép. Kinh nghiệm của Nhật bản cho thấy một chính sách đất đai
không tính đến xu hướng phát triển lâu dài của ngành nông nghiệp sẽ trở
thành trở ngại cho sự phát triển của bản thân ngành đó và của toàn bộ nền
kinh tế nói chung.
- Việc trợ cấp cho nông nghiệp, đặc biệt là trợ giá cho lúa gạo thực tế
đã thất bại trong thực hiện công bằng xã hội. Việc bảo hộ nặng nề này là
những cản trở những nỗ lực điều chỉnh cơ cấu trong nông nghiệp. Do mức trợ
giá cao và do Chính phủ bảo đảm sẽ mua bất kỳ khối lượng gạo nào sản xuất
ra nên người nông dân không tích cực giảm chi phí sản xuất.

63
- Về mặt kinh tế, bảo hộ nông nghiệp làm tăng chi phí xã hội, lãng phí
nguồn tài nguyên. Do việc thực thi chính sách bảo hộ nông nghiệp, hàng năm
chính phủ đã phải chi một khoản tiền lớn để trợ cấp cho nông nghiệ, số tiền
này tất nhiên phải lấy từ ngân sách, thực chất là lấy từ thuế do người tiêu
dùng đóng góp.
- Từ việc xem xét các chính sách bảo hộ nông nghiệp của Nhật bản
trên đây, chúng ta thấy mục tiêu của chính sách bảo hộ nông nghiệp của nước
này là thúc đẩy nông nghiệp phát triển và làm cho thu nhập của nông dân
không bị cách biệt quá xa so với khu vực khác.Tuy nhiên, bảo hộ thái quá đã
làm tổn hại lợi ích người tiêu dùng, gây nên những lãng phí trong đầu tư do
ném vốn vào lĩnh vực kém hiệu quả. Đây cũng chính là bài học chúng ta cần
xem xét trong việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, bảo hộ sản
xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Liên minh châu Âu - EU:
An ninh lương thực luôn là mối quan tâm chung trên toàn thế giới,
chính điều này đã khiến liên minh châu Âu thiết lập một thị trường nông
nghiệp thống nhất vào đầu năm 1962.
Mục tiêu cơ bản của Chính sách nông nghiệp chung (CAP) trong EU là:
Tăng năng suất lao động trong nông nghiệp;
Ổn định thị trường nông sản;
Nâng cao mức sống người dân.
Những phương thức mà EU thường áp dụng để thực hiện CAP khi ký
Hiệp định Nông nghiệp là:
-Thuế quan:
Để thực hiện các cam kết của mình EU chỉ áp dụng mức cắt giảm thuế
suất đối với các sản phẩm ít quan trọng, có thuế suất cao. Các mức cắt giảm
cao được áp dụng cho các sản phẩm hoặc là khối lượng nhập khẩu ít, hoặc là
thuế hải quan vốn ở mức thấp.

64
-Trợ cấp xuất khẩu:
Trong quá trình diễn ra vòng đàm phán Urugoay, EU đã đấu tranh rất
quyết liệt để duy trì các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp. Tuy vậy, EU bị ràng
buộc bởi Hiệp định nông nghiệp về giảm trợ cấp xuất khẩu. Theo như cam kết
với WTO, mỗi năm EU có thể thực hiện trợ cấp theo "hộp màu hổ phách" là
62 tỷ đô la. Hiện EU đang tiến hành cải cách cơ bản chính sách nông nghiệp
chung thể hiện qua việc giảm chi phí trợ giá cho các sản phẩm ngũ cốc bằng
hình thức thanh toán trực tiếp cho nông dân.

- Hỗ trợ trong nước:

Các điều khoản của Hiệp định nông nghiệp năm 1994 về hỗ trợ trong
nước đã không tạo ra những rằng buộc quá lớn đối với các nhà sản xuất nông
nghiệp EU. Bởi vì trong nội dung cải cách CAP, EU đã tiên liệu trước được
những quy định trong Hiệp định Nông nghiệp. Đặc biệt là các chương trình
hỗ trợ của nhà nước đều được xếp trong hộp xanh da trời. Các chương trình
này thường đi kèm với các biện pháp hạn ngạch sản xuất.

- Các hàng rào kỹ thuật:

Các hàng rào kỹ thuật, bảo vệ môi trường được EU áp dụng một cách
rộng rãi để bảo hộ nông nghiệp. Mức độ phức tạp của các rào cản này có xu
hướng gia tăng.

Nhận xét:

Chính sách pháp luật chung của EU và những chính sách bảo hộ của
họ đã tạo ra sự ổn định trong sản lượng nông nghiệp ở mức phù hợp hơn với
lượng tiêu thụ của liên minh. Các biện pháp được thực hiện đã kiểm soát đựơc
mức tăng sản lượng mà không gây ra những thiếu hụt nghiêm trọng. Triết lý
cơ bản của EU đối với CAP thực chất có sự chuyển dịch từ chủ nghĩa bảo hộ
sang phụ thuộc nhiều hơn vào giá cả thị trường thế giới. Tư tưởng chủ đạo là,
trong tương lai, lý do duy nhất để tăng sản lượng là để đáp ứng những cơ hội
mới của thị trường. Liên minh sẽ đáp ứng những nhu cầu mới này bằng cách

65
xuất khẩu những mặt hàng cạnh tranh và những mặt hàng không đựơc trợ cấp.
Việc cắt giảm trợ cấp cũng là đòi hỏi của các nước khác ngoài EU, phù hợp
với đòi hỏi của xu hướng tự do hoá mậu dịch hàng nông sản.
* Trung Quốc:
Sau 16 năm đàm phán, ngày 11/12/2002, Trung Quốc đã chính thức
trở thành thành viên của WTO. Khi trở thành thành viên của WTO Trung
Quốc cam kết thực hiện những nguyên tắc của Hiệp định nông nghiệp.
*Cắt giảm thuế quan:
Trước khi gia nhập WTO, thuế suất thuế nhập khẩu nông sản của
WTO là 25,3%. Trung Quốc đã cam kết trong năm gia nhập đầu tiên, mức
thuế nông sản bình quân của Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 18,5%. Đến năm
2004, giảm xuống còn 15,5% và năm 2008 giảm xuống còn 15,1% [16].
Việc giảm thuế nhập khẩu hàng nông sản sẽ gây áp lực đối với sản
xuất trong nước, cũng như việc làm, thu nhập của nông dân.
Tuy nhiên, mức cắt giảm là khác nhau đối với từng mặt hàng nông
sản. Trên thực tế, mặt hàng lương thực ít chịu ảnh hưởng của việc cắt giảm.
Bởi vì, Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ đánh thuế từ 1-10% đối với
lương thực nhập khẩu theo hạn ngạchvà 65% đối với lương thực nhập khẩu
vượt quá hạn ngạch.
*Hạn ngạch thuế quan:
Trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã sử dụng hạn ngạch để quản
lý rất nhiều hàng nhập khẩu. Khi đã gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết
sử dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số loại nông sản chính là lương
thực, lúa mỳ. Ngoài ra, Trung Quốc còn cam kết tỷ lệ phân bổ hạn ngạch cho
các doanh nghiệp tư nhân.
*Trợ cấp xuất khẩu:
Trợ cấp xuất khẩu được coi là biện pháp cạnh tranh không lành mạnh.
Vì vậy, cũng như các nước thành viên WTO khác, Trung Quốc đã phải cam

66
kết đình chỉ việc trợ cấp xuất khẩu, trong đó có trợ cấp xuất khẩu hàng nông
sản. Từ năm 1997, Trung Quốc luôn là nước xuất siêu lương thực. Vì vậy, trợ
cấp xuất khẩu là động lực chính để thúc đẩy xuất khẩu. Từ năm 2002, việc cắt
bỏ các khoản trợ cấp xuất khẩu gây rất nhiều khó khăn trong xuất khẩu nông
sản của Trung Quốc.

*Hỗ trợ trong nước:


Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết tuân thủ các quy tắc
của tổ chức này về hỗ trợ và trợ cấp trong nước. Điều này có nghĩa là tuy trợ
cấp xuất khẩu không còn được áp dụng, nhưng Trung Quốc vẫn có thể dành
hỗ trợ và trợ cấp trong nước theo các quy định thuộc hộp mầu xanh lá cây,
hộp mầu xanh da trời và hộp hổ phách.

Theo số liệu của WTO, trợ cấp thuộc hộp mầu hổ phách của Trung Quốc
có thể chiếm 8,5% giá trị sản lượng nông nghiệp và Trung Quốc còn phải từ bỏ
ba biện pháp mà các nước có thể được miễn trừ khỏi cam kết cắt giảm trong điều
khoản 6.2 của Hiệp định nông nghiệp, đó là trợ cấp đầu tư, trợ cấp thu nhập
nông dân, trợ cấp nhằm khuyến khích việc từ bỏ trồng cây thuốc phiện.
*Các cam kết khác:

- Biện pháp vệ sinh động thực vật:


Trung Quốc đã cam kết phải làm rõ tính minh bạch các quy định về vệ
sinh động thực vật theo quy định của WTO. Đồng thời, theo quy tắc của
WTO, Trung Quốc sẽ không được cấm nhập khẩu các sản phẩm biến đổi gen.
Điều khoản tự vệ và cơ chế tự vệ đặc biệt trong thời kỳ quá độ: Trung
Quốc cam kết trong vòng 12 năm sau khi gia nhập, nếu sản phẩm nhập từ
Trung Quốc gây ra những thiệt hại về thị trường cho người sản xuất của các
nước thành viên thì các nước này có thể áp dụng cơ chế tự vệ đặc biệt trong
thời kỳ quá độ đối với sản phẩn của Trung Quốc.

Hướng cải cách chính sách bảo hộ nông sản trong quá trình hội nhập
trong bối cảnh WTO của Trung Quốc.

67
Sau khi gia nhập WTO, sự phát triển của nông nghiệp Trung Quốc đã
bước vào một giai đoạn mới khiến cho môi trường và bối cảnh của chính sách
nông nghiệp nhờ đó có những thay đổi đáng kể. Đồng thời chính sách bảo hộ
sản xuất nông sản Trung Quốc cũng đang dần thay đổi gồm:
+ Hình thành thị trường vốn cho sản xuất và xuất khẩu nông sản:
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường
trong nước và quốc tế, Trung Quốc cho rằng cần phải mở rộng quy mô sản
xuất và xuất khẩu nông sản. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn,
Trung Quốc đang áp dụng các biện pháp sau:
 Phát hành trái phiếu phát triển xuất khẩu: đây là một hướng để thu
hút vốn xây dựng hạ tầng mở rộng quy mô xuất khẩu.
 Cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu có ảnh hưởng lớn, có sức lôi
kéo mạnh, hiệu quả kinh tế cao phát hành trái phiếu công ty với số lượng nhất
định. Thông qua phương thức này, Trung Quốc có thể phát hành thêm được
nhiều vốn cho phát triển xuất khẩu.
+ Điều chỉnh các chính sách khuyến khích xuất khẩu:
Trung Quốc có chủ trương tăng hoàn thuế xuất khẩu nông sản. Hiện
mức hoàn thuế xuất khẩu nông sản của Trung Quốc chỉ có 5%. Đồng thời
giảm thuế đánh vào mặt hàng đặc sản nông nghiệp, ưu tiên cấp tín dụng cho
các doanh nghiệp xuất khẩu, kiên quyết xoá bỏ công ty chuyên doanh độc
quyền xuất nhập khẩu, mở rộng quyền tự do xuất khẩu nông sản.Chính phủ
tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp bằng cách:
 Dự đoán biến động thị trường nông sản quốc tế, cung cấp kịp thời
cho các doanh nghiệp.
 Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về buôn bán hàng
hoá nông sản với các thị trường tiềm năng.
 Xoá bỏ các rào cản phi thương mại và kiểm dịch động thực vật, tạo
điều kiện cho xuất khẩu hàng nông sản Trung Quốc.

68
+ Lập hàng rào xanh hay còn gọi là hàng rào môi trường:

Trong thương mại quốc tế, nhiều nước thông qua luật pháp hoặc
những quy phạm kỹ thuật nghiêm ngặt nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ sức
khoẻ con người để xây dựng hàng rào thương mại hạn chế nhập khẩu hàng
hoá từ nước ngoài.

Sau vòng đàm phán Urugoay, hàng rào thương mại chủ yếu là thuế
quan đã từng bước được cắt giảm, còn hàng rào phi thuế quan cũng từng
bước bị loại bỏ. Nhưng thương mại và môi trường đã gắn chặt với nhau,
phát sinh ra "hàng rào xanh". Sự phát triển của hàng rào xanh là một biểu
hiện mới của chủ nghĩa bảo hộ. Hình thức của hàng rào xanh là: các chế tài
thương mại về môi trường, thúc đẩy áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường,
áp dụng ISO 14000…Tuy hàng rào xanh chỉ được hình thành trong 10 năm
trở lại đây nhưng đã có ở khắp toàn cầu. Trung Quốc một mặt vấp phải hàng
rào xanh khi xuất khẩu hàng nông sản của mình ra nước ngoài như EU, Nhật
Bản, mặt khác, Trung Quốc cũng từng bước thiết lập hàng rào xanh cho
riêng mình để hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài mà không vi phạm các quy
định của WTO.

Nhận xét:

Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, Trung Quốc đã
đạt được rất nhiều thành tựu về kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp. Có
thể thấy đặc điểm nổi bật nhất trong chính sách thương mại hàng nông sản
của Trung Quốc là:

- Bảo hộ ở mức vừa phải đối với sản xuất hàng nông sản trước áp lực
mở cửa hội nhập.

- Chuyển từ bảo hộ các biện pháp giấy phép, hạn ngạch sang bảo hộ bằng
thuế quan và các rào cản thương mại mới không trái với quy định của WTO.

- Giảm dần trợ cấp xuất khẩu đến nay chỉ còn trợ cấp cho một vài mặt hàng.

69
* Thái Lan:

*Tiếp cận thị trường:

Trong vòng đàm phán Urugoay, Thái Lan đưa 994 mặt hàng nông sản
vào ràng buộc thuế quan, và cam kết giảm mức thuế xuất trung bình khoảng
24% trong vòng 10 năm(1995-2004). Mức giảm tối thiểu là 10% đối với tất cả
các dòng thuế. Ngoài ra, Thái Lan cũng bảo lưu quyền phải sử dụng tới điều
khoản tự vệ đặc biệt trong Hiệp định nông nghiệp (chiếm khoảng 11% trong
số 994 mặt hàng nông sản đưa vào cam kết). Có một thực tế là đối với nhiều
sản phẩm, mức thuế suất áp dụng từ năm 1995 trải từ 0%-15%, còn mức thuế
ràng buộc thì từ 20-30%. Sự chênh lệch giữa hai mức thuế suất này khá lớn
đối với một vài sản phẩm như: ngô, bột sữa có độ béo tháp, khoai tây, bánh
đậu xanh và hạt giống hành [16].

Các ràng buộc về thuế quan cao cùng với quyền bảo lưu áp dụng các
biện pháp tự vệ đối với 111 sản phẩm nông sản đã đem lại một sự bảo hộ hợp
lý cho hầu hết các sản phẩm nhạy cảm. Tuy vậy, cho đến nay, Thái Lan vẫn
chưa cần thiết phải áp dụng các biện pháp tự vệ.

*Trợ cấp trong nước:

Trước vòng đàm phán Urugoay, một số hàng hoá thiết yếu như đậu
tương và các sản phẩm sữa được sự bảo hộ cũng như trợ cấp từ Chính phủ
Thái Lan rất mạnh. Hiện nay, Thái Lan vẫn tiếp tục trợ cấp cho nông sản theo
các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định nông nghiệp.

*Trợ cấp xuất khẩu:

Thái Lan là một thành viên của nhóm các nước đi đầu trong việc kêu
gọi cấm tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu. Thái Lan không nêu vấn đề trợ
cấp xuất khẩu nông sản trong lịch trình đàm phán gia nhập WTO, do đó
không thể thực hiện việc trợ cấp như vậy trong tương lai. Tuy nhiên, với tư
cách là một nước đang phát triển, Thái Lan vẫn có quyền tiến hành các khoản

70
trợ cấp để giảm bớt chi phí vận tải nội địa, chi phí Marketing cũng như chi phí
vận tải quốc tế.

*Hạn ngạch thuế quan:

Thái Lan áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với 23 mặt hàng nông sản,
mức thuế trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch chênh lệch nhau khá lớn. Việc
quy định hạn ngạch thuế quan đối với các nông sản trên không gây ảnh hưởng
lớn đến việc nhập khẩu các mặt hàng đó, bởi vì mức thuế trong hạn ngạch cao
và lợi thế cạnh tranh hơn hẳn của các nhà xuất khẩu Thái Lan ở hầu hết các
mặt hàng. Chính phủ Thái Lan cũng không những không cân nhắc khả năng
việc gia tăng nhập khẩu liệu có làm thiệt hại đến các ngành cạnh tranh trong
nước hay không mà còn cho rằng hàng nhập khẩu mang lại lợi ích cho nhiều
ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, sử dụng những hàng nhập khẩu đó
làm đầu vào cho sản xuất.

Mặc dù quy định hạn ngạch, nhưng có những trường hợp mức thực
hiện hạn ngạch vượt quá mức cho phép với mức thuế nhập khẩu thấp hơn
nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước. Chế độ hạn ngạch thuế quan hiện nay ở
Thái Lan vẫn còn có sự phân biệt đối sử với các nhà nhập khẩu mới tham gia
thị trường, ủng hộ những nhà nhập khẩu lâu năm và có quy mô lớn. Tình
trạng này làm gia tăng các hành động tìm kiếm lợi ích thông qua các cuộc vận
động hành lang của các chính trị gia. Sự độc quyền hay hành vi độc quyền sẽ
dẫn đến các mức giá cao giả tạo và do đó sẽ làm tăng chi phí nguyên liệu và
phá hoại lợi ích phúc lợi tiềm tàng.

Nhận xét:

Chính sách luật pháp phát triển nông nghiệp, cũng như chủ trương bảo
hộ và khuyến khích xuất khẩu nông sản của Thái Lan đã đem lại cho nông
nghiệp sự tăng trưởng ổn định. Thái Lan đã thoả mãn nhu cầu trong nước về
các nông sản cơ bản, và là một trong những nước xuất khẩu nông sản đứng
đầu thế giới. Nông sản nhập khẩu chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch nhập khẩu.

71
Tự do hoá và bảo hộ sản xuất luôn được kết hợp trong chính sách
thương mại nông sản của Thái Lan. Tuy nhiên, xu hướng tự do hoá luôn được
quan tâm. Trong các biện pháp bảo hộ luôn quan tâm chính sách đối với gạo,
đặc biệt là chính sách giá cả, nhằm bảo đảm lợi ích của nông dân, của chính
phủ và người tiêu dùng. Giá thóc mà nông dân trực tiếp được nhận bằng giá
xuất khẩu trừ thuế, chi phí xuất khẩu và chi phí vận chuyển, chi phí xay xát và
chi phí trung gian mua bán. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện ba công cụ chủ
yếu để thực hiện bảo hộ lúa gạo là thuế xuất khẩu gạo, chương trình dự trữ
gạo bắt buộc và hạn mức xuất khẩu gạo.
Tín dụng cũng là một chính sách được chính phủ Thái Lan quan tâm
đặc biệt. Có hai nguồn để chính phủ Thái Lan có thể tiếp cận các khoản vay
tín dụng-nguồn vay chính thức và không chính thức. Nguồn vay không chính
thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đầu khi nguồn vốn của Nhà
nước, các ngân hàng và các hợp tác xã còn khan hiếm. Trong tiến trình thực
hiện từng bước tự do thương mại nông sản, Thái Lan coi trọng trợ cấp trong
nước. Thái Lan đang cố gắng tham gia vào việc hạn chế việc trợ cấp xuất
khẩu ở nhiều nước vì các khoản trợ cấp này gây thiệt hại đến hoạt động xuất
khẩu của Thái Lan. Tuy nhiên, Thái Lan vẫn thường trợ cấp xuất khẩu cho ba
mặt hàng nông sản xuất khẩu chính là gạo, đường ăn và thịt gia cầm. Xu
hướng trợ cấp này giảm đi và tiến tới loại bỏ.
Các hạn ngạch nhập khẩu được chuyển sang chế độ thuế quan hoặc
chế độ hạn ngạch thuế quan. Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ hạn ngạch thuế
quan cũng rất linh hoạt.

2.3. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA WTO

Hiệp định nông nghiệp không có các điều khoản riêng biệt nhằm xử lý
các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực nông nghiệp, nó dựa vào cơ chế giải
quyết tranh chấp có sẵn tại GATT, cụ thể như sau: Theo Điều 19-Tham vấn
và giải quyết tranh chấp, các quy định tại các điều XXII và XXIII, GATT 1994
sẽ được áp dụng cho việc tham vấn và giải quyết tranh chấp, cụ thể như sau:

72
Hệ thống giải quyết tranh chấp là một những trụ cột quan trọng của
các quy định trong WTO. Hệ thống này cung cấp cho các thành viên những
bảo đảm rằng các thành viên khác sẽ tôn trọng những điều khoản được ký kết
trong Hiệp định.

Quy trình giải quyết tranh chấp thương mại của WTO là một trong
những điều kiện thiết yếu bảo đảm hiệu lực của các quy định chung. Tranh
chấp xuất hiện khi một nước thành viên áp dụng một biện pháp, chính sách
thương mại mà một hoặc một số thành viên khác coi là vi phạm các quyền
của họ được quy định trong các hiệp định WTO. Khi một thành viên đưa
tranh chấp ra kiện tại WTO, Hội đồng chung của WTO với vai trò là cơ quan
giải quyết tranh chấp (DSB) sẽ bổ nhiệm một đoàn thẩm phán có quyền độc
lập xem xét vụ kiện và đưa ra phán quyết dựa trên các hiệp định WTO và cam
kết của từng nước thành viên.

Các quy định - hiệp định của WTO về quy trình giải quyết tranh chấp
thương mại và về việc kiểm điểm chính sách là kết quả của các cuộc đàm phán
giữa các thành viên, xác định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo
nguyên tắc không phân biệt đối xử. Hiệp định có điều khoản riêng đối với các
nước đang phát triển hoặc kém phát triển như cho phép các nước này có khoảng
thời gian dài hơn để thực hiện các hiệp định và cam kết, các biện pháp trợ
giúp xây dựng chính sách thương mại, kỹ thuật đàm phán, đào tạo chuyên gia...

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO là giải pháp công bằng,
nhanh chóng, hiệu quả và các bên đều chấp nhận được. WTO khuyến khích
các bên tranh chấp tự tham khảo ý kiến và dàn xếp với nhau trước khi bắt đầu
và kể cả trong quá trình xét xử. Việc xét xử được tiến hành theo một lộ trình
rõ ràng, gồm nhiều giai đoạn với thời gian cụ thể: từ khi DSB thụ lý vụ kiện
đến khi ra phán quyết ban đầu là 12 tháng; phúc thẩm (nếu các bên kháng
cáo) ba tháng. WTO quy định các phán quyết tự động có hiệu lực trừ khi bị
tất cả các nước bác bỏ, do vậy không thành viên nào có thể cản trở việc thực
hiện phán quyết.

73
Khi WTO đã phán quyết một nước thành viên vi phạm quy định của tổ
chức, nước đó sẽ phải nhanh chóng sửa sai, nếu tiếp tục vi phạm, nước đó sẽ
phải bồi thường hoặc chịu phạt. Trên nguyên tắc, các biện pháp trừng phạt
được áp đặt đối với cùng nhóm thương mại phát sinh tranh chấp.

Theo Điều 19 của Hiệp định nông nghiệp, về tư vấn và giải quyết
tranh chấp, các Điều XXII và XXIII của GATT 1994 sẽ được áp dụng trong
tham vấn và giải quyết khi phát sinh tranh chấp giữa các thành viên khi thực
hiện Hiệp định nông nghiệp.

2.3.1. Quá trình giải quyết các tranh chấp trong nông nghiệp

Quá trình giải quyết các tranh chấp trong nông nghiệp được quy định
như sau:

Khi có tranh chấp nảy sinh, nước khiếu nại cần nêu vấn đề với nước bị
khiếu nại và đề nghị tham vấn để tìm ra cách giải quyết. Đề nghị tham vấn
phải được thông báo cho DSB. Trong vòng 10 ngày, cơ quan bị khiếu kiện
phải trả lời đề nghị tham vấn và hai bên bắt đầu quá trình tham vấn trong
khoảng thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày bên khiếu kiện nhận được đề
nghị tham vấn. Nếu bên bị kiện không đáp ứng được thời hạn trên hoặc kết
thúc tham vấn, mà hai bên không thoả thuận được, thì bên khiếu kiện có thể
đề nghị DSB cho thành lập Ban Hội thẩm.

Ban Hội thẩm tiến hành các hoạt động xem xét, đánh giá, thẩm định một
cách khách quan các tài liệu đệ trình, cũng như những trình bày của các bên tại
các cuộc họp, đồng thời dự thảo Báo cáo mô tả để các bên đóng góp ý kiến. Báo
cáo được tiếp tục hoàn chỉnh và các bên lại có cơ hội được đóng góp ý kiến
trước khi Ban Hội thẩm đưa ra báo cáo cuối cùng gửi tới các bên và gửi DSB.
Quá trình này diễn ra thông thường là 6 tháng kể từ ngày thành lập Ban Hội
thẩm. DSB sẽ xem xét và thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm sớm nhất vào
ngày thứ 20 và muộn nhất là sau 60 ngày kể từ ngày báo cáo được gửi, trừ khi
có một bên tranh chấp thông báo chính thức cho DSB về quyết định kháng

74
cáo của mình. Trong trường hợp có kháng cáo, báo cáo của Ban Hội thẩm sẽ
được DSB xem xét thông qua chỉ sau khi hoàn thành việc phúc thẩm kháng cáo.
Sau khi có kháng cáo, DSB sẽ giao cho Cơ quan phúc thẩm xem xét
lại báo cáo của Ban Hội thẩm. Việc xem xét này được tiến hành trong 60
ngày, trường hợp đặc biệt cũng không được quá 90 ngày, sau đó Ban Hội
thẩm phải đưa ra báo cáo của mình. Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm có thể
giữ nguyên, sửa đổi hoặc quy định ngược lại các ý kiến và kết luật của Ban
Hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm được DSB xem xét thông qua
trong vòng 30 ngày sau khi báo cáo được chuyển tới các thành viên.

Tại cuộc họp của DSB được tổ chức trong vòng 30 ngày sau ngày thông
qua báo cáo của Ban Hội thẩm hoặc cơ quan phúc thẩm, bên có nghĩa vụ phải
thông báo cho DSB về các dự định của mình đối với việc thực hiện các khuyến
nghị và phán quyết, việc thực thi có thể được quy định trong một khoảng thời
gian hợp lý. Nếu việc thực hiện không đạt được sự tuân thủ hoàn toàn thì
nước bị khiếu kiện có thể đề nghị bồi thường bằng một biện pháp khác.

Trường hợp các khuyến nghị và phán quyết không được thực hiện
trong khoảng thời gian hợp lý, nước thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho
phép tạm hoãn thi hành việc áp dụng đối với nước không thực hiện phán quyết
những nhượng bộ hoặc nghĩa vụ khác tương ứng đối với nước vi phạm này
(biện pháp trả đũa). Tuy nhiên, biện pháp trả đũa chỉ là tạm thời và chỉ được
áp dụng cho tới khi bên thua kiện đã thực hiện những khuyến nghị hay phán
quyết hoặc các bên đã thoả thuận được về một biện pháp giải quyết thoả đáng.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, bất cứ lúc nào, các bên cũng có
thể sử dụng trung gian, hoà giải, môi giới để giải quyết tranh chấp.

2.3.2. Quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước thành
viên là nước đang phát triển trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO

Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh
chấp (DSU) đề cập đến địa vị đặc biệt của các thành viên WTO là các nước

75
đang phát triển. Trong các quy định này, đối xử đặc biệt và khác biệt đối với
các thành viên là nước đang phát triển không có nghĩa làm giảm nhẹ nghĩa vụ,
làm tăng các quyền về nội dung hoặc cho phép thời gian ân hạn, mà là thuật
ngữ mang tính thủ tục. Cụ thể là:

Trong tham vấn: Nếu tham vấn là biện pháp do một nước thành viên
đang phát triển áp dụng thì các bên có thể đồng ý kéo dài thời hạn tham vấn
thông thường. Nếu vào cuối giai đoạn tham vấn, các bên không thể đồng ý kết
thúc tham vấn thì Chủ tịch DSB có thể kéo dài thời hạn tham vấn.
Giai đoạn xét xử của Ban Hội thẩm: Khi tranh chấp xảy ra giữa một
nước thành viên đang phát triển với một nước thành viên phát triển, căn cứ
vào yêu cầu của nước thành viên đang phát triển, Ban Hội thẩm phải có ít
nhất một hội thẩm viên từ nước thành viên đang phát triển. Nếu bị đơn là
nước thành viên đang phát triển, Ban Hội thẩm phải giành đủ thời gian cần
thiết để thành viên này chuẩn bị và đệ trình lý lẽ bào chữa của mình.
Trong thực thi các quyết định của DSB: Ở giai đoạn thực thi, DSB cho
phép dành sự quan tâm đặc biệt đối với các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của
các nước thành viên đang phát triển.
Hỗ trợ về mặt pháp lý: Ban Thư ký WTO có 1 chuyên gia chuyên
trách và 2 tư vấn gia độc lập làm việc bán chuyên trách để thực hiện việc tư
vấn và hỗ trợ pháp lý cho các nước thành viên đang phát triển trên nguyên tắc
tôn trọng tính trung lập, khách quan, đồng thời Ban Thư ký cũng tiến hành
việc tổ chức các khoá đào tạo đặc biệt về hệ thống giải quyết tranh chấp cho
các nước thành viên.

2.3.3. Những ưu điểm của hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
2.3.3.1. Bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
Hệ thống giải quyết tranh chấp WTO là một hệ thống chặt chẽ và quan
trọng đối với việc giải quyết mâu thuẫn trong thương mại quốc tế và làm dịu
đi những bất bình đẳng giữa các quốc gia mạnh và yếu. Thay vì việc bên

76
mạnh có đủ khả năng quyết định kết quả của các mối quan hệ, mâu thuẫn như
trước kia, với hệ thống giải quyết tranh chấp WTO, các tranh chấp đã được
giải quyết trên cơ sở các quy định pháp luật quốc tế. Nhờ cơ chế giải quyết
tranh chấp này, các thành viên WTO có thể đảm bảo rằng, các quyền của
mình theo Hiệp định WTO được thực hiện. Khi một thành viên có sự không
tuân thủ theo Hiệp định WTO, hệ thống giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra cách
giải quyết bằng một quyết định độc lập buộc phải thi hành ngay và nếu thành
viên thua kiện không chịu thi hành thì sẽ có thể bị trừng phạt thương mại.
2.3.3.2. Giải quyết tranh chấp nhanh chóng
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm các thủ tục tương
đối cụ thể về cả các bước tiến hành cũng như thời gian tương ứng. Có thể nói,
hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động tương đối nhanh và hơn
rất nhiều so với hệ thống giải quyết tranh chấp trong nước hoặc các hệ thống
tài phán quốc tế khác.
2.3.3.3. Làm rõ các quyền và nghĩa vụ của mỗi quốc gia thành viên WTO
Các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên được quy định trong
Hiệp định WTO thường mang tính bao trùm và có thể được hiểu theo nhiều
cách khác nhau, nguyên nhân chính là do các hiệp định quốc tế này thường là
kết quả của các vòng đàm phán đa phương. Hệ thống giải quyết tranh chấp có
mục tiêu làm rõ các quy định của Hiệp định WTO phù hợp với những quy tắc
về tập quán trong giải thích công pháp quốc tế ở mỗi tranh chấp cụ thể nhằm
làm rõ các quyền và nghĩa vụ áp dụng cho các bên tranh chấp.
2.3.3.4. Đảm bảo sự an toàn và dự báo trước cho hệ thống thương
mại đa phương
Mục tiêu của hệ thống giải quyết tranh chấp là bảo đảm có một hệ
thống hoạt động trên cơ sở quy định pháp luật, tin cậy, hiệu quả và nhanh
chóng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc áp dụng các điều khoản
của Hiệp định WTO, thông qua đó làm hệ thống thương mại trở nên an toàn
hơn và có khả năng dự đoán trước.

77
2.3.3.5. Những khó khăn đối với thành viên là nước đang phát triển
như Việt Nam khi tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp WTO

Khó khăn lớn nhất khi áp dụng hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO trong thương mại quốc tế đối với thành viên là nước đang phát triển
chính là vấn đề tài chính. Trước tiên, khi tham gia vào vụ kiện, các nước phải
trả chi phí tư pháp mà đối với nước đang phát triển thì đó là một khoản chi
phí không nhỏ. Bên cạnh đó là những tổn thất về lợi ích kinh tế và thương mại
mà các nước này phải gánh chịu trong suốt quá trình tranh chấp đang được
giải quyết. Thậm chí, trong trường hợp nước đang phát triển là nguyên đơn
thắng kiện thì cũng không nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào cho những
thiệt hại mà họ phải gánh chịu trong suốt thời gian bị đơn thực hiện phán quyết.

Các nước đang phát triển thường thiếu nguồn nhân lực với các kiến
thức chuyên môn cụ thể về giải quyết tranh chấp của WTO, trong điều kiện
đó, khi tham gia vào các vụ kiện, nước thành viên là nước đang phát triển
thường phải thuê đại diện cho mình trong quá trình giải quyết tranh chấp và
phải chịu tốn kém không nhỏ.

Cuối cùng, khi nước thành viên là nước đang phát triển thắng kiện, bên
thua kiện không chịu thi hành phán quyết, phần nhiều trường hợp bên thắng
kiện là nước đang phát triển không có khả năng thực tiễn để viện dẫn đến
quyền được tạm dừng thực hiện nghĩa vụ và như vậy có nghĩa là biện pháp trả
đũa mà hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO đưa ra không thể mang lại
hiệu quả để buộc bên thua kiện phải thi hành nghĩa vụ theo pháp quyết mà
DSB đã đưa ra.

78
Chương 3

THỰC TRẠNG BẢO HỘ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM,


ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP
TRONG KHUÔN KHỔ WTO

Thời gian qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã không ngừng đổi mới,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Sản xuất nông lâm
nghiệp đã bước sang một giai đoạn phát triển mới theo hướng tăng quy mô và
tỷ trọng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Thành tựu nổi bật và tổng quát nhất của ngành nông nghiệp là an ninh lương
thực được giữ vững; đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu lương thực, thực
phẩm cho nhân dân; xuất khẩu nông lâm sản tăng nhanh, góp phần đáng kể
vào thành tự xuất khẩu chung của cả nước. Nhiều mặt hàng có vị thế khá quan
trọng trên thị trường quốc tế như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều v.v...; đời sống
của đại bộ phân dân cư nông thôn được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ dân được
cung cấp nước sạch ngày càng tăng v.v…

Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức mới. Thời tiết, khí hậu ngày càng khắc nghiệt. Thiên tai,
dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Nước ta hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới
ngày một sâu, rộng. Bên cạnh các cơ hội về mở rộng thị trường, hàng hoá
nông lâm sản ngày càng phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá nước ngoài. Để
thực hiện chủ chương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ngành
nông nghiệp đang triển khai nhiều chương trình, hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng cao và khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông lâm sản nước ta.

Quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp
diễn ra rất toàn diện trong nhiều lĩnh vực từ hợp tác khoa học kỹ thuật, đào
tạo đến thương mại. Sau đây là cơ hội và thách thức của ngành nông nghiệp
Việt Nam sẽ đối mặt trong thời gian tới.

79
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP WTO

Trong thời gian qua, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. WTO
là tổ chức của những nền kinh tế mở và việc gia nhập tổ chức này trở thành
một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của các
quốc gia. Gia nhập WTO vừa mang lại những cơ hội và lợi ích to lớn, vừa đặt
ra những thách thức hết sức gay gắt đối với Việt Nam.

Trong nông nghiệp, để xác định một khung pháp lý đúng đắn nhằm
điều chỉnh các hoạt động liên quan đến nông nghiệp theo các quy định của
WTO là rất cần thiết. Gia nhập WTO, pháp luật nông nghiệp Việt Nam sẽ gặp
một số cơ hội và thách thức như sau.

3.1.1. Cơ hội

3.1.1.1. Xây dựng, rà soát hệ thống pháp luật nông nghiệp theo
hướng tập trung, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế

Hệ thống pháp luật nông nghiệp Việt Nam nằm rải rác trong các văn
bản, quyết định. Khi gia nhập WTO, hệ thống chính sách pháp luật nông
nghiệp được rà sóat lại một cách có hệ thống, từ các quy định hỗ trợ trong
nước đến các quy định về trợ cấp xuất khẩu, tất cả các quy định này được tập
trung rà soát theo Hiệp định nông nghiệp theo các hướng sau:

Các chính sách hỗ trợ trong nước trong lĩnh vực nông nghiệp: Các
chính sách này đươc rà soát theo các cơ chế như: giữ nguyên và xây dựng mới
những quy định được Hiệp định nông nghiệp cho phép (được quy định trong
hộp xanh-Green box), thực hiện một số chương trình hạn chế theo các quy
định tại hộp lơ (Blue box), và loại bỏ dần các quy định liên quan không phù
hợp với quy định quốc tế được đề cập trong hộp hổ phách (Amber box). Như
vậy có thể thấy rằng, pháp luật nông nghiệp Việt Nam đã được xây dựng và
điều chỉnh cho phù hợp với các quy định quốc tế. Điều này tạo ra sự minh
bạch trong chính sách.

80
3.1.1.2. Hình thành môi trường pháp luật cho thương mại theo chế
độ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia, tăng cường tính cạnh tranh và
cạnh tranh bình đẳng trong nông nghiệp
Trong những năm gần đây, hàng loạt bộ luật, pháp lệnh đã được ban
hành hoặc bổ sung: Luật doanh nghiệp chung (2005), Luật đầu tư chung (2005),
Pháp lệnh đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc trong thương mại quốc tế
(2004), Pháp lệnh chống bán phá giá (2004), Pháp lệnh chống trợ cấp hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam (2004), Bộ luật dân sự sửa đổi, Luật thuế xuất
khẩu, nhập khẩu sửa đổi... Hệ thống các văn bản pháp luật về hội nhập kinh tế
quốc tế đã góp phần tạo dựng môi trường pháp lý cho quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam nói chung, của nông nghiệp Việt Nam nói riêng.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp và đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa
các chủ thể kinh doanh. Trong đó điển hình là Luật doanh nghiệp và Luật đầu
tư chung. Trong hai luật quan trọng này, vai trò của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần đều có những ưu đãi như nhau trong việc thành lập và đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, không phân biệt đối xử.
Luật cạnh tranh (2004) đã nêu rõ các hành vi sai phạm trong cạnh
tranh, theo đó, các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp
luật và Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh. Đạo
luật cũng quy định rõ những biện pháp xử lý nghiêm khắc với các hành vi vi
phạm để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các chủ thể kinh
tế trong thị trường.
3.1.1.3. Xây dựng tính đồng bộ, minh bạch của hệ thống pháp luật
nông nghiệp
Hệ thống pháp luật trong nước đang hướng tới bảo đảm tính đồng bộ
với sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau bao
gồm: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nhấn mạnh yêu cầu minh bạch hóa nhằm

81
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định lâu dài ở cấp độ quốc gia cũng như
quốc tế. Hiện nay, các văn bản pháp luật và chính sách nông nghiệp của Việt
Nam áp dụng cho thương mại hàng hóa, dịch vụ đầu tư và sở hữu trí tuệ đã
được đăng tải trên công báo và có thể tiếp cận thông qua Internet.

3.1.1.4. Bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia đối với các
quy phạm của Hiệp định Nông nghiệp và pháp luật liên quan

Về cơ bản, các quy định trong Hiệp định nông nghiệp bao gồm những
nội dung chủ yếu là các chính sách tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước, và
trợ cấp xuất khẩu. Việc ban hành mới sửa đổi và bổ sung hệ thống pháp luật
hướng tới sự tương thích giữa hệ thống luật các quy định trong nước và WTO về
những vấn đề nêu trên đã được thực hiện một cách khẩn trương, và bảo đảm
những thủ tục quy trình xây dựng các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành.

3.1.2. Thách thức

3.1.2.1. Đưa ra những yêu cầu cao đối với cải cách hệ thống pháp
luật nông nghiệp

Việc gia nhập WTO là một quá trình khó khăn nhất đối với hệ thống
pháp luật của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Việt Nam phải
thực hiện những tiêu chuẩn quốc tế về tính minh bạch, tính đồng bộ, tính công
bằng và tính hợp lý. Các quy định pháp lý, các quyết định liên quan đến
thương mại phải được công bố công khai để cho các doanh nghiệp biết trước
khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu cầu về thông tin, thắc mắc và bình luận trong
lĩnh vực nông nghiệp đều cần phải được giải đáp. Luật pháp, chính sách liên
quan đến nông nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ, công bằng. Đề tuân thủ yêu
cầu này, các đạo luật, quy định liên quan cũng cần phải mang tính chất hợp lý,
phù hợp. So với những chuẩn mực quốc tế, hệ thống luật pháp của Việt Nam
còn nhiều yếu kém, nhiều quy định cần được tiếp tục xây dựng, ban hành.
Điều này gây rất nhiều khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực nông nghiệp.

82
3.1.2.2. Thực hiện những quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ

Đây là một vấn đề quan trọng trong quản lý nông nghiệp, thường có
những bất đồng về lợi ích giữa các nước đang phát triển và phát triển. Về lâu
dài, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ khuyến khích sự sáng tạo ngay tại các
nước đang phát triển như Việt Nam nhằm tạo ra các giống cây, con mới trong
nông nghiệp. Tuy nhiên, TRIPS đang có những xu hướng bất lợi cho các nước
đang phát triển và kém phát triển bởi vì hầu hết các phát minh sáng chế hiện
nay chủ yếu bắt nguồn từ các nước phát triển. TRIPS bảo vệ quyền của người
tạo ra phát minh sáng chế và quy định người sử dụng phát minh sáng chế phải
trả tiền. Trong khi đó, các nước đang phát triển lại hầu như có rất ít các phát
minh, sáng chế trong lĩnh vực này.

Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện TRIPS do
nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen tuân thủ quyền sở
hữu trí tuệ. Trong khi đó, các thành viên của WTO lại rất quan tâm đến vấn
đề này và coi đây là nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập
WTO của Việt Nam. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam có giai đoạn quá độ thực
hiện TRIPS dài hơn, nhưng quá trình thực hiện sẽ rất khó khăn. WTO có thể
áp dụng những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với những sai lầm trong
quá trình thực hiện, thậm chí đối với cả những nước không có khả năng về
mặt thể chế để thực hiện những yêu cầu này của WTO.

Việt Nam hiện là nước đang phát triển ở trình độ thấp, việc áp dụng
những quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và trong lĩnh vực nông
nghiệp nói riêng gặp rất nhiều các khó khăn, thách thức. Trong thời gian tới
cần phải xây dựng những cơ chế riêng biệt áp dụng trong lĩnh vực nông
nghiệp để thực hiện TRIPS.

3.1.2.3. Khả năng thực thi các cam kết yếu

Để tham gia WTO, Nông nghiệp Việt Nam không những phải hoàn
thiện khung luật pháp đáp ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn

83
phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để đáp ứng các yêu cầu trên, Nhà nước
đã đề ra Chương trình xây dựng luật pháp để gia nhập WTO với hai phần: luật
phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc), như: Luật cạnh
tranh; Luật thương mại; Luật đầu tư (không phân biệt đầu tư trong hay ngoài
nước); Luật sở hữu trí tuệ; Luật bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi… và luật về
quyền của nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp lệnh chống bán phá
giá, Pháp lệnh chống trợ cấp… Nông nghiệp Việt Nam cam kết sẽ tuân thủ
các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có
thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là
khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ thống pháp luật nông nghiệp
của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban
hành nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn.

Theo Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại (TRIPs) của WTO, các nước thành viên phải có hệ thống bảo vệ bản
quyền, bằng phát minh, sáng chế, nhãn mác hàng hóa… rất nghiêm ngặt. Thế
nhưng, ở nước ta, việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu
mã… vẫn diễn ra tràn lan và chưa được giải quyết triệt để. Tình hình trên làm
cho các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh bình đẳng
và đúng luật trên thị trường thế giới.

3.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ NÔNG SẢN

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều động thái tích cực
thông qua việc ban hành các chính sách thương mại và đầu tư thông thoáng và
phù hợp hơn với các quy định quốc tế. Từ một nước chưa đủ lương thực tự
cung cấp trong nước, đến nay, Việt Nam đã là nước xuất khẩu lớn thứ hai trên
thế giới về gạo, cà phê, đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu… Thông qua
các thành tích xuất khẩu, có thể thấy nông nghiệp là một trong những lĩnh vực
hội nhập tích cực và năng động nhất, cùng với việc tăng cường xuất khẩu, thị
trường tiêu thụ trong nước cũng trở nên thông thoáng hơn.

84
3.2.1. Chính sách pháp luật thuế nhập khẩu đối với hàng nông sản
Trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi của nước ta có 6285 dòng thuế, với
19 mức từ 0%-100%. Thuế xuất thuế nhập khẩu bình quân của các nước nếu
tính cả các dòng thuế 0% là 16%, nếu trừ dòng thuế 0% là 24%. Thuế phổ
thông bằng 150% so với các mức ưu đãi [21].
Hàng nông sản có 836 dòng thuế nhập khẩu, chiếm 13,3% tổng số
dòng thuế trong biểu thuế, với 12 mức thuế từ 0%-100%. Thuế xuất thuế nhập
khẩu bình quân nếu tính cả các dòng thuế 0% là 24%, nếu trừ các dòng thuế
0% là 28% [21].
Loại thuế nhập khẩu 0%: Áp dụng cho toàn bộ nhóm hàng giống cây
trồng, giống vật nuôi, các loại gia, lông động vật làm nguyên liệu cho công
nghiệp thuộc da và may mặc, bông xơ. Những mặt hàng này chủ yếu là
nguyên liệu cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến mà trong nước
chưa sản xuất được hoặc sản xuất được rất ít.
Loại thuế nhập khẩu từ 1-10%: Động vật giống khác, trừ giống, phụ
phẩm chăn nuôi (xương, nội tạng), ngô, lúa mỳ, mạch, yến, kê, ngũ cốc dạng
vỡ mảnh…Nhóm này cũng chủ yếu là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,
trong nước không sản xuất hoặc nhu cầu trong nước ít [21]
Loại thuế nhập khẩu từ 15-30%: Các loại thịt tươi, thịt đông lạnh, sữa,
rau tươi các loại, gạo, đường thô, gia vị.. đây là nhóm hàng trong nước sản
xuất được, có lợi thế xuất khẩu và nhu cầu nhập không nhiều [21].
Loại thuế nhập khẩu 40-50%: Quả tươi các loại, dầu thực vật tinh thể,
đường tinh luyện, sản phẩm chế biến. Đây là những ngành đem lại giá trị gia
tăng cao, nhưng ngành công nghiệp chế biến của nước ta chưa phát triển đúng
mức với yêu cầu sản xuất nông nghiệp, khả năng cạnh tranh chưa cao, đang
được bảo hộ cao thể hiện qua thuế nhập khẩu [21].
Loại thuế nhập khẩu 80-100%: Rượu, bia, nước ngọt và thuốc lá. Sản
xuất trong nước đủ đáp ứng nhu cầu, có lợi nhuận cao, hàng xa xỉ không
khuyến khích nhập khẩu [21].

85
Quá trình xây dựng và điều hành pháp luật, chính sách thuế nhập
khẩu, Việt Nam thường gặp những khó khăn sau:

Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển, chính sách
thuế và phi thuế luôn phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Chiến lược phát triển của từng ngành hàng chưa được xây dựng một cách rõ
ràng hoặc liên tục bị điều chỉnh, Do vậy, việc xây dựng các cam kết quốc tế
thường bị động, không mang tính dài hạn.
Trong ngành nông nghiệp, sản phẩm của các ngành hàng này là đầu
vào của các ngành hàng kia, bảo vệ ngành này lại ảnh hưởng đến ngành khác,
ví dụ người sản xuất ngô, đậu tương đề nghị tăng thuế nhập khẩu để khuyến
khích sản xuất trong nước, thì ngành chăn nuôi lại đề nghị giảm tối đa thuế
nhập khẩu nguyên liệu đầu vào để hạ giá thành chăn nuôi. Tình trạng tương tự
cũng xảy ra đối với các ngành khác như bông, muối, giấy…
Một số ngành hàng tuy rất nhỏ, nhưng lại là sản phẩm chính của một
vùng. Bảo hộ tất cả các ngành hàng thì không được, nhưng nếu không bảo hộ
thì sẽ ảnh hưởng tới cả đời sống, kinh tế xã hội của cả một vùng.
Thuế nhập khẩu là công cụ phổ biến nhất để hạn chế nhập khẩu nông
sản, Mức thuế nhập khẩu đối với nông sản như phân tích ở trên hiện nay là
khá cao, chẳng hạn như thuế xuất đối với rượu bia là cao có thể trên 100%,
với một số loại đồ uống, quả chế biến, sản phẩm chế biến từ một số thuỷ sản
và gia súc là 50%. Tuy nhiên, thuế xuất thuế nhập khẩu nông sản của ta không
phải là quá cao nếu so sánh với một số nước khác trên thế giới. Nhằm bảo vệ
sản xuất trong nước của mình, một số nước đã áp dụng mức thuế nhập khẩu
rất cao. Chẳng hạn, thuế suất nhập khẩu đối với thịt gà ướp đông hoặc ướp
lạnh của Thuỵ Sĩ là 680% và của EU là 240%, thuế suất đánh vào gạo nhập
khẩu của Nhật Bản là 490%. Tuy nhiên, thuế cao như trên là "sản phẩm phụ"
của quá trình thuế hoá tại Vòng đàm phán Uruguay của WTO. Tại vòng đàm
phán này, các thành viên WTO phải loại bỏ tất cả các hàng rào phi thuế hạn
chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước. Trong chừng mực

86
nhất định, các thành viên có thể nâng thuế nhập khẩu để giữ mức bảo hộ
tương đương [24].
Thuế được áp dụng vừa nhằm mục đích bảo hộ, vừa nhằm mục đích
thu ngân sách. Chính vì vậy, một số mặt hàng Việt Nam không hề sản xuất
nhưng vẫn chịu thuế suất nhập khẩu tương đối cao (mạch nha, lúa mạch, một
số loại hoa quả ôn đới). Có một số mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển các sản
phẩm nguyên liệu thô và các sản phẩm chế biến. Ví dụ, đường chịu thuế suất
nhập khẩu lên tới 40% (trên thực tế là hầu như cấm nhập), trong khi đó, đường
lại là đầu vào quan trọng cho các ngành chế biến thực phẩm. Việc áp dụng
chính sách bảo hộ cao đối với đường cũng là tăng chi phí, giảm khả năng cạnh
tranh của nhiều ngành chế biến nông sản khác (chế biến nước ngọt, nước hoa
quả). Hay các loại thức ăn gia súc đều chịu thuế suất 10% làm tăng chi phí
đầu vào cho ngành chăn nuôi vốn là ngành Việt Nam có nhu cầu phát triển.

3.2.2. Hỗ trợ trong nước


Theo số liệu thông báo tại biểu Bảng kê khai chính sách pháp luật
nông nghiệp của Việt Nam theo yêu cầu của WTO (ACC4) giai đoạn 1999 -
2001, đa số chính sách hỗ trợ trong nước của Việt Nam nằm trong hộp xanh
lá cây (gồm các hỗ trợ trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây
dựng kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, hỗ trợ các vùng khó khăn, hoạt động
thú y, bảo vệ thực vật,…) và chính sách thuộc "Chương trình phát triển" mà
các nước đang phát triển được phép áp dụng.
Một số chính sách hỗ trợ trong nhóm các biện pháp phải cam kết cắt
giảm hay còn gọi là nhóm chính sách Hộp hổ phách (Amber Box). Tuy nhiên,
do mức hỗ trợ của nước ta còn thấp hơn mức tối thiểu nên không phải cam kết
cắt giảm. Các hỗ trợ trong nhóm này bao gồm các biện pháp hỗ trợ theo mặt
hàng cụ thể và các biện pháp hỗ trợ không theo mặt hàng cụ thể được lượng
hoá trong tổng AMS.
Từ năm 2001 đến nay, các chính sách hỗ trợ trong nước cho nông
nghiệp đã và đang có sự chuyển đổi theo hướng phù hợp hơn với quy định

87
của WTO và thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá nông lâm
sản, giảm đáng kể sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường, tình hình cụ thể
xin được trình bày dưới đây.

3.2.2.1. Hỗ trợ trong nhóm "hộp hổ phách" (Amber box)

Theo số liệu về các biện pháp hỗ trợ trong nhóm Hộp hổ phách (Biểu
ACC4) giai đoạn 1999-2001, duy nhất mặt hàng đường có lượng hỗ trợ " hộp
hổ phách" vượt quá mức cho phép. Các sản phẩm nông sản khác (gạo, thịt
lợn, bông…) không nằm trong diện cắt giảm vì tổng AMS này ít hơn 10% giá
trị sản xuất của từng mặt hàng đó [3].

Mấy năm qua, một mặt, để phục vụ cho quá trình đàm phán gia nhập
WTO, mặt khác nhờ giá cả thị trường thế giới và trong nước có nhiều thuận
lợi, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc giảm đáng kể sự can thiệp vào thị
trường nông sản trong nước thông qua nhóm chính sách này. Tình hình cụ thể
như sau:

* Tổng hỗ trợ tính gộp theo sản phẩm cụ thể:

Trong giai đoạn sau 2001, Việt Nam đã có những cải cách quan trọng
theo hướng thị trường và mở cửa đối với thương mại quốc tế, giá các nông
sản ngày càng gần với mức giá thế giới.

Lúa gạo: Trước đây, vào vụ thu hoạch rộ, giá lúa gạo xuống quá thấp
gây ảnh hưởng đến đời sống và thu nhập của nông dân, Chính phủ thường áp
dụng biện pháp hỗ trợ lãi suất để khuyến khích các doanh nghiệp mua lúa tạm
trữ. Thời gian hỗ trợ thường kéo dài từ 3 tháng đến 6 tháng, thậm chí 1 năm;
khối lượng được hỗ trợ thường giao động từ 500 ngàn đến 1 triệu tấn gạo tuỳ
thuộc vào tình hình thị trường. Đối tượng được nhận hỗ trợ trực tiếp của
Chính phủ là doanh nghiệp. Trong ba năm qua, Chính phủ đã chuyển đổi hình
thức hỗ trợ doanh nghiệp sang hỗ trợ cho nông dân gửi lúa vào kho khi giá
lúa trên thị trường thấp hơn giá sàn định hướng (Công văn số 965/CP-KTTH
ngày 18/7/2003 của Chính phủ). Tuy chính sách đã được ban hành nhưng nhờ

88
giá lúa trong ba năm qua luôn ổn định ở mức cao, có lợi cho nông dân, kể cả
trong vụ thu hoạch nên hầu như chính sách này chưa được áp dụng trong thực
tế. Đồng thời, trong một số trường hợp nhất định, Chính phủ vẫn yêu cầu các
doanh nghiệp mua gạo xuất khẩu theo các hợp đồng ký kết cấp Chính phủ.
Tuy đây là các quyết định mang tính cá biệt, nhưng nằm trong nhóm phải loại
bỏ dần khi gia nhập WTO.

Sản phẩm đường: Do là một ngành công nghiệp non trẻ, mới được
phát triển trong giai đoạn 1998 - 2000, hơn nữa lại tập trung ở các vùng duyên
hai miền trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long - là các vùng khó
khăn, ngành mía đường của Việt Nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ và bảo
hộ rất đáng kể của Nhà nước. Trong số các mặt hàng nông sản, đường là mặt
hàng được bảo hộ cao nhất (nếu không tính đến rượu bia và thuốc lá). Những
khó khăn của ngành mía đường không thể khắc phục ngay, do vậy, trước yêu
cầu hội nhập cần phải tính đến những giải pháp bảo vệ ngành mía đường một
cách có hiệu quả, nhưng phải đảm bảo phù hợp với các quy định của WTO
trong giai đoạn tiếp theo.
Theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005, Điều 2,
khoản 1, Phụ lục 2 quy định: "Cấp giấy phép nhập khẩu mặt hàng đường ăn
nhằm hỗ trợ ngành sản xuất đường trong nước" - quy định này vi phạm hạn
chế số lượng hàng nhập khẩu của WTO - do đó quy định này sẽ bị bãi bỏ
trong thời gian tới.
Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán để chuyển từ giấy phép nhập khẩu
đường sang hạn ngạch thuế quan. Nhìn chung, biện pháp hạn ngạch thuế quan
được các nước chấp nhận để thay thế cho giấy phép nhập khẩu. Tuy nhiên,
việc này cũng rất phức tạp, vì phải đàm phán rất chi tiết từ hạn ngạch, mức
thuế, tốc độ tăng hạn ngạch hàng năm, biện pháp quản lý v.v…
Đối với hỗ trợ trong nước, Chính phủ cũng đã bãi bỏ yêu cầu các nhà
máy phải mua mía theo giá tối thiểu cho nông dân.

89
Các nông sản khác (cà phê, bông, thịt lợn): Giai đoạn sau năm 2001,
việc hỗ trợ cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Không áp dụng hỗ trợ đối với sản
phẩm thịt lợn và cà phê. Về bông, tuy tiếp tục yêu cầu các doanh nghiệp công
bố giá sàn mua bông cho nông dân, nhưng Nhà nước không thực hiện bù lỗ;
Cho phép thành lập quỹ dự phòng rủi ro thiên tai và thị trường. Điều này
chứng tỏ sự chuyển đổi chính sách theo đúng hướng.
* Hỗ trợ tính gộp không theo sản phẩm cụ thể:
Trong giai đoạn sau 2001, Việt Nam vẫn duy trì một số chích sách
nhằm hỗ trợ không theo sản phẩm cụ thể được báo cáo trong biểu hỗ trợ trong
nước (DS9) của ACC4.
Hỗ trợ về bán giá điện cho bơm nước, tưới tiêu trong nông nghiệp,
cấp bù một số khoản thuỷ lợi phí do nông dân gặp khó khăn về tài chính nên
không có khả năng trả.
Nhìn chung, mức hỗ trợ và diện sản phẩm được nhận hỗ trợ dưới dạng
hộp hổ phách của nước ta vốn đã rất thấp, không phải cam kết loại bỏ khi gia
nhập WTO. Từ năm 2001 đến nay, nước ta tiếp tục có nhiều cải cách theo
hướng giảm bớt sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường. Đây là hướng đi
đúng và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.
3.2.2.2. Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây (Green box)
Trong giai đoạn sau 2001, việc áp dụng các chính sách hỗ trợ thuộc
hộp xanh của Việt Nam có xu hướng tăng lên. Hiệp định nông nghiệp liệt kê
các nhóm chính sách hỗ trợ sau vào danh mục của hộp xanh. Chính sách
thuộc nhóm này không hoặc ít bóp méo thương mại nên các nước được tự do
áp dụng [20]:
Nhóm 1: Dịch vụ chung;
Nhóm 2: Dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực;
Nhóm 3: Viện trợ lương thực, thực phẩm trong nước;
Nhóm 4: Hỗ trợ nhằm giảm nhẹ thiên tai;

90
Nhóm 5: Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu;
Nhóm 6: Chương trình môi trường;

Nhóm 7: Chương trình hỗ trợ vùng;


Nhóm 8: Hỗ trợ người nông dân về hưu do phải chuyển đổi cơ cấu sản xuất;
Nhóm 9: Đảm bảo thu nhập tối thiểu cho nông dân (mạng lưới an sinh
xã hội).
Nhóm 1: Dịch vụ chung
Các chính sách pháp luật trong lĩnh vực dịch vụ chung gồm các
chương trình liên quan đến việc cung cấp dịch vụ phục vụ chung cho ngành
nông nghiệp thông qua các chương trình như nghiên cứu, khuyến nông, đào
tạo, kiểm soát dịch bệnh cây trồng và gia súc dịch vụ kiểm tra, kiểm hoá, dịch
vụ tiếp thị và xúc tiến thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp Việt
Nam hiện đã áp dụng 05 nhóm là nghiên cứu khoa học, khuyến nông, kết cấu
hạ tầng nông nghiệp, phòng, chống và kiểm tra, kiểm soát dịch bệnh trong
chăn nuôi và trồng trọt.
Về nghiên cứu khoa học, toàn ngành nông nghiệp có 21 Viện chuyên
ngành gồm các viện đầu ngành như: Viện Bảo vệ Thực vật, Viện Cây lương
thực, Thực phẩm, Viện Công nghệ sau Thu hoạch, Viện Chăn nuôi, Viện Di
truyền, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện Khoa học Lâm
nghiệp, Viện Khoa học Thuỷ lợi v.v... Nhà nước cấp một phần kinh phí cho
các viện nghiên cứu thực hiện các đề tài nghiên cứu về giống cây, con, kỹ
thuật canh tác, nguồn nước, đề tài bảo vệ cây trồng, nghiên cứu kinh tế nông
nghiệp theo ngân sách hàng năm.

Công tác khuyến nông: đây cũng là một trong các trọng tâm được
Chính phủ quan tâm. Một hệ thống khuyến nông từ trung ương đến địa
phương đã được thành lập với một số lượng cán bộ khuyến nông lớn thuộc
biên chế nhà nước. Nhằm củng cố và phát triển hệ thống khuyến nông theo
chiều sâu, ngày 03 tháng 11 năm 2003, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát

91
triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 118/2003/QĐ-BNN quy định chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, theo
đó có các chính sách và các hoạt động khuyến nông nhằm trợ giúp nông dân:
xóa đói giảm nghèo; tăng cường sức cạnh tranh hàng hoá chủ lực; xây dựng
mô hình hợp tác xã và xã điểm mô hình nông thôn mới. Một trong những
chức năng chính của công tác khuyến nông là nhằm tư vấn miễn phí cho nông
dân về kỹ thuật và phương pháp sản xuất. Các cán bộ khuyến nông sẽ hướng
dẫn cho nông dân các kỹ thuật về giống mới, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu
bệnh. Nhà nước cấp kinh phí để bộ máy này hoạt động. Ngày 26/4/2005,
Chính phủ ban hành Nghị định số 56/NĐ-CP về khuyến nông - khuyến ngư,
theo đó ngân sách nhà nước, ngân sách do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
cấp theo dự toán ngân sách hàng năm được duyệt đối với các chương trình
khuyến nông. Chương trình này sẽ được Chính phủ khuyến khích áp dụng
trong thời gian tới.

Ngày 20/3/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
311/QĐ-TTg về phát triển hạ tầng thương mại nông thôn, theo đó, ngân sách
nhà nước sẽ hỗ trợ đầu tư xây dựng mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật hoặc hỗ trợ
vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại, chủ yếu xây dựng mạng lưới
chợ. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục duy trì hỗ trợ phát triển mạng
lưới tiêu thụ loại này, phù hợp với các quy định của WTO.

Về dịch vụ thú y, bảo vệ và kiểm dịch động thực vật: Hiện nay Việt
Nam đã xây dựng được một hệ thống thú y và bảo vệ thực vật tương đối toàn
diện, đã góp phần tích cực vào công tác kiểm soát dịch bệnh trong cả nước.

Ngày 29/4/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
số 18/2004/PL-UBTVQH11 về thú y, theo đó Nhà nước đầu tư cho các hoạt
động: Nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đào tạo nhân lực trong lĩnh
vực thú y; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu về
thú y, kiểm dịch động vật; … Phát triển hệ thống thông tin, giám sát dịch
bệnh; xây dựng khu cách ly kiểm dịch động vật tại một số cửa khẩu; xây dựng

92
và thực hiện chương trình khống chế, thanh toán một số dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm; Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho việc nghiên cứu và sản xuất
vắc xin, phòng, chống dịch bệnh. Pháp lệnh đã mang lại hiệu quả cao trong
công tác chỉ đạo phòng chống dịch bệnh trong cả nước, đặc biệt trong quá
trình phòng chống dịch cúm gia cầm tại Việt Nam. Thông qua hoạt động này,
Chính phủ Việt Nam đã chi thêm nhiều ngân sách trợ cấp cho nông nghiệp
Dịch vụ bảo vệ thực vật: Pháp lệnh bảo vệ thực vật đã được ban hành
Về xúc tiến thương mại: giai đoạn sau 2001: Nhiều hoạt động hỗ trợ
xúc tiến thương mại trong ngành nhằm tìm kiếm thị trường mới cho hàng
nông lâm sản cũng như giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Các hoạt động hỗ trợ này phù hợp với quy định của WTO và được
tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp theo.
Một số chính sách hỗ trợ trực tiếp theo dạng này đã được ban hành như:
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 16/2004/PLUBTVQH11
ngày 24/3/2004 về quản lý giống vật nuôi, theo đó Nhà nước đầu tư và hỗ trợ
cho việc thu thập, bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm; xây dựng cơ sở lưu
giữ nguồn gen vật nuôi quý hiếm; bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm tại
địa phương, hỗ trợ việc phục hồi giống vật nuôi trong trường hợp bị thiên tai,
dịch bệnh gây hậu quả nghiêm trọng, ưu tiên đầu tư cho các hoạt động thu
thập, bảo tồn nguồn gen vật nuôi quý hiếm; nghiên cứu, chọn, tạo, khảo
nghiệm, kiểm định giống vật nuôi mới và nuôi giữ giống vật nuôi thuần
chủng. Do phù hợp với các quy định WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì và
mở rộng các loại chính sách, quy định pháp luật này trong thời gian tới.
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về: Nhà nước hỗ trợ ngân sách một phần đề đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, hệ thống chợ, mạng lưới thông tin, kho tàng cho các vùng sản xuất
nguyên liệu tập trung. Hỗ trợ về xúc tiến thương mại, ưu tiên tham gia thực
hiện các hợp đồng thương mại chính phủ, chương trình xúc tiến thương mại
của Bộ, Hiệp hội.

93
Chỉ thị 24/2003/CT-TTg ngày 8/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ
nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, theo đó, có những
chính sách hỗ trợ chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, cung
cấp thông tin thị trường trong và ngoài nước cho nông dân, ngư dân, hỗ trợ tài
chính và ưu đãi thuế cho phát triển vùng nguyên liệu công nghiệp chế biến
nông lâm sản.

Chỉ thị 19/2004/CT-TTg ngày 1/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành về một số giải pháp phát triển chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Chỉ thị đã đưa ra những chính sách quy định hỗ trợ về đất đai, đầu tư, tín
dụng, hỗ trợ giống, xây dựng hạ tầng cho phát triển nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.

Các chính sách, quy định này sẽ tiếp tục được áp dụng trong thời gian
tới. Tuy nhiên, sẽ có sự sửa đổi một số nội dung vì chưa phù hợp với các quy
định của WTO.

Nhóm 2: Dự trữ công vì mục đích an ninh lương thực

Hoạt động dự trữ quốc gia là các hoạt động xây dựng và thực hiện kế
hoạch, dự toán ngân sách dự trữ quốc gia; xây dựng hệ thống cơ sở vật chất -
kỹ thuật để quản lý dự trữ quốc gia; điều hành nhập, xuất, bảo quản, bảo vệ
dự trữ quốc gia.

Trong giai đoạn sau 2001, Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì chương trình
dự trữ quốc gia nhằm bảo đảm an ninh lương thực. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn
chưa xây dựng được chương trình an ninh lương thực quốc gia một cách đồng
bộ và toàn diện.
Ngoài ra, Việt Nam còn đưa vào chương trình dự trữ một số vật tư
phục vụ nông nghiệp như hạt giống lúa, giống rau, thuốc bảo vệ thực vật,
vaccin thú y, phân bón để hỗ trợ trong trường hợp thiên tai gây ra. Theo
Quyết định số 37/2003/QĐ-TTg của Chính phủ về nhập khẩu phân bón dự trữ
lưu thông, ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để nhập khẩu và

94
dự trữ 100 ngàn tấn Ure trong 6 tháng. Theo Pháp lệnh Dự trữ quốc gia số
17/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 4 năm 2004, Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về dự trữ quốc gia và trực
tiếp tổ chức quản lý, bảo quản hàng dự trữ quốc gia để đáp ứng yêu cầu bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia, cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ khẩn cấp, phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, bình ổn thị trường,
ổn định đời sống nhân dân. Ngày 9/6/2005 Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư 48 /2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 196/2004/NĐ-CP
ngày 02/12/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Dự trữ
quốc gia.
Thông tư này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc xây dựng, tổ chức quản lý, điều hành và sử dụng dự trữ quốc
gia và tập trung hướng dẫn về kế hoạch và dự toán ngân sách dự trữ quốc gia;
nhập xuất hàng dự trữ quốc gia; xử lý hàng dự trữ quốc gia hao hụt, thiệt hại
do bị hư hỏng, giảm phẩm chất hoặc bị mất; xây dựng, ban hành, thực hiện
định mức kinh tế - kỹ thuật, quy trình, quy phạm bảo quản hàng dự trữ quốc
gia; ký hợp đồng nguyên tắc, bảo quản hàng, kho chứa hàng, quy hoạch hệ
thống kho dự trữ quốc gia; quản lý tài chính và ngân sách chi cho dự trữ quốc
gia; thủ tục, trình tự xuất dự trữ quốc gia bằng tiền; trích lập, quản lý, sử dụng
quỹ phúc lợi, khen thưởng; bảo vệ bí mật nhà nước, kiểm tra, thanh tra dự trữ
quốc gia. Cụ thể, thông tư 48 hướng dẫn chi tiết các nội dung sau:
1. Kế hoạch và dự toán ngân sách dự trữ quốc gia;
2. Nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia;
3. Xử lý hàng dự trữ quốc gia hao hụt, thiệt hại do bị hư hỏng, giảm
phẩm chất hoặc bị mất;
4. Xây dựng, ban hành, thực hiện định mức kinh tế - kỹ thuật, quy
trình, quy phạm bảo quản hàng dự trữ quốc gia;
5. Ký hợp đồng nguyên tắc, bảo quản hàng, kho chứa hàng, quy hoạch
hệ thống kho dự trữ quốc gia;

95
6. Quản lý tài chính và ngân sách chi cho dự trữ quốc gia;

7. Thủ tục, trình tự xuất dự trữ quốc gia bằng tiền để mua hàng dự trữ
quốc gia;

8. Trích lập, quản lý, sử dụng Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng;

9. Bảo vệ bí mật Nhà nước, kiểm tra, thanh tra dự trữ quốc gia.

Các chương trình dự trữ quốc gia về lúa gạo do Cục dự trữ quốc gia
quản lý, dự trữ quốc gia về giống cây trồng thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật
do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý.

Nhìn chung, chính sách pháp luật của Việt Nam về dự trữ công về
mục đích an ninh lương thực nhằm bảo đảm bình ổn việc cung cấp đầy đủ
lương thực cho tất cả mọi người ở mọi nơi. Việt Nam chưa có một chương
trình dự trữ an ninh lương thực quốc gia đồng bộ, do đó, trong thời gian tiếp
theo, bên cạnh các chính sách dự trữ quốc gia, cần phải có những hướng dẫn
cụ thể cho từng sản phẩm, mặt hàng thiết yếu.

Đây là chính sách phù hợp với các quy định của WTO về dự trữ công
vì mục đích đảm bảo ổn định đời sống và sản xuất nông nghiệp trong trường
hợp khẩn cấp. Trong các năm tiếp theo, chính sách này vẫn được duy trì
áp dụng

Nhóm 3: Viện trợ lương thực, thực phẩm trong nước

Giai đoạn sau 2001, Việt Nam đã áp dụng một số NTM nhằm trợ cấp
lương thực thực phẩm, cụ thể là viện trợ lương thực cứu đói cho những vùng
khó khăn, vùng sâu, vùng xa.

Nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo, trong những năm qua Chính phủ
đã thực hiện nhiều biện pháp tập trung cho các vùng nông thôn. Xoá đói giảm
nghèo đã trở thành nhiệm vụ xuyên xuốt của hầu hết các chương trình phát
triển nông nghiệp và nông thôn, nổi bật là Chương trình 135, chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm.

96
Nhóm 4: Hỗ trợ nhằm giảm nhẹ thiên tai

Là quốc gia luôn phải đối mặt với thiên tai, hàng năm, Chính phủ
dành một khoản ngân sách phòng chống thiên tai. Với mục đích hỗ trợ lương
thực, thực phẩm, các vật dụng tối thiểu cho nhân dân vùng bị thiên tai, ổn
định cuộc sống, khôi phục sản xuất, Chính phủ đã có những chính sách hướng
dẫn cụ thể trong việc cung cấp cứu trợ khẩn cấp cho dân thường và những gia
đình bị thiên tai ảnh hưởng.

Thực tế chính sách hỗ trợ trên cho thấy, nước ta mới chỉ có khả năng
tập trung vào các loại hình hỗ trợ mang tính xã hội (không được coi là hỗ trợ
nông nghiệp). Hỗ trợ cho nông dân để phục hồi sản xuất nông nghiệp là rất ít.
Căn cứ vào mức độ thiệt hại trong nông nghiệp, Nhà nước thường hỗ trợ một
phần thông qua việc cung cấp cho không hạt giống lúa, ngô, rau, thuốc phòng
dịch cho gia súc (từ nguồn dự trữ quốc gia). Tuy nhiên, mức hỗ trợ của Nhà
nước còn rất nhỏ so với mức độ thiệt hại của nông dân. Nhiều nơi, lũ lụt, sat
lở làm mất hêt cả đồng ruộng, gây cho nông dân rất nhiều khó khăn. Rất khó
khăn để tách riêng phần hỗ trợ cho nông nghiệp, vì Bộ Tài chính cấp cả gói
kinh phí trực tiếp cho tỉnh.

Nhóm chính sách này có tác động trực tiếp đến đời sống của nông dân
tại các vùng thiên tai, dịch bệnh, Nhà nước tập trung vào công tác cứu trợ
khẩn cấp, kết hợp với các chương trình dự trữ công vì mục đích an ninh lương
thực đảm bảo hỗ trợ toàn diện đối với những nơi bị thiên tai, dịch bệnh. Hỗ
trợ giảm nhẹ thiên tai là một trong nhóm chính sách hộp xanh của Hiệp định
nông nghiệp. Trong thời gian tới Chính phủ sẽ có những biện pháp và chính
sách tích cực hơn nữa trong việc ổn định cuộc sống và khôi phục sản xuất
trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Nhóm 5: Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu

Trong các hình thức hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu được WTO thừa nhận,
Việt Nam chỉ mới sử dụng hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chuyển đất

97
đai từ sản xuất nông nghiệp sang sử dụng cho các mục đích khác và trợ cấp
thông qua hỗ trợ đầu tư. Ngày 20/6/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020 với quan điểm: Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản nhằm nâng cao giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác, tạo
nhiều việc làm và tăng nhanh thu nhập cho nông dân, ngư dân, diêm dân và
người làm nghề rừng. Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản phải trên cơ sở nhu cầu của thị trường; phát huy lợi thế
và điều kiện tự nhiên của từng vùng, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
nhằm đạt năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, tăng khả năng cạnh tranh
nông, lâm, thủy sản hàng hóa Việt Nam. Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản
xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản phải đồng bộ với cơ chế chính sách, huy
động được mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế kết hợp với sự hỗ trợ
của Nhà nước, để đảm bảo sản xuất có hiệu quả, bền vững và an toàn môi
trường sinh thái.

Chính sách này được thực hiện dựa trên sự phối hợp của các Bộ ngành
liên quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài Chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Thủy sản và các cơ quan khác. Theo đó, Bộ Tài chính:
đảm bảo các chính sách tài chính để thực hiện quy hoạch chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản.

Giai đoạn sau 2001, Việt Nam vẫn chưa áp dụng trợ cấp điều chỉnh cơ
cấu thông qua chương trình trợ giúp người sản xuất về hưu. Trong thời gian
tới Chính phủ sẽ có những chính sách hợp lý điều chỉnh vấn đề này.

Nhóm 6: Chương trình môi trường

Với mục tiêu tăng độ che phủ cây cối với các vùng đất trống đồi núi
trọc, phát triển nông lâm ngư nghiệp ở những vùng khó khăn nhằm khôi phục
môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn nước, trong giai đoạn sau 2001, Chính

98
phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ và phát triển rừng, trong đó
chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ của dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được
quốc hội thông qua. Sau 7 năm thực hiện (tính từ năm 1998 là năm thực hiện
Quyết định 661 đến năm 2005), tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 5.916.248 triệu
đồng. Nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp, ngày 20/10/2002 Bộ Tài Chính ban
hành Quyết định số 109/2002/TTLT/BNN cho phép lâm trường được sử dụng
thuế thu nhập doanh nghiệp cho đầu tư phát triển rừng.

Chương trình này còn tiếp tục được Chính phủ ưu tiên thực hiện trong
các giai đoạn tiếp theo - do phù hợp với các quy định của WTO. Bên cạnh
chương trình trồng rừng và cho phép các lâm trường đầu tư phát triển rừng, nước
ta cũng thực hiện một số chương trình khác như chương trình nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn. Trong giai đoạn 2001-2005, ngân sách nhà nước đã
bố trí 1.033 tỷ đồng cho đầu tư phát triển các công trình cung cấp nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn, thông qua chính sách tín dụng ưu đãi vay qua
Ngân hàng Chính sách xã hội, thực hiện từ năm 2004, mỗi năm các hộ gia đình
được vay khoảng 100 tỷ đồng. Theo quy định của WTO, được coi là chương
trình môi trường liên quan đến ngành nông nghiệp là những hỗ trợ cho sản xuất
nông nghiệp để đáp ứng yêu cầu cải thiện và bảo vệ môi trường. Căn cứ vào
tiêu chí này, thực tế hầu như chưa có chương trình nào được xây dựng và
triển khai ở cấp trung ương. Tuy nhiên, từng nơi, từng năm có một số hỗ trợ
của địa phương triển khai. Nhưng sự hỗ trợ này cũng chỉ mang tính chất giải
quyết tình huống, không xây dựng theo chương trình cụ thể. Ví dụ, trong giai
đoạn 2001-2002, do giá cà phê xuống quá thấp, một số tỉnh sản xuất cà phê
lớn đã kiên quyết yêu cầu và hỗ trợ cho nông dân để chuyển đổi cây cà phê
sang trồng rừng ở những diện tích mà vốn trước đây quy hoạch để trồng rừng.

Nhóm 7: Chương trình hỗ trợ vùng

Nhà nước bố trí một lương ngân sách nhất định cho công tác định
canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm mục đích ổn định cuộc

99
sống của đồng bào dân tộc thiểu số và ngăn ngừa việc phá rừng làm nương
rẫy. Về định canh định cư ở các xã nghèo trong 05 năm (2001-2005) đã có
trên 200 dự án được triển khai, định canh định cư cho 90 ngàn hộ, với tổng
vốn đầu tư 480 tỷ đồng.

Chương trình phát triển kinh tế, xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn:
Đây là một chương trình lớn, mang tính quốc gia. Nội dung chủ yếu là hỗ trợ
xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn (thuỷ lợi, đường giao
thông, trường học, bệnh xá, chợ), hướng dẫn nông dân làm ăn. Chương trình
được xây dựng có tiêu chí rõ ràng, triển khai có sự tham gia của cộng đồng.
Qua trên 10 năm thực hiện, chương trình mang lại hiệu quả kinh tế, xã
hội cao.

Nhóm 8: Chương trình mang tính kinh tế - xã hội

Giai đoạn sau 2001, Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ để thực
hiện các hoạt động hướng dẫn, đào tạo cho nông dân cách thức làm ăn, sau đó
cho vay vốn ưu đãi nhằm phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm,
tăng thêm việc làm và thu nhập cho người dân.

Về đào tạo và hướng dẫn nông dân làm ăn: đã xây dựng được quy
hoạch mạng lưới dậy nghề giai đoạn 2002-2010, tạo điều kiện mở rộng đào
tạo nghề cho lao động nông thôn. Trong 5 năm 2001-2005, đã thực hiện dậy
nghề cho khoảng 2,8 triệu lao động nông thôn.

Các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo việc
làm cho trên 2,36 triệu lao động. Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc
làm đã tạo việc làm cho 1,3 triệu lao động khu vực nông thôn. Hoạt động phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chương trình mở rộng và phát triển
làng nghề tạo việc làm mới cho trên 20 vạn lao động.

Trong thời gian tới, nhóm Chương trình mang tính kinh tế - xã hội sẽ
được Việt Nam áp dụng nhiều hơn.

100
Nhóm 9: Mạng lưới an sinh xã hội

Theo quy định của AoA, nếu vì lý do thị trường hoặc thiên tai, thu
nhập của người nông dân bị giảm đi đáng kể, thì Nhà nước có thể hỗ trợ phần
thu nhập bị thiếu hụt đó, nhưng mức hỗ trợ không vượt quá 70% số thiếu hụt.
Nhà nước ta chưa có chương trình nào như thế này để triển khai hỗ trợ cho
nông dân.

3.2.2.3. Hỗ trợ dạng hộp xanh lơ (Blue box)

Chính sách trong nhóm hộp xanh lơ chủ yếu là những chi trả trực tiếp
cho nông dân nhằm hạn chế sản xuất nông nghiệp. Theo Hiệp định nông
nghiệp, nhóm chính sách hỗ trợ này được phép áp dụng. Các nước phát triển
thường áp dụng chương trình này. Đối với nước ta, từ trước đến nay không áp
dụng các chính sách thuộc dạng hỗ trợ trực tiếp theo các chương trình hạn chế
sản xuất.

"Chương trình phát triển", đây là sự đãi ngộ đặc biệt và ưu đãi cho các
nước đang phát triển được phép áp dụng, gồm: trợ cấp đầu tư của Chính phủ,
trợ cấp đầu vào cho người sản xuất có thu nhập thấp và trợ cấp dành cho
người sản xuất nhằm khuyến khích từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện, thực
hiện của Việt Nam như sau:

Trợ cấp đầu tư của Chính phủ:

Nhà nước đã tiến hành trợ cấp đầu tư cho nông nghiệp dưới hình thức
cho vay đầu tư lãi suất ưu đãi và các hỗ trợ tài chính nhằm phát triển kinh tế
trang trại. Theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ
tướng Chính phủ, Nhà nước sẽ hỗ trợ tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển cho các
dụ án đầu tư lớn.

Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất có thu nhập thấp:

Ngày 4 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định
thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội, thời gian hoạt động 99 năm bắt đầu

101
từ ngày 1 tháng 1 năm 2003. Ngân hàng chính sách kế thừa các hoạt động của
Ngân hàng Phục vụ người nghèo và thực hiện thêm các hoạt động tín dụng chính
sách như cho vay sinh viên nghèo, cho vay giải quyết việc làm... Ngân hàng
Chính sách xã hội được thành lập với mục tiêu cho vay các đối tượng chính
sách, chủ yếu là người nghèo, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Ngân hàng Chính sách xã hội là tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động không
vì lợi nhuận, thực hiện cho vay với lãi suất và các điều kiện ưu đãi. Lãi suất
cho vay của Ngân hàng chính sách xã hội từ 0,25%/ tháng đến 0,5%/ tháng,
thấp hơn lãi suất của ngân hàng thương mại.

Các mức lãi suất ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng
thời kỳ, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay được Bộ Tài chính cấp bù,
những tổn thất trong cho vay, sau khi bù đắp bằng quĩ dự phòng, chi phí hoạt
động của Ngân hàng chính sách xã hội sẽ được Bộ Tài chính cấp.

Trợ cấp dành cho người sản xuất nhằm khuyến khích từ bỏ việc trồng
cây thuốc phiện

Nhà nước đã có các hỗ trợ cho nhân dân để họ chuyển từ trồng cây
thuốc phiện sang trồng cây khác (như hỗ trợ cây giống, hạt giống, con giống,
hướng dẫn kỹ thuật và kiểm tra, kiểm soát quá trình chuyển dịch cây trồng
này). Việt Nam đã thực hiện thành công các chương trình thay thế cây thuốc
phiện, cây cần sa và đang cố gắng xoá bỏ tình trạng tái trồng cây thuốc phiện
một cách triệt để.

3.2.3. Trợ cấp xuất khẩu

Giai đoạn sau 2001, tại phiên đàm phán thứ 9 để gia nhập WTO,
Việt Nam đã cam kết không trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp ngay khi gia
nhập WTO [3].

Trong thực tế, một mặt do từng bước chuyển đổi chính sách theo
hướng phù hợp với WTO, mặt khác nhờ giá cả nông sản trên thị trường thế

102
giới có nhiều cải thiện, các hình thức trợ cấp xuất khẩu từng bước đã được
giảm dần.

Chính sách trợ cấp xuất khẩu giai đoạn sau 2001 tập trung chủ yếu tập
trung vào 3 nhóm sau [39]:

3.2.3.1. Nhóm chính sách tín dụng ưu đãi khuyến khích xuất khẩu

- Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng


Chính phủ về việc Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Hình thức hỗ trợ: đối
với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung, dài hạn: cho vay đầu tư trung, dài hạn; hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đối với tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu ngắn hạn: vay ngắn hạn (kể cả cho xuất khẩu trả chậm 720 ngày); bảo
lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Đối tượng được vay: các thành
phần kinh tế của người Việt Nam.

Lãi suất tín dụng: Đối với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung, dài hạn: lãi
suất bằng với lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

Đối với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn, lãi suất bằng 80% lãi suất
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại thời điểm vay.

Hàng năm, Bộ Thương mại được Chính phủ uỷ quyền ban hành danh
mục các mặt hàng được vay vốn tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. (Năm 2003 các
mặt hàng nông sản sau đây được vay từ quỹ này: Gạo, lạc nhân, cà phê, chè,
hạt tiêu, hạt điều, rau quả, thịt, đường, thuỷ sản, mây tre lá, tơ, lụa).

Thực tế triển khai Quyết định 133 cho thấy, việc triển khai còn rất hạn
chế. Theo ý kiến của các doanh nghiệp, nhu cầu vay thì rất lớn, nhưng quỹ rất
hạn chế về nguồn nên chỉ một số ngành hàng, doanh nghiệp được vay. Ví dụ,
Quỹ được Nhà nước cấp vốn ban đầu khoảng 5.000 tỷ đồng (tương đương
khoảng 318 triệu USD), trong khi nhu cầu đầu tư của riêng một ngành như cơ
khí đã cần tới trên 3000 tỷ đồng. Nhu cầu vay vốn để mua gạo xuất khẩu đã
cần tới hàng chục ngàn tỷ đồng, chưa kể đến rất nhiều ngành khác. Những
ngành cần hỗ trợ để nâng cao năng lực xuất khẩu như chế biến nông sản (rau

103
quả, thịt lợn vv…) để tăng giá trị gia tăng cho ngành thì yếu tố hiệu quả kinh
tế của dự án thường thấp, khả năng thu hồi vốn chậm (do quy mô sản xuất
nông nghiệp nhỏ, manh mún, sự mất cân đối giữa vùng nguyên liệu và nhà
máy luôn xảy ra) thì thường không được vay. Các trang trại, doanh nghiệp tư
nhân vừa và nhỏ trong ngành nông nghiệp khó tiếp cận khoản vay này do
không có khả năng thế thấp, phương án kinh doanh không thuyết phục v.v…

Theo thoả thuận của vòng đàm phán Urugoay, các hình thức tín dụng
hỗ trợ xuất nhập khẩu như ưu đãi về lãi suất, bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh hợp
đồng v.v… không bị cấm áp dụng. Mỹ và một vài nước phát triển đang áp
dụng triệt để hình thức này để hỗ trợ xuất khẩu. Hiện nay, trong quá trình đàm
phán vòng Doha, các nước thành viên WTO đang đề nghị xem xét lại hình
thức hỗ trợ xuất khẩu này. Nếu bị coi là trợ cấp xuất khẩu thì sẽ bị loại bỏ
hoàn toàn vào năm 2013.

3.2.3.2. Nhóm trợ cấp trong các trường hợp cụ thể

(1) Quyết định số 110/ 2002/ QĐ-TTg ngày 21/8/2002 của Thủ tướng
Chính phủ về việc lập, sử dụng và quản lý Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng.

Mục đích cho phép các Hiệp hội được thành lập Quỹ bảo hiểm xuất
khẩu ngành hàng. Quỹ hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận,
hỗ trợ lẫn nhau giữa các hội viên trong Hiệp hội, góp phần khắc phục và hạn
chế rủi ro, ổn định sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.

Nguồn hình thành quỹ: Nguồn đóng góp của các hội viên trong Hiệp
hội tối đa bằng 1% doanh thu xuất khẩu (theo giá FOB) và được hạch toán
vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Tài trợ của các tổ chức, cá nhân
trong ngoài nước. Các nguồn thu hợp pháp khác.

Quỹ được sử dụng vào các mục đích:

- Hỗ trợ tài chính cho các hội viên trực tiếp xuất khẩu tạm thời bị lỗ
trong các trường hợp sau:

104
+ Hàng hoá lần đầu tiên xuất khẩu bị lỗ do huy động đầu tư mới;

+ Xuất khẩu vào thị trường mới;

+ Giá thế giới bị giảm đột ngột hoặc do biến động về tỷ giá ngoại tệ.

- Hỗ trợ một phần lãi suất vay vốn để tạm trữ chờ xuất khẩu.

- Hỗ trợ một phần chi phí cho Hiệp hội trong các hoạt động mở rộng
thị trường, xúc tiến thương mại.

- Hỗ trợ một phần cho các hội viên trong quá trình sản xuất hàng xuất
khẩu gặp rủi ro.

Do quyết định này được ban hành đúng vào thời điểm giá của đa số
nông sản chủ lực của Việt Nam xuống quá thấp, nên hầu hết các doanh nghiệp
đều thua lỗ. Do vậy, đến nay, chưa có quỹ ngành hàng nào được thành lập.

Theo quy định của WTO, hình thức thành lập quỹ này không bóp méo
thương mại, nên có thể áp dụng được. Trong tương lai cần xúc tiến hình thức này.

(2) Quyết định số 195/ 1999/ QĐ-TTg ngày 27/9/1999 của Thủ tướng
Chính phủ về việc lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Đối tượng được hỗ trợ là các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu (chủ yếu là nông sản), doanh nghiệp
sản xuất hàng hoá trực tiếp xuất khẩu và các doanh nghiệp khác theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ. Hình thức hỗ trợ bao gồm: Hỗ trợ lãi suất vay
vốn ngân hàng (một phần hoặc toàn bộ lãi suất vốn vay); hỗ trợ chênh lệch lãi
suất; hỗ trợ tài chính; thưởng xuất khẩu.

Giai đoạn 2001 - 2002: Biện pháp chủ yếu là tập trung vào thưởng
xuất khẩu cho các mặt hàng gặp khó khăn về thị trường, giá cả xuống quá
thấp, ảnh hưởng lớn đến đời sống nông dân.

Năm 2001, thưởng xuất khẩu cho 4 mặt hàng nông sản: gạo, cà phê,
thịt lợn và rau quả hộp.

Năm 2002, mở rộng cho 10 nhóm sản phẩm, mức thưởng cho từng
mặt hàng, theo từng năm như sau:

105
Mức thưởng xuất khẩu năm 2001 - 2002
Đơn vị: VNĐ/ USD

Mức thưởng
Mặt hàng
Năm 2001 Năm 2002
1 - Gạo 180 180
2 - Cà phê 220 220
3 - Thịt
Trong đó: - Lợn sữa 280 280
- Lợn mảnh 900 900
- Thịt khác - 100
4 - Rau quả
Trong đó: - Rau hộp 400 400
- Quả hộp 500 500
- Rau quả khác - 100
5 - Chè - 400
6 - Lạc nhân - 120
7 - Hạt tiêu - 100
8 - Hạt điều - 100
10 - Mây tre lá - 100

Giai đoạn 2003 - 2004: Tình hình thị trường nông sản thế giới dần
được cải thiện, việc xuất khẩu đã giảm bớt khó khăn. Mặt khác, cũng cần hạn
chế tới mức thấp nhất tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước,
biện pháp thưởng xuất khẩu đã được thay thế theo hướng khuyến khích thi
đua là chính. Quyết định 1116/2003/QĐ-BTM ngày 9/9/ 2003 về quy chế thưởng
xuất khẩu đối với phần kim ngạch xuất khẩu năm 2003 vượt so với năm 2002.
Trong số 12 mặt hàng thuộc diện thưởng thì nông sản chiếm tới 8 mặt hàng.

Quy định như sau:

Kim ngạch năm 2003 phải cao hơn năm 2002.

106
Riêng với các mặt hàng gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế
biến), chỉ áp dụng cho các trường hợp kim ngạch xuất khẩu của các nhóm này
năm 2002 phải đạt mức như sau:

Gạo: 1 triệu USD trở lên.

Cà phê: 0,5 triệu USD

Hạt tiêu, hạt điều (đã qua chế biến): 0,1 triệu USD.

Mức thưởng năm 2003 cho phần kim ngạch vượt

STT Mặt hàng Mức thưởng (Đ/ USD)


1 Thịt các loại 1000
2 Rau quả các loại 1000
3 Chè các loại 1000
4 Gạo 300
5 Cà phê 300
6 Lạc nhân 300
7 Hạt tiêu 300
8 Hạt điều (chế biến) 300
10 Mây tre lá 300

Hỗ trợ xuất khẩu năm 2003 giảm đáng kể so với năm 2002 do chỉ
thưởng phần kim ngạch vượt.

Việc tính toán lượng hỗ trợ thực tế là rất khó. Vì ngoài yếu tố chính
sách trên ra, còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: Các doanh nghiệp có
làm đầy đủ thủ tục hay không; Buôn bán tiểu ngạch không thông qua tài
khoản ngân hàng, các hoạt động xuất khẩu gạo theo Hiệp định Chính phủ,
xuất khẩu trả nợ của Chính phủ vv…không được thưởng; Việc xét duyệt và
cấp phát cũng kéo dài từ năm trước sang năm sau.

107
(3) Về thưởng theo thành tích xuất khẩu, mỗi năm chi vào khoảng 11 -
15 tỷ đồng để khuyến khích tăng trưởng kim ngạch, mặt hàng mới, thị trường
mới. Thực chất chính sách thưởng này chỉ mang tính động viên thi đua là
chính, có thể không coi đây là hình thức trợ cấp xuất khẩu.

Ngoài hình thức thưởng xuất khẩu theo chương trình như trên, còn có
một số quyết định cá biệt cho một số mặt hàng cụ thể như sau:

+ Đối với mặt hàng gạo: Bãi bỏ đầu mối xuất khẩu gạo (từ năm 2001),
không bù lỗ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Duy nhất trong giai đoạn
này Chính phủ hỗ trợ bán gạo trả chậm cho Cu Ba năm 2005 tại Quyết định
số 1125/QĐ-TTg ngày 22/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Quỹ
hỗ trợ xuất khẩu cấp bù lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các doanh
nghiệp thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo cho Cuba.

+ Đối với mặt hàng thịt lợn: Không bù lỗ xuất khẩu thịt lợn.

+ Đối với cà phê: Không hỗ trợ các doanh nghiệp mua cà phê tạm trữ
để xuất khẩu.

+ Đối với rau quả: Bãi bỏ trợ giá xuất khẩu dứa hộp sang thị trường
Mỹ. Không hỗ trợ xuất khẩu rau quả chế biến sang Nga.

Trên thực tế, Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước đang phát
triển như áp dụng hai hình thức trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp để giảm chi phí
tiếp thị xuât khẩu cho nông sản (trừ các dịch vụ tư vấn và xúc tiến xuất khẩu
thông thường), trong đó gồm chi phí xử lý, nâng cấp và các chi phí chế biến
khác và trợ cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu.
Nhưng Việt Nam lại chưa áp dụng hình thức hỗ trợ này.

Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua chiến lược phát triển thị
trường xuất khẩu năm 2004-2005. Theo Quyết định 266/2003/QĐ-TTg ngày
17/12/2003, để tăng tính cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu, các chính
sách khác nhau về tài chính, tín dụng, đầu tư, phí và lệ phí đã được sửa đổi
hoặc mở rộng, với sự tập trung vào khoản tín dụng đầu tư dài hạn nhằm tăng

108
cường năng lực sản xuất, đặc biệt cho những ngành công nghiệp chế biến
nguyên liệu thô để sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, bảo lãnh tín dụng
thương mại cũng được mở rộng với việc tập trung vào các dự án đầu tư công
nghệ mới cho hàng xuất khẩu, và vào những hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả
cao. Tín dụng cũng sẽ dần được cấp cho các đối tượng thường xuyên nhập
một khối lượng lớn hàng hoá của Việt Nam cho thị trường khu vực. Theo
Quyết định số 226, số các mặt hàng được hưởng ưu đãi xuất khẩu sẽ bị giảm,
cũng theo đó các khoản thưởng sẽ tập trung vào những hàng hoá chủ chốt có
tính cạnh tranh cao và những mặt hàng sử dụng nguyên liệu thô, địa phương
có mức cung lớn. Hỗ trợ tài chính trực tiếp cũng bị hạn chế và thay vào đó là
hỗ trợ cho các nhà cung cấp nguyên liệu thô, những giải pháp về khoa học, kỹ
thuật và công nghệ để cải thiện tình hình sản xuất hàng xuất khẩu.

Bên cạnh các hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Nhà nước cũng
đang xem xét sớm hoàn chỉnh quy chế hoạt động của Quỹ tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Ngoài ra,
hoạt động xuất khẩu nông sản còn nhận được sự hỗ trợ từ Quỹ hỗ trợ phát
triển dưới hình thức cho vay đầu tư với lãi suất ưu đãi đối với các dự án sản
xuất, chế biến kinh doanh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành
nghề được ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước có tỷ trọng hàng
xuất khẩu từ 30% trở lên (Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính
sách hỗ trợ đầu tư từ quỹ hỗ trợ phát triển).
3.2.3.3. Nhóm chính sách xúc tiến thương mại
Bộ Tài chính ban hành Thông tư 86/ 2002/TT-BTC ngày 27/ 9/ 2002
về việc hướng dẫn chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đẩy mạnh xuất
khẩu theo chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Bộ Thương
mại ban hành Quyết định số 104/ 2003/ QĐ-BTM ngày 24/1/2003 về quy chế
xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến thương mại trong điểm quốc gia.
Nội dung hỗ trợ cho các hoạt động: thông tin thương mại, tuyên
truyền, quảng bá xây dựng cơ sở dữ liệu; tư vấn xuất khẩu; đào tạo nâng cao

109
năng lực, kỹ năng kinh doanh xuất khẩu, hội chợ, triển lãm; khảo sát, tìm
kiếm thị trường; quảng bá thương hiệu, sản phẩm; chi phí ban đầu cho việc
xây dựng kho ngoại quan, trung tâm xúc tiến thương mại, trung tâm giới thiệu
sản phẩm ở trong và ngoài nước; nghiên cứu ứng dụng thương mại điện tử
phục vụ xuất khẩu. Mức hỗ trợ từ 50 – 70% tuỳ loại. Các Hiệp hội ngành
hàng, các tổng công ty lớn là cơ quan đầu mối tổ chức các chương trình xúc
tiến thương mại của ngành mình.
Các ngành hàng nông sản được phê duyệt trong chương trình này là
gạo; chè; cà phê; hạt tiêu; rau quả; sản phẩm gỗ; thịt lợn, thực phẩm chế biến;
Năm 2003, là năm đầu tiên thực hiện chính sách này, một số tổng
công ty, Hiệp hội ngành hàng trong ngành nông nghiệp được phê duyệt
chương trình này như gạo, chè, cà phê, rau quả, hồ tiêu. Các hoạt động chủ
yếu vào khảo sát thị trường, hỗ trợ thông tin, hội chợ triển lãm v.v… Do việc
triển khai chậm (cuối năm mới có kế hoạch), thủ tục giải ngân phức tạp nên
các doanh nghiệp chỉ gải ngân được khoảng 10 – 15% kế hoạch được giao.
Năm 2004, có 15 Hiệp hội và tổng công ty trong ngành nông nghiệp
được phê duyệt chương trình này với tổng số king phí toàn chương trình là 86
tỷ đồng, trong đó nguồn ngân sách hỗ trợ là 56 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo báo
cáo của các đơn vị, tỷ lệ giải ngân rất chậm do các thủ tục tài chính rất chặt
chẽ nên có khả năng chỉ thực hiện được từ 30 – 50% số kinh phí được duyệt.
3.3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP

3.3.1. Quan điểm về bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ nông nghiệp
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương "phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững".
Một trong những đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế là phải từng
bước xoá bỏ các rào cản trong thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, thực
hiện tự do hoá thương mại. Một số biện pháp bảo hộ và hỗ trợ sản xuất trong

110
nước, trong đó có ngành nông nghiệp vẫn được duy trì, nhưng phải theo các
quy tắc nhất định.
Việt Nam là nước đang phát triển, việc bảo hộ và hỗ trợ cho sản xuất
và mậu dịch hàng nông sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc là cần thiết,
tuy nhiên, vấn đề hỗ trợ và bảo hộ cho sản xuất và mậu dịch là vấn đề hết sức
nhậy cảm trong chính sách thương mại. Trong quá trình phát triển kinh tế theo
hướng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã khẳng định không lấy
chính sách bảo hộ làm nền tảng và xu hướng cho chính sách thương mại của
mình. Mặc dù hiểu rõ vai trò của hội nhập đối với quá trình tăng trưởng kinh
tế, đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó có vai trò to lớn
của các luồng sản phẩm tham gia cấu thành vào đầu vào của sản xuất, du nhập
công nghệ và khoa học thương mại, nhưng trong điều kiện nền nông nghiệp
trong nước không thể không đặt ra sự cần thiết phải bảo hộ trong từng sản
phẩm, từng thời kỳ nhằm tạo ra môi trường thương mại lành mạnh và nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước ngay tại thị trường
nội địa. Cần lưu ý là chính sách bảo hộ nói chung và bảo hộ nông nghiệp
trong quá trình hội nhập kinh tế phải có tác dụng hỗ trợ cho sản phẩm trong
nước vươn lên trong cạnh tranh; đồng thời cũng không vì bảo hộ sản xuất mà
quên mất lợi ích của người tiêu dùng. Ở đây, sự bảo hộ sản xuất nội địa được
quan niệm là sự bảo hộ tích cực trong xu thế tự do hoá thương mại. Nó khác hẳn
sự bảo hộ trong điều kiện nền kinh tế khép kín, sản xuất thay thế nhập khẩu.

Bảo hộ phải tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh cho hàng nông
sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế:

Sản xuất hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu những sản phẩm
trong nước sản xuất có hiệu quả là chiến lược mà Việt Nam theo đuổi trong
quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu. Thực hiện chiến lược này đòi
hỏi nước ta phải thực thi một hệ thống chính sách thương mại tự do là chính,
là xu hướng chủ yếu, bảo hộ chỉ là chính sách mang tính thời gian và phải
hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh bao gồm năng lực cạnh tranh quốc

111
gia, của doanh nghiệp và của sản phẩm trên thị trường. Thị trường ngày nay
hơn lúc nào hết mang tính toàn cầu, do vậy, cạnh tranh mang tính toàn cầu là
đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện nay.

Nhìn lại quá trình toàn cầu hoá hiện nay ta có thể thấy rằng sự xuất
hiện của quá nhiều thị trường và công ty toàn cầu, trước kia quy mô của công
ty là rất quan trọng, thì ngày nay quan trọng lại là quy mô của sự tập hợp, tức
mạng lưới và cơ sở hạ tầng. Mô hình toàn cầu hoá ngày nay, ngày càng đặt
lên hàng đầu sự chuyên môn hoá làm ra các sản phẩm cụ thể tại các địa điểm
cụ thể khác nhau trên thế giới. Do đó, xuất hiện mô hình mới về cạnh tranh.
Đó là mô hình dựa trên cơ sở chuyên môn hoá nghĩa là các nước sẽ phát đạt ở
những lĩnh vực mà họ đạt được sự chuyên môn hoá đặc thù.
Về phía các nhà sản xuất cần xây dựng chiến lược cạnh tranh thích
nghi với mô hình mới về cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá. Phải tạo ra
môi trường để bản thân mình mong đợi xu hướng thay đổi tiến bộ, chứ không
phải chống lại nó. Một môi trường trong đó các nhà sản xuất chủ động thủ
tiêu sản phẩm của mình thay vì các đối thủ cạnh tranh làm việc đó, một môi
trường các nhà sản xuất tự xác định quy mô thích hợp hơn là để người khác
làm việc đó.
Các chính sách, quy định bảo hộ phải được thực hiện một cách có
chọn lọc:
Nước ta có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và nguồn nhân lực để
sản xuất đa dạng các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các nông sản nhiệt
đới. Việc tìm kiếm mặt hàng nông sản có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình nông nghiệp nước ta tham gia vào
phân công lao động quốc tế. Trong quá trình này, cần có sự hỗ trợ của nhà
nước. Tuy nhiên, Nhà nước không nên và không thể bảo hộ tràn lan, phải lựa
chọn cẩn thận các ngành hàng được bảo hộ. Nguyên tắc ở đây là chỉ bảo hộ
cho những sản phẩm mà sản xuất trong nước đáp ứng được nhu cầu tăng
trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển, thu hút được nhiều lao động và ưu

112
tiên cho ngành hàng định hướng xuất khẩu. Việc bảo hộ được áp dụng cho
từng sản phẩm (hoặc từng ngành hàng) có thời hạn, không bảo hộ vĩnh viễn
cho bất kỳ sản phẩm nào. Điều này có nghĩa là việc bảo hộ phải giảm dần để
các nhà sản xuất sản phẩm được bảo hộ không ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Việc áp dụng chính sách bảo hộ sản xuất hàng nông sản phải được
áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế:
Việc bảo hộ sản xuất ngành nông sản được áp dụng thống nhất cho
mọi thành phần kinh tế, bất kể đó là doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này, có nghĩa là đối tượng được
bảo hộ là ngành hàng hay sản phẩm chứ không phải một doanh nghiệp, một
nhà sản xuất cụ thể nào. Bảo hộ theo hướng này sẽ nâng cao sức cạnh tranh
của nông sản trên thị trường trong nước và thế giới có lợi cho nền kinh tế.
Các biện pháp bảo hộ phải tuân thủ các quy định quốc tế, đặc biệt là
của WTO được Chính phủ Việt Nam cam kết

Vì lý do kinh tế, chính trị hay xã hội nên chúng ta phải bảo hộ một số
nông sản trong nước. Biện pháp bảo hộ cho một sản phẩm nào đó như thuế
quan, phi thuế quan phải tuân thủ những cam kết mà Việt Nam đã đặt ra. Một
nguyên tắc quan trọng của WTO là chỉ chấp nhận bảo hộ trong nước bằng
thuế quan. Bởi vì, thuế quan là biện pháp bảo hộ rõ ràng, dễ dự đoán và thuận
lợi khi đàm phán mở cửa thị trường. Tuy nhiên, các nhà đàm phán về việc
thực hiện những biện pháp bảo hộ cho nông sản Việt Nam phải xuất phát từ
khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm để có được những thoả thuận mang
tính khả thi cho nhà sản xuất và xuất khẩu. Bởi vì cuối cùng việc thực hiện
những cam kết này là các nhà sản xuất chứ không phải các nhà hoạch định
chính sách. Cũng phải thừa nhận thêm rằng các quy định quốc tế và đặc biệt
của WTO về vấn đề bảo hộ trong Hiệp định nông nghiệp rất phức tạp và đôi
khi khó hiểu. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, Hiệp định nông
nghiệp có những miễn trừ. Vì vậy, đàm phán để thực hiện các quy định này
phù hợp với các nhà sản xuất và xuất khẩu là đặc biệt quan trọng.

113
Bên cạnh đó, các phương thức bảo hộ nông nghiệp đã và đang được
áp dụng tuy có tạo ra rào cản nhất định, tạo thuận lợi cho một số ngành phát
triển nhưng lại trái với các quy định của WTO. Vì vậy, việc tìm kiếm các biện
pháp bảo hộ phi thuế quan mới là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu bảo hộ
sản xuất nông sản đặt ra. Thực tế hiện nay, các nước đã và đang tìm ra các
biện pháp bảo hộ mới, tránh được những thoả thuận mà họ cam kết. Tuy
nhiên, khi áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan mới cần phải: không
trái với các cam kết quốc tế, không mang tính chất phân biệt đối xử và gây ra
các hiệu quả xấu, dựa trên các tiêu chí rõ ràng, nhất quán.

3.3.2. Đề xuất chính sách


3.3.2.1. Chính sách thuế nhập khẩu
Trên cơ sở các điều khoản và lịch trình nước ta cam kết với các tổ
chức khu vực và quốc tế (AFTA, APEC, IMF…), hai mốc thời gian về tự do
hoá thương mại hàng nông sản đã được xác định, đó là 2006 với AFTA và
2020 với APEC. Với sự tương đồng về sản phẩm giữa các nước ASEAN, thời
điểm 2006 sẽ là thách thức lớn nhất, gần cận nhất đối với hàng nông sản nước ta.
Chủ trương của nhà nước là bảo hộ chọn lọc và có thời hạn đối với
các ngành hàng. Dựa vào sự phân loại khả năng cạnh tranh của các ngành
hàng để xây dựng cấp độ bảo hộ, ngành nông nghiệp cũng đã xác định cấp độ
bảo hộ cho từng nhóm hàng theo 03 mức:
Bảo hộ thấp: chủ yếu là các sản phẩm thô hiện nay đang được xuất
khẩu hoặc là đầu vào cho công nghiệp chế biến như hồ tiêu, cao su, lạc, ngô,
đậu tương.
Bảo hộ trung bình: gồm những ngành hàng trong nước đang sản xuất,
nhu cầu nhập khẩu ít như rau quả tươi, thịt tươi.
Bảo hộ cao: các sản phẩm chế biến.

Chính sách thuế nhập khẩu trong tương lai sẽ giảm dần cả về tỷ lệ
phần trăm mức thuế lẫn giảm từ nhiều mức thuế xuống còn vài mức để tạo sự

114
bình đẳng giữa các sản phẩm, khuyến khích phát triển các mặt hàng có lợi thế
cạnh tranh.

3.3.2.2. Các biện pháp phi thuế

Sử dụng các biện pháp phi thuế để bảo hộ sản xuất nông nghiệp là một
thực tế thường thấy ở tất cả các quốc gia trên thế giới kể các nước có nền kinh
tế phát triển. Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, Việt Nam càng cần
có một chiến lược bảo hộ đúng đắn, có chọn lọc và có điều kiện với một lộ
trình hợp lý để vừa thoả mãn nhu cầu hội nhập, vừa bảo vệ và phát triển các
ngành sản xuất trong nước.

Trong tương lai, khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam rất khó duy
trì và biện minh cho các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu,
hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu. Vì vậy, định hướng các biện pháp
phi thuế áp dụng trong tương lai đối với lĩnh vực nông nghiệp cần vận dụng
linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ các quy định của WTO.

Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật:

Do đặc thù của hàng nông sản so với các mặt hàng khác, các biện
pháp kỹ thuật và kiểm dịch thực vật nếu sử dụng khéo léo và linh hoạt sẽ gây
cản trở đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài một cách hợp pháp.WTO cho
phép các nước sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp vệ
sinh kiểm dịch cần thiết và thích hợp nhằm bảo vệ sức khoẻ con người, quyền
lợi người tiêu dùng, miễn là các quy định này không hạn chế vô lý đối với
thương mại quốc tế. Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà các biện pháp này
còn được sử dụng chưa phổ biến ở các nước đang phát triển. Sự thiếu đồng bộ
về quy định khung pháp lý, sự non kém về xây dựng các tiêu chuẩn và các
hạn chế về trình độ trong việc đặt ra và vận dụng các biện pháp kiểm dịch
động thực vật, các biện pháp kiểm tra kỹ thuật đã làm ảnh hưởng đến tính khả
thi và hiệu quả của các biện pháp này tại Việt Nam.

115
Vì vậy, ta cần xây dựng từng bước một chính sách đồng bộ, ban hành
luật về kiểm dịch động thực vật, các quy tắc kiểm tra kỹ thuật với danh sách
chi tiết các mặt hàng, quy trình, thông số kiểm tra và so sánh nhằm tạo ra một
rào cản hợp pháp đối với nhập khẩu nông sản, sản xuất nông nghiệp và bảo vệ
sức khoẻ con người, môi trường.
Các biện pháp chống bán phá giá:

Việt Nam cần ban hành luật về chống bán phá giá dựa trên các quy
định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO để ngăn chặn việc hàng
nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường nội địa, bóp nghẹt sản xuất trong
nước gây ảnh xấu đến thị trường nông sản nói chung.

Tự vệ và tự vệ đặc biệt:

Việt Nam cần ban hành văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý để áp
dụng biện pháp tự vệ, một biện pháp được WTO cho phép sử dụng trong
trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hoặc có nguy cơ bị thiệt hại
nghiêm trọng trước sự nhập khẩu ồ ạt từ bên ngoài.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng pháp luật về quyền tự vệ
nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Ngoài ra, riêng với nông sản
Hiệp định nông nghiệp còn dành cho các nước quyền áp dụng biện pháp tự vệ
đặc biệt đối với một số mặt hàng mà các nước thành viên đã tiến hành thuế
hoá và bảo lưu quyền tự vệ đặc biệt trong lịch trình cam kết của mình. Điều
kiện áp dụng các quyền này thấp hơn rất nhiều so với điều kiện áp dụng
quyền tự vệ vì không cần chứng tỏ ngành sản xuất nội địa bị tổn thương hoặc
có nguy cơ bị tổn thương.

Trợ cấp và các biện pháp đối kháng:

WTO cho phép các nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp
không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước
thành viên khác. Ngoài ra, các nước đang phát triển có thể được hưởng những
ưu đãi từ các biện pháp đối sử đặc biệt và khác biệt nhằm đảm bảo các

116
nguyên tắc của thương mại bình đẳng và tạo ra một sân chơi chung cho tất cả
các nước thành viên WTO.WTO cũng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát
triển hợp pháp và quan trọng của các nước thành viên đang phát triển.

Theo Điều 9 của Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam với tư cách là một
nước đang phát triển vẫn có thể tiếp tục sử dụng một cách linh hoạt các trợ
cấp cho xuất khẩu nông sản. Ngoài ra, một số hình thức trợ cấp liên quan đến
tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu cho đến nay vẫn chưa được điều
chỉnh cụ thể bởi bất kỳ nguyên tắc thống nhất nào, do đó vẫn đang được nhiều
nước vận dụng nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Như
vậy, xét về khía cạnh thực tế, Việt Nam có thể sử dụng hiệu quả các biện pháp
trợ cấp này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước cải thiện hoặc tăng khả
năng cạnh tranh.

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn có thể mở rộng việc áp dụng các biện
pháp hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây như hỗ trợ nghiên cứu phát triển, nâng cấp
máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu về môi trường, hỗ trợ hạ tầng nông
nghiệp...được WTO cho phép áp dụng vì có thể có tác dụng gián tiếp hỗ trợ
sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.

Hạn ngạch thuế quan:

Hạn ngạch thuế quan là cơ chế cho phép duy trì mức thuế suất thấp
đối với hàng nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch nhập khẩu và mức thuế
xuất cao hơn đối với hàng nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Chênh lệch giữa mức
thuế suất trong hạn ngạch và thuế suất ngoài hạn ngạch đôi khi lên tới vài
trăm phần trăm. Hạn ngạch thuế quan là một đặc trưng của thương mại nông
sản, vì thế, Việt Nam nên có định hướng xây dựng biểu thuế theo hạn ngạch
rõ ràng đối với sản phẩm thực sự cần phải bảo hộ.

Các biện pháp liên quan đến môi trường:

Hiện tại, xu hướng dùng các chính sách môi trường như một bình
phong cho các vấn đề thương mại đang là một su hướng mới trên thế giới.

117
Việt Nam nên nghiên cứu để khai thác sử dụng các biện pháp liên quan đến
môi trường như một biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời
có thể có căn cứ xác đáng để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp nhất
định viện lý do bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu hàng của
Việt Nam.

3.3.2.3. Hỗ trợ trong nước

Nhóm Hộp xanh da trời (Green box):

Tăng cường đầu tư của nhà nước và nông nghiệp thông qua nhóm
chính sách này, đầu tư cơ sở hạ tầng, chương trình giống, khoa học công
nghệ, đào tạo, khuyến nông, trợ giúp vùng khó khăn, môi trường. Các nhóm
chính sách về bảo hiểm thu nhập, hỗ trợ người sản xuất nông nghiệp được
miễn trừ cam kết cần được nghiên cứu đưa vào áp dụng.

Nhóm Hộp xanh lơ (Blue box):

Mở rộng hơn nữa diện đối tượng được hưởng sự ưu đãi, mức độ ưu
đãi về đầu tư, nhất là đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến và bảo quản
nông sản. Đây là khâu then chốt để tăng thêm giá trị gia tăng cho ngành nông
nghiệp (quy định về lãi suất và thời gian ân hạn cho loại tín dụng đầu tư phù
hợp cho các doanh nghiệp vay đầu tư trồng cây lâu năm, xây dựng nhà máy
chế biến, bảo quản)

Đối với hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo: kinh nghiệm một số nước
ASEAN là áp dụng chính sách cho không giống, vật tư cho người nghèo,
vùng khó khăn. Đối với nước ta, cần mở rộng hơn nữa việc hỗ trợ cho các đối
tượng được hưởng ưu đãi, kèm theo việc cho vay tiền cần kết hợp tốt hơn việc
hướng dẫn cho người nghèo biết cách làm ăn, quản lý đồng tiền.

Chính phủ đã dành một phần kinh phí để giúp nhân dân trong vùng
trồng thuốc phiện chuyển đổi sang cây con khác. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ
chưa đủ để nhân dân có cuộc sống khá hơn khiến một số vùng vẫn còn muốn

118
quay lại với cây thuốc phiện. Trong thời gian tới, đề nghị tăng thêm ngân sách
hỗ trợ các vùng này.

Nhóm AMS

Cần xây dựng chính sách hỗ trợ theo từng chương trình hay dự án cụ
thể cho từng ngành hàng, từng vùng để triển khai có hiệu quả. Chính sách hỗ
trợ công khai, ổn định trong một thời gian nhất địnhvà mọi đối tượng đều
được hưởng lợi từ chính sách. Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.

3.3.2.4. Trợ cấp xuất khẩu

Trợ cấp xuất khẩu là rất cần thiết cho ngành nông nghiệp hướng ra
xuất khẩu. Với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, cần hỗ trợ xuất khẩu
theo các hình thức sau:

Chuyển quỹ hỗ trợ xuất khẩu sang quỹ phát triển ngành hàng cho
những ngành hàng lớn (lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, chè, lâm sản…) theo
tinh thần Nghị quyết 09 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở thu khi được
giá và hỗ trợ khi giá xuống thấp trong nội bộ một ngành hàng, Quỹ phát triển
ngành hàng sẽ phù hợp với quy định của WTO.

Hỗ trợ xuất khẩu dưới 02 hình thức trợ cấp mà các nước đang phát
triển được phép áp dụng: trợ cước phí vận tải trong nước và quốc tế, chi phí
tiếp thị bao gồm tái chế, bao gói…

Chuyển từ hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp sang hỗ trợ
để nâng cao khả năng cạnh tranh và người sản xuất được hưởng (đầu vào cho
sản xuất nông nghiệp, giảm thuế nhập khẩu vật tư, miễn thuế sử dụng đất
nông nghiệp, tăng hỗ trợ áp dụng giống mới…).

Tóm lại, nước ta có mức hỗ trợ và trợ cấp nông nghiệp thấp, nhưng
nhu cầu hỗ trợ nông nghiệp tăng tỷ lệ thuận với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Để tận dụng được các cơ hội thuận lợi, đồng thời giảm thiểu

119
những tác động xấu trong quá trình hội nhập cho ngành nông nghiệp, các
công việc sau đây cần phải làm đồng bộ song song với nhau:

Chủ động điều chỉnh các chính sách trong nước cho phù hợp với
WTO trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

- Nâng cao khả năng cạnh tranh của từng mặt hàng, nhóm mặt hàng và
của doanh nghiệp.

- Đàm phán để đạt mức cao nhất về thuế, phi thuế và các chính sách
hỗ trợ nông nghiệp.

120
KẾT LUẬN

Nền nông nghiệp Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới. Một trong những nhiệm vụ chính của ngành đề ra là nâng
cao khả năng nội lực của ngành, đảm bảo khả năng cung cấp đầy đủ lương
thực trong nước cũng như khả năng thâm nhập thị trường ngoài nước.
Tham gia vào WTO, ngành nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Để
giải quyết các khó khăn này trước mắt phải có những chính sách pháp lý đúng
đắn đảm bảo các điều kiện phù hợp với tình hình trong nước, đồng thời không
vi phạm các quy định về nông nghiệp trong WTO. Như đã đề cập ở trên, nền
tảng xây dựng pháp luật về nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
WTO chủ yếu dựa trên Hiệp định Nông nghiệp, để có một cách nhìn đầy đủ
và toàn diện các quy định pháp lý của hiệp định này trong một đề tài là rất
khó, do đó, cần phải có các nghiên cứu sâu sắc từ phía các cơ quan liên quan.
Đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định
nông nghiệp của tổ chức thương mại thế giới (WTO)" chỉ giải quyết một số vấn đề
cốt lõi như: đưa ra các khái niệm cơ bản về WTO, giới thiệu sơ bộ các quy định
của Hiệp định nông nghiệp WTO, thực trạng áp dụng các quy định này trong
pháp luật Việt Nam. Còn rất nhiều các vấn đề khác như việc áp dụng các quy
định SPS, các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ, thương mại nhà nước…chưa
được đề cập đến do đề tài chỉ tập trung vào Hiệp định nông nghiệp của WTO.
Việc nghiên cứu các quy định của hiệp định nông nghiệp, vận dụng
với tình hình áp dụng thực tiễn đã được các nhà làm luật và chính sách nông
nghiệp Việt Nam vận dụng tương đối linh hoạt, các chính sách đề xuất trong đề
tài này được dựa trên thực tiễn, cũng như các nghiên cứu chính sách liên quan.
Tóm lại, nông nghiệp Việt Nam muốn hội nhập được với thế giới cần
phải có những bước đi thích ứng, phù hợp. Hi vọng rằng, với những phân tích
chính sách luật pháp trên đây, đề tài này sẽ là một cơ sở quan trọng cho các
nhà xây dựng chính sách nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn nhằm đưa
chính sách pháp luật nông nghiệp Việt Nam hội nhập chủ động và tích cực
với nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới.

121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2005), Việt Nam chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, Hà Nội.
2. Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập
kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề - giải pháp, Hà Nội
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Thông báo về hỗ trợ
trong nước và trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp, Hà Nội.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Sổ tay cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2002), Thông tư 86/2002/TT-BTC ngày 27/9 về việc hướng
dẫn chi hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại đẩy mạnh xuất khẩu
theo chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2005), Thông tư 48/2005/TT-BTC hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 196/2004/NĐ-CP ngày 02/12/2004 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Thương mại (2003), Quyết định 1116/2003/QĐ-BTM ngày 9/9 về quy
chế thưởng xuất khẩu đối với phần kim ngạch xuất khẩu năm 2003
vượt so với năm 2002, Hà Nội.
8. Bộ Thương mại (2005), Kết quả vòng đàm phán Urugoay về hệ thống
thương mại đa biên, Hà Nội.
9. Chính phủ (2001), Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9 của Thủ
tướng Chính phủ về việc Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, Hà Nội.
10. Chính phủ (2002), Quyết định số 110/2002/QĐ-TTg ngày 21/8 của Thủ
tướng Chính phủ về việc lập, sử dụng và quản lý Quỹ bảo hiểm xuất
khẩu ngành hàng, Hà Nội.
11. Chính phủ (2002), Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9 của Thủ
tướng Chính phủ về việc lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Hà Nội.

122
12. Chính phủ (2004), Nghị định số 196/2004/NĐ-CP ngày 02/12 quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh dự trữ quốc gia, Hà Nội.
13. Chính phủ (2005), Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 26/4 về khuyến nông -
khuyến ngư, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết 07-NQ/TM ngày 27/11 của
Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
15. Trần Thanh Hải (2002) Hỏi đáp về WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Bùi Xuân Lưu (Chủ biên) (2004), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. MUTRAP (2004), Những vấn đề cơ bản về pháp luật thương mại quốc tế
và quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá, Hà Nội.
18. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
19. Quốc hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội
20. Tổ chức thương mại thế giới (1994), Hiệp định nông nghiệp.
21. Tổng cục thuế (2003), Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, Hà Nội.
22. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia - Ngân hàng thế giới
(2005), Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO, Kỷ yếu diễn đàn Hà Nội
tổ chức ngày 3 - 4/6.
23. Ủy ban Quốc gia hợp tác kinh tế quốc tế, Tìm hiều tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
trang web

24. www.wto.org.

123

You might also like