You are on page 1of 42

Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế, 1968 (Trần Gia Phụng)

Trần Gia Phụng


Toronto, Canada
© DCVOnline
I. Tình hình chung
Biến cố Tết Mậu Thân (1968) được Cộng Sản Việt Nam (CSVN)
gọi là "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" (General Offensive and General
Uprising). "Tổng công kích" là một từ ngữ trong lý thuyết cách mạng cộng
sản Trung Hoa, còn "tổng khởi nghĩa" là từ ngữ Việt Nam chỉ những cuộc
nổi dậy chống ngoại xâm trong lịch sử, và đã được Việt Minh sử dụng để gọi
việc chiếm chính quyền của họ vào năm 1945.
Dầu chịu ảnh hưởng lý thuyết lấy nông thôn bao vây thành thị của
Mao Trạch Đông (1893-1976), nhưng trước tình hình biến chuyển mau lẹ
vào giữa thập niên 60 ở Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức Nam Việt, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt muốn đốt giai đoạn, thay
đổi chiến thuật, quyết tổng công kích, tổng khởi nghĩa ở các thành phố miền
Nam, để thực hiện những tính toán chiến lược trong công cuộc xâm lăng
miền Nam..
Việc Nikita Khrusev (1894-1971) bị đảo chánh ở Liên Xô ngày
15/10/1964 là một biến cố rất thuận lợi cho VNDCCH. Khrusev chủ trương
hòa dịu với các nước tây phương và sống chung hòa bình giữa các nước có
chế độ chính trị khác nhau. Chính phủ Liên Xô dưới thời Khrusev, vào đầu
năm 1957, đã đưa ra đề nghị hai miền Bắc và Nam Việt Nam cùng vào Liên
Hiệp Quốc như hai nước riêng biệt, nhưng bị nhà cầm quyền VNDCCH
quyết liệt phản đối.
Trong khi đó, VNDCCH quyết dùng võ lực để xâm chiếm VNCH.
Khi biến cố Maddox xảy ra trong vịnh Bắc Việt vào tháng 8-1964, Hoa Kỳ
leo thang chiến tranh, oanh tạc Bắc Việt(1). Ban lãnh đạo mới của Liên Xô
gồm tam đầu chế Leonid Brezhnev (1906-1982), Alexei Kosygin (1904-
1980) và Nicolay Podgorny (1903-1983) muốn lôi kéo Bắc Việt về phía
mình trong cuộc tranh chấp giữa Liên Xô và Trung Hoa, liền tuyên bố sẵn
sàng giúp đỡ Bắc Việt trong trường hợp Bắc Việt bị Hoa Kỳ tấn công. Tháng
2-1965, thủ tướng Liên Xô Kosygin viếng thăm Hà Nội.
Để đáp lễ và tiếp tục cuộc thương thảo, tháng 4-1965, Lê Duẩn
(1907-1986), bí thư thứ nhất đảng Lao Động Việt Nam (LĐVN) cầm đầu
phái đoàn sang Moscow. Trong dịp nầy, một thỏa ước viện trợ đã được ký
kết; đồng thời Liên Xô đồng ý cho một tổ chức do đảng LĐVN lập ra để điều
khiển chiến tranh ở miền Nam là Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam (MTDTGPMNVN) đặt văn phòng liên lạc tại Moscow(2).
Tuy chưa chính thức thừa nhận về mặt ngoại giao theo công pháp
quốc tế, nhưng việc Liên Xô chấp thuận cho MTDTGPMNVN đặt văn
phòng liên lạc tại Moscow, có nghĩa là Liên Xô xác nhận sự hiện diện của
mặt trận nầy tại miền Nam Việt Nam, khởi đầu cho việc tăng cường viện trợ
quân sự cho Bắc Việt cũng như MTDTGPMNVN theo chủ trương can thiệp
mới của Liên Xô, mà sau nầy các nước Tây phương gọi là chủ thuyết
Brezhnev. Từ đó, vũ khí Liên Xô được đưa vào chiến trường miền Nam để
trang bị cho lực lượng cộng sản. Nhiều quan sát viên ghi nhận rằng các loại
vũ khí nầy tối tân hơn các loại vũ khí còn sót lại sau thế chiến thứ hai (1939-
1945), mà Hoa Kỳ trang bị cho quân lực VNCH cho đến năm 1968.
Về phía VNCH, từ cuối năm 1963, tình hình chính trị xáo trộn mạnh
sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm (1901-1963) bị sát hại ngày 02/11/1963,
cùng với sự hủy bỏ luôn hiến pháp ngày 26/10/1956 do tổng thống Diệm ban
hành. Điều nầy gây ảnh hưởng chính trị tai hại là chấm dứt tính cách hợp
hiến hợp pháp liên tục của chính quyền dân sự, tức nền Đệ nhất Cộng Hòa, ở
miền Nam Việt Nam từ khi đất nước bị chia hai sau 1954, và gây khoảng
trống hiến pháp, đưa đến nhiều rối loạn về chính trị do sự cầm quyền của
giới quân sự, vì giới nầy không phải do dân chúng bầu ra, nên không thể đại
diện cho dân chúng được.
Các tướng lãnh lật đổ ông Diệm lại không đủ khả năng quản lý đất
nước, làm cho chính sự càng ngày càng rối ren. Trung tướng Dương Văn
Minh (1916-2001) cầm quyền chẳng được bao lâu thì bị trung tướng Nguyễn
Khánh thay thế ngày 29/01/1964. Ông Khánh gặp nhiều chống đối, nhất là từ
sau khi ông tuyên bố Hiến chương ngày 16/08/1964, thường được gọi là
Hiến chương Vũng Tàu. Những cuộc biểu tình dữ dội, nhất là của giới Phật
giáo, khiến ông Khánh phải hủy bỏ hiến chương nầy ngày 25/08/1964.
Những âm mưu đảo chánh liên tiếp diễn ra, trong đó quan trọng nhất là ngày
13/09/1964, tướng Lâm Văn Phát và tướng Dương Văn Đức đem quân về thủ
đô Sài Gòn "biểu dương lực lượng" rồi rút lui, và ngày 19-2-1965, tướng
Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo (?-1965) đảo chánh, nhưng bị dẹp
yên ngay.
Trong thời gian nầy, biểu tình xảy ra liên tục trên toàn quốc do các
phe phái chính trị, các phong trào đòi hỏi hòa bình, và nhất là các giáo phái
tổ chức. Bàn thờ Phật cũng được đưa "xuống đường" tại các thành phố lớn ở
miền Trung như Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào tháng 06/1966.
Tình hình chính trị ổn định lại dần dần với việc bầu cử Quốc hội Lập
hiến ngày 11/09/1966. Bản hiến pháp mới được ban hành ngày 01/04/1967,
hình thành nền Đệ nhị Cộng Hòa. Cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên nền Đệ
nhị Cộng Hòa ngày 03/09/1967 đưa đến việc liên danh các tướng Nguyễn
Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đắc cử tổng thống và phó tổng thống, chấm dứt
giai đoạn khủng hoảng chính trị kéo dài từ sau ngày tổng thống Diệm bị sát
hại, nhưng lại đưa đến sự chuyên chính của giới quân nhân.
Điều làm cho Bắc Việt bất ngờ nhất là sau biến cố chiến hạm
Maddox bị tấn công ở vịnh Bắc Việt hai ngày 2 và 04/08/1964, lưỡng viện
Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra "Quyết nghị vịnh Bắc Việt" (The Gulf of Tonkin
Resolution) ngày 07/08/1964 hoàn toàn ủng hộ tổng thống Lyndon Johnson
(1908-1973) trong việc mở rộng chiến tranh Việt Nam.
Từ đó, Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp vào Việt Nam, và
quân số Hoa Kỳ tăng gia nhanh chóng, từ khoảng trên 20,000 cố vấn và
chuyên viên cuối năm 1964, lên đến 486,000 quân cuối năm 1967 (3). Đó là
chưa kể quân số của các nước Đồng minh như Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái
Lan, Úc Đại Lợi lên đến vài chục ngàn người. Về phía VNCH, quân số cũng
gia tăng nhanh chóng để đáp ứng tình hình chiến sự càng ngày càng gia
tăng(4). Chiến tranh lan rộng ra Bắc với những phi vụ oanh tạc các cơ sở quân
sự, những trục lộ giao thông quan trọng, kể cả những thành phố lớn. Nhà
cầm quyền Bắc Việt rất lo ngại quân đội Hoa Kỳ và VNCH đổ bộ vùng bờ
biển hoặc tấn công Hà Nội. Một thủ đô bí mật được thiết lập đâu đó trong
vùng rừng núi Bắc Việt để sử dụng trong trường hợp Hà Nội và những trọng
điểm Bắc Việt bị không quân tấn công hoặc tiêu hủy(5).
Ở trong Nam, lợi dụng sự bất ổn chính trị của VNCH kéo dài từ sau
khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ năm 1963 cho đến 1966,
MTDTGPMNVN đã phát triển mạnh mẽ được một thời gian. Khi VNCH
trên đường ổn định trở lại dần dần từ khi Hoa Kỳ đưa quân tham gia trực tiếp
chiến tranh Việt Nam, nhất là từ khi bầu cử Quốc hội Lập hiến năm 1966,
MTDTGPMNVN bị suy thoái trở lại.
Một hiện tượng xã hội ít được chú ý là do chiến tranh càng ngày
càng gia tăng cường độ, vùng nông thôn xôi đậu bất ổn, nên mỗi năm có
khoảng từ 500,000 đến 1 triệu dân nông thôn tránh bom đạn, bỏ ra thành thị
tỵ nạn, sinh sống dưới sự kiểm soát của chính quyền VNCH (Don
Oberdorfer, sđd.53). Điều nầy về lâu về dài gây nhiều thiệt hại cho du kích
cộng sản. Cộng sản không có dân chúng để trà trộn trốn tránh, cũng không có
dân chúng để tiếp tế nuôi ăn, lại thiếu thanh thiếu niên để bắt lính, và một số
cán binh cộng sản bỏ về thành theo gia đình hoặc quy thuận chính phủ Quốc
gia theo chính sách chiêu hồi, làm cho bộ đội du kích cộng sản càng ngày
càng hao hụt.
Lúc đó, giới lãnh đạo Bắc Việt nhận định rằng sau ba năm xáo trộn,
với nhiều cuộc biểu tình khắp các thành phố miền Nam, tình hình đủ chín
mùi để có thể kêu gọi dân chúng tổng khởi nghĩa như tháng 8-1945 ở Hà
Nội. Nếu để chính quyền VNCH ổn cố trở lại, thì càng ngày càng bất lợi cho
MTDTGPMNVN, cho nên Bắc Việt quyết định tổ chức tổng công kích, bất
ngờ đánh chiếm các thành thị miền Nam, rồi kêu gọi dân chúng nổi lên tổng
khởi nghĩa.
Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa do cộng sản Hà Nội chủ
trương nhắm các mục đích sau:
- Chiếm chính quyền, phá huỷ hệ thống chính quyền VNCH, tạo bất
ổn khó khăn cho VNCH.
- Trực diện đối đầu với Hoa Kỳ, CSVN ước tính khó có thể thắng
được quân đội Hoa Kỳ, trang bị vũ khí tối tân và hùng hậu hơn quân đội
Pháp trước đây rất nhiều. Do đó, CSVN cần gây tiếng vang lớn trên thế giới
và tại Hoa Kỳ, để lung lạc và làm chia rẽ dân chúng Hoa Kỳ. Năm 1968 là
năm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, tình hình chính trị Hoa Kỳ rất nhạy cảm.
Dân chúng Hoa Kỳ bị kích động vì cuộc tổng công kích, sẽ đẩy mạnh phong
trào hòa bình và phản chiến tại Hoa Kỳ. Một khi hậu phương Hoa Kỳ bất ổn
thì quân sĩ Hoa Kỳ ở tiền tuyến sẽ giảm ý chí chiến đấu. Chỉ có thế mới
mong Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam.
- Sửa soạn một thế mạnh để nói chuyện trên bàn hội nghị, vì lúc đó
các dàn xếp quốc tế đã sẵn sàng cho cuộc hòa đàm giữa các bên lâm chiến.
(Trên thực tế, cuộc hòa đàm bắt đầu vào tháng 05/1968.)
- Đưa chiến tranh vào thành phố sẽ làm cho dân nông thôn chạy ra
thành thị quay trở về nông thôn, vì từ nay thành thị cũng bị tấn công mất an
ninh như nông thôn, đồng thời chận đứng làn sóng dân chúng di chuyển từ
nông thôn ra thành thị, gỡ rối cho hạ tầng cơ sở ở nông thôn của
MTDTGPMNVN;
- Chận đứng việc hồi chánh của một số phần tử trong
MTDTGPMNVN, vốn không phải là đảng viên cộng sản, mà chỉ là những
người bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm, muốn quay trở lại với VNCH khi
ông Diệm bị lật đổ. Ngay sau biến cố ngày 2-11-1963, đáng lẽ những người
nầy tìm về phía VNCH, nhưng vì Sài Gòn bị xáo trộn liên tục, làm gián đoạn
các đường liên lạc, khiến họ chưa hồi chánh kịp.
- Nếu cuộc tổng công kích thất bại, và chủ lực của MTDTGPMNVN
bị tiêu diệt, đối với đảng LĐ ở Hà Nội cũng là điều rất có lợi, vì lý do sau
đây: Khi mới thành lập, MTDTGPMNVN gồm đa số là đảng viên cộng sản
miền Nam và những người bất mãn chế độ miền Nam bỏ theo Mặt trận.
Đảng LĐ ngoài Bắc không mấy tin tưởng va không kiểm soát được cả hai
thành phần nầy. Nếu chủ lực MTDTGPMNVN bị VNCH tiêu diệt, thì đây sẽ
là cơ hội tốt để đảng LĐ gởi người từ miền Bắc vào thay thế, nắm gọn và
điều khiển hẳn toàn bộ MTDTGPMNVN, mà không bị tranh chấp nội bộ gay
go(6).
Với những tính toán trên, dầu cuộc tổng công kích thắng hay bại,
đàng nào đảng LĐ ở Hà Nội cũng đều có lợi, nên họ đã không ngần ngại hy
sinh lá bài MTDTGPMNVN trong mưu đồ thôn tính VNCH. (Về sau, ngay
khi cưỡng chiếm được miền Nam năm 1975, Hà Nội liền loại bỏ ngay nhóm
lãnh đạo MTDTGPMNVN và giải thể Mặt trận nầy một năm sau đó.)
II. Những biến chuyển trước Tết Mậu Thân
Vào đầu tháng 07/1967, tại Hà Nội, các cuộc họp quan trọng của Bộ
chính trị và Quân uỷ Trung ương đảng LĐ, đã duyệt y kế hoạch phát động
cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân (1968) (Don
Oberdorfer, sđd.54). Trong thời gian nầy, tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-
1967) chết ngày 6-7-1967, Võ Nguyên Giáp thay Nguyễn Chí Thanh tiếp tục
thảo kế hoạch tấn công. Phạm Hùng (1912-1988) được gởi vào Nam để thay
thế Nguyễn Chí Thanh, giữ chức bí thư Trung ương cục miền Nam, điều
khiển cuộc chiến(7).
Tại Bắc Việt, giữa năm 1967, đảng LĐ ra tay lần chót, lần lượt bắt
giam tất cả những thành phần theo chủ trương hòa dịu giữa các nước có chế
độ chính trị khác nhau của Khrusev, tức những thành phần không đồng ý với
cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam. Lãnh đạo đảng LĐ lúc đó gán cho họ
tội danh là thành phần "xét lại", âm mưu "chống đảng". Đó là các ông Hoàng
Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, và khoảng 40 nhân vật
khác, trong đó có cả trí thức, văn nghệ sĩ.
Nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Liên Xô, Lê
Duẩn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, cùng hai uỷ viên Bộ chính trị là Võ Nguyên
Giáp, bộ trưởng Quốc phòng và Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng Ngoại giao
lên đường vào cuối tháng 10-1967 qua Moscow dự lễ. Trên đường đi, phái
đoàn nầy đã ghé qua Bắc Kinh xin quân viện, trình bày kế hoạch mới theo
quyết định của Bộ chính trị VNDCCH vào tháng 7, đã được Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa (CHNDTH) hứa gởi qua Bắc Việt 300,000 lính phòng không
và công binh,(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 32.) cung cấp hoả tiễn 107 ly,
240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc men. Tại Moscow, Liên Xô chấp thuận
cho Bắc Việt thêm đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực cơ Mig 21 và các
loại vũ khí nặng khác(8). Cũng trong dịp nầy, để chứng tỏ một lần nữa tình
thân thiện Xô Việt, những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng Hồ Chí
Minh huân chương Lenin(9).
Từ khi chiến tranh Việt Nam mở rộng, Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến
ở Việt Nam, dùng không quân tấn công Bắc Việt, nhiều chiến dịch ngoại
giao khắp nơi trên thế giới tìm cách chấm dứt tranh chấp. Vào năm 1967,
Bắc Việt cho biết chỉ thương thuyết khi Hoa Kỳ ngưng ném bom vô điều
kiện Bắc Việt. Hoa Kỳ trả lời sẵn sàng ngưng ném bom với điều kiện Bắc
Việt không được lợi dụng thời gian ngưng ném bom để xâm nhập quân đội
vào miền Nam Việt Nam.
Trong khi việc ngoại giao còn là quả bóng thăm dò qua lại giữa các
bên, thì ngày 17/11/1967, nhâ n dịp năm hết Tết đến, MTDTGPMNVN đưa
ra đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1967, 3 ngày lễ Tết
dương lịch năm 1968 và 7 ngày Tết âm lịch Mậu Thân (Don Oberdorfer, sđd.
70). Chính phủ VNCH ra thông báo ngày 15/12/1967 sẽ hưu chiến 24 giờ
trong dịp lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch, hưu chiến 48 giờ trong dịp Tết âm
lịch (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. 342).
Để làm lạc hướng dư luận và sự tính toán của các giới lãnh đạo Hoa
Kỳ cũng như VNCH, cộng sản dịu giọng vào đầu năm 1968. Vào dịp Tết
dương lịch 1968, bộ trưởng Ngoại giao Bắc Việt là Nguyễn Duy Trinh tuyên
bố muốn mở các cuộc hòa đàm và tiếp xúc mật với Hoa Kỳ. Thủ tướng Bắc
Việt Phạm Văn Đồng (1906-2000) cũng ngỏ ý sẵn sàng hòa đàm nếu Mỹ
ngưng ném bom, và ông Đồng còn nhờ một viên đại diện Romania làm trung
gian dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt(10). Hà Nội loan báo sẽ thả ba tù binh
Hoa Kỳ vì lý do nhân đạo để đáp ứng những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ
trong việc tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam (Chính
Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 17).
Tại Bắc Việt, chính phủ VNDCCH ra Quyết định số 121/ CP ngày
08/08/1967 thay đổi âm lịch để Bắc Việt ăn Tết trước Nam Việt một ngày, và
thông báo khuyên dân chúng nên ăn Tết "vui tươi nhưng tiết kiệm, bình
thường, không rườm rà, lành mạnh phù hợp với hoàn cảnh thời chiến". (Don
Oberdorfer, sđd.72.) Việc định thay đổi âm lịch vào thời điểm nầy có những
tính toán chính trị và quân sự riêng của Bắc Việt.
Tại Nam Việt, từ ngày 01/11/1967 diễn ra trận đánh đẵm máu kéo
dài nhiều ngày tại Lộc Ninh, thuộc tỉnh Phước Long. Đến gần Tết âm lịch,
Việt Cộng tung quân tấn công các cứ điểm quân sự ở Cao nguyên Trung
phần, và đưa ba sư đoàn chính quy là 325C, 304 và 308 bao vây và pháo kích
dữ dội Khe Sanh (Quảng Trị), gần vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc,
từ ngày 20/01/1968. Các nhà lãnh đạo VNCH, Hoa Kỳ, và cả thế giới nữa,
rất quan tâm đến tình hình Khe Sanh, và lo lắng một cuộc đọ sức lớn lao sắp
bùng nổ tại đây giữa hai bên như một Điện Biên Phủ mới(11).
Trong khi đó, Việt Cộng âm thầm tiếp tục chuẩn bị các cuộc tấn
công vào thành phố. Ngày 2-1-1968, tại Cao nguyên Trung phần, quân đội
Hoa Kỳ tịch thu được một tài liệu có đầy đủ kế hoạch cộng sản tấn công
Pleiku và Kontum. Ngày 15/01, tại Khe Sanh, một sĩ quan cộng sản hồi
chánh cho biết sẽ có chiến dịch lớn tại vùng giới tuyến.
Với nhiều tin tức tình báo khác, Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt
Nam ra lệnh báo động và thông báo cho phía VNCH biết, đồng thời yêu cầu
VNCH hủy bỏ lệnh hưu chiến nhân dịp Tết nguyên đán, nhưng tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) và đại tướng Cao Văn Viên (1921-2008),
tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, chỉ đồng ý bãi bỏ hưu chiến tại
Vùng 1 chiến thuật, và rút bớt 24 tiếng đồng hồ hưu chiến trên toàn quốc(12).
Một dấu hiệu nữa về việc Việt Cộng sẽ tổng tấn công trong dịp Tết
là tại Bình Định (thuộc Quân đoàn 2 và Vùng 2 chiến thuật VNCH), nhà cầm
quyền bắt được trước sau 10 cán bộ cộng sản với những tài liệu quan trọng
ngày 29-1-1968 (30 Tết), trong đó có cả máy ghi âm sẵn lời phát thanh kêu
gọi dân chúng tổng khởi nghĩa. Tỉnh trưởng Bình Định đã báo cáo vụ việc
lên thượng cấp, nhưng bộ Tư lệnh Vùng 2 không mấy quan tâm. Vị tướng tư
lệnh vùng nầy là Vĩnh Lộc lại bỏ về Sài Gòn ăn Tết.
Lúc đó, dư luận chung ở trong cũng như ngoài nước tin tưởng sự
hiện diện của gần 500,000 quân Mỹ tại Việt Nam sẽ bảo đảm an toàn cho
VNCH. Hơn nữa, do cộng sản vừa tuyên truyền vừa chuyển quân đe dọa Khe
Sanh, nên mọi người chú tâm đến trận chiến ở đây, mà ít chú ý đến những
diễn tiến chung quanh các thành phố rộn rịp khác thường trong những ngày
trước Tết.
Về phía Hà Nội, sau sáu tháng điều nghiên, chuẩn bị, ngày
21/01/1968, Bộ chính trị đảng LĐ họp lần chót quyết định tổng công kích
đêm Giao thừa Tết Mậu Thân tại miền Nam (đêm 29 rạng 30-1-1968). Họ đã
dùng đài phát thanh Hà Nội ra lệnh tổng công kích bằng bài thơ chúc Tết của
Hồ Chí Minh đọc vào tối Giao thừa ở ngoài Bắc, tức tối 28/01/1968. Hà Nội
đã sửa lại âm lịch, nên Tết Mậu Thân Bắc Việt trước Nam Việt 24 giờ đồng
hồ. Nhờ vậy, lệnh tổng công kích của Hồ Chí Minh đến khắp các đơn vị du
kích CS vào ngày 30 tháng Chạp ở miền Nam, đủ thời gian cho các đơn vị du
kích CS xuất quân vào ngày Mồng Một Tết. Sự việc nầy cho thấy quyết định
đổi âm lịch ở ngoài Bắc của CSVN nhắm mục đích rõ ràng cho cuộc tổng
công kích ở miền Nam. Nguyên văn bài thơ làm hiệu lệnh tấn công của Hồ
Chí Minh như sau:
"Mừng xuân 1968
Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta"(13).
Lúc đó, dù tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh giảm hưu chiến
còn 24 giờ trên toàn quốc, và bãi bỏ hưu chiến ở vùng Vùng 1 Chiến thuật,
nhưng nói chung, mọi nơi đều nô nức đón Tết, nên việc canh phòng có phần
lơ là và quả thật cuộc tổng công kích của Việt Cộng là một trận đánh hoàn
toàn bất ngờ với dân chúng miền Nam. Theo tác giả James J. Wirtz trong
sách The Tet Offensive, Nxb. Cornell University Press, New York, 1991, tr.
28, thì cuộc "Tổng công kích" Tết Mậu Thân là một trong ba biến cố bất ngờ
nhất trong cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975.
III. Cuộc tàn sát Mậu Thân tại Huế
1. Toàn cảnh
Trên toàn lãnh thổ VNCH, trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân,
chỉ trừ vụ tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn để gây tiếng vang trên thế
giới, du kích CS hầu như tránh tấn công các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên toàn
quốc, mà chỉ nhắm vào các thành phố và các căn cứ quân sự VNCH.
Cuộc tấn công diễn ra sớm nhất tại Quảng Nam khi họ pháo kích trại
định cư Trà Kiệu, ở phía Nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số, vào
đêm Giao thừa tức đêm 29 rạng 30-1-1968, và rút lui trễ nhất tại Huế vào
ngày 25/02/1968. Như vậy cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân diễn ra trong
gần một tháng. Trong suốt tháng nầy, cộng sản tấn công 44 địa điểm tại các
thị trấn, tỉnh lỵ và thành phố trên toàn quốc:
• Vùng 1 Chiến thuật: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng
Tín (Tam Kỳ), Quảng Ngãi.
• Vùng 2 Chiến thuật: Bình Định, Bình Thuận, Tuyên Đức (Đà Lạt).
• Vùng 3 Chiến thuật: Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Biên Hòa, Long
Bình, Bình Dương, Bà Rịa.
• Vùng 4 Chiến thuật: Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Kiến
Hòa, Định Tường, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Gò Công, Bạc Liêu.
Trong số những nơi bị tấn công, hai địa điểm quan trọng nhất mà
cộng sản nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế.
Sài Gòn là thủ đô của VNCH. Bộ máy chính quyền trung ương đóng
tại đây. Sài Gòn còn là nơi tập trung trụ sở các tòa đại sứ, các cơ quan truyền
thông trong và ngoài nước. Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để
gây tiếng vang lớn trên thế giới. Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn,
cộng sản tung vào đây bộ chỉ huy cao cấp nhất của MTDTGPMNVN như
Nguyễn Văn Linh (bí thư mặt trận Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (phó bí thư), Trần
Văn Trà (chỉ huy phó Lực lượng Võ trang MTDTGPMNVN), Mai Chí Thọ,
Lê Đức Anh...(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.173).
Cộng sản mở cuộc tấn công Sài Gòn vào lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết,
tức rạng ngày 31/01/1968, đánh vào Dinh Độc Lập, tòa đại sứ Hoa Kỳ, đài
Phát thanh Quốc gia, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Trung tâm
Huấn luyện Quang Trung, và nhiều vị trí vùng phụ cận. Lúc đó, tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu về Mỹ Tho nghỉ Tết tại quê vợ. Phó tổng thống Nguyễn
Cao Kỳ đã nhạy bén chỉ huy chận đứng được mũi đánh chiếm đài Phát thanh
Quốc gia của Việt Cộng (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.183), vì nếu cộng sản
chiếm được đài nầy, phát thanh trên toàn quốc lời kêu gọi tổng khởi nghĩa,
thì tai hại về ngoại giao và nội trị không thể nào lường được.
Tuy bị bối rối lúc đầu, nhưng quân đội VNCH phản ứng kịp thời,
làm chủ tình hình ngay trong ngày mồng 3 Tết. Các đơn vị cộng sản thất bại,
phải lần lượt rút ra khỏi vòng đai thành phố Sài Gòn trong vòng một tuần lễ.
Một việc đáng tiếc xảy ra trong cuộc phản công là vì quá nóng ruột do đồng
đội bị sát hại, chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia,
đã tự tay bắn chết một trung uý cộng sản giả dạng thường dân bị bắt tại trận
khi đang giết hại một hạ sĩ quan cảnh sát gần chùa Ấn Quang, Sài Gòn. Tấm
hình do ký giả Eddie Adams thuộc Associated Press (AP, Hoa Kỳ) chụp lại
cảnh nầy, được giải thưởng Pulitzer (ngành báo chí Hoa Kỳ) và đăng tải khắp
hoàn cầu, gây tai tiếng rất lớn cho tướng Loan, và nhất là gây bất lợi cho
VNCH về phương diện ngoại giao.
2. Huế trước Mậu Thân
Thành phố bị Việt Cộng chiếm lâu nhất và bị thiệt hại nặng nhất về
nhân mạng cũng như tài sản là thành phố Huế. Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Thừa
Thiên, cách sông Bến Hải, ranh giới Bắc và Nam Việt, khoảng 80 cây số về
phía nam. Các khuynh hướng chính trị của dân chúng Huế lúc đó có thể sơ
lược như sau:
̵̶ Huế là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn (1802-1945).
Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, vua Bảo Đại (1913-1997, trị vì 1925-
1945), bị truất phế hai lần: Lần thứ nhất vào năm 1945, nhà vua bị Việt Minh
áp lực và phải thoái vị. Lần thứ hai vào năm 1954, ông bị cuộc trưng cầu dân
ý do ông Ngô Đình Diệm tổ chức ngày 23-10-1955, loại khỏi chức Quốc
trưởng Quốc Gia Việt Nam. Tuy vậy, ảnh hưởng của triều Nguyễn ở Huế
vẫn còn khá mạnh, do con cháu của hoàng gia cũng như con cháu của những
quan lại triều đình cũ còn sống ở Huế khá đông. Hội đồng Nguyễn Phúc tộc,
hậu thân của Tôn nhơn phủ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Đoan Huy hoàng
thái hậu (Đức bà Từ Cung), thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại, vẫn tiếp tục
sinh hoạt. Vào thời điểm năm 1968 (mậu thân) những người nầy hy vọng cựu
hoàng Bảo Đại, lúc đó cư ngụ ở Pháp, có thể đóng một vai trò quan trọng đáp
ứng giải pháp hòa giải giữa các bên lâm chiến ở Việt Nam.
̵ Huế là trung tâm lâu đời của Phật giáo với những ngôi chùa danh
tiếng như Báo Quốc, Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Tường Vân... Chùa Báo
Quốc còn là một Phật học viện lớn nhất và lâu đời nhất miền Trung, nơi đào
tạo nhiều tu sĩ Phật giáo sau nầy đi hoằng pháp và trụ trì các chùa trên toàn
cõi VNCH. Các tăng sĩ Phật giáo xuất thân từ các chùa ở Huế như hòa
thượng Thích Tịnh Khiết (1899-1977), thượng tọa Thích Trí Quang, Thích
Thiện Minh (1921-1978), Thích Trí Thủ (1909-1984), giữ những chức vụ
cao cấp trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, được thành lập
theo Hiến chương ngày 4-1-1964, và được chính phủ thừa nhận bằng sắc luật
số 14/5 ký ngày 14-3-1964. Một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu thường
khuyến khích sinh viên học sinh biểu tình chống chính phủ, đòi hỏi hòa bình,
trung lập.
̵ Huế cũng là nơi có Tòa Tổng giám mục, một địa phận Thiên Chúa
giáo được thành lập vào năm 1850. Đại chủng viện Kim Long, thường được
gọi là chủng viện Xuân Bích, do các tu sĩ dòng Sulpice (phiên âm là Xuân
Bích) giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục. Tổng thống Ngô Đình Diệm,
gốc người Quảng Bình nhưng sinh sống từ nhỏ tại làng Phú Cam, một khu
vực Thiên Chúa giáo nổi tiếng ngoan đạo ở cố đô.
̵ Huế là địa bàn hoạt động khá mạnh của các đảng Việt Quốc và Đại
Việt. Đại Việt đã từng tổ chức chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), gần Huế để
chống chế độ Diệm vào các năm 1954-1955.
̵ Tại Huế, tổng thống Ngô Đình Diệm đã thành lập viện đại học năm
1957. Viện đại học nầy là trung tâm văn hóa thu hút sinh viên khắp các tỉnh
miền Trung về đây theo học. Sinh viên càng ngày càng đông, và thường
tham gia cũng như tổ chức các cuộc biểu tình tại Huế chống chính phủ từ
1963 đến 1967. Huế là chốn cựu đô, nên hệ thống giáo dục ở đây lâu đời và
rộng rãi. Ngoài trường Quốc Học được thành lập từ năm 1898, các trường
khác cũng khá lâu đời và đông học sinh, kể cả các tư thục. Hơn nữa, phải kể
thêm các trường do các tu sĩ đảm trách như hệ thống trường Bồ Đề của Phật
giáo, và các trường Thiên Chúa giáo như trường Thiên Hựu (Providence),
trường Bình Linh (Pellerin), và trường Thánh Tâm (Jeanne d'Arc).
̵ Cũng tại Huế, "Hội đồng Nhân dân Cứu quốc" ra đời năm 1964
trong đó có một số giáo sư và giảng viên Viện đại học Huế như Lê Khắc
Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Hoàng Văn Giàu... Báo
Lập Trường của nhóm nầy ủng hộ những quan điểm hòa bình và trung lập
của một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu miền Trung. Hội đồng nầy được xem
là đã góp tay vào việc kích động các cuộc biểu tình dữ dội tại Huế chống
Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh năm 1964.
Những cuộc biểu tình ở Huế thường do Tổng hội sinh viên Huế tổ
chức. Sinh viên luôn luôn hăng hái và bồng bột. Trong giới sinh viên, có thể
có sự trà trộn các phần tử thân cộng, hay cộng sản trá hình, mà sinh viên lúc
đó không nhận chân được. Cao độ của các cuộc biểu tình nầy là cuộc đốt phá
Phòng Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S. = United States Information Services) tại
Huế ngày 01/06/1966 trên đường Lý Thường Kiệt.
Khi chính quyền địa phương ra lệnh cấm biểu tình và cấm hô hào
chống Mỹ, đồng thời đàn áp những cuộc xuống đường, thì một số nhà lãnh
đạo Phật giáo ở Huế chống đối bằng cách kêu gọi Phật tử đưa bàn thờ Phật
xuống đường để cản trở lưu thông trong thành phố vào đầu tháng 6-1966.
Trật tự tại Huế và các tỉnh miền Trung được vãn hồi vào cuối tháng đó khi
chính phủ trung ương gởi Thủy quân lục chiến và Cảnh sát dã chiến tăng
viện, và thẳng tay dẹp tan các cuộc rối loạn. Sau sự kiện nầy, một số trí thức,
thanh niên, sinh viên sợ bị chính quyền Sài Gòn bắt giam, đã bỏ trốn lên
rừng chạy theo cộng sản.
Do tình hình Huế phức tạp như trên, phía cộng sản hy vọng Huế đủ
chín mùi cho một cuộc tổng khởi nghĩa nếu cuộc tổng công kích xảy ra. Từ
đó, cộng sản chuẩn bị khá kỹ lưỡng mặt trận Huế không khác gì mặt trận Sài
Gòn.
3. Cuộc Tổng công kích
Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng
Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế) của Việt Cộng là thiếu tướng Trần Văn
Quang. Trần Văn Quang cử Lê Minh, bí thư tỉnh uỷ đảng Lao Động (Cộng
Sản) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Trị-Thiên. Minh chia mặt trận
Trị-Thiên thành 3 khu vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú Nam phụ
trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi
chỉ huy; còn mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê Minh đích thân đảm nhận.
Minh lại chia Huế thành hai điểm để tấn công: phía bắc Huế (tả ngạn sông
Hương), và phía nam Huế (hữu ngạn sông Hương Huế)
Cánh quân phía bắc Huế do một người tên Thu chỉ huy, Trần Anh
Liên làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6, gồm có 3 tiểu
đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương
Trà và Hương Điền. Cánh quân nầy xuất phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-
1968) từ rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào cửa Chính Tây (nằm về
tay trái hoàng thành từ Kỳ đài nhìn vào), cửa An Hòa (cửa Tây Bắc), Kỳ đài
(cột cờ trước Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Cộng quân làm
chủ ngay được cửa Chính Tây, cửa An Hòa và Kỳ đài, nhưng thất bại ở sân
bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Đồn Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư lệnh Sư
đoàn 1 Bộ binh do chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng đứng đầu. Chính đồn
Mang Cá là điểm tựa vững vàng để quân đội VNCH cũng như Đồng minh tổ
chức phản công trở lại.
Qua cửa Chính Tây, Việt cộng tiến chiếm Đại nội. Việt cộng dùng
bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), Việt
cộng treo một lá cờ lớn của MTDTGPMNVN(14). Từ Kỳ đài, Việt cộng tiến
quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát
chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh cộng quân khác cũng của E-6, làm chủ
hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội.
Cánh quân phía nam Huế do Thân Trọng Một chỉ huy, Nguyễn Vạn
làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư đoàn 309, trung đoàn
5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo, và 4 đội đặc công (15). Cánh quân nầy dự
định xuất phát tối Giao thừa (29/01), nhưng vừa xuất phát thì bị phi cơ thám
thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích, phải lẩn tránh nên tiến chậm. Sáng mồng
1 Tết (30/01) cánh quân nầy mới tiếp tục tiến về phía thị xã Huế.
Sau 4 ngày giao tranh, cộng quân chiếm gần hết vùng hữu ngạn
thành phố Huế cho đến lao xá Thừa Phủ (gần sát tỉnh đường Thừa Thiên).
Cộng sản thả khoảng 2, 000 tù nhân đang bị giam trong lao xá. Những người
nầy liền được cộng sản võ trang để tiếp tay cho họ. Quân đội VNCH chỉ còn
giữ đài Phát thanh, Tiểu khu Thừa Thiên, Bản doanh MACV (Military
Assistance Command, Vietnam) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và bến tàu Hải
Quân(16).
4. Tổng khởi nghĩa thất bại
Về phương diện chính trị, ngay sau khi chiếm vùng tả ngạn (phiá
bắc Huế, vùng chợ Đông Ba, Thành nội...), ngày mồng 2 Tết (31-1) cộng sản
tiến hành tổ chức cầm quyền. Uỷ Ban Nhân Dân (danh xưng của cộng sản)
trong Thành nội gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc), làm
chủ tịch quận 1, và Nguyễn Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa), làm chủ tịch
quận 2. Phía hữu ngạn, cộng sản không thành lập kịp các uỷ ban nhân dân,
chỉ chú tâm vào việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh.
Ngày mồng 3 Tết (01/02/1968), đài phát thanh Hà Nội loan báo
thành lập tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa
Bình tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ tịch,
và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký(17). Đài phát thanh Hà Nội cũng
thông báo ngày 14-2-1968, Lê Văn Hảo được đưa lên làm chủ tịch chính
quyền cách mạng Huế, với hai phó chủ tịch là bà Đào Thị Xuân Yến (còn gọi
là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương Thảo (Thường vụ Thành uỷ cộng sản)
(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd.131).
Nguyễn Đắc Xuân, khi còn là sinh viên sống tại Huế, đã từng tổ
chức đoàn "Phật Tử Quyết Tử" vào năm 1966 để chống chế độ "Thiệu Kỳ",
rồi bỏ trốn theo cộng sản, nay trở lại Huế, phụ trách đội "Công tác Thanh
niên". Xuân được cộng sản giao nhiệm vụ tổ chức "đoàn Nghĩa binh", gồm
những quân nhân Cộng Hòa bị kẹt trong vùng cộng sản tạm chiếm, gọi là
"Quân nhân Sư đoàn 1 ly khai". Ngày 4-2-1968 (mồng 6 Tết), đoàn nầy ra
thông cáo đả kích chế độ "Thiệu Kỳ", nhưng sau đó đoàn bị cộng sản phân
tán ngay, vì sợ các quân nhân trong đoàn nầy quay lại chống cộng sản.
Nguyễn Đắc Xuân còn tổ chức đội "Nghĩa binh Cảnh Sát", giữ nhiệm vụ
ngăn chận không cho dân di tản khi quân đội VNCH và Đồng minh phản
công.
Những đơn vị an ninh của cộng sản hoạt động mạnh sau khi cộng
quân tạm chiếm Huế. Những đơn vị nầy do một người tên Lê (Tư) điều khiển
chung, còn Tống Hoàng Nguyên phụ trách tả ngạn, và Nguyễn Đình Bảy
(Bảy Khiêm) lo phía hữu ngạn. Những đơn vị nầy truy lùng và bắt giết tất cả
những nhân viên chính quyền VNCH và nhân viên làm việc tại các cơ quan
Hoa Kỳ, hoặc những người cộng tác với Cơ quan tình báo Trung ương Hoa
Kỳ (CIA: Central Intelligence Agency). Chính những đơn vị an ninh nầy là
tác giả của những cái chết thê thảm tại Huế, nhất là lúc cộng sản chuẩn bị rút
lui.
Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế, đôi khi bị ép buộc
phải dự những cuộc hội họp, mít tinh do cộng sản tổ chức, nhưng dân chúng
không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa do công sản đề ra. Rõ nét nhất là dân
chúng không đi theo du kích CS, mà bỏ chạy qua các vùng do quân đội
VNCH kiểm soát ở khu vực Mang Cá, hay trường Kiểu Mẫu gần trường Đại
Học Sư Phạm, nằm giữa Tiểu khu Thừa Thiên và Bến tàu Hải quân, hoặc
khu vực phi trường Phú Bài, cách Huế khoảng trên 10 cây số về phía nam.
Đặc biệt, chỉ trừ những quân nhân về thăm nhà bất ngờ bị du kích CS bắt
được, có thể nói hầu hết các quân nhân đều kiếm cách liên lạc hay gia nhập
các đơn vị tác chiến gần nhất để cầm súng chống CS, chứ không gia nhập
hay chạy theo du kích CS. Các đơn vị hành chánh nhỏ cũng kiếm cách phòng
thủ để chận đứng sự thâm nhập của du kích CS.
Không tổ chức được cuộc tổng khởi nghĩa, Việt cộng còn bị quân
đội VNCH và Đồng minh phản công, đẩy lui ra khỏi Huế. Cuộc phản công
bắt đầu vào ngày mồng 3 Tết (01/02/1968). Ngày mồng 5 Tết (03/02), các
chiến sĩ binh chủng Nhảy Dù tái chiếm cửa An Hòa. Cũng trong ngày nầy,
Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ đổ bộ ở Bến tàu Hải quân, đến đóng tại
Bộ Chỉ huy MACV. Lo ngại cánh quân Hoa Kỳ từ hữu ngạn kéo sang tả
ngạn, cộng quân đánh sập cầu Trường Tiền tối mồng 9 Tết (07/02/1968).
Việt Cộng đánh sập cầu Trường Tiền tối mồng 9 Tết (07/02/1968).
Nguồn: TGP
Quân đội VNCH đã cùng quân đội Hoa Kỳ phản công mạnh mẽ.
Ngày 14-2-, tình hình hữu ngạn được xem là yên ổn, chỉ còn bộ chỉ huy của
Thân Trọng Một trốn tránh tại vùng lăng Tự Đức cho đến ngày 25-2. Khi
tình hình hữu ngạn được ổn định, lực lượng Dù Việt Nam rút vào Nam, và
các chiến sĩ TQLC Việt Nam đến thay thế.
Ngày 12/02, TQLC của cả quân Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đổ bộ lên bến
Bao Vinh, nằm trên bờ sông Gia Hội, gần đồn Mang Cá. Hai bên phối hợp
mở "chiến dịch Sóng Thần 739/ 68" ngày 14-2, tảo thanh quân cộng sản còn
lại trong Thành nội. Trận chiến càng ngày càng ác liệt, có khi hai bên chỉ
cách nhau vài chục thước. Ngày 18-2, TQLC Hoa Kỳ chiếm được cửa Đông
Ba (đường Mai Thúc Loan). Cộng quân đóng trong Thành nội chỉ còn liên
lạc với cánh quân Gia Hội của họ bằng cửa Thượng Tứ.
Trước nguy cơ thất bại, cộng quân tính chuyện rút lui. Ngày mồng 8
Tết (6-2), cộng sản bắt đầu di chuyển thương binh, tù binh, chiến lợi phẩm ra
khỏi Huế. Lúc đó, tại miền núi phía tây tỉnh Quảng Trị, cộng quân đã chiếm
được Làng Vei, một vị trí chiến lược ở tiền đồn Khe Sanh ngày 7-2. Sau đó
phi cơ Hoa Kỳ tái oanh tạc vùng phụ cận Hà Nội ngày 14-2, nên ngày 15-2,
Quân uỷ Trung ương ở Hà Nội, gởi vào đảng uỷ cộng sản Thừa Thiên Huế
một công điện nội dung như sau: "Phải giữ Thành nội, không được rút ra
ngoài để phục vụ nhiệm vụ chính trị chung cả nước". (Chính Đạo, Mậu
Thân, sđd.146).
Sáng sớm 23/02, lá cờ VNCH tung bay trên kỳ đài thay thế cờ của
MTDTGPMNVN. Nguồn: TGP
Tình hình càng lúc càng bất lợi cho cộng sản. Lê Minh, bí thư Thừa
Thiên Huế, giữ trách nhiệm trực tiếp mặt trận Huế, tỏ ý muốn rút lui trong
cuộc họp ngày 19/02, nhưng còn phải chờ lệnh trên. Quân đội VNCH và
Đồng minh Hoa Kỳ đẩy dần quân cộng sản ra khỏi Thành nội. Sáng sớm
23/02, lá cờ VNCH tung bay trên kỳ đài thay thế cờ của MTDTGPMNVN.
Quân đội VNCH và Đồng minh có thể nói đã làm chủ được tình hình Thành
nội từ đây.
Phía cộng sản, "về sau có lệnh: chuẩn bị rút lui lên vùng rừng núi
phía Tây, cố bảo toàn lực lượng, mang theo đủ vũ khí chưa sử dụng đến. Khi
lệnh rút lui ban bố vào đêm 25 tháng 2, một không khí có phần hoảng loạn
diễn ra.."(18).
Gia Hội là khu vực hoàn toàn dân sự, không có cơ sở quân sự, cơ sở
hành chánh hay kinh tế gì quan trọng. Những nhà chỉ huy hành quân VNCH
cũng như Đồng minh nghĩ rằng cần phải thanh toán trước những cứ điểm đầu
não của cộng sản đang chiếm đóng Thành nội, thì tức khắc cộng quân ở vùng
Gia Hội sẽ tự tan hàng rút lui. Mãi đến ngày 22/02, hai tiểu đoàn Biệt Động
Quân của Quân lực VNCH mới được tung vào Gia Hội để đẩy lui cộng quân.
Chính vì quân đội VNCH đến giải tỏa trễ, và cộng sản vùng Gia Hội đóng lại
tại đây lâu, nên cộng sản có cơ hội tàn sát đồng bào nơi đây nhiều nhất trong
thành phố Huế.

5. Cộng sản tàn sát đồng bào


Trong lúc hai bên đánh nhau, thống kê ước lượng cho thấy tại mặt
trận Huế, quân đội VNCH có 384 tử trận, 1.830 bị thương; Bộ binh Mỹ 74 tử
trận, 507 bị thương; Thủy quân lục chiến Mỹ 142 tử trận, 857 bị thương, Bộ
đội Bắc Việt và Việt cộng khoảng 5, 000 tử trận, số bị thương không tính
được(19).
Trong chiến tranh, chiến sĩ các bên lâm chiến bị thương vong là
chuyện không thể tránh khỏi, nhưng trong biến cố Mậu Thân (1968) tại Huế,
rất nhiều nạn nhân bị cộng quân giết hại thảm khốc trong thời gian cộng sản
tạm chiếm Huế, nhiều nhất là các nhân viên chính quyền, cảnh sát, binh sĩ và
sĩ quan Quân lực VNCH đang nghỉ Tết, không ở vị trí chiến đấu, và một số
khá lớn thường dân không cầm súng chống lại họ, chỉ chạy tỵ nạn chiến
tranh.
Cho đến nay, không ai có thể kiểm kê đích xác số thường dân cũng
như số người không ở vị trí chiến đấu (đang nghỉ Tết) bị phía cộng sản giết
hại. Theo sự phân tích của ông Nguyễn Trân, một nhà hoạt động chính trị
thời VNCH, đưa ra trong quyển hồi ký của ông ta thì:
"Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị
Việt cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã
bị gán cái tội "cường hào ác bá", 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát,
hằng trăm thanh niên tuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Đồng), hai linh
mục Pháp, một bác sĩ Đức và vợ, và một số Phi Luật Tân"(20).
Nạn nhân cuộc Thảm sát Mậu Thân tại Huế. Thông tin từ The
Vietcong Massacre at Hue, Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press,
1976. Nguồn: Elje Vannema
Những con số trên đây có thể sai biệt chút ít, nhưng chắc chắn số
thường dân cũng như số người nghỉ phép nhân dịp Tết tại Huế, bị giết chôn
trong các hầm tập thể rất nhiều. Sau đây là thống kê tóm tắt số hài cốt tìm
được trong các mồ chôn tập thể sau khi cộng quân rút lui do một bác sĩ người
nước ngoài ghi lại(21):
IV. Tại sao tàn sát?
Cho đến nay, chưa ai trả lời được câu hỏi vì sao xảy ra cảnh tàn sát ở
Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968) của quân đội cộng sản?
Ngay cả đảng CSVN hiện nay vẫn tránh né vấn đề nầy. Để giải mã câu hỏi
trên, có lẽ nên phân tách các loại tàn sát theo từng nguyên nhân khác nhau.
1. Tàn sát vì tư thù
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, ngoài chuyện chết chóc vì súng
đạn, luôn luôn có những cuộc trả thù qua lại giữa những cá nhân trong các
phe lâm chiến. Chắc chắn vụ Tết Mậu Thân ở Huế cũng không ra ngoài quy
luật nầy.
Huế là một nơi trải qua nhiều biến chuyển chính trị, "đổi đời" từ
năm 1945 trở đi, đương nhiên có nhiều cọ xát, mâu thuẫn, tranh chấp, thù
hận. Sau năm 1954, nhiều gia đình ở Huế có thân nhân tập kết ra Bắc, bị
chính quyền miền Nam truy xét, nay những người nầy trở về tìm cách trả thù
những kẻ đã đi tố cáo hay truy hỏi trước đây. Cần chú ý Thừa Thiên và Huế
là nơi xuất thân của nhiều nhà lãnh đạo Bắc Việt như Nguyễn Chí Thanh, Tố
Hữu, Trần Hữu Dực, Hoàng Anh…
Ngoài ra còn có nhiều hình thức tư thù nhỏ nhặt khác, như những
người giúp việc đi tố cáo chủ nhà; những công nhân chỉ điểm các ông giám
đốc; những người trước đây phạm pháp, bị bắt, bị phạt nay nhân cơ hội trả
thù những nhân viên hành chánh, cảnh sát...
Đặc biệt nhiều nhất là những sinh viên học sinh tranh đấu, trước đây
tham dự những cuộc biểu tình chống chính phủ bị đàn áp, phải thoát ly bỏ
lên núi theo cộng sản, nay trở về cầm súng thanh toán lại những người khác
lập trường chính trị mà các sinh viên thoát ly gán "tội" cho họ là tay sai "Mỹ,
Ngụy".
2. Tàn sát theo kế hoạch, chính sách
Phá hủy và làm rối loạn bộ máy chính quyền VNCH: Ngày
26/01/1968, ba ngày trước Tết, đảng uỷ cộng sản Thừa Thiên đưa ra kế
hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa phía hữu ngạn Huế. Trong kế hoặch
nầy, cộng sản dự liệu rằng khó có thể giữ Huế lâu ngày, nên đã chỉ đạo các
uỷ viên phụ trách phải phá hoại tối đa các cơ chế vừa mới được ổn cố của
chính quyền Sài Gòn (DO, sđd.206). Nói cách khác, chỉ thị trên ra lệnh tiêu
diệt quân đội và nhân viên VNCH để bộ máy chính quyền VNCH khủng
hoảng nhân sự, thiếu người làm việc, mất hiệu năng. Thành phần tử vong
trong Tết Mậu Thân tại Huế do ông Nguyễn Trân đưa ra phản ảnh đúng chủ
trương nầy, theo đó đã có "790 hội viên các Hội đồng tỉnh, thị xã và xã bị
gán cái tội "cường hào ác bá", 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát" bị
giết.
Sau đây là tài liệu do Sư đoàn 1 Không kỵ Hoa Kỳ bắt được ngày
12/06/1968 tại Thừa Thiên của một cán bộ quân sự cộng sản. Viên cán bộ
nầy ghi lại trong sổ tay:
"Toàn bộ hệ thống chính quyền ngụy từ xã tới tỉnh đã bị tiêu diệt
hoặc gẫy đổ. Hơn 3.000 tên đã bị giết. Địch sẽ chẳng bao giờ tái lập lại được
hệ thống cũ hoặc xoay chuyển được thất bại của chúng. Dù chúng có thể thay
thế ngay bằng những nhân sự thiếu kinh nghiệm, bọn nầy cũng sẽ chẳng làm
được gì"(22)
Tàn sát để khủng bố, cảnh cáo: Cộng sản giết quân nhân, công chức
và thường dân vô tội (mà họ tình nghi tiếp tay, làm tình báo, hay cộng tác với
chính quyền VNCH), cộng sản nhắm đe dọa dân chúng để từ đây đừng tòng
quân cho quân lực VNCH, hoặc không được tham gia hay cộng tác với chính
quyền VNCH, dưới bất cứ hình thức nào.
Trong quá trình chính trị VNCH, Huế là nơi phát khởi nhiều xáo
trộn, nhất là từ năm 1963 trở đi. Việc tàn sát của cộng sản còn nhắm cảnh
cáo dân chúng cố đô, từ đó cảnh cáo dân chúng toàn quốc, để dân chúng
không dám lên tiếng tố cộng, dầu vẫn còn sống dưới chế độ Cộng Hòa; đồng
thời cộng sản chuẩn bị áp đặt một chế độ độc tài trong tương lai một khi họ
đánh chiếm được toàn miền Nam. Đó là thông điệp đỏ mà cộng sản muốn
báo cho dân chúng Huế nói riêng và các thành phố miền Nam nói chung: với
cộng sản, biểu tình, chống đối là tử hình, chứ không dễ dãi như dưới chế độ
Cộng Hòa.
Thông điệp đỏ nầy quả nhiên có hiệu quả trong việc áp chế dân
chúng, vì sau năm 1975, chế độ cộng sản Hà Nội độc tài tàn bạo, mà hầu như
rất ít vụ đối kháng xảy ra, và dân chúng hoàn toàn không có biểu tình, tuyệt
thực dễ dàng như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.
Tàn sát tín đồ Thiên Chúa giáo: Cộng sản luôn luôn kiếm cách tiêu
diệt có hệ thống và có kế hoạch các tôn giáo, nhất là những tôn giáo có thế
lực chính trị mạnh mẽ, có tổ chức quần chúng quy mô và kỷ luật, hoặc thân
chính quyền. Tại Huế, từ khi Ngô Đình Diệm, xuất thân từ một gia đình
Thiên Chúa giáo gốc Quảng Bình, lớn lên tại làng Phú Cam, cầm quyền năm
1954, tín đồ Thiên Chúa giáo tại đây yểm trợ chính quyền mạnh mẽ. Ngô
Đình Cẩn, em ông Diệm, là người có sáng kiến tổ chức đoàn phản gián "Đặc
vụ miền Trung" năm 1960 do ông Dương Văn Hiếu cầm đầu, đã gây thiệt hại
nặng nề cho tình báo cộng sản từ Bến Hải vào tới trong Nam.
Do đó, trong kế hoạch đưa ra ngày 26/01 kể trên, đảng uỷ cộng sản
Thừa Thiên-Huế nhấn mạnh:
"Bao vây và cô lập những tên phản động lợi dụng tín đồ Thiên Chúa
giáo; phải chú ý đến khu vực Phú Cam, các trường Thiên Hựu và Bình
Linh..."
(Don Oberdorfer, sđd. 206). Kế hoạch nầy còn được triển khai hết
sức mưu mẹo kín đáo:
Khi mới vào Gia Hội, cộng quân ra lệnh mọi nhà phải hạ cờ Quốc
gia (đã được các nhà treo trong dịp Tết), treo cờ MTDTGPMNVN. Dân
chúng không có cờ MTDTGP, nên cộng quân ra lệnh treo cờ Phật giáo (Don
Oberdorfer, sđd.225). Đây là một âm mưu của cộng sản: (1) Cộng quân dư
biết dân chúng sống dưới chế độ miền Nam không thể có cờ MTDTGP mà
vẫn ra lệnh treo cờ mặt trận nầy, rồi lấy lý do không có cờ MTDTGP mới đổi
qua cờ Phật giáo. (2) Treo cờ Phật giáo, cộng quân sẽ biết nhà nào theo
Thiên Chúa giáo, vì những gia đình theo đạo Thiên Chúa làm gì có cờ Phật
giáo mà treo? (3) Cộng quân muốn tỏ ra thân thiện với Phật giáo, để gieo
tiếng oan cho Phật giáo là thân cộng và gây chia rẽ giữa hai tôn giáo lớn
trong nước.
Một nhân chứng có mặt tại vùng Phú Cam (Huế) cho biết khoảng
mồng 7 hay mồng 8 Tết, cộng quân bắt trên 300 thanh niên ẩn núp trong nhà
thờ Phú Cam, đem đi biệt tích(23). Tại Huế, cộng quân còn giết hai linh mục
người Việt là Hoàng Ngọc Bang và Lê Văn Hộ, và hai linh mục người Pháp
dòng Benedicto Thiên An là Urbain và Guy, đồng thời đốt luôn nhà thờ
Thiên An(24).
Tàn sát để gây tiếng vang trên thế giới và tại Hoa Kỳ: Trong cuộc
tổng công kích tết Mậu Thân, cộng quân đã thẳng tay tiêu diệt quân đội Đồng
minh như Hoa Kỳ, Phi Luật Tân, và giết luôn cả những thành phần dân sự
ngoại quốc như các linh mục người Pháp kể trên, nhất là bốn người Đức ở
Viện Đại học Huế (bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, bác sĩ Raimund
Discher, và bác sĩ Alois Alterkoster). Ba vị bác sĩ Tây Đức đều tình nguyện
đến dạy tại Đại học Y khoa Huế. Cả bốn người nầy bị bắt ngày 5-2-1968. Về
sau xác họ được tìm thấy ở gần khu vực chùa Tường Vân.
Huế là thành phố mang nhiều đặc tính di sản lịch sử, văn hóa và
chính trị Việt Nam, nên rất được quốc tế chú ý. Chiếm đóng và tàn sát ở Huế
dễ gây tiếng vang trên thế giới, để giành ưu thế trong hòa đàm, và nhất là để
đe dọa dân chúng Hoa Kỳ, làm cho họ lo ngại cho số phận thân nhân họ đang
ở Việt Nam. Vì vậy họ sẵn sàng tham gia các phong trào phản chiến, thúc
giục chính phủ Hoa Kỳ sớm rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, để đưa
chống con về nước.
Tàn sát để nhuộm đỏ tay chân: Sau thời gian tham gia tranh đấu năm
1966, khi bị chính phủ Sài Gòn gởi quân ra dẹp yên, một số lãnh tụ sinh viên
và trí thức Huế thoát ly, bỏ chạy lên chiến khu theo cộng sản như Hoàng Phủ
Ngọc Tường (giáo sư trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên,
em của Tường), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên), Lê Văn Hảo (giáo sư Đại học
Văn khoa), Nguyễn Đóa (cựu giám thị trường Quốc Học)... Ngoài nhóm
thoát ly, còn có những người lừng khừng, gió chiều nào theo chiều đó. Sử
dụng những người thoát ly cũng như lừng khừng, nhưng cộng sản không tin
cậy họ. Cộng sản dư biết rằng họ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản thành
phố, thích biểu tình tranh đấu theo kiểu dân chủ Tây phương, đã từng sống
dưới chế độ Quốc gia, ít nhiều thụ hưởng không khí tự do và ân huệ chính
quyền Quốc gia để ăn học thành tài, mà còn phản bội Quốc gia, thì không
biết lúc nào họ sẽ phản bội cộng sản, vì cộng sản chẳng có công đào tạo họ,
và cộng sản lại độc tài đảng trị tuyệt đối, không thích chuyện biểu tình phản
đối.
Dư luận Huế và báo chí sách vở thường kết án Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là thủ phạm của những
cuộc tàn sát. Cho đến nay, vẫn chưa biết thật sự nhóm nầy đóng vai trò gì, đã
làm những gì, nhưng giả thiết như họ đã hành động tàn bạo đối với đồng bào,
(chỉ giả thiết mà thôi), thì chẳng qua họ cũng chỉ là những con rối phải thi
hành mệnh lệnh và kế hoạch của đảng Cộng Sản. Nếu những Tường, Phan,
Xuân không thi hành mệnh lệnh của đảng CS, họ sẽ bị cộng quân loại bỏ dễ
dàng. Những nguòi nầy chỉ là những con chốt thí trong cuộc cờ của cộng sản.
Ai cũng biết rằng trong tổ chức cộng sản, chỉ có đảng viên và nhất là
đảng uỷ mới có quyền quyết định những chuyện hệ trọng. Còn những hạng
tân tòng như Tường, Phan, Xuân chẳng có quyền hành gì để quyết định
mạng sống của một tập thể quần chúng lớn lao, trừ vài chuyện trả thù cá
nhân mà thôi. Bằng chứng cụ thể là sau năm 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân chẳng được trọng dụng nữa.
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cơ hội để cộng quân nhuộm
đỏ những người thoát ly và những người lừng khừng, làm cho họ không còn
con đường nào quay về phía VNCH, dù họ có mặt hay không có mặt ở Huế,
và dù họ giết người hay không giết người trong thời gian nầy.
3. Tàn sát khi rút quân
Nhìn vào bản đồ vị trí các mồ chôn tập thể, một điểm nổi bật là tại
thành phố Huế, khu phố Gia Hội và vùng phụ cận như Bãi Dâu là nơi duy
nhất có nhiều mồ chôn tập thể. Điều nầy cho thấy do cộng quân chiếm giữ
Gia Hội được lâu, nên có điều kiện bắt giết nhiều người tại chỗ. Ngoài Gia
Hội, những nấm mộ tập thể khác nằm ở các vùng phụ cận chung quanh thành
phố Huế. Khi rút lui, cộng quân đem theo những người bị bắt giữ, vừa làm
phu khuân vác, vừa khỏi bị lộ bí mật, vừa làm con tin và bia đỡ đạn để tránh
bị quân đội VNCH và Đồng minh pháo kích hay chận đánh. Số người bị
cộng quân đem theo lên đến vài ngàn người. Đến khi cộng quân cần biến vào
rừng, cộng quân giết tất cả những người nầy để khỏi lộ tung tích. Cộng sản
giải thích rằng như thế là "giết để tự vệ"(?). Họ không cần phân loại, vì làm
như thế sẽ mất nhiều thời giờ, và vì nguyên tắc của cộng sản là "giết lầm hơn
bỏ sót". Ngoài ra, sau một thời gian ngắn cùng sống với nhau, những con tin
bị bắt đi theo biết rõ gốc gác, gia đình của các cán binh cộng sản, kể cả cộng
sản nằm vùng, và nhất là những tội ác do cộng sản gây ra. Cộng sản sợ rằng
nếu để những người nầy sống sót, họ sẽ làm vỡ tất cả những tổ chức bí mật
của cộng sản, nhất là tố cáo tội ác của cộng sản trước dư luận trong nước
cũng như trên thế giới. Do đó, cộng sản giết những con tin nầy để thủ tiêu
nhân chứng, diệt hậu hoạn.
Cách giết người của cộng quân cũng đặc biệt. Cộng quân ra lệnh cho
những người bị bắt phải đào hố, nói là để làm hầm trú ẩn tránh bom đạn,
hoặc để làm mương dẫn nước cho dân chúng cày cấy. Sau khi đào xong,
cộng quân trói thúc ké tay chân những người nầy, quăng xuống hố, rồi lấp
đất lại. Cộng quân chôn sống người, chứ không dùng súng bắn vì sợ gây
tiếng động và lộ mục tiêu, dễ bị quân đội VNCH và Đồng minh phát hiện (25).
19 khu vực chôn người tập thể tại Huế (Nguồn: tác giả)
Bản đồ vị trí các mồ chôn tập thể cho thấy cộng quân rút lui theo hai
hướng: (1) Hướng nam, qua đường Nam Giao, đến lăng các vua Nguyễn, lên
vùng núi. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng nầy là Khe Đá Mài (428 xác),
thuộc quận Nam Hòa, cách thành phố Huế khoảng 40 cây số.(2) Hướng
đông, qua ngã Chợ Cống hoặc Dạ Lê. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng nầy
là Vinh Thái (135 xác), thuộc quận Phú Thứ, cách Huế khoảng 40 cây số về
phía đông nam. Theo bác sĩ Elje Vannema, người gốc Hòa Lan, quốc tịch
Canada, có mặt ở Huế nhân dịp Tết Mậu Thân, Huế có tất cả 19 khu vực
chôn người tập thể được tìm thấy, và mỗi khu vực có nhiều nấm mộ tập thể
khác nhau(26). Có thể còn nhiều ngôi mộ tập thể khác vĩnh viễn bị khuất lấp
mà không ai tìm ra được.
V. Thử so sánh
Trong lịch sử Việt Nam, cuộc tàn sát tập thể đầu tiên được ghi nhận
là vụ Trần Thủ Độ tiêu diệt tông thất nhà Lý năm 1232 (nhâm thìn). Sau khi
tổ chức đảo chánh nhà Lý (1010-1225), lập ra nhà Trần (1225-1400), Trần
Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt con cháu dòng họ nầy. Năm 1232, Trần Thủ Độ
tổ chức lễ trai đàn đại tế tổ tiên họ Lý tại Bắc Ninh. Khi con cháu nhà Lý đến
dự lễ, theo sử sách ghi lại, Trần Thủ Độ cho giựt sập nhà trai đàn, chôn vùi
tất cả con cháu nhà Lý xuống đó. Lúc đó, Trần Thủ Độ giết nhiều lắm là vài
chục người hoặc tối đa là khoảng một trăm người. Đã trên 700 năm, thế mà
hành vi tàn ác của Trần Thủ Độ vẫn còn là một vết nhơ trên chiếc chiến bào
đầy hào quang kháng Nguyên của dòng họ nhà Trần.
Năm 1884, khi người Pháp áp đặt hòa ước Giáp Thâ, đô hộ Việt
Nam, vua Hàm Nghi (trị vì 1884-1885) và triều đình do Tôn Thất Thuyết
lãnh đạo đã mở cuộc tấn công chống Pháp tại Huế đêm 22 rạng 23 tháng 5
năm ất dậu (đêm mồng 4 rạng mồng 5-7-1885). Thất bại, nhà vua phải bỏ
kinh thành chạy ra phía Bắc. Tối hôm đó, quân đội triều đình và dân chúng
Huế chết khá nhiều nên sau nầy, hằng năm, tại Huế có tục "cúng cô hồn" vào
tối 23-5 âm lịch
Dầu đã xảy ra nhiều trận đánh ác liệt khi quân đội nước ngoài tiến
chiếm cựu đô Thăng Long hay Huế, sử sách hầu như không ghi lại dấu vết
những hành động độc ác tàn bạo giết hại tập thể tàn ác dã man lộ liễu nào của
người nước ngoài đối với thường dân tại các thành phố đang có chiến tranh,
kể cả trong ngày 19/12/1946 là ngày mà Hồ Chí Minh ra lệnh bất ngờ tấn
công người Pháp tại Hà Nội, người Pháp phản công, nhưng cũng không trả
thù thường dân. Việt Minh cộng sản đả kích thậm tệ thực dân Pháp, nhưng
trong việc đối xử với thường dân trong chiến tranh, so sánh những biến cố ở
Huế năm 1885 và Hà Nội năm 1946 với cuộc tấn công của cộng sản năm
Mậu Thân (1968) tại Huế, binh sĩ thực dân Pháp xâm lăng xem ra còn văn
minh và nhân đạo hơn người cộng sản Bắc Việt, những kẻ luôn luôn tự hào
thuộc "loài người tiến bộ".
Trong lịch sử thế giới hiện đại, có bốn cuộc tàn sát lớn: Thứ nhất khi
chiếm được Nam Kinh (Nanking, Trung Hoa) ngày 13/12/1937, quân đội
Nhật Bản đã tàn sát khoảng 300, 000 người Hoa tại thành phố nầy. Cuộc tàn
sát diễn ra khủng khiếp, hãm hiếp phụ nữ, bắn giết, dùng kiếm chặt đầu mổ
bụng, kể cả trẻ em(27). Thứ nhì Đức Quốc Xã giết tập thể hàng triệu người Do
Thái trong thế chiến thứ nhì (1939-1945). Thứ ba Cộng sản Liên Xô đã giết
gần 15.000 tù binh gồm sĩ quan và binh sĩ quốc gia Ba Lan từ 3-4 đến
13/05/1940(28). Thứ tư Khờ-me Đỏ giết khoảng trên 1 triệu dân Cam Bốt.
Quân phiệt viễn chinh Nhật giết người Hoa vì tức giận dân chúng
Nam Kinh, thủ đô của Trung Hoa từ khi Quốc Dân Đảng cầm quyền năm
1927, đã kháng cự mãnh liệt cuộc tiến quân của Nhật Bản. Đức Quốc Xã tàn
sát người Do Thái để bảo vệ sự thuần chủng của giống Nhật Nhĩ Man
(Aryan) theo chủ thuyết của Hitler. Cộng sản Liên Xô giết sĩ quan và binh sĩ
Ba Lan để triệt tiêu quân đội yêu nước của quốc gia nầy, và thành lập quân
đội mới dưới quyền chỉ huy của Liên Xô. Tất cả những cuộc tàn sát trên đây
đều tàn bạo, vi phạm tội ác nhân loại, giữa người với người. Tuy nhiên, họ là
những người khác nước, khác chủng tộc, và hành động vì quyền lợi quốc gia
họ.
Chỉ có Khờ-me Đỏ giết đồng bào hay đồng chủng Cam Bốt và Việt
Cộng giết đồng bào hay đồng chủng Việt Nam. Ai cũng biết là Khờ-me Đỏ
một thời nằm dưới quyền của cộng sản Việt Nam, và Khờ-me Đỏ cũng như
cộng sản Việt Nam đều được CHNDTH huấn luyện cũng như viện trợ. Chính
Hồ Chí Minh và đảng LĐ đã từng nhận lý thuyết Mác-Lê và tư tưởng Mao
Trạch Đông là kim chỉ nam hành động của cộng sản Việt Nam(29).
Số lượng người bị Việt Cộng giết tại Huế ít hơn rất nhiều so với
những nạn nhân người Trung Hoa, Do Thái, Ba Lan, hay Cam Bốt. Điều nầy
dễ hiểu vì khung cảnh không gian xảy ra cuộc tàn sát, tức thành phố Huế,
quá nhỏ bé so với các khu vực tàn sát trên thế giới, thời gian Việt cộng chiếm
đóng ngắn ngày, và dân số địa phương Huế lúc đó cũng quá ít oi, chỉ có 130,
000 dân (CĐ, MT, sđd.303).
Đặt các cuộc tàn sát trong các điều kiện và hoàn cảnh trong từng vụ
cá biệt, mới thấy rõ cuộc tàn sát của Việt cộng năm 1968 ở Huế, một thành
phố hiền hòa nhỏ bé với một dân số ít oi, thật dã man không kém gì những
cuộc tàn sát khác trên thế giới trong thế chiến thứ nhì. Tính chất độc ác dã
man còn biểu lộ trong phương pháp và đối tượng bị giết: giết cả trẻ em và
phụ nữ(30), tùng xẻo người(31), chôn sống người(32).
Việc giết hại phụ nữ và trẻ em, cũng như việc tùng xẻo người như
thời Trung cổ, do thân nhân các nạn nhân hoặc những người chứng kiến kể
lại. Người ta biết được việc cộng sản chôn sống các nạn nhân nhờ hai nguồn
tin: Thứ nhất là lời kể cuả những nạn nhân trốn thoát bàn tay cộng quân đã
chứng kiến việc chôn sống. Thứ hai là trong các nấm mồ tập thể, lẫn lộn với
xác chết những người bị đánh đập, trên thân thể có vết thương và vết máu,
người ta tìm được những tử thi chỉ bị trói ké tay chân, thân thể toàn vẹn,
không có vết trầy truộc gì cả. Điều nầy có nghĩa là những người đó đã bị
quăng xuống hố sau khi bị trói tay để không có cách gì moi đất mà lên được.
Nên lưu ý, đất thịt không phải là nước hay cát. Nước và cát có thể
bít kín ngay các khoảng trống, không có không khí, nên người bị trấn nước
hoặc bị vùi trong cát, sau vài chục giây, nếu ai mạnh khỏe thì sau một vài
phút rồi chết vì ngạt thở. Ngược lại, đất thịt với sạn đá còn nhiều lỗ rỗng, và
đất thịt không thể bít hết lên thân thể của nạn nhân, nên dưới những mồ chôn
tập thể đó, lúc đầu vẫn còn không khí, và nạn nhân vẫn còn thoi thóp sống,
có thể cả vài ngày, sau đó mới kiệt sức mà chết.
Ngày nay, khi đưa một con vật vào lò sát sinh, người ta cố gắng làm
sao cho con vật chết liền tức khắc, để tránh việc hành hạ thân xác làm kéo
dài sự đau đớn của con vật. Trong khi đó, những nạn nhân bị cộng sản chôn
sống nằm bất động, vẫn còn sống, ý thức vẫn làm việc. Thật không thể biết
nạn nhân kéo dài sự đau đớn đến độ nào trong cảnh tối mù của địa ngục sống
trong nhiều ngày? Không ai biết được vì không ai còn sống để kể lại, nhưng
chắc chắn khủng khiếp và đau khổ cùng độ. Biết đâu họ chết ngất vì khủng
khiếp trước khi chết vì thiếu dưỡng khí?
Vào đầu thế kỷ 20, một vụ án tử hình được sách vở cho là tàn bạo
nhất của lịch sử nước ta là việc người Pháp đã xử yêu trảm chí sĩ Trần Quý
Cáp tại Khánh Hòa năm 1908. Yêu trảm là chém ngang lưng, nạn nhân còn
đau đớn thoi thóp đôi chút trước khi chết, nhưng thời gian kéo dài không lâu
bằng người bị chôn sống dưới đất thịt. Việc chôn sống kéo dài sự đau đớn
của nạn nhân, nhất là đau đớn về tinh thần. Chính đó là sự tàn nhẫn của việc
chôn sống, và chỉ có người cộng sản mới đủ nhẫ n tâm làm điều đó với đồng
bào của mình.
Sau những cuộc tấn công bất ngờ vào đầu năm 1968, du kích cộng
sản tiếp tục tấn công nhiều đợt khác nữa ở khắp nơi trên toàn cõi miền Nam.
Trong khi đó, một cuộc tàn sát xảy ra ngay sau vụ Mậu Thân, nhưng mãi đến
một năm sau mới bị phát hiện, cũng làm cho dư luận rất chú ý. Đó là cuộc
thảm sát Mỹ Lai (Quảng Ngãi) ngày 16-3-1968. Vào ngày nầy, trung đội
Charlie, thuộc tiểu đoàn 1, sư đoàn 20 Bộ binh Hoa Kỳ do trung úy William
Calley chỉ huy, đã thảm sát từ 200 đến 500 dân làng trong ấp Mỹ Lai 4, làng
Sơn Mỹ, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một vết đen trong lịch sử
chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, giữa vụ Mậu Thân và vụ Mỹ Lai, có những điểm khác
nhau căn bản:
• Vụ Mậu Thân là một chủ trương có kế hoạch, có hệ thống, do cấp
lãnh đạo của đảng Lao Đông và nhà cầm quyền Hà Nội cân nhắc, soạn thảo
trong một thời gian dài. Nhà cầm quyền Hà Nội và đảng Lao Động đã vận
động cả một bộ máy quân sự lớn mạnh để thi hành vụ Mậu Thân trên toàn
cõi miền Nam Việt Nam, lúc dân chúng miền Nam đang sửa soạn đón mừng
năm mới theo truyền thống dân tộc. Trong khi đó, vụ Mỹ Lai bắt nguồn từ sự
nóng giận nhất thời của một sĩ quan và một nhóm binh sĩ đang hành quân
ngoài mặt trận, tại một quận hẻo lánh ở miền nông thôn Quảng Ngãi. Đó là
chưa kể các sĩ quan và binh sĩ Hoa Kỳ nghi ngờ chính dân chúng Mỹ Lai đã
tiếp tay cho quân du kích tấn công quân đội Hoa Kỳ.
• Khi phát hiện vụ Mỹ Lai một năm sau, quân đội Hoa Kỳ nhận
trách nhiệm về vụ Mỹ Lai, đã đưa trung úy Calley ra xét xử trước pháp luật.
Ngược lại, cho đến nay, bốn mươi năm sau, CSVN chưa hề lên tiếng chịu
trách nhiệm và xin lỗi nhân dân Việt Nam về vụ Mậu Thân, hay xét xử các sĩ
quan chỉ huy các vụ thảm sát ở Huế.
• Vụ Mỹ Lai được báo chí Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tự do
đưa tin, tường thuật, bình luận, kết án... Trong khi nhà cầm quyền cộng sản
hoàn toàn bưng bít tin tức thảm sát Mậu Thân. Các báo chỉ được quyền ca
tụng rằng cuộc tổng công kích Mậu Thân là một "chiến thắng" to lớn của
quân cách mạng. Không phải riêng vụ Mậu Thân năm 1968, mà cho đến nay,
tất cả báo chí trong nước đều do cơ quan nhà nước quản lý, nên tất cả báo chí
trong nước đều chỉ là những cái loa truyền thanh phát đi một điệp khúc duy
nhất do nhà cầm quyền cộng sản soạn sẵn mà thôi.
Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Quân Lực VNCH, cho đến
cuối tháng 3, 1968, số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH của các bên trong
cuộc tổng công kích tết Mậu thân (1968) là: 4.954 sĩ quan và binh sĩ VNCH;
14, 300 thường dân VNCH; 58.373 sĩ quan và binh sĩ trong lực lượng
MTDTGPMNVN và Bắc Việt; 3, 895 sĩ quan và nhân viên Hoa Kỳ (gồm Bộ
binh, Không quân, Hải quân, và TQLC), 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn,
Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan trong các phái bộ viện trợ quân sự tại VNCH.
Trong số 14, 300 thường dân, Huế mất khoảng 2000 người(33).
Riêng tại Huế, theo thống kê của tác giả Douglas Pike, ước lượng
tổng số thiệt hại tại Huế sau biến cố Mậu Thân như sau:
Tổng số thường dân thương vong: 7.500 người.
Số bị thương vì chiến tranh: 1.900 người.
Số thường dân bị tử nạn: 844 người.
Số người mất tích: 1.946(34).
Theo thống kê của tác giả David T. Zabecki qua một bài viết đăng
trong Encyclopedia of the Viet Nam War, tại Huế, số thi hài nạn nhân tìm
được trong các mồ chôn tập thể là 2,810 người và hàng ngàn người mất tích.
Trong khi đó, Quân đội VNCH có 384 tử trận, 1,830 bị thương; Bộ binh Mỹ
74 tử trận, 507 bị thương; Thủy quân lục chiến Mỹ 142 tử trận, 857 bị
thương, Bộ đội Bắc Việt và Việt cộng 5.000 tử trận, số bị thương không tính
được(35).
Các con số nầy chắc chắn chưa đầy đủ, vì còn nhiều người mất tích
chưa được kê khai. Riêng tại Huế, nếu số tử thi tìm được trong các mồ chôn
tập thể là 2.810 xác, thì số người thật sự chết phải cao hơn rất nhiều, vì chắc
chắn còn có những nấm mồ chưa được phát hiện, và có thể không bao giờ
được phát hiện, mà vùi dập mãi với thời gian; hoặc những người bị cộng sản
đem đi các địa phương khác rồi thủ tiêu. Ngoài ra còn có những người chết
được gia đình tự lo liệu việc chôn cất. Dầu có tác giả cho rằng tối thiểu số
thường dân bỏ mạng trong dịp Tết tại Huế phải khoảng trên 3.000 người (36),
nhưng thực tế con số nầy phải cao hơn nhiều.
Một điều cần ghi nhận là trong khi giết hại cả hàng chục ngàn
thường dân vô tội trên toàn quốc, và nhất là chôn sống đồng bào tại Huế, một
tội ác "đất không dung, trời không tha", cộng sản địa phương Huế cũng như
tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phủi tay trốn trách nhiệm, hoàn toàn không đả
động gì đến ai đã chủ mưu và giết chóc như vậy. Đó là lý do chính khiến
cộng sản không công bố hồ sơ biến cố Mậu Thân, mặc dầu sự kiện nầy đã
xảy ra cách đây bốn mươi năm.
Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi của một ký giả Tây phương vào
năm 1969, ông bộ trưởng Bộ quốc phòng Bắc Việt lúc đó, đại tướng Võ
Nguyên Giáp, đã chối rằng Hà Nội không tổ chức tổng công kích Tết Mậu
Thân: "Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt trận [Dân
tộc Giải phóng] thực hiện"(37).
Tài liệu hiện nay cho thấy vụ Tết Mậu Thân do chính Nguyễn Chí
Thanh soạn thảo kế hoạch, rồi Võ Nguyên Giáp tiếp tục khi Nguyễn Chí
Thanh chết bất ngờ, chính Bộ chính trị thông qua kế hoạch nầy, chính Hồ
Chí Minh ra lệnh thi hành bằng bài thơ giết người trên đài phát thanh Hà
Nội, và chính Trung ương cục miền Nam do Phạm Hùng, uỷ viên Bộ chính
trị đảng LĐ đứng đầu, chỉ đạo mọi diễn tiến của tình hình. Ngày nay nhà cầm
quyền Hà Nội công khai thừa nhận và ăn mừng "chiến thắng" Mậu Thân, có
khi nào Võ Nguyên Giáp nghĩ đến lời nói dối "hào nhoáng" sống sượng của
một đại tướng không?
Còn về việc giết người tập thể, ông Bùi Tín, nguyên là đại tá quân
đội cộng sản Bắc Việt, nguyên phó tổng biên tập báo Nhân Dân Hà Nội
trước năm 1990, đã viết rằng:
"Cho nên những vụ tàn sát có tính chất tập thể có thể đã xảy ra ở các
tiểu đoàn đang hành quân rút lui. Giữa cảnh hỗn loạn khi có lệnh rút
lui...Một số đơn vị nảy ra hành động thủ tiêu tù binh để bảo đảm không lộ bí
mật, không bị nguy hiểm, "nhẹ gánh", "khỏi vướng chân", "sẽ chết cả nút"...
Cuối cùng cũng còn một số ít tù binh giải về căn cứ, được dùng để đào hầm
hố, khuân vác... một số về sau được thả về"(38).
Nếu biện minh như ông Bùi Tín, thì ông giải thích làm sao về việc
cộng quân đã tàn sát và chôn hàng ngàn người tại Gia Hội (Huế) trong thời
gian họ tạm chiếm vùng nầy?
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng: "Đó là một sai lầm không
thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ
từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không
phải chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi
như vậy, đã không xảy ra ở địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên
một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất
phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy."
(Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn của bà Thụy Khê, bđd.)
Chưa đặt vấn đề lương tâm dân tộc ở đây, nhất là với những người
cộng sản và những người chạy theo cộng sản như Hoàng Phủ Ngọc Tường,
trước hết, phải xác định rõ ràng cuộc chiến do cộng sản gây ra không phải là
"chiến tranh cách mạng", mà là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do tham vọng
quyền lực và tham vọng bành trướng của cộng sản Bắc Việt.
Thứ hai, cách thức đổ lỗi "cục bộ", "địa phương" là bài bản sách vở
của cộng sản. Trong tất cả các chương trình kế hoạch hành động, cộng sản
luôn luôn cho rằng thành công là nhờ đảng lãnh đạo, thất bại là tại địa
phương làm sai. Thậm chí nông dân Việt hiện nay có câu ca dao mỉa mai:
"Mất mùa là bởi thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta."
Thứ ba, "tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở địa
phương khác trong Mậu Thân" vì không có nơi nào trên toàn quốc mà cộng
sản chiếm được lâu ngày để có thể hoành hành, giết chóc như ở Huế. Trong
khi đó, suốt từ 1945 đến 1975, đã nhiều lần cộng sản giết hại tập thể một
cách tàn bạo, chôn sống biết bao nhiêu người, như những cuộc thủ tiêu khắp
nước những nhà ái quốc không cộng sản(39), vụ giết hại những tín đồ Cao Đài
ở Quảng Ngãi(40), vụ chôn sống nhóm Đệ tứ Quốc tế ở vùng sông Lòng Sông
thuộc tỉnh Bình Thuận(41), vụ tàn sát các tín đồ Cao Đài và Hòa Hảo ở trong
Nam(42). Có nhiều trường hợp người ta không có tội vẫn giết, vì người đó là
một nhân tài, có thể có hại cho cộng sản trong tương lai, nên cần phải giết
trước để trừ hậu hoạn. Giết như thế cộng sản gọi là "giết tiềm lực".
Người trong cuộc là ông Lê Minh, bí thư Thừa Thiên-Huế, phụ trách
mặt trận Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, đã thú nhận rằng việc
tàn sát tù binh và thường dân ở Huế là có thật. Ông ta tuyên bố chịu trách
nhiệm về cuộc tàn sát nầy, nhưng lại chống chế rằng cộng quân "đã ở trong
một hoàn cảnh quá khó khăn, đến không thể nào kiểm soát nổi những hành
động thô bạo." (lời của ông Lê Minh, Chính Đạo trích dẫn, Mậu Thân,
sđd.137.)
Như đã trình bày ở trên, đây không phải là lần đầu tiên cộng sản
"hành động thô bạo". Hơn nữa, từ đâu phát sinh hành động thô bạo? Thông
thường, đó là do xuất thân từ một tập thể thô bạo, được giáo dục dưới chủ
trương và chính sách thô bạo, và được khuyến khích bằng những hành động
thô bạo, không bị pháp luật chế tài. Do đó, chẳng cần phải hoàn cảnh khó
khăn thì cộng quân mới "hành động thô bạo".
Tuy nhiên, ít nhất ông Lê Minh cũng đã can đảm công khai thú nhận
quân đội cộng sản đã "hành động thô bạo", một lời thú nhận hiếm thấy nơi
những nhà lãnh đạo cộng sản. Lời thú nhận của ông Lê Minh được đưa ra
năm 1988, trong thời gian đảng CSVN bắt đầu cởi mở, đã đuợc đăng trên tạp
chí Sông Hương, và được dịch đăng trên báo Newsweek ở Hoa Kỳ (Theo lời
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời bà Thụy Khê).
Sau đó những biến động ở Đông Âu dồn dập xảy ra, và Liên Xô sụp
đổ năm 1991, đã làm cho phái bảo thủ trong đảng CSVN cứng rắn trở lại. Hồ
sơ Mậu Thân bị khép kín lần nữa. Quyển hồi ký của Lê Minh liền bị thu hồi
và bản thân đương sự bị thất sủng, cô lập. Hiện nay, hàng năm vào dịp Tết,
CSVN ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, trên sự đau khổ của đồng bào cả
nước, vì ngày đó cũng chính là ngày kỵ giỗ của khoảng gần 80, 000 người
Việt cả Bắc lẫn Nam, cả dân sự lẫn quân sự, đã bỏ mình trong cuộc tổng
công kích nầy.
Dầu Võ Nguyên Giáp có chối tội, Bùi Tín, Hoàng Phủ Ngọc Tường
hay Lê Minh có biện minh thế nào cho cộng quân, bất cứ ai đã từng sống với
cộng sản đều biết rằng:
− Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ và sắt máu của cộng sản, không có một
người nào dưới quyền đảng Cộng Sản mà không bị kiểm soát, không có một
người nào dưới quyền cộng sản mà có thể tự ý làm bất cứ điều gì họ nghĩ.
Nhất nhất họ đều phải theo chỉ thị của đảng bộ và của cấp trên. Do đó, việc
tàn sát trong cuộc chiến Tết Mậu Thân hoàn toàn là chủ trương chính sách
của đảng LĐ tức đảng CSVN.
− Đảng Cộng Sản là một đảng chính trị tổ chức chặt chẽ, rất có kỷ
luật. Bất cứ đơn vị quân đội cộng sản nào cũng có một chính uỷ (uỷ viên
chính trị) để điều khiển công việc, đứng trên và quyền hành hơn cả đơn vị
trưởng. Do đó, không thể đổ lỗi cho các cán binh cộng quân rút lui nên mới
tàn sát bừa bãi, và cũng không thể đổ lỗi cho các đơn vị địa phương hay tỉnh
uỷ Thừa Thiên Huế đã phạm sai lầm hoặc giết người để tự vệ.
Chắc chắn phải có kế hoạch chính sách do trung ương hoặc do các
đảng uỷ cộng sản quyết định, khi tiến thì làm gì, khi rút lui thì làm gì, các
đơn vị thừa hành hoặc các cán binh mới dám tàn sát dân chúng một cách vô
nhân đạo, tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam và cả lịch sử thế giới. Hiếu
sát, giết người bừa bãi là một đặc tính căn bản của cán bộ cộng sản học được
từ các lãnh tụ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Như thế, đảng
LĐ tức đảng CSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về việc
tàn sát trong cuộc chiến tết Mậu Thân năm 1968.
Đặc tính khát máu tàn bạo nầy của cộng sản thể hiện xuyên suốt từ
những vụ thủ tiêu chính trị năm 1945 (vài trăm ngàn người bị giết), đến cuộc
tàn sát trong Cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc (200,000 nông dân bị tàn
sát), rồi Nhân Văn-Giai Phẩm (bắt tất cả trí thức, văn nghệ sĩ phản đối sự chỉ
huy văn nghệ cuả cộng sản), vụ án "chống đảng" (bắt giam dài hạn sĩ quan,
trí thức không đồng chánh kiến). Cộng sản Việt Nam học theo đúng bài bản
Liên Xô trong thế chiến thứ nhì (tiêu diệt tập thể những người yêu nước Ba
Lan để thay thế bằng những đảng viện cộng sản Ba Lan), ứng dụng vào hoàn
cảnh Việt Nam, tiêu diệt ngay chính đồng bào mình.
Vụ tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế là một dấu mốc trong tiến trình
xâm lăng VNCH, nhắm đặt toàn thể nước Việt Nam dưới sự cai trị của cộng
sản. Sau năm 1954, khi người Pháp rút lui, đất nước bị chia hai. Đáng lẽ cả
hai miền Nam và Bắc thi đua phát triển kinh tế, xây dựng đất nước sau cuộc
chiến 1946-1954, và chuẩn bị thống nhất đất nước một cách hòa bình trong
tình anh em ruột thịt một nhà, các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt quyết tâm
thôn tính miền Nam bằng võ lực(43).
Các cấp lãnh đạo cộng sản không thể bằng những phương thức hỏa
mù chính trị, đổ tội cho những nhân vật cấp thấp hay rất thấp. Ví dụ ở Huế,
cộng sản tuyên truyền đổ tội cho Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Nguyễn Đắc Xuân, trong khi ai cũng biết những người nầy chỉ là những kẻ
ăn theo chạy dọi, những người theo phong trào. Những người nầy, nhất là
Hoàng Phủ Ngọc Phan (em của Hoàng Phủ Ngọc Tường), Nguyễn Đắc Xuân
đã xuất đầu lộ diện, hăng hái chỉ huy cuộc lùng bắt, tấn công, trước sự chứng
kiến của dân chúng Huế, nên đành phải chịu tai tiếng suốt đời. Cộng Sản
dùng họ làm những con cờ thí. Các cấp lãnh đạo của cộng sản hy vọng lớp
bụi thời gian sẽ lần lần che phủ những dấu vết tội lỗi của cộng sản.
Về các lực lượng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân:
1) Rõ ràng du kích cộng sản miền Nam đã hoàn toàn thất bại. Đại bộ
phận lực lượng MTDTGPMNVN bị tiêu diệt. Nhiều tài liệu của phía CSVN
cho thấy MTDTGPMNVN hầu như kiệt quệ sau vụ Mậu Thân. Cuộc tổng
công kích không được dân chúng hưởng ứng. Dưới lằn đạn của du kích CS,
dân chúng hướng về phía quân đội VNCH hay quân đội Hoa Kỳ để tìm
đường sống, chứ không ai chạy theo CS cả.
2) Quân lực VNCH bị tấn công bất ngờ, nhưng đã phản ứng kịp
thời, nhanh chóng và mạnh mẽ. Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves
Gras, một tướng lãnh Pháp, đã viết: "Quân đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu
trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn công của phương Bắc trong Tết Mậu
Thân vào tháng 2 năm 1968"(44). Sau Tết Mậu Thân, khi được tổng thống
Hoa Kỳ gởi sang thị sát chiến trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle
G. Wheeler, trong báo cáo gởi về Washington, đã nhấn mạnh: "Các lực
lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với
một sức mạnh thần kỳ"(45)
3) Quân du kích CSVN tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
nhắm mục đích gây tiếng vang chính trị, nhưng trong cuộc tổng công kích
Tết Mậu Thân, Việt Cộng tránh đụng độ trực tiếp với lực lượng Hoa Kỳ, mà
chỉ nhắm tấn công vào quân lực VNCH. Vì vậy, quân đội Hoa Kỳ và Đồng
minh chỉ hoạt động để giúp đỡ quân dội VNCH. Do đó có người cho rằng
quân đội Hoa Kỳ phản ứng chậm. Lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh thiệt hại
tương đối nhẹ.
Tuy nhiên việc CSVN tấn công vào các thành phố đã làm cho dân
chúng Hoa Kỳ hoang mang về tình hình an ninh ở Việt Nam, khiến họ tránh
đến Việt Nam đầu tư, làm ăn buôn bán. Quan trọng hơn nữa, dân chúng Hoa
Kỳ ở cách Việt Nam nửa vòng trái đất, chỉ theo dõi tình hình qua truyền hình
và báo chí. Lúc đó truyền hình và báo chí thiên tả hoạt động mạnh, tô đậm
chiến tranh Việt Nam, khiến cho dân chúng Hoa Kỳ lo ngại cho thân nhân
của họ đang thi hành quân dịch ở Việt Nam. Việc nầy tạo cơ hội cho các
phong trào phản chiến đòi rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam hoạt động mạnh
hơn nữa. Chỉ khi nào quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Bắc Việt cộng sản
mới hy vọng chiến thắng ở miền Nam. Dầu thế nào, cuộc tổng công kích Tết
Mậu Thân cũng ảnh hưởng sâu rộng đến chính trường Hoa Kỳ.
Ngày 23/02/1968, tổng thống Lyndon Johnson cử tướng Earle G.
Wheeler sang Việt Nam tìm hiểu tình hình tại chỗ. Tướng Wesmoreland, tư
lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đề nghị tăng 206,000 quân Hoa Kỳ vào
Việt Nam. Ngày 01/03/1968, quyết định cử Clark Clifford giữ chức bộ
trưởng Quốc phòng thay Robert Mc Namara. Ngày 22/03/1968, Lyndon
Johnson cử tướng Abrams, tư lệnh phó MACV thay tướng Westmoreland.
Ngày 30/03/1968, tổng thống tuyên bố không tái ứng cử và xúc tiến việc tìm
kiếm một giải pháp chính trị trên bàn hội nghị. Từ năm 1969, Hoa Kỳ bắt
đầu kế hoạch "Việt Nam hóa" chiến tranh, mở đầu cho việc rút quân Hoa Kỳ
sau nầy...
4) Như đã trình bày ở trên, kẻ hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc tổng
công kích Tết Mậu Thân là cộng sản Bắc Việt. Sau năm 1975, bác sĩ Dương
Quỳnh Hoa, một thành viên quan trọng trong MTDTGPMNVN cho rằng "Hà
Nội đã có tội khi đưa ra những tính toán sai lầm làm tiêu phí hết sức mạnh
của miền Nam"(46). Thật ra, Hà Nội không sai lầm, mà Hà Nội tính toán trước
việc nầy, dầu thắng hay bại, CS Hà Nội đều hưởng lợi (đã trình bày ở trên).
Khi quân đội MTDTGPMNVN bị tiêu diệt, cộng sản Hà Nội liền ào ạt gởi
quân vào Nam để tăng viện, điền trám chỗ trống, giữ vững quân đội du kích
cộng sản khỏi bị suy sụp. Từ đó, CS Bắc Việt hoàn toàn điều khiển
MTGPDTMNVN, và loại bỏ những thành phần miền Nam vốn không tuân
phục quyền lực Hà Nội trong MTDTGPMNVN. Ngoài ra, Hà Nội khá lợi thế
trên chính trường quốc tế trong việc thương lượng để tìm kiếm một giải pháp
chính trị cho chiến tranh Việt Nam.
Cuối cùng, dầu bên nào thành công, bên nào thất bại, thiệt thòi nhất
vẫn là dân chúng Việt Nam. Người Việt Nam ở cả Bắc lẫn Nam Việt Nam đã
mất mát nặng nề trong vụ Mậu Thân. "Nhất tướng công thành vạn cốt khô"
(một vị tướng thành công thì có cả hàng vạn người chết). Xin chú ý thêm
rằng Mậu Thân mới chỉ là một trận đánh, trong nhiều trận đánh của cuộc
chiến hoàn toàn phi nghĩa kéo dài trong 30 năm trên quê hương Việt Nam,
do Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra, khiến khoảng 3 triệu người đã bỏ
mạng.
Theo tin các báo, ngày 22/01/2008, tổng thống Đại Hàn Dân Quốc
(Nam Hàn hay Nam Triều Tiên) Roh Moo-hyun đã xin lỗi dân chúng Đại
Hàn vì cảnh sát và quân đội đã xử tử không thông qua xét xử 870 người ở
thành phố Ulsan trong tháng 7 và tháng 8, 1950 do dính líu đến hoạt động
của cộng sản trong thời gian đầu của chiến tranh Triều Tiên 1950-1953.
Trong khi đó, cũng theo tin các báo, từ ngày 18/06/2007 đến ngày
27/06/2007, Viện Nghiên cứu Vùng và Quốc tế của Đại học Princeton đã tổ
chức một cuộc hội thảo tại Hà Nội về đề tài "Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam: nguồn gốc, hệ lụy và hậu quả". Trong khóa hội thảo nầy, giáo sư
Nguyễn Đình Lê, tiến sĩ khoa Lịch sử, hiện giảng dạy tại Đai học Quốc gia
Hà Nội, đã chối tội cho chế độ Hà Nội bằng cách lập luận rằng vụ thảm sát
Tết Mậu Thân là do Mỹ ngụy tạo để đổ lỗi cho CSVN (?)
Cộng Sản Việt Nam đã không nhận lỗi mà còn cho một giáo sư chối
tội hết sức ấu trĩ, vì lối bào chữa của ông Nguyễn Đình Lê thật đúng là "Lấy
vải thưa che mắt thánh" (tục ngữ). Nếu quả thật quân nhân Mỹ phạm một
trọng tội như vậy, chắc chắn CSVN đã la làng từ 40 năm nay, chứ không
phải đợi đến bây giờ ông giáo sư đại học Hà Nội mới lên tiếng. Và nếu quả
thật quân đội Mỹ phạm trọng tội như vậy thì chẳng những CSVN la làng, mà
truyền thông Tây phương (báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, sách vở)
cũng đã làm rùm ben, khai thác triệt để, chắc chắn còn hơn cả vụ Mỹ Lai.
Ngoài ra, những nhân chứng người Việt hay người ngoại quốc về vụ Mậu
Thân hiện nay còn sống ở Huế hay ở khắp nơi trên thế giới. Những hình ảnh
rùng rợn về Tết Mậu Thân vẫn còn đó, hàng ngày xuất hiện trên báo chí hay
trên các website khắp toàn cầu.
Mới đây, ngày 01/02/2008, CSVN tổ chức các cuộc diễn hành của
lực lượng võ trang, kể cả cựu chiến binh tại Sài Gòn để ăn mừng "chiến
thắng" Mậu Thân, trong khi hàng vạn gia đình Việt Nam âm thầm tổ chức lễ
kỵ giỗ để tưởng nhớ thân nhân của mình đã từ trần trong vụ Mậu Thân..
"Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".
Vụ án Trần Thủ Độ giết con cháu nhà Lý năm 1232, dù tối đa chỉ
vài trăm người, đã trên bảy trăm năm, ngày nay sử sách vẫn còn nhắc nhở, và
sẽ mãi mãi nhắc nhở. Sự dã man của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội qua
biến cố Tết Mậu Thân, đậm nét không kém gì những vụ án dã man khác của
đảng Cộng Sản, chắc chắn không bao giờ phai mờ trong ký ức của người
Việt.
Xin hãy cùng nhau thắp nén hương lòng tưởng nhớ nạn nhân cộng
sản trong vụ Mậu Thân nói riêng và trong suốt cuộc chiến vừa qua trên đất
nước yêu quý của chúng ta.
______________________

1
Theo tài liệu Hoa Kỳ, nguyên chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ, trong
khi đi tuần tra, bị chiến hạm cộng sản tấn công hai lần vào hai ngày 2 và 4-8-
1964, trong hải phận quốc tế ở Vịnh Bắc Việt. Bắc Việt và Hoa Kỳ đổ lỗi
cho nhau đã gây hấn trước. Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra "Quyết nghị
vịnh Bắc Việt" (The Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964 hoàn toàn
ủng hộ tổng thống Lyndon B. Johnson (1908-1973) trong việc mở rộng chiến
tranh Việt Nam. Ngày 1-12-1964, tổng thống Johnson công bố kế hoạch dội
bom Bắc Việt. Như thế là không tuyên chiến, Hoa Kỳ đưa quân tham dự hẳn
vào chiến tranh Việt Nam chứ không còn chỉ giữ vai trò cố vấn cho Quân đội
VNCH như trước nữa.
2
Robin Edmonds, Soviet Foreign Policy, The Brezhnev Years, New
York: Nxb. Oxford University, 1983, tr. 45.
3
Đoàn Thêm, 1967 (việc từng ngày), Sài Gòn: Cơ sở xb. Phạm Quang
Khai, 1968, tr. 322.
4
Theo Nguyễn Đình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến
tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston: Nxb. Đại Học Đông Nam, 1995, tr.
122, thì cuối năm 1964, quân đội VNCH có 265,000 quân chính quy và 290,
000 địa phương quân. Theo Chính Đạo, Mậu Thân 68: thắng hay bại,
Houston: Nxb. Văn Hóa [tái bản lần thứ hai], 1998 (viết tắt: CĐ, MT, sđd.số
tr.), thì quân số VNCH tháng 9-1967 là 622,000 quân kể cả địa phương quân,
nghĩa quân (tr. 340).
5
Don Oberdorfer, Tet!, New York: Nxb. Da Capo, 1984, tr. 54. (Viết
tắt: Don Oberdorfer, sđd.tr.)
6
Sau nầy, một số nhân vật trong MTDTGPMNVN công khai tố cáo
âm mưu nầy của đảng LĐ, trong đó có bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một trí
thức miền Nam trong Mặt trận.(Chính Đạo, Mặt Thật, sđd. tr. 165.)
7
James J. Wirtz, The Tet Offensive, New York: Cornell University
Press, 1994, tr. 52.
8
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, Nam Việt-Nam, 1954-1975, những sự thật
chưa hề nhắc tới, Texas: 1990, tr. 77.
9
Ralph Smith, "Thập niên cuối cùng của cuộc đời Hồ Chí Minh", Lê
Đình Thông dịch, đăng trong tuyển tập nhiều tác giả, Hồ Chí Minh, sự thật
về thân thế và sự nghiệp, Paris: Nxb. Nam Á, 1990, tr. 125.
10
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, sđd. tt. 77-78.
11
Johm S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York:
Mallard Press, 1989, tr. 118.
12
Chính Đạo, MT. sđd. tt. 31-32, 344. Trước năm 1975, VNCH được
chia thành 4 vùng chiến thuật: Vùng 1 CT: từ Quảng Trị vào đến Quảng
Ngãi; Vùng 2 CT: từ Bình Định đến Bình Thuận và Cao nguyên từ Kontum
xuống tới Di Linh; Vùng 3 CT: từ Biên Hòa tới phiá Bắc sông Tiền; Vùng 4
CT: từ Mỹ Tho tới Cà Mau.
Cảnh Nguyên và Hồ Văn Sơn tuyển chọn, Thơ Hồ Chí Minh, Nxb.
13

Nghệ An, 1995, tr. 170.


14
Don Oberdorfer, sđd. tr. 230. Theo tài liệu của BNCLSĐ/H thì đây
là cờ của Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt
Nam (Chính Đạo Mậu Thân, sđd. tr. 126). Trong bài tham luận mới nhất
trình bày tại Huế ngày 15-12-2007, tác giả Nguyễn Đắc Xuân, theo tài liệu
cũ của đảng bộ Huế, cũng cho rằng đây là cờ Liên minh. [Không ai lạ gì việc
những người trong nước đều phải nói theo đảng CSVN.] Tuy nhiên, cần chú
ý rằng ngày 31-1, tức là ngày treo cờ, Liên minh nầy chưa được thành lập,
làm sao có cờ ? (xin xem thêm chú thích số 17.) Ở những nơi khác, Sài Gòn
hay bất cứ thành phố nào ở miền Nam, không ai thấy hay biết gì về lá cờ
Liên minh. Liên minh nầy chỉ là một mặt trận chính trị, giống như Mặt trận
Tổ Quốc của Hà Nội, không thể được quân đội cộng sản treo cờ lên. Dò hỏi
nhiều người sống trong thành nội Huế, chứng kiến tận mắt tại chỗ năm 1968,
họ đều xác nhận là thấy cờ của MTDTGPMNVN.
15
Dựa vào tài liệu của Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, Thành uỷ Huế
(BNCLSĐ/H), Huế, Xuân 1968, Huế 1988, do Chính Đạo trích dẫn, Mậu
Thân, sđd. tr. 108-110.
16
Bên hữu ngạn sông Hương (bờ nam), từ cầu Trường Tiền đi xuống,
phía tay mặt là đài Phát thanh, phía tay trái, cách khoảng trên 500 thước là
bến Hải quân (gần khách sạn Hương Giang). Đi thẳng từ cầu Trường Tiền về
An Cựu, dọc theo đường Duy Tân (trước 1975) phía bên trái, cách cầu
khoảng 500 thước là Tiểu khu Thừa Thiên và khách sạn Thuận Hóa, nơi
đóng trụ sở của MACV (Military Assistance Command, Vietnam = Bộ Chỉ
huy Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam).
17
Chính Đạo, MT. sđd. tr. 131. - Thụy Khê, "Nói chuyện với Hoàng
Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế", phỏng vấn trên đài RFI, 12-
7-1997, đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 36, tháng 8-9-1997, tt.
197-200.[Có một điểm cần phân biệt, Lê Văn Hảo làm chủ tịch Liên Minh
Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình tại Huế. Còn trên toàn miền
Nam, ban chấp hành Liên Minh nầy do cộng sản đưa ra ngày 10-4-1968 gồm
thành phần sau đây: Chủ tịch: Luật sư Trịnh Đình Thảo; Phó chủ tịch: Lâm
Văn Tết (Nam phần), hòa thượng Thích Đôn Hậu (Trung phần); Tổng thư
ký: giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ; Phó tổng thư ký: bác sĩ Dương Quỳnh Hoa,
Lê Hiếu Đằng; Uỷ viên: Nguyễn Văn Kiết, Huỳnh Văn Nghi, Thanh Nghị
(nhà soạn từ điển), Trần Triệu Luật (sinh viên).(Theo tài liệu CĐ, MT, sđd.
tr. 353)].
18
Thành Tín [Bùi Tín], Mặt thật, hồi ký chính trị, California: Nxb.
Saigon Press, 1993, tr. 184.
19
David T. Zabecki, "Hue, Battle of (1968)", đăng trong
Encyclopedia of the Vietnam War, a political, Social, and Military History,
California: Volume 1, Spencer C. Tucker chủ biên, 1998, tr. 304.
20
Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật lịch sử, Nxb. Xuân Thu,
California,1992, tr. 642. [Trong sách Thảm sát Mậu Thân ở Huế, tuyển tập -
tài liệu, Phong trào Giáo dân Việt Nam Hải ngoại (PTGDVNHN), California,
in lần thứ 2, 1999, tt. 85-86, 94-99, 135-136 thì: Hai linh mục Pháp là:
Urbain, 52 tuổi và Guy 48 tuổi bị bắt ở tu viện Thiên An và bị dẫn đi ngày
25-2; sau xác tìm được ở gần lăng Đồng Khánh. Bốn người Đức bị giết là:
bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, bác sĩ Raimund Discher, và bác sĩ Alois
Alterkoster. Ba bác sĩ Tây Đức nầy tình nguyện đến dạy tại Đại học Y khoa
Huế. Cả 4 người nầy đều bị bắt ngày 5-2-1968.]
21
PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Số liệu nầy rút ra từ sách The Vietcong
Massacre at Hue của bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press,
1976. Bác sĩ Elje Vannema, sinh năm 1932 tại Hòa Lan, nhập tịch Canada,
dạy Đại học Y khoa New York. Lúc xảy ra biến cố Mậu Thân, ông có mặt tại
Huế, và viết lại những điều tai nghe mắt thấy. (Thông tin của tác giả Phạm
Hồng Lam, gởi cho người viết bài nầy ngày 11-11-2000. Xin cảm ơn ông
Phạm Hồng Lam).
22
Stephen Hosmer, "Tổng tấn công Tết và Huế", đăng trong
PTGDVNHN, sđd. tr.217.[Không đề tên người dịch]. Phần nầy trích trong
sách của Stephen Hosmer, Vietcong Repression and its Implications for the
Future, Massachusetts: Nxb. Heath Lexington Books, 1970.
23
Nguyễn Thế, "Nhớ về Mậu Thân", đăng trong PTGDVNHN, sđd.
tr. 199. Theo Don Orberdorfer, con số nầy lên đến 400 người (DO, sđd.214).
24
PTGDVNHN, sđd. tt. 135, 143.
25
Alje Vannema, "Cố đô kinh hoàng", đăng trong PTGDVNHN, sđd.
tt. 124-142. Bài nầy trích dịch từ Alje Vannema, sđd. [Không đề tên người
dịch.]
26
Alje Vannema, "Cố đô kinh hoàng", đăng trong PTGDVNHN, sđd.
tt. 124-142. Bài nầy trích dịch từ Alje Vannema, sđd. [Không đề tên người
dịch.]
27
Iris Chang, The rape of Nanking, New York: Nxb. BasicBooks,
1997, tt. 100-103. Tác giả Iris Chang đưa ra nhiều số liệu khác nhau từ nhiều
nguồn tài liệu, và cho rằng con số tương đối là 300.000. (Iris Chang là một
ký giả Hoa Kỳ gốc Trung Hoa, sinh năm 1967, tốt nghiệp Đại học Illinois ở
Urbana.)
28
Stéphane Courtois và một số tác giả, Le livre noir du communisme:
Crimes, terreur, répression, Paris: Nxb. Robert Laffont, 1997, bản dịch Anh
ngữ của Jonathan Murphy và Mark Kramer, The Black Book of
Communism, Crimes, Terror, Repression, Massachusetts: Nxb. Harvard
University Press, in lần thứ nhì, 1999, tt. 368-369. Theo sách nầy: năm 1939,
Liên Xô bắt cầm tù khoảng từ 240.000 đến 250.000 tù binh quốc gia Ba Lan,
kể cả 10.000 sĩ quan. Liên Xô phân tán lực lượng trên đi làm đường hoặc lao
động nặng nhọc ở các công trường và nông trường xa, và giam giữ khoảng
gần 15.000 sĩ quan và cảnh sát Ba Lan tại các trại Starobielsk và Kozielsk
(giam sĩ quan) và Ostaszkow (giam cảnh sát). Số nầy bị giết như sau: 4.404
tù binh trại giam Kozielsk, đem đến bắn và chôn ở Katyn; 3.896 tù binh trại
giam Starobielsk bị giết sở tại chỉ huy mật vụ ở Kharkiv và chôn ở vùng
ngoại vi thành phố nầy tại Pyatishatki; 6.287 tù binh trại giam Ostaszkow bị
sát hại tại sở chỉ huy mật vụ Kalinin, và chôn ở khu Mednoe của thành phố
nầy.
29
Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, California: Nxb. Văn
Nghệ, tái bản năm 1996, tr. 150.
30
PTGDVNHN, sđd. tr. 205 (tin của Washington Post, ngày 9-3-
1968), và tt. 250-254 (bài "Crescendo of Terror – Hue" của M. W. J. M.
Broekmeijer.)
31
Sau đây là một cảnh tùng xẻo người của Việt Cộng: "Thiếu tá Từ
Tôn Kháng, Tỉnh đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn Thừa Thiên, nhà ở 176
Bạch Đằng (gần cầu Đông Ba) Huế, trốn trong nhà đã ba bốn ngày. VC [Việt
Cộng] vào nhà bắt vợ con ra đứng giữa sân và tuyên bố nếu ông Kháng
không ra trình diện thì sẽ tàn sát cả nhà. Vì thế ông phải ra nộp mạng. VC đã
trói tay ông, cột ông vào cọc giữa sân, xẻo tai, cắt mũi, tra tấn cho đến chết,
thật là dã man kinh hoàng." (Nguyễn Lý Tưởng, "Mậu Thân ở Huế",
PTGDVNHN, sđd. tr. 89.)
32
Theo tác giả Nguyễn Lý Tưởng, lúc đó là dân biểu và có mặt ở
Huế, thì thượng nghị sĩ Trần Điền, chủ tịch Uỷ ban Canh nông Thượng viện
VNCH, một trong những nhà lãnh đạo Hướng đạo Việt Nam, bị bắt và bị
chôn sống (bài đã dẫn, sđd., tr. 89). Theo ông Võ Ngọc Tụng, quận trưởng và
chi khu trưởng quận Phú Thứ sau năm 1968, người trực tiếp trông coi vụ cải
táng tại Phú Thứ, cho biết: khi lo cải táng nạn nhân Mậu Thân, người ta đã
tìm thấy một hố 4 xác bị chôn sống của hai linh mục và hai thầy đại chủng
viện (Võ Ngọc Tụng, "Cải táng đồng bào bị thảm sát", PTGDHNVM, sđd. tr.
195.) Theo ước tính cuả M. W. J. M. Broekmeijer trong bài "Crescendo of
Terror – Hue", sđd. tr. 252, thì số bị chôn sống lên đến khoảng 600 người.
33
*Phạm Văn Sơn (chủ biên), sđd. tr. 35.− Don Oberdorfer, sđd. trang
đầu sách: "Tặng những người đã hy sinh (từ 29-1 đến 31-3-1968)", không
ghi số trang.
34
Douglas Pike, The Vietcong Strategy of Terror [Chiến lược khủng
bố của Việt Cộng], bản trích dịch của điện báo Mặt Trận Quốc Gia,
http://www.nufronliv.org/tailieu/tet68/mauthan3.htm
35
David T. Zabecki, "Huê, Battle of (1968)", bđd., sđd. tr. 304.
36
Stéphane Courtois và một số tác giả, sđđ. tr. 572.
37
Don Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: "We had nothing to do
with it. The [National Liberation] Front put it on."
38
Thành Tín [Bùi Tín], sđd. tt. 185-186.
39
Sau biến cố năm 1945, trên toàn cõi Việt Nam, rất nhiều người bị
thủ tiêu. Sau đây là ví dụ vài nhân vật có tiếng: ở Bắc: Nguyễn Thế Nghiệp,
Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải, Trương Tử Anh, Khái Hưng...; ở Trung:
Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, Tạ Thu Thâu...; ở nam: Phan
Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ
... Tổng số người bị thủ tiêu trong thời gian nầy trên toàn cõi Việt Nam từ
thượng tầng đến hạ tầng ở thôn xã lên đến khoảng vài trăm ngàn người.
40
Trong "Bạch thư Cao Đài giáo", viết bằng hai thứ tiếng Việt và
Anh, do vị đại diện đạo Cao Đài là Ngọc Sách Thanh đưa ra ngày 9-4-1999
tại San Bernardino, California, gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và
Uỷ ban Quốc tế Nhân quyền, thì chỉ trong ba tuần lễ kể từ 19-8-1945, tại
Quảng Ngãi, VM cộng sản đã giết bằng nhiều cách 2.791 người, vừa chức
sắc, chức việc, vừa tín hữu Cao Đài giáo, kể cả phụ nữ và trẻ em," như chém
đầu, chôn sống, thả biển, và cả hình thức "tùng xẻo" thời trung cổ." [nguyên
văn]
41
Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử
dân tộc, California: Nxb. Đuốc Từ Bi, 1991, tr. 359.
42
Theo tài liệu của Nguyễn Long Thành Nam trong sách đã dẫn và
của Huỳnh Tâm, Cao Đài dưới chế độ cộng sản Việt Nam, Paris: Ban Đạo
Sử Đạo Cao Đài, 1994.
43
Ngày nay, ai cũng thấy rõ ràng: Đông Đức và Tây Đức thống nhất
không đổ máu; Bắc Hàn và Nam Hàn hiện bắt tay bàn chuyện giúp đỡ và
thống nhất; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Đài Loan tuy tranh chấp về
chính trị và quân sự nhưng vẫn giữ nguyên tình trạng cũ.
44
Yves Gras [tướng lãnh Pháp], "L'autre armée Vietnamienne,
L'engagement des Vietnamiens dans la guerre d'Indochine (1945-1975)",
đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một nhóm tác giả,
Académie des Sciences d'Outre-Mer [Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại],
Institut de l'Asie du sud-est [Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á] và Association
nationale des anciens d'Indochine [Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến Binh
Đông Dương] đồng xuất bản, Paris, 1985, tr. 279. Nguyên bản Pháp văn câu
nầy là: "L'armée sud-vietnamienne joue un rôle capital dans les combats qui
brisent l'offensive nordiste du Têt Mau Than en février 1968..."
45
Tường trình của tướng Earle G. Wheeler (1908-1975) được tướng
Yves Gras (người Pháp) trích dẫn trong bài viết của Yves Gras đã trích dẫn ở
trên. Nguyên bản Pháp văn Yves Gras dịch của Wheeler: "Les forces armées
de la République du Vietnam ont résisté à l'assaut initial avec une force
surprenante."
46
Peter Macdonald, Giap, the Victor in Vietnam, New York: W.W.
Norton & Company, 1993, p. 268. Nguyễn Đức Cung trích dẫn, "Từ ấp chiến
lược đến biến cố Tết Mậu Thân", tập san Định Hướng, Paris: số 51, Mùa
Xuân 2008.

You might also like