You are on page 1of 30

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

KHOA ĐỊA LÝ

Mai Thị Hải Yến

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở MIỀN NAM THỜI MỸ-NGUỴ

(1954-1975)

NIÊN LUẬN

Ngành: Quản lý đất đai

(Chương trình đào tạo chuẩn)

Cán bộ hướng dẫn: TS.Trịnh Thị Kiều Trang

Hà Nội – 2019

-1-
LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trịnh Thị Kiều Trang đã đưa ra một bài
tập giúp sinh viên năm nhất như em có thể mở rộng kiến thức về môn học cũng như
giúp em làm quen với một phương thức làm nên một bài tiểu luận tốt nghiệp mà em sẽ
được làm trong những năm học sắp tới.

Trong khuôn khổ kiến thức, thời gian có hạn nên bài viết của còn nhiều hạn chế
và thiếu xót. Do vậy rất mong cô bỏ qua và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn của cô.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 18 tháng 03 năm 2019

Sinh Viên

Mai Thị Hải Yến

-2-
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

Hình 1.1 Hội nghị Genève 1954

Hình 2.1 Ngô Đình Diệm đã tiến hành cuộc cải cách nông thôn khi còn là Thủ tướng

Hình 2.2 Buổi lễ trao bằng khoán cho nông dân dưới quyền chủ toạ của tổng thống
Ngô Đình Diệm

Hình 2.3 Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người
Cày Có Ruộng và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân

Hình 2.4 Trái phiếu cải cách điền địa được ban hành dưới chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu

Bảng 2.1 Kết quả chương trình “Người Cày Có Ruộng”

-3-
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NCCR: Người cày có ruộng

VNCH: Việt Nam Cộng hoà

-4-
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………6
1. Tính cấp thiết của đề tài …………………………………………………………...6
2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu……………………………………………………..6
2.1 Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………….6
2.2 Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………..7
3. Nội dung nghiên cứu……………………………………………………………….7
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………..7
5. Cấu trúc niên luận………………………………………………………………….7
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ĐỊA CHÍNH, SÁCH
“CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ “LUẬT
NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGUYỄN VĂN THIỆU…..9
1.Tổ chức hoạt động địa chính………………………………………………………9
2. Các cuộc cải cách điền địa của VNCH…………………………………………...12
2.1Chính sách “Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm……13
2.2 “Luật người cày có ruộng” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu…….19
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ CÁC CUỘC CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA Ở MIỀN NAM
VIỆT NAM…………………………………………………………………………..26
1. Đánh giá chính sách “Cải cách địa điền” dưới thời Ngô Đình Diệm………….26

2. Đánh giá “Luật người cày có ruộng” của Nguyễn Văn Thiệu…………………27

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..29

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..29

TRANG WEB THAM KHẢO………………………………………………………30

-5-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại
và phát triển của loài người. Đất đai là không gian sống, là nguồn tư liệu sản xuất và là
một loại hàng hóa đặc biệt. Xã hội càng phát triển nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao,
do vậy quản lý tốt việc sử dụng đất là rất cần thiết và cần được quan tâm. Nhưng để có
được việc quản lý đất đai tốt như hiện nay chúng ta đã phải trải qua rất nhiều chính
sách cải cách ruộng đất.

Chiến tranh chống thực dân Pháp giành độc lập kết thúc bằng Hiệp định
đình chiến ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève chia Việt Nam làm hai Miền
riêng biệt . Miền Bắc theo chế độ cộng sản dưới quốc hiệu Việt nam Dân chủ Cộng
hoà. Miền Nam đứng về phía thế giới tự do. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc
trưng cầu dân ý đã được tổ chức tại Miền Nam và kết quả đã đưa tới truất phế Vua Bảo
Đại. Triều đại Nhà Nguyễn thật sự chấm dứt, Hiến pháp 26 tháng 10 năm 1956 tấn
phong ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Miền Nam và thành lập nước Việt
Nam Cộng hòa. Chín năm chiến tranh giải thực kết thúc, hòa bình trên 2 miền Nam
Bắc được tái lập. Chánh quyền 2 Miền đều dồn nỗ lực tái thiết đất nước theo đường lối
riêng của mỗi chế độ chánh trị. Phát triển kinh tế là ưu tiên mà Chánh sách về Ruộng
đất là quan trọng vì Việt Nam vốn là xứ nông nghiệp. Ruộng đất nuôi sống gần 80%
dân Việt Nam. Có một Chánh sách Ruộng đất tốt, hài hòa, hợp lý là để xóa bỏ những
bất công xã hội do chế độ thực dân tạo ra từ khi Việt nam bị đô hộ. Ở Miền Bắc, Hồ
Chí Minh thực hiện chánh sách về ruộng đất gọi là “Cải cách Ruộng đất” còn ở trong
Miền Nam gọi là “Cải cách Điển địa”.

Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã lựa chọn tìm hiểu về: “Chính sách quản lý
đất đai ở miền Nam thời Mỹ-Nguỵ (1954-1975)”

2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu


2.1 Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá việc cải cách ruộng đất miền Nam Việt Nam.

-6-
2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: đề tài thực hiện trên phạm vi miền Nam
Việt Nam.
- Phạm vi khoa học: Nghiên cứu về sự hình thành các chính sách cải cách
ruộng đất và nội dung của chúng.
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ năm 1954-1975.

3. Nội dung nghiên cứu


- Tìm hiểu về Tổ chức hoạt động địa chính, chính sách “Cải cách điền địa”
của chính quyền Ngô Đình Diệm và “Luật người cày có ruộng” của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu.
- Đánh giá tầm quan trọng của việc cải cách ruộng đất lúc bấy giờ.

4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, tài liệu:
+ Thu thập các văn bản lịch sử ghi chép lại về vấn đề cần nghiên cứu,
các giáo trình, công trình khoa học, mạng Internet.
- + Thu thập thông tin, số liệu, tài liệu và những thông tin cần thiết về Tổ
chức hoạt động địa chính, chính sách “Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình
Diệm và “Luật người cày có ruộng” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
- Phương pháp thống kê:
Thống kê các số liệu, tài liệu về tình hình đăng ký Cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hồ sơ địa chính và các tài liệu khác liên quan như: diện tích, vị trí,
mục đích sử dụng,…
- Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp:
- Từ số liệu thu thập sau khi đã được xử lý, tiến hành phân tích, đánh giá
để có những nhận định, nhận xét về Tổ chức hoạt động địa chính, chính sách “Cải cách
điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm và “Luật người cày có ruộng” của chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu.

5. Cấu trúc niên luận


Niên luận bao gồm:

-7-
- Lời mở đầu bao gồm tính cấp thiết của đề tài, mục tiêu và phạm vi
nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.
- Phần nội dung gồm 2 chương:
- + Chương 1: Tổng quan về Tổ chức hoạt động địa chính, chính sách
“Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm và “Luật người cày có ruộng”
của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu
- + Chương 2: Đánh giá các cuộc cải cách địa điền ở miền Nam Việt Nam
- Phần kết luận và kiến nghị.
- Phần tài liệu tham khảo.

-8-
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ĐỊA CHÍNH, SÁCH
“CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ “LUẬT
NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGUYỄN VĂN THIỆU
1. Tổ chức hoặt động địa chính
Sau Hội nghị Gênve, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam-
Bắc. Miền Nam đặt dưới sự kiểm soát của Mỹ-Ngụy. Thời kỳ đầu, ở các tỉnh miền
Nam còn song song tồn tại ba chế độ điền thổ.
- Chế độ theo Sắc lệnh 21-7-1925 áp dụng tại một số xã và thành phố thuộc
Nam Kỳ cũ.
- Chế độ quản thủ địa bộ áp dụng tại những lời chưa thuộc Sắc lệnh 1925 ở
Nam Kỳ cũ.
- Chế độ quản thủ địa chính áp dụng ở một số địa phương thuộc Trung Kỳ cũ.

Hình 1.1 Hội nghị Genève 1954

Để hợp thành một chế độ quản thủ điển địa thống nhất chính quyền Việt Nam
Cộng hoà của Ngô Đình Diệm đã ban hành Sắc lệnh 124-CTNT ngày 31-5-1962 về
công tác kiến điển và quản thủ điển địa tại những xã và thành phố chưa thuộc chế độ

-9-
bảo thủ điền và quản thủ điền địa những xã và thành phố chưa thuộc chế độ bảo thủ
điền thổ theo Sắc lệnh 1925.
Công tác kiến điển nhằm thiết lập bản để giải thửa hoặc hiệu chỉnh bản đồ sẵn
có, điều tra quyền sở hữu và các quyền khác, lập các thông tin về diện tích, loại hạng
đất, sản lượng... Sau khi kết thúc công việc kiến điền. Ty điền địa sẽ lập sổ điển bạ, sổ
điền chủ , sổ mục lục điền chủ để thực hiện việc quản thủ điền địa và làm những trích
lục địa bộ gọi là chứng thư kiến điển để cấp phát cho chủ đất.
Tổ chức và hoạt động quản thủ điền địa từ năm 1954 đến năm 1975 đã thay đổi
theo 3 giai đoạn sau (theo Nguyễn Thúc Bảo).
 Từ năm 1954 đến 1955 là thời kỳ thiết lập các Nha địa chính tại các “phần”:
- “Nam phần”do nghị định 3101-HCSV ngày 5-10-1954, thành lập Nha Địa
chính Việt Nam đặt dưới quyền trực tiếp của một đại biểu Chính phủ. Tại mỗi tỉnh có
Ty địa chính , lập 2 khu địa chính miền Bắc và miền Nam (của Nam phần) để mỗi Khu
kiểm soát về phương diện kỹ thuật và quản thủ địa chính một số tỉnh thuộc Khu.
- “Trung phần” do nghị định 412-ND/DC ngày 3-3-1955, Nha địa chính “Trung
phần” được thiết lập tại Huế có 1 giám đốc phụ trách. Ở mỗi tỉnh, tuỳ theo công việc
có thể có 1 Ty hoặc Phòng, Ban lưu động để làm công tác địa chính.
- “Cao nguyên Trung phần” do nghị định 495-ND/ĐB/CP ngày 2-8-1965, thành
lập Nha địa chính vùng Cao nguyên, đặt trụ sở tại Đà Lạt gồm 1 Nha Trung ương, 2
Khu địa chính: 1 cho miền Bắc và 1 cho miền Nam của Cao Nguyên. Các Ty địa chính
được lập ở các tỉnh và thành phố.
 Từ năm 1956 đến 1959 là thời kỳ Nha Tổng Giám đốc địa chính và địa hình
Chính quyền Diệm đã bãi bỏ tư cách pháp nhân và ngân sách “tự trị” của các
“phần” kể từ ngày 1-1-1956. Do đó, Nha địa chính các phần cũng bị huỷ bỏ. Nha tổng
Giám đốc Địa chính và địa hình được thành lập theo Nghị định số 1-DTCC/ND ngày
2-1-1957 để thi hành các “Quốc sách về điền địa và nông nghiệp”.
Cơ quan Trung ương của Tổng Nha gồm Sở Hành chính, Sở Pháp chế, Sở
Nghiên huấn và Công sản, Nha Kỹ thuật.
Cơ quan trực thuộc Tổng Nha gồm 6 Khu địa chính (mỗi Khu gồm một số tỉnh)
và mỗi tỉnh có 1 Ty địa chính.
 Từ năm 1960 đến 1975 là Tổng Nha điền địa

- 10 -
Tổng Nha điển địa được thành lập trong một quá trình khá dài và xáo trộn phức
tạp. Ngày 13-10-1959, Nha điền thổ và đặc nhượng công sản được sáp nhập vào Tổng
Nha địa chính và địa hình. Đến 1-12-1959 Tổng Nha địa chính và địa hình được đổi
tên là Tổng Nha điền địa và đồ bản là một cơ quan duy nhất phụ trách mọi công việc
có liên quan đến vấn đề điền địa. Ngày 8-5-1962 Tổng Nha điền địa và đồ bản có thêm
Nha cải cách điền địa sáp nhập vào để trở thành Tổng Nha điền địa theo Nghị định số
200-BCTNT/ĐT/ND. Tổng nha này có 11 nhiệm vụ cụ thể song có thể tổng hợp thành
3 nhiệm vụ chính sau:
- Xây dựng tài liệu: Nghiên cứu, tổ chức và điều hành những công tác tam giác
đạc, đa giác đạc và đo đạc cần thiết bằng mọi phương pháp cổ điển hay tân tiến để lập
bản đồ và các văn kiện phụ thuộc tức là làm tất cả các phần việc của cơ quan địa
chính.
- Quản thủ tài liệu: Bảo lưu, hiện cải, sang bản và in bản đồ, lập trích lục bản
đồ, số địa ba và các văn kiện phụ thuộc, điều hành công việc quản thủ địa chính (công
việc hành chính có liên quan đến điển địa ) và quản thủ điển địa ( bảo vệ quyền sở hữu
về điền địa).
- Khai thác tài liệu: Để thi hành cải cách điền địa, đặc nhượng công sản, cung
cấp tài liệu cho tư nhân và các cơ quan công quyên dùng vào việc nghiên cứu chỉnh
trang lãnh thổ, thuế vụ…
Về hệ thống tổ chức, Tổng Nha điển địa gồm các cơ quan sau:
+ Văn phòng Tổng giám đốc;
+ Cơ quan phụ tá Tổng giám đốc (Sở Hành chính, Sở Pháp chế, Chương trình,
Kế hoạch và Nghiên huấn);
+ Các cơ quan chuyên môn ở Trung ương (Nha đồ bản và địa hình, Nha quản
thủ điền địa, Nha cải cách điền địa);
+ Các cơ quan địa phương (Ty điển địa Sài Gòn, Ty để đương Sài Gòn và Ty
điển địa ở các tỉnh);
+ Toà án điền địa trực thuộc Tổng Nha.

- 11 -
2. Các cuộc cải cách điền địa của VNCH
Trong khi miền Bắc phóng tay Cải cách Ruộng đất tiêu diệt tầng lớp địa chủ thì
chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất đai, thực hiện công bằng xã
hội, nâng cao đời sống nông dân.

Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay phát cho nông dân, trước
năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự làm chủ mảnh đất tư hữu
của mình.

Chương trình Người Cày Có Ruộng là một cuộc cách mạng xã hội, thay đổi tận
gốc rễ nông thôn miền Nam.

Chương trình được thực hiện trong ôn hòa, dựa trên tinh thần thượng tôn luật
pháp, hoà giải và hòa hợp xã hội. Một mặt tôn trọng quyền lợi của chủ đất, khôi phục
và bảo vệ quyền tư hữu đất đai. Mặt khác giúp tòan thể nông dân có ruộng cày.

Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và các nước Đồng
Minh.

Nhưng chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam: Thủ tướng Ngô Đình
Diệm đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.

Ông Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành quả của nền dân chủ
nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại chính nghĩa cho công cuộc đấu
tranh chống cộng sản.

Những tài liệu phổ biến gần đây cho thấy, sau Mậu Thân 1968 số thanh niên
miền Nam theo cộng sản càng ngày càng ít đi, không đủ bổ xung số cán binh cộng sản
ra hồi chánh, lên đến trên 200.000 người.

Chính vì lý do này cộng sản Bắc Việt đã phải mang quân chính quy từ miền
Bắc vượt biên giới xâm lấn miền Nam.

Tình hình ruộng đất miền Nam

- 12 -
Khi quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều vùng chưa được
khẩn hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng vườn.

Lợi dụng cơ hội một số người Pháp và người theo Pháp đã chiếm, rồi thông
đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất đai họ chiếm được.
Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên 50 ha đất) có 6.316 là ở
miền Nam.

Miền Nam không xảy ra Cải cách Ruộng đất, không có nghĩa là cộng sản miền
Nam nhân đạo hơn cộng sản miền Bắc.

Từ cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay tàn sát tiêu diệt giai
cấp điền chủ. Các sử liệu cộng sản tóm tắc việc này như sau: “…lập tòa án cách mạng
xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, xóa các khoản nợ, tịch thu đất thóc
gạo của địa chủ chia cho dân nghèo và nuôi nghĩa quân.”

Khi Việt Minh cướp được chính quyền năm 1945, hầu hết các đại điền chủ đều
bỏ ruộng vườn về sống tại Sài Gòn hoặc các thành phố lớn. Việt Minh tịch thu ruộng
đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế.

Ở các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự thực hiện việc chia
lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ đang trồng cấy.

2.1 Chính sách “Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm
Đây là cuộc cải cách nhằm phân phối lại điền địa trong khuôn khổ chương trình
“Cải cách nông nghiệp” và “Phát triển nông thôn”. Cuộc cải cách ruộng đất này do
tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm thi hành. Vào thời điểm đó, ở VNCH
tình hình đất đai tồn tại nhiều bất cập bất công, đó là:

-Sở hữu đất đai chênh lệch quá lớn: 2.5% đại điền chủ sở hữu tổng số 45% đất
đai, trong khi đó 73% tiểu điền chủ chỉ sở hữu 15% đất đai.

-Lúc đó mức tô, thuế mà các điền chủ đặt ra rất cao (40-60%).

-Việc thuê mướn giữa chủ đất và tá điền không có hợp đồng cụ thể dẫn đến thua
thiệt lớn có thể đến với tá điền bất cứ lúc nào.

- 13 -
Chính sách “Cải cách điền địa” đã có manh nha từ thời Chính phủ Bảo Đại
(1953) với 4 nội dung được khởi xướng là: về thể thức thu những phần đất không
trồng tỉa của doanh điền, về quy chế tá điền; về suất lưu trí ruộng đất trồng tỉa và về ấn
định quyền hưởng hoa lợi các ruộng đất trồng tỉa.

Khi lên nắm quyền, Ngô Đình Diệm đặt vấn đề “Cải cách điền địa” lên hàng
quốc sách và coi đó là then chốt của cuộc cách mạng kinh tế ở miền Nam. “Cứu nông
thôn là cứu chế độ”, “xã ấp còn quốc gia còn, xã ấp mất quốc gia mất” .

Hình 2.1 Ngô Đình Diệm đã tiến hành cuộc cải cách nông thôn khi còn là Thủ tướng

Ngô Đình Diệm đã chia cuộc Cải cách điền địa ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn
1 từ năm 1955 đến cuối năm 1956 là giai đoạn thi hành “Quy chế tá điền”. Giai đoạn 2
từ cuối năm 1956 là giai đoạn “Tiểu điền chủ hoá tá điền”.

- Giai đoạn 1 của “Cải cách điền địa” có nội dung tập trung vào hai đạo
dụ số hai (8-1-1955) và số bảy (5-2-1965 ). Những điều cơ bản của hai
đạo dụ này là:

+ Lập khế ước tá điền loại A (đối với ruộng thục đang canh tác);

+ Lập khế ước tá điền loại B (đối với ruộng bỏ hoang);

- 14 -
+ Lập khế ước tá điền loại C (đối với ruộng hoàng của địa chủ văng mặt hoặc
cam kết không khai thác lại). Khế ước loại C còn bao gồm cả ruộng công làng xã, tá
điền trực tiếp ký với Hội đồng hương chính xã.

+ Thời hạn khế ước là 5 năm;

+ Mức tô quy định từ 15% đến 25%. Đối với khế ước loại C được miễn tô năm
đầu, năm thứ hai phải đóng 1/2 mức tô và năm thứ ba phải đóng 3/4 mức tô.

+ Thành lập “Ủy ban nông vụ” từ tổng, quận đến tỉnh do cai tổng, quận trưởng,
tỉnh trưởng làm chủ tịch có đại diện của địa chủ, nông dân tham gia để giải quyết các
vụ tranh chấp ruộng đất, hướng dẫn lập khế ước.

Nội dung các bước của giai đoạn 1 “Cải cách điền địa” thực chất chỉ mang tính
chất cải lương vì không giải quyết được vấn đề cơ bản của ruộng đất là quyền sở hữu.
Thực tế các địa chủ thời kỳ kháng chiến chống Pháp bị chính quyền Cách mạng tịch
thu ruộng đất lại trở về cùng chính quyền, pháp luật, quân đội chiếm đoạt lại ruộng đất
và chính quyền Diệm không thể kiểm soát được mức thu tố của địa chủ. Vì vậy, tình
hình nông thôn miền Nam vẫn mất ổn định và đời sống nhân dân tiếp tục sa sút.

- Giai đoạn 2 của “Cải cách điền địa” với nội dung chủ yếu là dạo cụ số
57 (22-10-1956) được nêu rõ là “Phân chia ruộng đất cho công bằng,
giúp tá điền trở thành tiểu điền chủ, phát triển sản xuất nông nghiệp,
hướng dẫn các đại biển chủ qua hoạt động kỹ nghệ”. Mục tiêu của đạo
dụ 57 tuy có tính “cách mạng” trong quan hệ đất đai song nội dung cụ
thể lại khó thực thi trên thực tế và hiệu quả rất thấp.

Dụ 57 quy định mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100ha ruộng đất và 15ha ruộng
hương hỏa (cộng là 115ha). Trong số ruộng đất được giữ lại, địa chủ được quyền lựa
chọn bất cứ thửa ruộng nào. Số ruộng thừa ra sẽ bị truất quyền sở hữu. Ruộng “truất
hữu” sẽ được chính quyền bồi thường theo hiện giá. Số tiền bồi thường được trả 10%
bằng tiền mặt, số tiền còn lại được trả bảng tín phiếu trong 12 năm với lãi suất 5%
hàng năm.

Số ruộng “truất hữu” sẽ được đem bán cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ
không quá 5ha. Người mua được phép trả dân trong 6 năm, trong thời gian ấy, ruộng

- 15 -
đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong vòng 10 năm đất không được cho
mướn, cầm cố hay sai áp.

Hình 2.2 Buổi lễ trao bằng khoán cho nông dân dưới quyền chủ toạ của tổng thống
Ngô Đình Diệm

Theo thống kê của chính quyền Diệm, số địa chủ bị “truất hữu” ruộng là 2.710
người và số ruộng “truất hữu” là 65 vạn ha trồng lúa. Thực tế, dụ 57 chỉ đụng chạm
đến 26 vạn ha trồng lúa của địa chủ Pháp còn khoảng trên 40 vạn ha nữa không bị
đụng chạm đến. Theo tài liệu của Viện khảo sát Mỹ Stanford năm 1968 thì chỉ có 1980
địa chỉ với 454. 878ha ruộng đất bị “truất hữu” mà thôi. Như thế đại bộ phận giai cấp
địa chủ cùng khoảng 2/3 diện tích mà chúng chiếm giữ không bị đụng chạm đến.

Trong 6 năm thực hiện giai đoạn hai của “Cải cách điền địa” mới chỉ có
123.000 gia đình tá điền trở thành tiểu điền chủ. Đương nhiên số điền chủ này phần
lớn vốn không phải là những nông dân không có đất. Đến cuối năm 1963, sau 7 năm

- 16 -
thực hiện cải cách chỉ vẻn vẹn có 18 đại địa chỉ bỏ ra 7 triệu đồng trái phiếu để đổi lấy
7070 cổ phiếu của một công ty hỗn hợp. Tờ tạp chí “Chấn hưng kinh tế” số ra ngày
12-5-1960 cho biết, tính đến tháng 4-1960, tại Nam Bộ, 45% diện tích trồng trọt vẫn
nằm trong tay những địa chủ lớn (có từ 50ha trở lên), gần 2,5% dân số, 422% diện tích
tập trung vào trong tay địa chủ vừa và nhỏ, 11,1% dân số và 12,5% diện tích còn lại
phân phối cho phú nông và nông dân lao động.

Tốc độ thực hiện phân phối lại ruộng đất bằng chương trình Cải cách điền địa
khá chậm. Theo Gabriel Kolko, vào năm 1961, khi chương trình này trên thực tế đã
chấm dứt. Tổng thống Diệm đã thu được 422.000 ha cộng với ruộng đất của Pháp,
thành ra vào khoảng 650.000 ha. Trong số này chỉ 244.000 ha được chia lại sau cuối
năm 1958, chủ yếu cho người di cư Thiên Chúa giáo miền Bắc, cựu chiến binh hoặc
những người mới tới.Lấy ví dụ tỉnh Long An, trong số khoảng 35.000 hộ nông dân ở
Long An phải thuê một phần hoặc toàn bộ đất canh tác, chỉ có 3.613 hộ đủ tiêu chuẩn
được mua đất theo Dụ số 57; hơn nữa, thủ tục quá chậm chạp đến nỗi cho đến tận năm
1960, khi chính quyền Long An đã rơi vào hoàn cảnh nguy ngập, mới chỉ có 973 giấy
chứng nhận sở hữu đất ruộng được cơ quan Bộ ở Sài Gòn gửi về.

Bên cạnh đó, lực lượng du kích cộng sản luôn tìm mọi cách phá hoại chính sách
Cải cách điền địa của chính phủ VNCH.. Nhất là từ năm 1960 trở về sau an ninh nông
thôn miền Nam xấu đi do người cộng sản công khai phát động chiến tranh du kích nên
chính phủ rất khó thi hành chính sách cải cách điền địa. Du kích cộng sản cấm nông
dân làm đơn xin mua ruộng của chính phủ, cấm nông dân ký hợp đồng với chủ điền,
huỷ bỏ địa tô, ám sát cán bộ phụ trách chương trình cải cách, phá hoại các khu nông
thôn kiểu mẫu, các cơ sở thí nghiệm trồng trọt, chăn nuôi. Dưới sự khống chế của du
kích cộng sản, nông dân không dám mua ruộng đất của chính phủ còn địa chủ không
thu được tiền cho thuê đất. Vì không có đơn xin mua nên số ruộng đất chính phủ còn
nắm giữ chưa bán được phải bỏ hoang.

Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, nền chính trị miền Nam bất ổn
trong một thời gian. Do đó chính sách Cải cách điền địa của VNCH bị gián đoạn từ
năm 1963 đến năm 1967

- 17 -
Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm đã khôi phục được kiểu sở hữu đất tại đồng
bằng Nam Bộ về lại như thời trước chiến tranh khi 2% chủ đất sở hữu 45% đất đai và
khoảng một nửa số người cày không có ruộng

Ngày 30 tháng 6 năm 1959, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long số khế ước tá
điền lập được đã lên tới 774.286 ha (Loại A: 576.856 ha, loại B và C: 197.530 ha), liên
quan tới khoảng ¾ số tá điền

Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% đối với mùa gặt chính của ruộng 2
mùa/năm nhưng trong thực tế thì địa chủ bắt ép nông dân nộp tô hơn mức quy định rất
nhiều. Mức tô phổ biến trong giai đoạn này là 25% - 40% hoa lợi. Còn theo báo Tự Do
(báo của chính quyền VNCH) số ra ngày 3/3/1961 thừa nhận: "Tuy khế ước quy định
tô 15% nhưng thực tế địa chủ đã thu tô 45 – 50% như cũ, những năm mất mùa cũng
không được giảm tô".

Theo tạp chí Chấn Hưng Kinh Tế đã thống kê như sau:

Diện tích truất hữu (2035 chủ điền) = 430.319 ha (chiếm 94%)

Diện tích đã được bồi thường = 340.744 ha

Diện tích có đơn xin mua = 297.018 ha

Diện tích đã cấp bán (123.193 tá điền) = 345.851 ha

Diện tích mua trực tiếp của chủ điền (2857 tá điền) = 6.362 ha

Diện tích mua của điền chủ Pháp = 220.842 ha (Thỏa ước Việt-Pháp ngày
10/9/1958)

Số tiền bồi thường bằng chi phiếu = 165.497.567 đồng

Số tiền bồi thường bằng trái phiếu = 1.195.380.000 đồng

Theo số liệu trên, tính chung cả miền Nam, chính quyền đã thu hồi 430.319 ha
và bán lại cho 123.193 nông dân. So với 1 triệu hộ tá điền ở đồng bằng sông Cửu Long
thì rõ ràng dụ 57 về cơ bản không ảnh hưởng bao nhiêu

- 18 -
Với những kết quả như trên, cả 3 mục tiêu mà chương trình “Cải cách điền địa”
của chính quyền Ngô Đình Diệm định ra đều thất bại, đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền họ Ngô.

2.2 “Luật người cày có ruộng” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 buộc Mỹ phải xuống thang
và chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Vì một vùng nông thôn rộng
lớn đã ở dưới quyền kiểm soát của Mặt trận giải phóng miền Nam nên Mỹ và Việt
Nam Cộng hòa càng chú ý đến việc giành lại đất đai ở nông thôn. Trong chương trình
nghị sự giữa Richard Nixon và Nguyễn Văn Thiệu thời Đệ nhị Cộng hòa tại đảo
Midway tháng 6 năm 1969, vấn đề nông thôn và cải cách điền địa đã được ghi lên
hàng đầu. Nixon hứa sẽ viện trợ 40 triệuUSD cho chương trình cải cách điền địa này.

Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật để
quốc hội thảo luận, trong đó việc rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 ha
ở Nam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80 vạn
nông dân. Ngày 9 tháng 9 năm 1969, thì Nixon phái Richard I. Hogh, một chuyên gia
về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người Việt và Mỹ sang Sài
Gòn trực tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa. Ngoài 40 triệu Mỹ kim (tương
đương 11 tỷ đồng Việt Nam Cộng hòa) bỏ ra thì chính quyền Đệ nhị Cộng hòa còn bỏ
ra 178 triệu đồng để chi cho việc soạn thảo luật “Người Cày Có Ruộng”.

Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1970, sau một thời gian tranh luận khá
gay go trong Quốc hội vì nhiều dân biểu là địa chủ không muốn bị truất hữu, cuối
cùng thì đạo luật được Thượng viện thông qua ngày 6 tháng 3 năm 1970 và Hạ viện
chung quyết ngày 16 tháng 3 năm 1970. Ngày 26 tháng 3 năm 1970, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã ký tại Cần Thơ sắc lệnh số 003/60 ban hành luật “Người Cày
Có Ruộng”. Ông nói: “Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ngày ban hành
luật “Người Cày Có Ruộng” được coi là ngày nghỉ lễ toàn quốc.

- 19 -
Hình 2.3 Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người
Cày Có Ruộng và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân

“Luật người cày có ruộng” của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được ban hành
gồm 3 điều chủ chốt:

 Hạn điền.
 Hạ thấp “suất lưu trí” để lại cho mỗi địa chủ, không phải là 100ha như thời
Ngô Đình Diệm mà chỉ là 15ha ở Nam Bộ và 5ha ở Trung Bộ. Số ruộng thừa
sẽ bị truất hữu. Ruộng truất hữu được chính quyền bồi thường bằng 2,5 lần số
hoa lợi thường niên về lúa của thửa ruộng với tỷ lệ 20% trả bằng tiền mặt, số
còn lại được trả bằng trái phiếu trong 8 năm và hưởng lãi 10% năm.

Tuy nhiên số 15ha này là ruộng trồng lúa. Các loại ruộng đất sau không bị truất
hữu.

+ Ruộng đất hương hỏa, kỵ điền, hậu điền, nghĩa trang không quá 5 ha cho mỗi
gia tộc.

+ Ruộng đất hiện hữu của các tôn giáo.

- 20 -
+ Ruộng đất trồng cây công nghiệp, cây ăn trái

+ Ruộng đất trên đó đã xây cất cơ sở công, kỹ nghệ.

+ Ruộng muối, ao hồ và đồng cỏ thuộc các cơ sở chăn nuôi.

+ Ruộng đất nằm trong bản đồ chính trong thành thị, thổ cư và vườn cau.

+ Ruộng đất thuộc các trung tâm thực nghiệm và thí điểm nông nghiệp.

+ Ruộng đất dành riêng cho các buôn ấp đồng bào Thượng.

+ Ruộng đất có dụng ích lợi công cộng.

+ Ruộng đất chưa bao giờ trồng lúa được khẩn hoang sau ngày ban hành luật

Hình 2.4 Trái phiếu cải cách điền địa được ban hành dưới chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu

 “Hữu sản hóa nông dân” (cấp ruộng đất cho nông dân)

Quỹ ruộng đất có được từ diện truất hữu được chia cho nông dân không phải
trả tiền. Mỗi nông hộ được tối đa 30ha ở Nam Bộ và 1ha ở Trung Bộ, Người được cấp

- 21 -
phát ruộng đất phải là người trực tiếp canh tác ruộng đất ấy và trong vòng 15 năm
không được bán hoặc chuyển nhượng cho người khác.

 Cấp bằng chứng khoán ruộng đất cho nông dân.

Cấp bằng chứng khoán ruộng đất cho nông dân đi kèm với việc ưu tiên mua
máy cày, phân bón, xăng dầu, giống lúa mới… Lấy nông trại gia đình làm đơn vị cơ sở
để thực hiện kinh doanh sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Về lý thuyết, “Luật
người cày có ruộng” không tạo ra tầng lớp tư sản kinh doanh ruộng đất mà tạo ra các
hộ tiểu nông sản xuất hàng hóa.

- Trên cơ sở hữu sản hóa nông dân, chính quyền Thiệu đã xoá bỏ chế độ tá
canh. Những địa chủ còn ruộng đất (15ha không bị truất) được phép thuê mướn nhân
công để canh tác nhưng không cho phép phát canh thu tô.

Cùng với việc thực hiện “Luật người cày có ruộng” chính quyền Thiệu còn
thực hiện các chính sách “Canh tân hóa nông nghiệp” đưa hàng hoá, máy móc, phân
bón, giống lúa mới… về đồng ruộng và đẩy mạnh sự xâm nhập kinh tế tư bản chủ
nghĩa vào nông thôn (phát triển tín dụng, ngân hàng…) Những chính sách này xét trên
bình diện kinh tế đã góp phần quan trọng đẩy nhanh sự phát triển nền kinh tế nông
nghiệp sản xuất hàng hoá ở miền Nam. Những thay đổi về cơ cấu kinh tế do các chính
sách ruộng đất dẫn tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp ở nông thôn miền Nam.
Nếu trước cách mạng tháng Tám địa chủ và bần nông-tá điền là giai cấp chính ở nông
thôn thì đầu những năm 70, giai cấp chính và là nhân vật trung tâm ở nông thôn Nam
Bộ là tầng lớp Trung nông.

Nói chung, cho đến trước ngày giải phóng (1975), số địa chủ ở Nam Bộ không
còn bao nhiêu, ở Bình Trị Thiên, Khu 5, Khu 6 cũ và một số tỉnh ở Nam Bộ không còn
địa chủ, không có địa chủ lớn. Tầng lớp địa chỉ chiếm 0,17% số hộ và 0,41% tổng số
ruộng đất. Trung nông là tầng lớp chủ yếu ở nông thôn miền Nam, chiếm 70% dân số
với 80% ruộng đất, 70% máy móc cơ khí nhỏ và 93% sức kéo trâu bò.

Đối với luật “Người Cày Có Ruộng”, Tổng thống Thiệu cho lập ra nhiều Ủy
ban cải cách điền địa từ huyện đến xã. Các ủy ban này có nhiệm vụ kê khai ruộng đất
canh tác của nông dân, ruộng đất thuộc sở hữu của địa chủ. Căn cứ vào số liệu do các

- 22 -
Ủy ban Cải cách Điền địa thu thập được, Việt Nam Cộng hòa cấp chứng khoán để xác
nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Những ai không kê khai ruộng đất hoặc
không nhận chứng khoán thì ruộng đất sẽ bị tịch thu và xem như có hành động ngăn
cản việc thi hành người cày có ruộng. Những hành động này sẽ bị phạt tù từ 6 tháng
đến 3 năm và phạt tiền từ 20.000 đến 200.000 đồng (Điều 17, chương 5 luật “Người
Cày Có Ruộng”).

Sau khi kê khai ruộng đất và lãnh chứng khoán, nông dân phải đóng thuế ruộng
đất, có nơi phải đóng 2 – 3 năm liền. Với mức đóng thuế liên tục như thế đã gây rất
nhiều khó khăn cho nông dân được cấp đất.

Năm Số đơn nộp Số mẫu ruộng Giấy chủ quyền


cấp phát cấp phát
1970 55,974 72,067 39,492

1971 347,040 427,041 335,758

1972 388,070 426,839 373,387

1973 232,921 268,429 204,733

Tổng 1,024,005 1,193,376 953,370

Bảng 2.1 Kết quả chương trình “Người Cày Có Ruộng”

Trong đợt 2, đại địa chủ chỉ được giữ tối đa 15 ha nếu trực canh, sau năm 1973
đã chấm dứt nạn tá canh làm thuê ruộng của chủ điền vì nông dân đã được cấp, bán trả
góp. Ở miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị
xoá sạch. Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng để
gia tăng năng suất. Sau khi hoàn tất chương trình “Người Cày Có Ruộng” trong những
năm 1970-1973, Việt Nam Cộng hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hóa và
thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở miền Nam
Việt Nam.

- 23 -
Ba năm sau khi triển khai chương trình này, tổng cộng có 75 vạn hộ gia đình,
gồm khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất. Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông
và tư sản trung nông giàu sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác. Số người
nông dân giàu có này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ
cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm,
chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao
động nông nghiệp rất tự do. Sau khi Việt Nam Cộng hòa hoàn tất chương trình “Người
Cày Có Ruộng” thì không còn thành phần đại địa chủ ở miền Nam Việt Nam. Trong
ba năm 1970-1973, kết quả của chương trình “Người Cày Có Ruộng” là đã chấm dứt
chế độ tá canh ở miền Nam Việt Nam khi tá điền trở thành điền chủ.

Năm 1960 đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam Cộng hoà, với
340.000 tấn gạo được xuất cảng. Từ năm đó, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh, ruộng
đất thiếu người cày, xuất cảng gạo xuống dần, và tới năm 1962, còn 85 ngàn tấn. Từ
năm 1965, đã có lúc phải nhập cảng gạo có năm lên tới 760.000 tấn. Nhờ những chính
sách phát triển nông thôn, từ năm 1970, sản xuất lúa gạo tại miền Nam đã tăng trưởng.
Thêm vào đó là nhờ tiến bộ kỹ thuật: loại lúa giống IR-3 phát xuất ở Philippines được
đem vào đồng bằng Cửu Long, nhờ phát triển nhanh và tốt, còn được gọi là "lúa Thần
nông". Đến năm 1971 thì lúa Thần nông đã phủ được trên 2,6 triệu ha ruộng, bằng
42% diện tích canh tác.

Kết quả chương trình NCCR theo số liệu của Tổng nha Điền Địa (tính đến ngày
15/7/1974)

Toàn miền Nam cấp phát = 1.290.949 ha

Đồng bằng sông Cửu Long = 1.154.371 ha (ruộng tư 1.099.382 ha; ruộng công
54.989 ha)

Chứng thư cấp đất = 693.258 chứng thư

Số tiền bồi thường = 151 tỷ đồng (số liệu 26/4/1974)

Luật NCCR không hề đụng chạm đến ruộng đất của tôn giáo nên ngay sau năm
1975, các tôn giáo còn sở hữu rất nhiều ruộng đất. Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài còn
chiếm không đáng kể, nhưng đáng chú ý nhất là sự sở hữu lớn của các nhà thờThiên

- 24 -
chúa giáo. Nhà thờ Cầu Ngang (huyện Tiểu Cần, Cửu Long) sở hữu 529 ha, nhà thờ
Bãi Sang (huyện Càng Long, Cửu Long) sở hữu 432 ha, nhà thờ Bình Hạnh Đông
(huyện Phú Tân, An Giang) sở hữu 570 ha. Ở tỉnh Long Châu Hà cũ, trong tổng số
ruộng đất canh tác của tỉnh, tôn giáo chiếm 5% (7.848 ha) trong đó Thiên chúa giáo
chiếm 7205 ha.

- 25 -
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ CÁC CUỘC CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA Ở MIỀN
NAM VIỆT NAM

1. Đánh giá chính sách “Cải cách địa điền” dưới thời Ngô Đình Diệm

Theo quan điểm của Việt Minh, Chương trình cải cách điền địa tước đoạt đất
đai của nông dân, khôi phục lại hình thức sở hữu phong kiến, phục hồi giai cấp địa chủ
ăn bám, bóc lột nông dân. Đây là thất bại chính trị to lớn của chính phủ Ngô Đình
Diệm và cũng là nguyên nhân sâu xa khiến nông dân ủng hộ cuộc kháng chiến của họ.

Theo quan điểm của chính phủ Ngô Đình Diệm, Chương trình cải cách điền địa
khôi phục quyền tư hữu của chủ đất đã bị Việt Minh xâm phạm, thiết lập lại trật tự xã
hội. Đây là chương trình cải cách xã hội ôn hòa, trên tinh thần thượng tôn pháp luật và
hoà hợp xã hội, khôi phục và bảo vệ quyền dân sự cơ bản là quyền tư hữu, vừa tôn
trọng quyền lợi của chủ đất vừa giúp nông dân chưa có đất có cơ hội sở hữu một diện
tích đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất của họ. Chương trình cải cách điền địa còn giúp
những chủ đất cũ có một số vốn lớn sau khi bán đất cho nhà nước để đầu tư vào các
lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Điều này tạo ra sự dịch chuyển trong
cơ cấu kinh tế quốc gia theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng các
ngành còn lại.

Nhược điểm của Chương trình cải cách điền địa là nó diễn ra quá chậm vì nhiều
lý do. Nhà nước không đủ ngân sách để mua toàn bộ đất đai vượt quá hạn mức của địa
chủ trong thời gian ngắn, các thủ tục hành chính khiến việc bán ruộng cho nông dân
chậm trễ, nông dân không có tiền mua đất, chủ đất chia nhỏ đất đai của mình cho các
thành viên trong gia đình để không phải bán cho nhà nước và nhất là do lực lượng
cộng sản luôn tìm cách phá hoại. Từ năm 1960 đến 1963, khi lực lượng cộng sản gia
tăng hoạt động, chương trình cải cách điền địa gần như không thực hiện được do người
cộng sản cấm nông dân mua đất của chính phủ. Đến năm 1963, khi Tống thống Ngô
Đình Diệm bị ám sát, nền chính trị miền Nam rơi vào khủng hoảng, chương trình Cải
cách điền địa tạm dừng.

- 26 -
Hạn chế khác của chương trình Cải cách điền địa là mức giới hạn diện tích sở
hữu 100 ha được đánh giá là lớn trong thực tế Việt Nam. Đây là mức cao hơn 30 lần so
với các mức giới hạn được đặt ra với mục đích tương tự ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài
Loan. Chính vì thế chỉ khoảng 10% nông dân miền Nam mua được đất từ việc triển
khai Dụ số 57.

Theo quan sát của một số học giả, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình
Diệm đề ra đã bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đã giảm
thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình
Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 2% đại điền chủ
sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu nông chỉ nắm giữ 15%., khoảng một nửa
số người cày không có ruộng. Hạn mức đất được quy định rất lớn (100 hecta), nên
hiếm có địa chủ nào phải trả lại đất, số đất thu được cũng chủ yếu là chia cho người
Thiên Chúa giáo di cư vào từ miền Bắc. Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được
Ngô Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Nông dân phải trả lại đất cho địa
chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp thuế đất cho quân đội. Khế ước quy định mức
tô tối đa là 25% nhưng trong thực tế thì mức nộp tô phổ biến là 40% hoa lợi Điều này
tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn
nhẫn hệt như bọn Pháp". Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải
phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.

Vì những hạn chế này nên Việt Nam Cộng hòa phải tiếp tục thực hiện Cải cách
điền địa đợt hai bằng Luật “Người Cày Có Ruộng” vào năm 1970.

2. Đánh giá “Luật người cày có ruộng” của Nguyễn Văn Thiệu

Báo chí Hoa Kỳ hết lời ca ngợi chương trình “Người Cày Có Ruộng”; tờ
Washington Evening Star gọi đó là “Tin tức tốt đẹp nhất đến từ Việt Nam kể từ khi kết
thúc sự chiếm đóng của người Nhật.”Còn tờ The New York Times cho rằng “Có lẽ
đây là cuộc cải cách ruộng đất không cộng sản mang nhiều tham vọng và tiến bộ nhất
của thể kỷ 20.”

- 27 -
Theo ông Nguyễn Tiến Hưng trong sách Khi đồng minh tháo chạy: “Nhiều
quan sát viên quốc tế đã cho chương trình “Người Cày Có Ruộng” là một trong những
chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng
son của nền Đệ Nhị Cộng hòa”. Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông
đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái
sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống
của nông dân được cải thiện.

Báo Chính Luận Sài Gòn (ngày 23 tháng 2 năm 1971) đưa tin: Ngày 22 tháng 2
năm 1971, sau gần một năm luật “Người Cày Có Ruộng” được ban hành, dân biểu
Trần Văn Quá, chủ tịch ủy ban canh nông của thượng viện đã tiết lộ: “Hầu hết số
ruộng này đã được Việt Cộng cấp không cho nông dân từ mấy năm trước, nay luật
“Người Cày Có Ruộng” xem như hợp thức hoá tình trạng đó”.

- 28 -
KẾT LUẬN

Nhìn chung, cả hai cuộc cải cách đều có những ảnh hưởng lớn đến hệ thống đất
đai nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Việc đưa ra những chính sách mới thời kì tổng
thống Ngô Đình Diệm đã giúp chính phủ VNCH đã thực hiện thành công chính sách
tư hữu điền địa cho các tá điền. Khoảng trên 50% số tá điền đã có ruộng, số tá điền
còn lại được lập các khế ước thuê đất với mức thuế rẻ. Nhưng bên cạnh đó vẫn chưa
chặt chẽ khiến một số chủ điền vẫn còn lách luật dẫn đến một cuộc cải cách không triệt
để như mong muốn. Cải Cách Điền Địa về cơ bản không giải quyết được vấn đề cụ thể
nào.

Sau sự dở dang của cuộc cải cách thứ nhất đã dẫn đến cuộc cải cách thứ hai của
Nguyễn Văn Thiệu. Cuộc cải cách đã được giới báo chí hết lời khen ngợi. Chính phủ
đã mua bán sòng phẳng đất đai không trực canh của các điền chủ để cấp miễn phí cho
dân nghèo, tạo điều kiện cho người cày có ruộng, chấm dứt hoàn toàn nạn cho thuê
đất, thu tô của các điền chủ, từ đó cáo chung chế độ Tá canh ở miền Nam. “Người Cày
Có Ruộng” nên được nhìn nhận như là một chính sách thành công với chỉ sau 3 năm
triển khai (1968-1971), có tổng cộng 75 vạn hộ gia đình, gồm khoảng 5 triệu người, đã
được cấp trong tổng số hơn 1 triệu ha ruộng đất đất. Theo nhiều quan sát viê quốc tế,
chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa
trong nông nghiệp phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 Nguyễn Đức Khả, Lịch sử quản lý đất đai, tr. 225 đến tr. 234
 Nguyễn Thúc Bảo, Sơ lược về lịch sử địa chính và địa chính Việt Nam…, Sđd,
tr.14
 Chu Văn Thỉnh ( Chủ biên ), Cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính
sách và sử dụng hợp lý quỹ đất đai…, Sđd, tr.49,50,51
 Tôn Gia Huyên ( Chủ biên ), BCKH chuyên để 2…, Sđd, tr.235
 Mai Xuân Yến (Chủ biên), DTNCKH cấp bộ…, Sđd, tr.71
 Neel Sheehan, A Bright Shining Lie, Random House, 1988, tr. 183
 Tuần san Phòng thương mại Sài Gòn số 196, ngày 7/4/1961

- 29 -
 Robert L.Sanson, The economics of insurgeney in the Mekong Delta of
Vietnam, MIT Press, Cambridge. Mass. 1970. page 61
 Tạp chí Chấn hưng Kinh tế, số 173 ngày 16/6/1960
 Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam,
page 53, University Press of Kansas, 2002
 Võ Văn Sen, Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam
(1954 - 1995), nxb Tủ sách đại học tổng hợp Tp.HCM, 1995, page 109
 Đặng Phong (2004), Kinh tế Miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tháng 12 năm 2004
 Tài liệu được lưu ở khoa Sử, Viện Khoa Học Xã Hội, Thành phố Hồ Chí Minh
 Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, phần 2 chương 5, dẫn tại Xuất &
Nhập khẩu Gạo trước 1975

TRANG WEB THAM KHẢO


 https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Cải_cách_điền_địa_(Việt_Nam_Cộng_hòa)
 http://vnin21.blogspot.com/2014/09/cai-cach-ien-ia-viet-nam-cong-hoa.html
 https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2014/09/140924_south_vn_land_refor
ms
 https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/chanh-tri-kinh-te/cai-cach-ruong-
dhat?tmpl=%2Fsystem%2Fapp%2Ftemplates%2Fprint%2F&showPrintDialog=
1
 https://www.bbc.com/vietnamese/forum-41376956

- 30 -

You might also like