Professional Documents
Culture Documents
Giới thiệu
Chùa Thiên Mụ (còn gọi là Linh Mụ) tọa lạc trên đồi Hà Khê thuộc làng An Ninh Thượng,
phường Kim Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên -Huế. Theo các sử liệu, từ giữa thế kỷ
XVI đã có chùa, nhưng Thiên Mụ chỉ thực sự trở thành một ngôi chùa lớn từ khi chúa
Nguyễn Hoàng cho xây dựng lại vào năm Tân Sửu (1601). Từ đây chùa trở thành quốc tự
của xứ Đàng Trong gắn liền cùng huyền thoại bà Tiên báo mộng để chân chúa dựng chùa
“bồi tụ linh khí, củng cố long mạch” cho vùng đất đế đô. Trong suốt mấy trăm năm sau đó,
chùa Thiên Mụ được các chúa và vua nhà Nguyễn rất quan tâm và thường xuyên tu bổ, mở
rộng quy mô, tiến cúng bảo vật khiến chùa ngày càng trở nên tráng lệ hơn.
Cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn đã mời một số cao tăng từ
Trung Quốc cùng những danh tăng từ các xứ về giảng kinh và làm trụ trì khiến cho chùa
Thiên Mụ ngày càng thêm nổi tiếng. Vẻ đẹp ngôi chùa được tôn thêm nhờ cảnh sắc trời
nước nơi tọa lạc cùng những công trình nguy nga mang phong cách kiến trúc cung đình.
Sau lần đại trùng tu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 -1725), trong khuôn viên chùa
đã có điện Thiên vương, điện Ngọc Hoàng, điện Đại Hùng, nhà Thuyết pháp, lầu Tàng kinh,
điện Thập Vương, điện Đại Bi, điện Dược Sư, lầu Chuông, lầu Trống, nhà Vân Thủy, nhà
Trai, nhà Thiền, nhà Phương Trượng, vườn Côn Da… Một số bảo vật còn tồn tại đến nay
như Đại Hồng Chung (đúc năm 1710), tấm bia và rùa đội bia đá (1714) đều của thời kỳ này.
Nhưng những năm tháng chiến tranh liên miên hồi cuối thế kỷ XVIII đã tiêu hủy hầu hết các
công trình kiến trúc. Chỉ đến năm 1815, vua Gia Long mới cho xây dựng chùa Thiên Mụ với
gần như đầy đủ các kiến trúc vốn có: điện Đại Hùng, điện Di Lặc, điện Quan Âm, điện Thập
Vương, hai nhà Lôi Gia, lầu Chuông, lầu Trống, Tam Quan, các nhà lục giác bao che các
bảo vật Đại Hồng Chung, tấm bia đá có rùa đội bia… Các vua tiếp nối như Minh Mạng,
Thiệu Trị, Khải Định,.. đều tu bổ, tôn tạo thêm cho chùa. Hai công trình nổi tiếng là tháp
Phước Duyên và đình Hương Nguyện đều được xây cất trong thời vua Thiệu Trị (1841 -
1847). Tháp Phước Duyên còn hiện hữu, đình Hương Nguyện đã bị sụp đổ trong trận bão
lớn năm Thìn (1904), sau được dời ra dựng lại trên nền điện Di Lặc.
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, chính quyền phong kiến suy yếu không còn đủ
sức cai quản chùa. Những năm tháng chiến tranh liên miên tiếp theo khiến chùa càng thêm
hư hại. Vào những năm 1957 - 1959, hòa thượng Thích Đôn Hậu đã tiến hành trùng tu lớn.
Tuy nhiên do điều kiện kinh tế - xã hội lúc ấy rất hạn chế nên nhiều công trình không phục
hồi được như cũ. Đặc biệt, điện Đại Hùng - công trình chính của chùa, đã phải dùng bê tông
cốt thép và gạch đá thay cho bộ khung kết cấu gỗ, khiến chùa mất đi một phần giá trị vốn
có. Khi Hòa thượng Đôn Hậu viên tịch vào năm 1992, một ngôi tháp bảy tầng đã được dựng
lên tại phần sau khuôn viên để làm nơi an táng của Ngài. Hoàn cảnh khó khăn còn kéo dài
cho đến trước ngày Dự án được thực hiện, khiến cho một danh thắng nổi tiếng không thể
hiện được tầm vóc tương xứng mà nó đã từng có trong lịch sử.
Qua 400 năm tồn tại, chùa Thiên Mụ, tháp Phước Duyên đã trở thành biểu tượng của
vùng đất cố đô, là hình bóng của quê hương xứ Huế như sông Hương, núi Ngự.
Chùa Thiên Mụ đã từng được vua Thiệu Trị xếp vào một trong “Thần kinh nhị thập cảnh”
(20 thắng cảnh của Kinh đô Huế), cũng là một di tích kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và giàu
giá trị lich sử. Ngày nay di tích này đang thu hút đông đảo du khách từ thập phương tới
chiêm ngưỡng và tìm hiểu chùa, thu hút đông đảo tăng ni phật tử đến lễ bái, học đạo. Ngày
11 tháng 12 năm 1993, cùng với các di tích kiến trúc cung đình khác của Huế, chùa Thiên
Mụ đã được ghi tên vào Danh mục Di sản Thế giới của UNESCO. Ngày 27 tháng 8 năm
1996, chùa lại được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia. Điều đó một lần nữa
khẳng định giá trị vốn có cũng như sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích chùa Thiên Mụ. Cũng từ đây, một dự
án lớn được khởi động nhằm trùng tu, tôn tạo một công trình mang tầm cỡ quốc gia và quốc
tế này.
Năm 2000, Bộ Văn hóa Thông tin có quyết định số 1503/QĐ - BVHTT chỉ định Viện
KHCN Xây dựng là đơn vị lập dự án, thiết kế đầu tư tu bổ di tích chùa Thiên Mụ thuộc Quần
thể di tích Cố đô Huế. Dự án đã được Bộ phê duyệt năm 2001 với tổng kinh phí
14.898.000.000 đồng. Sau đó, vào năm 2003, Bộ Văn hóa Thông tin có quyết định số
1890/QĐ - BVHTT chỉ định đơn vị thi công là Liên danh Viện KHCN Xây dựng - Chi nhánh
Công ty Mỹ thuật Trung ương tại thành phố Huế thực hiện gói thầu xây lắp, Viện Khoa học
Lâm nghiệp Việt Nam thực hiện gói thầu phòng chống mối mọt và bảo quản gỗ.
Các đơn vị thi công đã nhanh chóng triển khai dự án, đơn vị tư vấn khẩn trương giải
quyết các vấn đề kỹ thuật nảy sinh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số
thay đổi về thiết kế, đặc biệt là kiến nghị từ phía chùa xin phục hồi điện Đại Hùng bằng vật
liệu gỗ truyền thống. Đáp ứng nguyện vọng của tăng ni phật tử cả nước, thể theo đề nghị
của các cơ quan quản lý ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Chính phủ nước Việt Nam với đại diện là
Bộ Văn hóa Thông tin đã nhanh chóng phê duyệt bổ sung điều chỉnh Dự án tu bổ bảo tồn và
tôn tạo tổng thể chùa Thiên Mụ.
Các đơn vị thi công, Ban quản lý dự án đã khắc phục mọi khó khăn về kỹ thuật, thời tiết
và vốn để triển khai công trình. Với sự quan tâm giúp đỡ của Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch (Bộ Văn hóa Thông tin trước đây), Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế, chủ
đầu tư và với sự hợp tác của chùa Thiên Mụ, công trình đã hoàn thành tốt đẹp vào tháng
12/2007. Các hạng mục đã đáp ứng được các yêu cầu của Dự án và các bên quan tâm.
Công nghệ trùng tu, bảo tồn truyền thống phù hợp với điều kiện khí hậu miền Trung, đặt
biệt là khu vực Thừa Thiên – Huế, đã được áp dụng một cách tối đa, kết hợp với các công
nghệ thích ứng hiện đại do Viện KHCN Xây dựng nghiên cứu và phát triển được trong nhiều
năm qua để bảo tồn tối đa các giá trị gốc, giá trị chân xác mà ngôi chùa vốn có trong lịch sử
tồn tại của mình.
Điện Đại Hùng
Toàn bộ điện được tu bổ, loại bỏ nền xi măng và lát lại nền gạch gốm, làm lại mái, gia cố
căn chỉnh móng. Riêng chính điện được phục chế bằng gỗ kiền kiền thay cho kết cấu bê
tông cốt thép. Các viên ngói liệt cũ được sử dụng lại trên công trình cùng với ngói mới.
Thực hiện công tác phòng mối mọt, gia cường chống gió bão, làm hệ thống chống sét và
chiếu sáng bên trong, làm lớp ngăn ẩm nền... Loại bỏ các lớp sơn công nghiệp và phục hồi
các lớp sơn truyền thống. Toàn bộ các bích họa trên cổ diềm được bảo tồn (hạ giải từng
đoạn tường có tranh, bảo quản giữ màu, chống mốc và lắp dựng trở lại). Phục hồi màu sắc
và các trang trí như nguyên gốc.
Điện Địa Tạng, điện Quan Âm
Nằm sau điện Đại Hùng, vốn là điện Di Lặc, nhưng bị đã sập năm 1904. Trên nền cũ đã
dựng lại đình Hương Nguyện (dời từ phía trước về sau khi bị bão làm đổ). Toàn bộ công
trình được tu bổ bảo tồn từ móng đến mái; trang bị hệ thống điện, bảo quản chống mối...
Đặc biệt tại đây có các bài thơ chạm thếp vàng trên hệ thống liên ba. Trong lần trùng tu
1957 - 1959, một số liên ba đã bị lắp sai vị trí. Với sự nghiên cứu công phu, Phòng Nghiên
cứu Khoa học & Hướng dẫn của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phát hiện ra các
sai sót trên và hướng dẫn đơn vị thi công điều chỉnh.
Điện Quan Âm ở sau điện Địa Tạng cũng được tu bổ toàn diện như điện Địa Tạng.
Tháp Phước Duyên
Tòa tháp hình bát giác 7 tầng, cao trên 23m, xây bằng gạch vồ, vữa vôi. Toàn tháp có
các vòng sắt lẩn trong vữa đỡ các vòm trần và các ô cửa sổ. Bên ngoài có các lan can
giả bằng gạch hoa men lưu ly ốp tường; nóc tháp có Hồ lô và trên các mái có các con
giao bằng pháp lam. Đến thời điểm tu bổ tháp đã bị hư hại nặng: mái nứt gây thấm dột,
các thanh sắt đỡ vòm nứt mục làm thành hệ thống nứt lớn trong khối xây, nhiều vết nứt
xuyên tường, nước mưa thấm vào làm mục gạch, vữa. Gạch hoa mất nhiều bộ phận, đã
bị sửa chữa không đúng nguyên gốc. Toàn bộ tháp đã được vệ sinh khoa học để loại bỏ
rêu mốc, được hoàn trả màu sắc hài hòa bằng cách chấm màu, bảo quản chống ẩm
tường. Hệ thống khe nứt được bơm keo và vữa để toàn khối hóa. Các thanh sắt được
chống rỉ; 178 thanh (chiều dài trung bình 1,0-2,5m) được thay bằng thép không rỉ. Đã tìm
lại quy luật phân bố gạch men hoa văn và phục hồi hệ thống lan can giả. Chống thấp mái
tháp, phục hồi Hồ lô và các con giao pháp lam, bố trí hệ chống sét.
Sân đường
Hệ thống sân đường của chùa vốn lát bằng gạch Bát Tràng đã xuống cấp. Phục hồi
bằng gạch Bát Tràng, vữa vôi truyền thống. Bố trí thêm hệ thống thoát nước dọc tuyến đi và
quanh sân.
Hai nhà Lôi gia
Hai nhà ở vào phía sau tường ngang phía trước, là nơi thờ các vị Hộ Pháp. Các cấu kiện
gỗ được tu bổ, thay nền xi măng bằng gạch Bát Tràng, phục hồi vữa trát và màu tường,
phục hồi mái ngói liệt, phục hồi sơn truyền thống, lắp điện chiếu sáng, lát hè.
Lầu Chuông, lấu Trống
Đây là 2 công trình nằm hai bên cổng Tam Quan, dùng để đặt chuông và trống. Chuông
là bảo vật có từ thời Gia Long. Đã phục hồi kết cấu mái, màu tường, nền gạch bát, giá
chuông, giá trống, lắp điện chiếu sáng.
Tam Quan
Là cổng chính, cấu trúc hai tầng tám mái, tường gạch, sàn và dàn trò bằng gỗ; có 3 lối
đi, mỗi lối có cửa ván 2 cánh bằng gỗ được bó bằng đai và đinh đồng; hai bên các lối đi có
tượng Hộ Pháp trấn giữ. Nguyên xưa có các hình vẽ trang trí trên tường, mái. Trong quá
trình tu bổ đã tiến hành bóc tách các lớp vôi màu (5 - 7 lớp) và phát hiện ra bên dưới các
lớp vôi có hình vẽ trang trí. Nguyên do vào đợt trùng tu 1957-1959, để bảo đảm tính Phật
giáo thuần túy trong chùa, thoát ly ảnh hưởng của Nho giáo, nhà chùa đã quét vôi phủ lên
tranh và yêu cầu giữ gìn nguyên tắc tu hành cho chùa (tức là không bộc lộ các bức tranh).
Để tu bổ bảo tồn các bức họa đồng thời đáp ứng yêu cầu tăng ni phật tử, đơn vị tư vấn đã
nhanh chóng nghiên cứu quy trình kỹ thuật thực hiện yêu cầu đó. Đã thận trọng bóc tách
các lớp vôi để bộc lộ tranh vẽ; tu bổ tranh theo kỹ thuật phục chế, dùng hóa chất bảo quản
chống dính và giữ màu; sau đó bồi giấy bản và trên đó mới dùng vôi màu.
Lầu Lục giác, Tứ giác phía trước
Là các công trình che các văn vật gốc: các bia đá khắc bi ký của vua Thiệu Trị, bia đá và
rùa đội bia đá thời chúa Nguyễn Phúc Chu, Đại Hồng Chung cùng thời. Các công trình này
đều kết cấu gạch đá, trên nhà Lục Giác phía Đông còn một số họa tiết trang trí và bức họa
cổ diêm. Đã thực hiện căn chỉnh cân đối bia đá, phục hồi nền đá, chống nứt cho tường,
phục hồi màu sắc, hoa văn một cách hài hòa bằng thủ pháp chấm màu đa sắc.
Trụ biểu, lan can và hoa văn
Bốn trụ hoa biểu phía trước là kết cấu gạch, có gắn gạch hoa văn men, khảm chữ mảnh
sứ cổ. Các đoạn lan can (hai đoạn dài bên trên, hai đoạn ngắn bên dưới) bằng gạch hoa
tráng men đã bị mất nhiều, sửa chữa sai từ trước, các chân là tường kè bằng đá hộc. Trong
quá trình tu bổ đã thực hiện gia cố chân tường (xây phục hồi, bơm vữa), tìm quy luật phân
bố gạch hoa, phục hồi các đoạn lan can đã mất, căn chỉnh cân bằng các đoạn bị nghiêng
lún. Đối với các trụ biểu: vệ sinh rêu mốc, trám vá các vùng vữa bong rụng, gắn vá các chữ
bằng gốm cổ, phục hồi màu sắc và các viên gạch hoa văn ốp trang trí, bảo quản chống
mốc.
Các cổng phụ
Chùa có 5 cổng phụ: 2 cổng phía trước (hai bên Tam Quan), 1 cổng ở bên hông hướng
Tây, 2 cổng ở tường phía đông. Các cổng xây bằng gạch, cánh bằng gỗ ván ghép. Cổng đều
bị nứt xuyên đỉnh, bong vữa, rơi rụng gạch hoa trang trí, nhiều chỗ sứt vỡ, mất gạch. Riêng
cổng phía Tây mặt trước bị nứt đôi, một nửa ngoài phía đường đã nghiêng do lún nền (xây đá
hộc).
Đã tiến hành gia cường kết cấu chống nứt (cài neo thép, bơm vữa nở gia cố móng đá,
thân cổng), xây vá phục hồi, trám và chỗ vữa bong rụng, phục hồi màu hài hòa cũ – mới bằng
biện pháp chấm màu đa sắc, gắn lại các viên gạch hoa văn men, làm lại các cánh cổng…
Chùa Thiên Mụ trong lễ khánh thành (12/2007)