« Home « Kết quả tìm kiếm

Phát triển mạng lưới đại lý tại công ty bảo hiểm nhân thọ Nam Định


Tóm tắt Xem thử

- LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ NAM ĐỊNH HOÀNG QUANG HƯNG Người hướng dẫn Luận văn: ĐẶNG VŨ TÙNG Hà Nội, 2010 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1 Tổng quan về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ 1 1.1.1 Rủi ro và các phương pháp quản lý rủi ro.
- 1 1.1.2 Khái niệm, sự ra đời và phát triển của bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ.
- 4 1.2 Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ.
- 7 1.2.1 Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
- 7 1.2.2 Vai trò của bảo hiểm nhân thọ.
- 8 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm nhân thọ.
- 15 1.3.6 Chính sách bảo hiểm xã hội và các chương trình phúc lợi của chính phủ….
- 16 1.4 Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
- 16 1.4.1 Số lượng hợp đồng bảo hiểm.
- 16 1.4.2 Số tiền bảo hiểm.
- 17 1.4.3 Phí bảo hiểm.
- 17 1.4.4 Trả tiền bảo hiểm.
- 18 1.4.5 Số lượng đại lý bảo hiểm.
- 34 2.2.2 Bán bảo hiểm qua ngân hàng.
- 35 2.2.3 Các công ty bảo hiểm khác.
- 37 2.4 Chức năng của các đại lý bảo hiểm.
- 48 3.3 Kết quả kinh doanh sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ.
- 62 1 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1 Tổng quan về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ 1.1.1 Rủi ro và các phương pháp quản lý rủi ro.
- Có nhiều quan điểm về rủi ro đã được đưa ra như là.
- Liên quan đến bảo hiểm, rủi ro thường được xếp thành những cặp sau.
- Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt.
- Rủi ro cơ bản không được bảo hiểm.
- Rủi ro đầu cơ và rủi ro thuần tuý.
- Rủi ro đầu cơ (speculative risk): “Triển vọng không chắc chắn về lãi hoặc lỗ tài chính.
- Việc đầu tư kinh doanh có thể đem lại lãi hoặc bị lỗ như việc mua Deleted: ngời Deleted: hay nó 2 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 cổ phiếu là một rủi ro về đầu cơ.
- Trong hầu hết các trường hợp rủi ro đầu cơ không được bảo hiểm”[12.
- Rủi ro thuần túy (Pure risk.
- Rủi ro về con người.
- Rủi ro về tài sản.
- xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro.
- tìm kiếm, lựa chọn các phương pháp, công cụ ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục hậu quả rủi ro.
- Trong trường hợp chủ thể là một doanh nghiệp, phải xuất phát từ các đặc điểm của doanh nghiệp như là: công nghệ, loại hình kinh doanh, nguồn nhân lực, vị trí địa lý, cơ chế quản lý, tài sản, tiền vốn, môi trường kinh doanh...Trong phạm vi lý thuyết bảo hiểm cơ bản, nội dung về quản lý rủi ro chỉ có thể dừng ở những vấn đề khái quát chung và liên quan trực tiếp đến bảo hiểm, đó là phương pháp phòng tránh, giảm thiểu và khắc phục hậu quả của rủi ro.
- Phương pháp phòng tránh, giảm thiểu và khắc phục hậu quả rủi ro được phát kiến, xây dựng trên cơ sở đánh giá rủi ro.
- ngược lại những rủi ro có tần số nhỏ thường gây ra hậu quả nghiêm trọng (động đất, núi lửa hiếm xảy ra hơn, nhưng gây ra những thiệt hại rất lớn về tài sản và con người).
- Điều này rất có ý nghĩa cho việc lựa chọn phương pháp phòng tránh, giảm thiểu và khắc phục hậu quả rủi ro.
- Các biện pháp phòng tránh, giảm thiểu và khắc phục hậu quả rủi ro cụ thể mà các cá 3 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 nhân, tổ chức và cộng đồng xã hội đã áp dụng khá đa dạng.
- Né tránh rủi ro.
- Phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro.
- Phòng tránh trên cơ sở nghiên cứu, thống kê rủi ro một cách có hệ thống là phương pháp có tính tích cực.
- thiếu hiểu biết về quản lý rủi ro.
- Rủi ro hoàn toàn có thể xảy ra cho một cá nhân, một gia đình trước khi họ tiết kiệm được đủ lượng vốn cần thiết để khắc phục hậu quả.
- Chuyển giao rủi ro Sử dụng phương pháp này, hậu quả tài chính của rủi ro xảy ra cho cá nhân, tổ chức được chuyển cho các cá nhân, tổ chức khác cùng gánh chịu.
- ở các lĩnh vực khác nhau có những phương thức chuyển giao rủi ro khác nhau.
- Chuyển giao rủi ro trên cơ sở phân tán, tương hỗ, số lớn bù số ít đã được vận dụng trong nhiều hoạt động, tổ chức mà điển hình là cứu trợ và bảo hiểm.
- Tuy nhiên, đáng kể nhất vẫn là chuyển giao rủi ro được thực hiện bởi các tổ chức chuyên nghiệp hoá việc chuyển giao rủi ro.
- ở Việt nam hiện nay, đó là: các tổ chức kinh doanh bảo hiểm, hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm tiền gửi.
- 1.1.2 Khái niệm, sự ra đời và phát triển của bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ 1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ Nghiên cứu kho tàng lý luận về bảo hiểm sẽ dễ dàng nhận thấy đã có nhiều tác giả đưa ra những định nghĩa khác nhau về bảo hiểm.
- Dr.David Bland - Insurance Principles and Practice : “Bảo hiểm là một hợp đồng theo đó một bên, (gọi là công ty bảo hiểm) bằng việc thu một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm), cam kết thanh toán cho bên kia (gọi là người được bảo hiểm), một khoản tiền hoặc hiện vật tương đương với khoản tiền đó, khi xảy ra một sự cố đi ngược lại quyền lợi của người được bảo hiểm”[6] 5 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 □ Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê 2001: “Bảo hiểm (Insurance) là cơ chế chuyển giao theo hợp đồng gánh chịu hậu quả một số rủi ro thuần túy bằng cách chia sẻ rủi ro cho nhiều người cùng gánh chịu”[12] Sự khác nhau trong các quan niệm là xuất phát từ việc nhìn nhận bảo hiểm ở các góc độ và cách thức tiếp cận khác nhau.
- Bảo hiểm là một lĩnh vực rộng và phức tạp hàm chứa yếu tố kinh doanh, pháp lý và kỹ thuật nghiệp vụ đặc trưng nên rất khó tìm ra được một định nghĩa hoàn hảo thể hiện được tất cả những khía cạnh đó.
- Trên phương diện lý thuyết cơ bản, bảo hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Còn về bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều quan điểm khác nhau như sau: “Bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm mà rủi ro liên quan đến mạng sống người được Bảo hiểm”.[6] Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, “Bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”[4] “Bảo hiểm nhân thọ là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởng- thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức.
- Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bảo hiểm bổ xung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ hưởng .
- Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản thu nhập Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ.
- Những tài liệu khảo cứu về lịch sử nền văn minh thế giới đã ghi nhận những dấu ấn phôi thai của hoạt động cộng đồng hóa rủi ro - nguyên tắc căn bản của bảo hiểm ngày nay.
- Thực chất đó đã là một sự kết hợp giữa hoạt động tín dụng với ý đồ bảo hiểm và do đặc trưng bằng cơ chế lãi suất cao đi đôi với chấp nhận rủi ro nên được mệnh danh là "cho vay mạo hiểm lớn".
- Lãi suất cao có thể hiểu như tiền thân của phí bảo hiểm.
- Trước sự đòi hỏi đó, đã hình thành một hệ thống bảo đảm mới - bảo hiểm hàng hải: các nhà buôn chấp nhận một khoản tiền ấn định trước, để nhận được đảm bảo giá trị tàu thuyền và hàng hóa chuyên chở trong trường hợp tổn thất.
- Những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên được gắn liền với hoạt động thương mại và vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 14.
- Bút tích của bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy được ký kết tại Gênes năm 1347.
- Sự ra đời của các quỹ bảo hiểm nhân thọ xuất hiện cùng thời với các hình thức bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hải.
- Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới 7 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 hiện còn lưu giữ được là hợp đồng bảo hiểm cho ông William Gybbon năm 1583 tại London.
- Tuy nhiên bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng bị cấm hoạt động ở châu Âu bởi các thế lực chính trị vànhà thờ thiên chúa giáo cho đến tận thế kỷ thứ 18.
- Các thế lực chính trị khi ấy cho rằng bảo hiểm nhân thọ “đẩy con người nhanh đến cái chết”, là “những hoạt động chống lại thuần phong mỹ tục” và bảo hiểm nhân thọ bị pháp luật nghiêm cấm.
- Các nhà thờ thiên chúa giáo cũng kịch liệt lên án việc bảo hiểm cuộc sống con người vì họ cho rằng cuộc sống con người là do Chúa tạo ra và chỉ thuộc về Chúa.
- Đây chính là cơ sở khoa học để thực hiện hoạt động bảo hiểm nhân thọ.
- Đến nay, các loại hình bảo hiểm đã phát triển hết sức đa dạng, hoạt động bảo hiểm thâm nhập vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và cuộc sống thường nhật của các tầng lớp dân cư, bảo hiểm đã và đang dần khẳng định vị thế tất yếu trong cơ cấu nền kinh tế - xã hội của các quốc gia, có thể thấy rõ điều đó khi điểm qua một số nét tiêu biểu trong sự phát triển da dạng của ngành bảo hiểm trên phạm vi toàn cầu.
- 1.2 Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ 1.2.1 Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
- Đặc điểm bảo hiểm nhân thọ.
- Hầu hết các hình thức bảo hiểm nhân thọ ( trừ bảo hiểm tử kỳ ) là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, có thể chia lãi hoặc không chia lãi.
- Việc chi trả quyền lợi bảo hiểm của các hình thức bảo hiểm nhân thọ kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm chắc chắn sảy ra.
- Do trong bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho cả hai sự kiện trái ngược nhau là sống đến hết thời hạn bảo hiểm hoặc tử vong trong thời hạn bảo hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức bảo hiểm dài hạn.
- Khác với bảo hiểm phi nhân thọ, thời hạn bảo hiểm thường là 1 năm hoặc ngắn hơn, thời hạn bảo hiểm của các loại hình bảo hiểm nhân thọ thường kéo dài, có thể hàng chục năm hay thậm chí trọn đời như loại hình bảo hiểm trọn đời bảo (thời hạn bảo hiểm đến lúc tử vong).
- 8 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 Điều này làm cho việc quản lý trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ trở nên phức tạp và khó khăn.
- Việc tính phí bảo hiểm nhân thọ rất phức tạp.
- Do hầu hết các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn nên khi định phí bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán một cách chính xác tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật và cân nhắc đến các yếu tố tác động đến nền kinh tế như lạm phát, suy thoái,… để vừa đảm bảo tính hấp dẫn của sản phẩm vừa đảm bảo tính ổn định trong kinh doanh.
- Đặc điểm sản phẩm bảo hiểm nhân thọ: Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ vô cùng đa dạng và phong phú mỗi loại sản phẩm có những đặc điểm riêng nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm chung rất rõ nét đó là.
- Trong cùng một sản phẩm có thể bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau đó là sống hoặc tử vong.
- Khác với các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ bảo hiểm cho sự kiện rủi ro, trong bảo hiểm nhân thọ sự kiện được bảo hiểm có thể là rủi ro hoặc một sự kiện nào đó liên quan đến cuộc sống của người được bảo hiểm.
- Đặc biệt hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường được ký kết để bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau là sống hoặc tử vong của người được bảo hiểm.
- Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính đa mục đích, phục vụ cho nhiều nhu cầu khác nhau của người tham gia bảo hiểm.
- Người tham gia bảo hiểm có thể sử dụng bảo hiểm nhân thọ cho kế hoạch tài chính trong gia đình như lập quỹ giáo dục cho con cái, trang trải các khoản chi tiêu cuối cùng, tạo dựng quỹ đầu tư trong tương lai, hoặc có thể tham gia bảo hiểm nhân thọ để giảm bớt gánh nặng cho con cái, hỗ trợ thêm cho các khoản phúc lợi xã hội được nhận,v.v Ngoài các tính chất riêng đặc thù thì sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng mang đầy đủ các tính chất của sản phẩm bảo hiểm nói chung.
- 1.2.2 Vai trò của bảo hiểm nhân thọ a.Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với nền kinh tế, xã hội Các doanh nghiệp, tổ chức bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của bất cứ nền kinh tế quốc dân nào, đặc biệt là trong các nền kinh tế đã và đang phát triển.
- Điều này thể hiện ở chỗ: 9 Hoàng Quang Hưng Luận văn cao học QTKD 2010 - Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ huy động và cung cấp vốn đầu tư cho nền kinh tế: Có thể nói rằng các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là các nhàđầu tư lớn cung cấp nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Với tính chất kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ngoài chức năng bảo hiểm họ còn có thể huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức để hình thành nên nguồn quỹ đầu tư lớn đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động: Cũng như các doanh nghiệp, các tổ chức khác, các doanh nghiệp bảo hiểm tạo công ăn việc làm cho một bộ phận nhất định người lao động.
- Ngoài những người làm công ăn lương của doanh nghiệp bảo hiểm, đội ngũ đại lý, môi giới có thể đông gấp nhiều lần số nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thể hiện tính xã hội và tính nhân văn: Dù hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ vẫn hoạt động theo tiêu chí nhân đạo và chi trả cho người được bảo hiểm khi không may gập rủi ro.
- Việc san sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm tạo ra trách nhiệm, sự chia sẻ và quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên tham gia bảo hiểm.
- Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với các tổ chức kinh tế, xã hội Không chỉ cá nhân có nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ mà các tổ chức kinh tế, xã hội cũng có nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ.
- Có hai lý do khiến họ cần có sự đảm bảo của bảo hiểm nhân thọ, đó là.
- Thông qua các hợp đồng bảo hiểm nhóm, các hợp đồng bảo hiểm cho các nhân vật chủ chốt, người sử dụng lao động có thể tạo ra sự đảm bảo cho người lao động hoặc người sống phụ thuộc vào người lao động khi có rủi ro xảy ra, cung cấp các khoản hưu trí khi hết tuổi lao động hoặc các khoản phúc lợi bổ sung ngoài bảo hiểm xã hội.
- Các doanh nghiệp có thể mua các hợp đồng bảo hiểm cá nhân có số tiền bảo hiểm tương đương với vốn của chủ doanh nghiệp hoặc đồng chủ doanh nghiệp hoặc tương đương với khoản chi phí đào tạo tìm người thay thế người giữ vị trí chủ chốt trong doanh nghiệp.
- Với biện pháp này, khi rủi ro xảy ra với các đối tượng trên, doanh nghiệp vẫn có sự tự chủ về tài chính của mình.
- Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với cá nhân và hộ gia đình Tất cả các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đều phát sinh trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với người được bảo hiểm trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
- Ngoài ra một số sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn thỏa mãn các nhu cầu khác, như: tiết kiệm, tích lũy hay có được những khoản thu nhập ổn định khi về hưu.
- Chính vì thế bảo hiểm nhân thọ có vai trò rất lớn đối với mỗi cá nhân và gia đình trong xã hội.
- Để tránh tình trạng này, rất nhiều người đã mua bảo hiểm cho bản thân để có thể đảm bảo các khoản chi tiêu cuối cùng này, không để lại gánh nặng cho người thân.
- Hỗ trợ những người sống phụ thuộc: Rất nhiều người có nhu cầu mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo cho những người sống phụ thuộc vào họ.
- Thông qua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác nhau, người ta có thể đảm bảo cho người thân một khoản tài chính nhất định để những người này có thể ngay lập tức khắc phục khó khăn về tài chính hoặc bảo hiểm nhân thọ cũng có thể cung cấp các khoản trợ cấp định kỳ cho những người sống phụ thuộc.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt