VIỆT NAM: TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN GENÈVE
Nguyễn Thị Mai Hoa
ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Ngày 7-5-1954, một ngày trước khi giai đoạn thứ hai của Hội nghị
Genève khai mạc, cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ. Điện Biên Phủ không
chỉ đặt một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mà còn trở thành
một sự kiện gắn với lịch sử nước Pháp và thế giới. Tại thời điểm đó, sự
kiện được biết dưới cái tên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã có
ảnh hưởng quan trọng đối với Hội nghị Genève – Hội nghị sắp xếp lại thế
giới nửa sau thế kỷ XX; tuy nhiên, kết quả của Hội nghị lại đặt ra những
câu hỏi cho hậu thế tiếp tục tìm kiếm câu trả lời…
1- Điện Biên Phủ - “cuộc so găng lịch sử”
Cho đến mùa Xuân năm 1953, cục diện chiến tranh ở Việt Nam và
Đông Dương chuyển biến theo chiều hướng bất lợi cho nước Pháp. Những
thất bại liên tiếp trên chiến trường đẩy Pháp vào một tình thế không mấy dễ
chịu, ngày càng lệ thuộc vào Mỹ. Cuộc chiến giằng co với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã làm bộc lộ rõ thêm những yếu điểm trong hoạt động quân
sự của quân đội dày dạn kinh nghiệm chinh chiến và khiến ngân khố nước
Pháp thâm hụt trầm trọng1. Bên cạnh đó, nước Pháp vừa phải căng mình
“chống lại chủ nghĩa cộng sản” bảo vệ châu Âu, lại vừa phải gồng mình níu
giữ hệ thống thuộc địa châu Á. Các chính phủ của nền Cộng hòa thứ tư “bị
co kéo giữa những cam kết và những ưu tiên không thể dung hợp được với
nhau”2. Tình hình trong và ngoài nước đã đặt Chính phủ Réne Mayer trước
tình thế ''lửa cháy hai đầu”: Hoặc bị thất bại trong cuộc chiến Đông Dương,
hoặc bị Mỹ thế chân. Bối cảnh đó đòi hỏi nước Pháp phải nhanh chóng tìm
ra một giải pháp cho cuộc xung đột - một giải pháp như Bernard B Fall
nhận xét: “Nếu không giành được chiến thắng thì cũng tạo ra một tình thế
cho phép quân đội quốc gia các nước liên kết Việt Nam, Cao Miên, Lào
thanh toán được chiến tranh du kích, một khi quân đội chính quy Pháp đã
Chiến tranh đã tiêu tốn của nước Pháp khoảng 5000 tỉ franc cũ, chưa kể 477 tỉ tiền viện trợ của Mỹ đổ vào
Đông Dương trước tháng 7-1954 (Nguồn: Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien
Phu, Da Capo Press, 2002, p.3).
2
Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, Ibid, p.3.
1
1
tiêu diệt được đội quân chủ lực của Việt Minh sau một loạt những trận giao
chiến lớn”1.
Nhằm cứu vãn tình hình, hy vọng tìm ''một lối thoát danh dự'', Tổng
Chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương một lần nữa được thay thế - R. Salan kế
nhiệm J. L. de Tassigny bị cách chức, thay bằng Tướng H. Navarre - viên
tướng sáng giá của nước Pháp. Trước khi H. Navarre sang Đông Dương,
Thủ tướng Réne Mayer chỉ thị: “Ngài phải đi tới chỗ tạo ra được tình
huống để chúng ta có thể thương lượng với Việt Minh trong những điều
kiện tốt, thuận lợi cho chúng ta”2. Nước Pháp đặt cược vào canh bạc lớn giải quyết cuộc chiến tranh “một cách thể diện” bởi H.Navarre – người sẽ
phải đưa ra, tổ chức và thực thi một kế hoạch mang lại chiến thắng quân sự
để nước Pháp có thể thoái lui khỏi cuộc chiến tranh Đông Dương một cách
ít thua thiệt nhất.
Tháng 5-1953, sang Đông Dương, sau khi khảo sát, phân tích thực
địa, H. Navarre nhanh chóng vạch ra một kế hoạch gồm bốn nội dung: Mục
đích, cách thức tiến hành chiến tranh, kế hoạch tác chiến và phương tiện
thực hiện. Về hoạt động quân sự, H. Navarre dự tính vào Thu - Đông 19531954, sẽ “xây dựng một lực lượng chủ lực tác chiến gồm những đơn vị lớn
có khả năng đối chọi với các sư đoàn Việt Minh và phát triển các đội quân
của các nước liên kết sẽ thay thế quân đội Pháp tại Đông Dương”3; sau đó,
đến năm 1954-1955, sẽ tiến công “để chứng minh cho Việt Minh thấy rằng
nếu như chúng ta (tức phía Pháp -TG) không thắng trong cuộc chiến tranh
thì họ cũng không có hy vọng gì thắng ta bằng quân sự và do đó cần phải
thương lượng''4. Trong bản kế hoạch, địa danh Điện Biên Phủ không hề
được H. Navarre nhắc đến.
Kế hoạch H. Navarre được Mỹ đánh giá cao, tin tưởng rằng kế hoạch
đó nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn, thì ít nhất cũng thu được kết
quả nhất định về quân sự. Để thực hiện kế hoạch chiến lược quan trọng
này, Pháp tăng thêm viện binh, phát triển quân đội, xây dựng khối cơ động
chiến lược. Sau cuộc tiến quân của bộ đội chủ lực Việt Nam Dân chủ Cộng
1
Ibid, p.3.
Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr.56.
3
Sđd, tr.61.
4
Sđd, tr.61.
2
2
hòa lên Tây Bắc, cái tên “Điện Biên Phủ” bắt đầu được nhắc đến thường
xuyên hơn trong các cuộc thảo luận của các tướng lĩnh quân đội Pháp.
Tháng 11-1953, Bộ Chỉ huy Quân đội Pháp vội vã điều lực lượng cơ động
nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành “cột mốc của thế
giới tự do mà cộng sản không thể vượt qua”1, thành “Verdun” của Đông
Nam Á, bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào, gây “mất ổn định trong vùng hậu
phương quân địch (Việt Minh-TG), buộc nó phải phân tán lực lượng và bảo
vệ các nơi bị uy hiếp”2. Với vị trí đắc địa3 và tiềm lực quân sự to lớn4, “con
nhím thép” Điện Biên Phủ được xây dựng thành pháo đài bất khả xâm
phạm mà H. Navarre coi như thứ thuốc trị bách bệnh, giải quyết những khó
khăn của chiến tranh Đông Dương và quyết bảo vệ Điện Biên Phủ bằng
mọi giá. Có thể thấy, lúng túng trên chiến trường, Chính phủ Pháp, một
mặt, tìm kiếm cơ hội tái lập hòa bình; mặt khác, luôn hy vọng kế hoạch
quân sự của Đại tướng H.Navarre đem lại thành công, tạo ưu thế thương
thuyết cho nước Pháp.
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sự kiện Pháp đổ quân xuống
Điện Biên Phủ được đánh giá theo chiều hướng tích cực, nhận định đó là
cách Pháp đối phó trong tình huống lúng túng, bị động: “Vô luận rồi đây
tình hình địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản
có lợi cho ta…”5. Trung tuần tháng 12-1953, Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo bước
ngoặt mới cho cuộc chiến trước khi Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông
Dương. Dốc phần lớn nguồn lực cho chiến dịch, các Đại đoàn bộ binh 308,
304, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 được lệnh sẵn sàng. Bộ Chính trị,
Dẫn theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Tập II, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 353.
Bernard B Fall: Hell in a Very Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, p.37.
3
Điện Biên Phủ nằm gần biên giới Việt Lào cách Hà Nội khoảng 350 ki-lô-mét đường chim bay, cách Luông
Pha-băng (Lào) 190 ki-lô-mét. Từ Điện Biên Phủ có những trục đường chạy về phía nam xuống Trung, Hạ Lào,
sang phía tây tới Thái Lan, Miến Điện, lên phía bắc tới Trung Quốc. Bao bọc xung quanh thung lũng Điện Biên
Phủ là một vùng rừng núi điệp trùng. Núi có độ cao trung bình 500 mét, có mỏm đột xuất cao tới 1.461 mét.
Thung lũng Điện Biên là cánh đồng bằng phẳng, đồng ruộng khô ráo, thỉnh thoảng nổi lên những quả đồi cao hơn
mặt ruộng 8 đến 20 mét, cá biệt có điểm cao tới 250 mét, trong thung lũng có sông Nậm Rốm chảy theo hướng
bắc nam đổ xuống sông Nậm Hu.
4
Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công, có 17 tiểu đoàn bộ binh, đa
số là lính Âu Phi thiện chiến, lính dù tinh nhuệ và 116 khẩu pháo, cối các loại, 10 xe tăng cùng các loại vũ khí,
khí tài hiện đại khác như súng phun lửa, súng đại liên nhiều nòng, mìn đĩa, mìn napan, máy ngắm hồng ngoại…,
hàng ngày được 50-60 máy bay vận tải tiếp tế từ 150 đến 200 tấn vật liệu chiến tranh và các đồ dùng quân sự.
5
Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr.44.
1
2
3
Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp
cho chiến dịch khối lượng vật chất to lớn1.
Như vậy, với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng con người
và vật chất được dốc vào thung lũng lòng chảo vùng Tây Bắc, Điện Biên
Phủ trở thành nơi đọ sức, cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên
đều gửi gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết định trong
ván cờ cuối cùng. Đặc biệt, cuộc quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ lại
càng ý nghĩa, vai trò to lớn, quan trọng hơn, khi tin tức về một hội nghị
quốc tế giải quyết vấn đề Triều Tiên và Đông Dương đang vọng về. Mục
tiêu trên bàn đàm phán của một hội nghị như vậy (Hội nghị Genève) đã
biến Điện Biên Phủ thành đấu trường khốc liệt, khi cả hai bên tham chiến
đều huy động nguồn lực con người và vật chất to lớn. Với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, hoạt động quân sự tại Điện Biên Phủ không còn đơn thuần
là hoạt động quân sự, mà đã mang một ý nghĩa lớn hơn: Chính trị - quân sự.
Điện Biên Phủ đóng vai trò “người trải thảm” cho con đường đưa Chính
phủ Hồ Chí Minh đến Genève.
2- Đường đến Genève
Những năm 1950-1954, nền chính trị toàn cầu diễn ra những thay đổi
đòi hỏi những thực thể của nó phải có chiến lược thích ứng. Mặc dù còn
mờ nhạt, song sau Chiến tranh Triều Tiên, đã dần xuất hiện những sự kiện
– những nốt chấm phá phản ánh sự chia rẽ, mâu thuẫn trong nội bộ mỗi
khối cả Đông và Tây; đồng thời, khuynh hướng khẳng định tính độc lập của
mỗi quốc gia đang bộc lộ dần. Trong tình hình đó, ngày 28-9-1953, Liên
Xô kêu gọi các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế, xem xét, đề
xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải
quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á2.
Ngày 25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh,
Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève,
bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Khối lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu,
14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác; huy động hơn 260.000 dân
công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển
hàng hoá, vũ khí đạn dược cho chiến dịch (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử hậu cần kỹ thuật quân sự
Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296, 279).
2
Газета Правда, 28 сентября 1953.
1
4
Với đặc điểm thế giới phân cực, cuộc chạy đua trên đường đến Genève
diễn ra chủ yếu theo hai trục Đông, Tây.
Trong Hội nghị Tứ cường (1-1954), để có thêm đồng minh làm đối
trọng, Liên Xô tích cực đấu tranh để Trung Quốc được tham gia Hội nghị.
Mặc dù Mỹ kiên quyết phản đối, song trong xu thế các nước đều muốn hòa
đàm, cuối cùng Mỹ buộc phải nhượng bộ. Trước thềm Hội nghị Genève,
Liên Xô, Trung Quốc liên hệ chặt chẽ, thường xuyên họp bàn, trao đổi,
quyết định phương châm, đối sách và các hoạt động phối hợp ngoại giao.
Hai nước nhất trí để Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm
phán ở Genève. Đối với vấn đề Đông Dương, liên quan trực tiếp đến Việt
Nam, nội dung quan trọng có tính “tử huyệt”, thu hút sự chú ý đặc biệt của
mọi thành phần tham gia Hội nghị là sự toàn vẹn lãnh thổ và quyền độc lập
dân tộc.
Chi phối bởi tư tưởng “chung sống hoà bình” và mục tiêu vừa kiềm
chế, vừa tránh đụng độ với Mỹ, cả Liên Xô, Trung Quốc đều muốn giải
quyết êm thấm mọi chuyện trên tinh thần nhượng bộ và thỏa hiệp. Đối với
vấn đề “sinh tử” của Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất phương
án “vạch ranh giới đình chiến ở Đông Dương giống như Triều Tiên”1, lấy
“vĩ tuyến 16 độ Bắc như là một trong những phương án để xem xét”2.
Phương án này hình thành tương đối sớm, không lâu sau khi Hội nghị Tứ
cường khởi họp (1-1954) và được xúc tiến tích cực từ tháng 3-1954. Ngày
2-3-1954, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho Đảng Lao
động Việt Nam, nêu vấn đề đình chiến và xác định giới tuyến, nói rõ:
“Đường giới tuyến này càng xuống phía Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ
tuyến 16 độ Bắc”3. Hội đàm song phương Xô- Trung ngày 6-3-1954, hai
nước khẳng định lại quan điểm, nhấn mạnh: “Liên quan đến lập lại hòa
bình ở Đông Dương, nếu muốn đình chiến, tốt nhất nên có một giới tuyến
tương đối cố định, phân chia ranh giới giữa Nam và Bắc, như vĩ tuyến 16
Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2, Nxb. Nhân dân
Giang Tây, 2008, bản dịch Quốc Thanh.
2
Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Beijing: History of CPC Press, 2005, p.38.
3
Ibid, p.26.
1
5
chẳng hạn”1. Nhận xét về đường ranh giới được đặt tại “vĩ độ 16”, Đại sứ
Trung Quốc tại Liên Xô Trương Văn Thiên cho rằng, đó là lựa chọn “có lợi
cho Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nên và cần phải đồng ý khi đề nghị này
được nêu lên chính thức”2. Nhằm bắn tín hiệu cho “phía bên kia”, đầu tháng
3-1954, trao đổi với nhân viên của Đại sứ quán Mỹ ở London và nhân viên
Bộ Ngoại giao Anh (G. Holerom), hai nhà ngoại giao Liên Xô (Rodionov,
Belokhvostikov) đã “vô tình” đề cập đến quan điểm giải quyết vấn đề Việt
Nam của Liên Xô theo mô thức Triều Tiên và nhắc đến vĩ tuyến 163.
Có vẻ như hình mẫu cho đình chiến Đông Dương đã được lựa chọn
và mọi chuyện đã được quyết định, ý kiến, nguyện vọng của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chỉ còn là hình thức. I.V. Gaiduk bình luận: “Đến Moscow
vào đêm trước của Hội nghị Genève, phái đoàn Việt Nam do Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã không được thảo
luận về phương thức, con đường giải quyết vấn đề Đông Dương, mà chỉ
còn cách đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối hợp thực hiện những
vấn đề về chiến thuật”4. Thêm một minh chứng thuyết phục cho nhận định
của I.V. Gaiduk là Bức điện Chu Ân Lai gửi về cho Mao Trạch Đông và
Lưu Thiếu Kỳ báo cáo tình hình cuộc hội đàm ngày 22-4-1954 giữa Liên
Xô (Malenkov, Molotov, Khrushchev), Trung Quốc (Chu Ân Lai, Vương
Gia Tường), Việt Nam (Hồ Chí Minh)5 về lập trường và phối hợp hành
động ở Genève. Bức điện viết: “Liên Xô hoàn toàn nhất trí với ý kiến về
tình hình Đông Dương và với các chiến lược, chính sách của chúng ta, cho
1
Telegram, PRC Ambassador to the Soviet Union, 'Reporting the Preliminary Opinions of Our Side on the
Geneva Conference to the Soviet Side'" March 06, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive,
PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.
2
АВП РФ, ф. 06, on. 13а, п. 25, д. 7, л. 43.
3
И. В. Гайдук: Советский Союз на Женевской конференции по Индокитаю, allconspirology.org.
4
А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, Сб. Ст,
ОЛМА-ПРЕСС, М. 2003, C.285.
5
Theo cuốn Zhou Enlai and the Geneva Conference, sáng sớm 20-4-1954, Chu Ân Lai cùng phái đoàn rời Bắc
Kinh ghé qua Moskva. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam cùng bay đến Moskva
(p.50). Cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường và Hồ Chí Minh cùng với
Malenkov, Khrushev, Molotov và Suslov diễn ra ngày 22-4. Tuy nhiên, cũng trong cuốn Zhou Enlai and the
Geneva Conference, tác giả lại viết rằng, cuộc hội đàm này diễn ra ngày 9-4 (pp.37-38). Có lẽ Qian Jiang có sự
nhầm lẫn, vì so sánh thành phần tham dự, nội dung Hội nghị và đối chiếu với tư liệu gốc (Telegram, Zhou Enlai
to CCP CC Chairman Mao Zedong, CCP CC Vice Chairman Liu Shaoqi, April 23, 1954), thì cuộc họp phải diễn
ra ngày 22-4-1954.
6
rằng quan điểm/nội dung những tài liệu [chúng ta chuẩn bị] là chính xác”1.
Hồi ký của N. Khrushchev về cuộc họp trù bị ba bên tại Moscow góp phần
lý giải đầy đủ hơn một trong những nguyên nhân mà Liên Xô nhanh chóng
đồng ý với “chiến lược, chính sách” của Trung Quốc về vấn đề Đông
Dương. Theo N. Khrushchev, lập trường ở Hội nghị Geneva được xác định
căn cứ trên tình hình thực tiễn Việt Nam, trong khi tin tức về Việt Nam
không mấy khả quan2. N.Khrushchev cung cấp một thông tin đáng lưu ý:
Trước một trong những phiên họp tại Hội trường Catherine (Điện Kremlin),
chủ động nói chuyện riêng với N. Khrushchev, Chu Ân Lai thông báo rằng
tình hình Việt Nam hết sức vô vọng, nếu không nhanh chóng ký Hiệp định
đình chiến, phong trào kháng chiến Việt Nam sẽ không thể cầm cự3.
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 13-13-1954 (cùng ngày
chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn), Hội đồng chính phủ Việt Nam nhóm
họp, bày tỏ quan điểm tán thành Hội nghị Genève, thảo luận về lập trường,
phương châm đấu tranh ngoại giao và cử Đoàn đại biểu tham gia Hội nghị
(do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trong quá trình thảo luận, vấn đề khó khăn
nhất là xác định giới tuyến đình chiến. Sau nhiều tranh luận, Việt Nam chưa
nhất trí trong vấn đề này, chủ trương vừa đánh, vừa đàm kéo dài cho đến khi
có ưu thế hơn đối phương và đợi đến lúc ở Genève đạt được được thoả thuận
chính trị phù hợp rồi mới đình chiến, thậm chí chỉ đồng ý đình chiến về
1
Telegram, Zhou Enlai to CCP CC Chairman Mao Zedong, CCP CC Vice Chairman Liu Shaoqi, and the Central
Committee of the CCP, concerning Soviet Premier Georgy M. Malenkov’s conversation with Zhou Enlai about the
Vietnam Issue" April 23, 1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-00048-08,
CWIHP.
2
N. Khrushchev viết như sau: “Tình hình Việt Nam rất trầm trọng và bi đát, phong trào giải phóng dân tộc bên
bờ vực sụp đổ và những người kháng chiến cần một hiệp định để những thành quả mà nhân dân Việt Nam đã đạt
được trong cuộc kháng chiến chống xâm lược có thể được đảm bảo. Hà Nội nằm trong tay người Pháp và những
người kháng chiến dù cố gắng đã không thể giành lại. Những thành phố và tỉnh thành khác cũng bị người Pháp
chiếm đóng. Nếu thể hiện trên bản đồ những yêu cầu số một của chúng tôi (đình chiến với giới tuyến 16-TG), thì
miền Bắc Việt Nam còn nhiều địa điểm mà các lực lượng chiếm đóng Pháp vẫn có thể ở lại kể cả trong trường
hợp các đề nghị của chúng tôi [tại Hội nghị Geneve] được đáp ứng đầy đủ (Nguồn: Nikita Khrushchev: Memoirs
of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.500).
3
Nguyên văn: Trước một trong những phiên họp tại Hội trường Catherine (Điện Kremlin), Chu Ân Lai đã kéo tôi
vào một góc và nói: Đồng chí Hồ nói với tôi rằng, tình hình rất vô vọng. Nếu trong thời gian tới, không đạt được
lệnh ngừng bắn, họ sẽ không thể cầm cự chống lại các lực lượng Pháp. Do đó, họ đã quyết định rút lui về phía
biên giới Trung Quốc và như vậy Trung Quốc có thể mang quân sang chiến đấu giống như trước đây ở Bắc Triều
Tiên, giúp nhân dân Việt Nam đánh đuổi Pháp khỏi Việt Nam”. Chu Ân Lai nói thêm: “Họ [Trung Quốc] không
thể thực hiện yêu cầu đó, vì ở Triều Tiên họ đã hy sinh quá nhiều, đã trả giá đắt vì chiến tranh. Họ không đủ lực
để vướng vào một cuộc chiến tranh mới, vì thế, không thể đáp ứng yêu cầu của Hồ” (Nguồn: Nikita Khrushchev:
Memoirs of Nikita Khrushchev, p.500).
7
nguyên tắc, còn nội dung đình chiến cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của
tình hình.
Về phía khối các nước “cực Tây”, Pháp là quốc gia có nhiều quyền
lợi nhất được mang ra thương thảo ở Hội nghị Genève, song đồng thời
cũng là nước ở trong tình thế bất lợi về quân sự và ngoại giao. Tuy tìm
kiếm cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương tại Genève thông qua
thương lượng, song Pháp đặt mục tiêu phải ở tư thế áp đảo, nhằm đạt
những điều khoản có lợi nhất – cuộc thương lượng như De Gaulle minh
định: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”1. Vì thế,
Pháp quyết tâm bảo vệ Điện Biên Phủ đến cùng, cho rằng, “nếu giữ được
Điện Biên Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc Pháp…”2. Do
vậy, toàn bộ “câu chuyện” của Pháp và Anh, Mỹ trước thềm Hội nghị là
bàn về quan điểm cũng như vấn đề “liên minh hành động” trước tình thế
Pháp ngày càng nguy ngập và tập đoàn Điện Biên Phủ đứng trên bờ vực
thất thủ. Kiên trì bám giữ quan điểm “chỉ cần Điện Biên Phủ còn trong tay
quân đội Pháp, thì cục diện trên bàn đàm phán ở Genève của phe phương
Tây không khốn đốn đến mức không thể thu xếp”3, Pháp tích cực thuyết
phục, vận động Anh và Mỹ trợ giúp quân sự trực tiếp.
Lo lắng gìn giữ vị trí cường quốc, Anh quốc e ngại phong trào giải
phóng dân tộc ở Đông Dương tác động đến hệ thống thuộc địa rộng lớn của
mình, nên có tâm thế ủng hộ nước Pháp. Tuy nhiên, phân tích tình hình,
nhận thấy đe dọa quân sự không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Đông
Dương, trái lại có thể dẫn đến cuộc xung đột lớn hơn, Anh kiên định lập
trường không can dự.
Thực hiện “vai trò bảo vệ thế giới” và “sứ mệnh ngăn chặn làn sóng
đỏ”, Hoa Kỳ can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Đông Dương. Song
dù đã đổ lượng vật chất to lớn4, yểm trợ người Pháp “ngăn chặn họa cộng
1
Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.23.
Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Sđd, tr. 314.
3
Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.75
4
Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm gần 80% chiến phí của Pháp, tổng cộng khoảng 1.700 triệu đôla.
Tất nhiên, trong tổng số 1.700 triệu đôla viện trợ Mỹ đó, tuyệt đại bộ phận là vũ khí và dụng cụ chiến tranh. (Nếu
kể từng loại cụ thể, theo “Tài liệu mật của Lầu Năm Góc” thì tính đến ngày 21-1-1954, Mỹ đã viện trợ cho Pháp
1.400 xe tăng và xe bọc thép, 619 máy bay, 390 tàu đổ bộ, 16.000 ôtô, 175.000 súng trường và súng máy, 2.555
triệu viên đạn, trong đó có 15 triệu viên đại bác.
2
8
sản”, nhưng “Pháp không thể dùng biện pháp quân sự để tiêu diệt Việt
Minh, tình hình Đông Dương đang xấu đi, Cộng sản chiếm vị trí khống chế
trong phong trào dân tộc”1; do vậy, Mỹ hoàn toàn không hài lòng về hiệu
quả chính sách của Pháp. Không mấy sốt sắng với việc tổ chức Hội nghị
Genève, Mỹ nghiêng về phương án can thiệp và trợ giúp quân sự cho Pháp,
song phụ thuộc vào việc “thuyết phục được Anh phối hợp nhất trí cùng với
Mỹ, chỉ có như vậy Quốc hội Mỹ mới có thể phê chuẩn”2. Tuy nhiên, thái
độ của Anh khá cứng rắn, kiên quyết phản đối, kế hoạch bất thành, cuối
cùng, Mỹ tuyên bố sẽ không hành động trong khi chờ kết quả của Hội nghị
Genève. Đặc biệt, lập trường của Anh, Mỹ được củng cố vững chắc thêm,
khi từ tháng 4-1954, qua thăm dò, hai nước này đã biết rõ về quan điểm
chia cắt Việt Nam của Liên Xô và Trung Quốc.
Liên quan tới Quốc gia Việt Nam, ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp
Joseph Laniel và Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký
Hiệp ước công nhận Quốc gia Việt Nam độc lập hoàn toàn3. Ít lâu sau,
Hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam nằm trong Liên
hiệp Pháp cũng được ký kết4. Trở thành Thủ tướng, Mandès France hứa tôn
trọng những thỏa ước này - đây cũng là cơ sở để Quốc gia Việt Nam yêu
cầu người Pháp phải tôn trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống
lại mọi sự chia cắt; coi sự hiện diện của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ở Hội nghị là không có tính pháp lý.
Như vậy, bàn cờ Genève đã được sắp đặt sẵn sàng. Đó là ván cờ giữa
các nước lớn đầy phức tạp, mâu thuẫn. Trên bàn cờ ấy, số phận các nước
1
U.S. Policy toward Southeast Asia (NSC 51), dated 1 July 1949, Harry S. Truman Library, Independence,
Missouri. 137.
2
Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.57.
3
The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam,
1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971). Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam có nội dung như sau: 1Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền công nhận
bởi công pháp quốc tế; 2- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước
mà nước Pháp đã nhân danh nước Việt Nam mà ký kết trước đó về những khoản liên quan đến Việt Nam, cũng
như không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này; 3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ
mà Pháp đang chuyên trách tại Việt Nam; 4- Hiệp ước này có hiệu lực kể từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy
định trước trái ngược với hiệp ước này.
4
Hiệp ước Traité d’association Franco Vietnamienne thừa nhận Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp; Pháp và Việt
Nam đều bình đẳng, hai bên hợp tác tại Hội đồng tối cao Liên hiệp Pháp; mọi xung đột, nếu có sẽ được giải quyết
tại Hội đồng trọng tài do hai bên cử ra.
9
nhỏ được định đoạt và khó lòng tránh khỏi những truân chuyên, đoạn
trường
3- Bàn cờ Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Một ngày
sau, ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa thuận về
thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh, Pháp, Mỹ loại Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Nhờ sự nỗ lực và mềm dẻo1 của Liên Xô, ngày 2-51954, các nước chấp nhận sự có mặt của Việt Nam - Việt Nam có điều kiện
tham gia vào một sân chơi lớn, dù chưa được các nước Anh, Mỹ, Pháp
công nhận về ngoại giao.
Giai đoạn một của Hội nghị Genève chủ yếu bàn về vấn đề Triều
Tiên, song dễ dàng nhận thấy dù có vị trí quan trọng trên bàn nghị sự,
nhưng giải quyết xung đột Triều Tiên không thuộc tâm điểm chú ý của các
nước. Cuộc tranh cãi hứa hẹn những gay cấn và kịch tính còn đang ở phía
trước - thắng lợi của chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trùng với ngày khai mạc Hội nghị đã phần nào nói
lên điều đó.
Ngày 1-5-1954, giữa lúc chiến sự đang diễn ra căng thẳng, ác liệt và
những thảo luận trên bàn Hội nghị chưa tiến được bao xa, Chu Ân Lai gửi
điện cho Vi Quốc Thanh đề nghị “xem xét kỹ khả năng tấn công tiêu diệt
Điện Biên Phủ, còn cần bao lâu nữa mới có thể hoàn toàn hoặc cơ bản tiêu
diệt được bọn địch, mong điện trả lời sớm”2. Từ ngày 1-5-1954, Quân đội
nhân dân Việt Nam đẩy mạnh tổng tiến công, tiêu diệt dứt điểm các vị trí
còn lại. Lực lượng của Pháp lúc này đã trở nên tuyệt vọng, suy kiệt, không
còn đủ sức để duy trì chiến đấu. Đêm ngày 3-5-1954, Quân đội nhân dân
Việt Nam tiếp tục chiếm thêm một số vị trí quan trọng, tấn công và bao vây
thắt chặt, có nơi chỉ cách Sở Chỉ huy tập đoàn cứ điểm có 300 mét, Tướng
De Castrie liên tiếp gọi điện xin cứu viện. Không khí Genève đang nóng
dần lên và dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa chiến trường. Tin tức từ
Điện Biên Phủ dội về gây nên hai hiệu ứng trái ngược: Các nước “phe
1
2
Liên Xô tỏ ý không phán đối nếu Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Campuchia cử đại diện tham gia.
Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.105.
10
phương Đông” bước vào đàm phán với tâm trạng nhẹ nhõm, hứng khởi,
còn phái đoàn Pháp trĩu nặng lo âu, phủ bóng bởi một tương lai ảm đảm.
Ngày 4-5-1954, Đoàn Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn
đầu có mặt ở Genève. Văn Trang, Phiên dịch viên cho Đoàn Việt Nam mô
tả: “Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị nhộn nhịp hẳn lên”1. Qian Jiang cho biết một thông tin tương tự: “Ông
Phạm Văn Đồng đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt
trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng”2.
Tình hình nguy cấp tại Điện Biên Phủ khiến Chính phủ Laniel ngày
thêm khó khăn, lúng túng. Các đại biểu Quốc hội Pháp liên tiếp chỉ trích
Chính phủ chưa cố gắng dồn sức cho việc tìm kiếm hòa bình. Về phía Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, 18 giờ 45 phút ngày 6-5-1954, quân đội mở cuộc
tiến công vào đồi A1, đánh chiếm điểm cao cuối cùng, chuyển toàn lực
sang tổng công kích. Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến - 17 giờ 30
phút ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ
điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống - cuộc chiến
tranh Đông Dương rơi vào “điểm trắng” của lịch sử. Cả nước Pháp chết
lặng, bàng hoàng. Wilfred Burchett bình luận: “Người đồng chí thân thiết
của ông Phạm Văn Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một
vũ khí hiệu nghiệm nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương lượng nào cũng
dám nghĩ đến khi bắt đầu một hội nghị như vậy - Điện Biên Phủ thắng lợi
hoàn toàn một ngày trước khi Hội nghị khai mạc. Nhờ thời điểm tuyệt diệu
của ông Giáp, kế hoạch Đa-lét nhằm quốc tế hoá cuộc chiến tranh đã thất
bại”3. Thực vậy, Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ
sâu sắc thêm, Pháp kiếm cách nhanh chóng rút lui khỏi Đông Dương,
nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt
được ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng trên thế mạnh
của Pháp tan vỡ.
Điêu đứng bởi “thảm bại Điện Biên Phủ”, cố tỏ ra cứng rắn, nhưng
có vẻ như Pháp đã sẵn sàng nhún nhường hơn trong vấn đề đường giới
Dẫn theo Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.110
Ibid, p.110.
3
Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of Wilfred Burchett,
University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
1
2
11
tuyến. N. Khrushchev nhớ lại: “Một điều kỳ diệu đã xảy ra. Khi các phái
đoàn vừa đặt chân đến Genève, những người kháng chiến Việt Nam đã
giành được thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ [tháng 5-1954]. Trong phiên
họp đầu tiên, Trưởng đoàn đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị
hạn chế sự hiện diện của quân đội Pháp ở phía nam vĩ tuyến 17. Thú thật,
khi tin tức này từ Genève bay về, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm và cảm thấy
hài lòng; chúng tôi không chờ đợi được đến thế. Đó là cái tối đa mà chúng
tôi hướng tới”1.
Sau Điện Biên Phủ, dù có những động cơ riêng, nhưng đặt trong bối
cảnh cùng tồn tại hoà bình đang trở thành một xu thế lớn chi phối quan hệ
quốc tế, về cơ bản các nước đều muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột,
song không thể không dền dứ, khiến các phiên đàm phám trở nên căng
thẳng, gay go, quyết liệt. Trong Hội nghị, Liên Xô, Trung Quốc duy trì
quan hệ phối hợp chặt chẽ và giữ vai trò chủ động. Trung Quốc hầu như
đồng ý hoàn toàn với Liên Xô trong nội dung các vấn đề thương lượng,
bởi: 1- Lần đầu tiên xuất hiện trong một hội nghị quốc tế lớn, đứng ngang
hàng với các cường quốc khác một phần lớn là nhờ nỗ lực vận động của
Moscow; 2- Thiếu kinh nghiệm đàm phán và cọ sát quốc tế; 3- Nội dung
các vấn đề đàm phán được Moscow đưa ra về cơ bản là đáp ứng/phù hợp
với lợi ích và tính toán chiến lược của Trung Quốc. Liên quan đến Việt
Nam, cả hai nước kiên trì quan điểm chia Việt Nam thành hai miền với vĩ
tuyến 16 là ranh giới, dù Liên Xô hiểu rằng, sau chiến thắng Điện Biên
Phủ,“đây là vấn đề hết sức tế nhị, là vấn đề gây đau đớn cho những nhà
lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”2. Tránh tuyên bố trực tiếp về lập
trường, quan điểm nói trên, song Liên Xô luôn tìm cách để phía Việt Nam
hiểu đó là con đường duy nhất giải quyết vấn đề Đông Dương. Đưa ra sáng
kiến triệu tập Hội nghị Genève, Liên Xô không chỉ đơn thuần quan tâm giải
quyết vấn đề Đông Dương (nơi các lợi ích của Liên Xô vào thời điểm đó là
1
Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State
University Press, 2006, p.501. Khrushchev viết tiếp: Chúng tôi đã chỉ thị cho phái đoàn của mình tại Genève đưa
yêu cầu về đường giới tuyến dịch chuyển xuống phía Nam, đến vĩ tuyến 15; tuy nhiên, chúng tôi cũng khuyến
cáo rằng đó là vị trí [vĩ tuyến 15 -TG] đặt ra để thương lượng; và như thế, đề nghị của Mendès-France cần được
chấp thuận và bằng cách đó, những thành quả đạt được của những người cộng sản Việt Nam được bảo đảm. Hiệp
định đã được ký kết vì lý do đó” (p.501).
2
А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.281.
12
không đáng kể), mà còn nhằm mục tiêu xa hơn - dàn xếp một số vấn đề về
châu Âu, liên quan, chi phối trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Liên Xô;
trong đó, vấn đề trọng tâm là lôi kéo Pháp (quốc gia đang muốn níu kéo
quyền lợi ở Đông Dương) bác bỏ EDC1, giữ nguyên hiện trạng châu Âu2.
Ngoài ra, Liên Xô còn có mục tiêu không để Hội nghị thất bại, vì Mỹ có
thể lợi dụng điều đó để mở rộng chiến tranh. Cuộc chiến Đông Dương cần
phải được giải quyết và giải quyết bằng thương lượng, đi đến đình chiến; có
như vậy, chiến lược ổn định vùng Viễn Đông của Liên Xô mới được đảm
bảo, Liên Xô mới có điều kiện dồn lực cho phát triển kinh tế, rảnh tay tập
trung cho khu vực Đông Âu - nơi sống còn của chế độ Xô-viết.
Bước ra khỏi chiến tranh Triều Tiên, phải đối mặt với hàng loạt khó
3
khăn ; đồng thời lại phải viện trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống Pháp4
nhằm bảo đảm an ninh phía Nam, Trung Quốc có yêu cầu cấp bách chấm
dứt chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương, phục vụ mục tiêu
chiến lược: Nhanh chóng ổn định, phát triển, từng bước khẳng định vị trí
nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới. Chịu sự phong tỏa toàn diện của
các nước phương Tây. Vì thế, ngăn trở việc thành lập các liên minh chính
trị - quân sự của các nước không cùng chiến tuyến song song với mở rộng
khu vực đệm trở thành một yêu cầu quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn quan tâm đến các vấn đề an
ninh, hòa bình tại Viễn Đông, châu Á, thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế,
Mỹ, Anh và Pháp chủ trương thành lập Khối phòng thủ châu Âu (EDC) bao vây Liên Xô, song Pháp không mặn
mà với EDC và cuối cùng, tháng 8-1954, Quốc hội Pháp đã bác đề nghị này.
2
А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.278.
3
Chiến tranh Triều Tiên đã cướp đi sinh mạng của gần 1.000.000 Chí nguyện quân, để lại thương tật cả đời cho
hàng triệu người. Trong ba năm chiến tranh (1950-1953), Trung Quốc tiêu tốn mất khoảng 10 tỷ USD (Nguồn:
Dương Khuê Tùng: Nghiên cứu về lịch sử thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tập 2). Trung Quốc nợ
Liên Xô 650 triệu USD, buộc phải hoãn lại kế hoạch năm năm lần thứ nhất (Nguồn: Zhang Xiaoming: China,
the Soviet Union, and the Korean War: From an Abortive Air War Plan to a Wartime Relationship, Journal of
Conflict Studies, vol 22, N01, 2002, p.81).
4
Theo thống kê của phía Trung Quốc, trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc đã viện trợ cho
Việt Nam 155.000 khẩu súng các loại, 57.850 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, hơn 1.080.000 quả đạn pháo, hơn
840.000 quả lựu đạn, 1.231 ô tô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, 14.000 tấn lương thực, thực phẩm phụ, hơn 26.000
tấn dầu và một lượng lớn thuốc men, vật tư quân dụng khác (Nguồn: Quách Minh (Chủ biên), Diễn biến quan hệ
Trung - Việt trong 40 năm qua, Nxb. Nhân dân Quảng Tây, tủ sách Đông Nam Á, 1992, bản dịch, lưu tại Thư viện
Quân đội, Hà Nội).
1
13
giao thương mậu dịch với phương Tây, từng bước phá vỡ cấm vận, phong
tỏa của Mỹ một cách hiệu quả1.
Nhận thức Mỹ là đối thủ nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới an ninh thế
giới, “tham gia đàm phán, Trung Quốc cố gắng để người Pháp vẫn có thể
giữ một vị trí nào đó ở Đông Dương, không để Mỹ thế chân Pháp”2. Ưu
tiên hàng đầu của Trung Quốc là “ngăn chặn Mỹ đưa lực lượng quân sự
vào Việt Nam, áp sát biên giới Trung Quốc”3. Trong suốt chiều dài Hội
nghị, với vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận
chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, trong điều kiện Pháp không muốn
nói chuyện với Việt Nam ở thế yếu, Trung Quốc lãnh vai trò “cầu nối”, đứng
ra thương thuyết, đưa các sáng kiến trung hòa, hòa giải, tháo gỡ và phá vỡ bế
tắc. Để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận phương án đàm phán, Chu
Ân Lai ngỏ ý với lãnh đạo Việt Nam: “Nếu cuộc chiến tranh Đông Dương
kéo dài, Mỹ nhảy vào Đông Dương, Việt Nam không thể dựa vào sự giúp
đỡ của Trung Quốc để tiến hành chiến tranh”4. Đặc biệt, nắm chắc nguyên
tắc “lấy đánh thúc hòa”, Chu Ân Lai khéo léo điều phối hoạt động quân sự
trên chiến trường Việt Nam phù hợp với nhịp độ, mục tiêu đàm phán. Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam không đánh lớn,
sợ rằng “đẩy mạnh các hoạt động quân sự sẽ phá hủy cơ hội ký kết Hiệp
định đình chiến, ảnh hưởng đến hình ảnh mới mẻ của Trung Quốc – hình
ảnh sứ giả hòa bình châu Á”5. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Tôi nêu
ý kiến trong Quân ủy dùng ngay khoảng một trăm xe đưa một bộ phận pháo
binh 351 và một đơn vị chủ lực tránh về Tam Nông, Phú Thọ, phía tả ngạn
sông Đà, uy hiếp phía tây bắc Hà Nội. Đồng chí Vi Quốc Thanh khuyên ta
tránh sử dụng lực lượng lớn đề phòng vấp váp, để giữ trọn vẹn chiến thắng
đã giành được”6. Khoảng giữa tháng 7-1954, Việt Nam “nhận được điện
1
Preliminary Opinions on the Assessment of and Preparation for the Geneva Conference,' Prepared by the PRC
Ministry of Foreign Affairs (drafted by PRC Premier and Foreign Minister Zhou Enlai) [Excerpt]" March 02,
1954, History and Public Policy Program Digital Archive, PRC FMA 206-Y0054, CWIHP.
2
Qiang Zhai: China and Vietnam Wars, 1950-1975, Chapel Hill, Univ. of North Carolina Press, 2000, p.50.
3
Allen Kempton: The People’s Republic of China and Vietnam: A Complex Relationship, Essay Prize in History,
2012, p.5.
4
А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, c.284.
5
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954",
(Boston: Beacon Press, 1971).
6
Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 420-421.
14
của cả đồng chí Môlôtốp và đồng chí Chu Ân Lai, nói đang có triển vọng
sớm đạt được một hiệp định hòa bình, không nên đẩy mạnh nhịp độ hoạt
động quân sự ở cả hai miền Nam, Bắc Đông Dương”1 .
Cũng cần nói thêm rằng, dù cũng theo đuổi cùng lúc nhiều mục đích,
song Moscow ôn hòa và thận trọng hơn so với Bắc Kinh. Đến bàn đàm
phán với tinh thần “trong rất nhiều vấn đề quốc tế to lớn, đầu tiên là vấn đề
châu Á, nếu không có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều
không giải quyết được”2, Chu Ân Lai hành động tự tin và độc lập, từng bước
ngồi vào vị trí “người lái” dẫn dắt Hội nghị – điều đó khiến Liên Xô không
khỏi băn khoăn, gợn lên lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong một
tương lai không xa và khả năng xuất hiện một cơ cấu quyền lực mới ở châu
Á.
Diễn biến các phiên đàm phán cho thấy, dường như mọi vấn đề về
Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa không còn sự lựa chọn nào khác. Đến Hội nghị với những
yêu cầu phù hợp với tương quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải
thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình ấn định, Việt Nam
phải được thống nhất), song trong tiến trình Hội nghị, dưới áp lực của Liên
Xô, Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng, các yêu
cầu đàm phán buộc phải hạ thấp dần. Mặc dù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng phân tích tình
hình, Việt Nam hiểu rằng Liên Xô, Trung Quốc không muốn giúp đưa cuộc
kháng chiến lên cao hơn nữa. Vả lại, sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
“tương quan lực lượng thay đổi tuy có lợi cho Việt Nam, song chưa căn
bản, cần một thời gian để quân đội, đất nước củng cố, xốc lại lực lượng”3.
Trong điều kiện thiếu sự giúp đỡ của các nước đồng minh, nếu Mỹ trực tiếp
tham chiến, cuộc chiến đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hết sức bất
lợi.
Anh không có nhiều quyền lợi tại Hội nghị, trong khi hết sức lo ngại
xung đột Đông Dương có thể làm bùng phát một cuộc chiến tranh trên quy
Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr,428
Tạ Ích Hiển (chủ biên): Lịch sử ngoại giao Trung Quốc đương đại (1949-2001), Bản dịch của Tổng cục 2, lưu
tại Tổng cục 2, tr.55.
3
АВП РФ, ф. 0445, оп. 1, п. 1, д. 1, л. 3-4.
1
2
15
mô toàn cầu, nên muốn nhanh chóng đi tới thỏa thuận hòa bình, kết thúc
cuộc xung đột. Tại Genève, Anh tích cực thực hiện vai trò trung gian hòa
giải, hầu như đồng ý hoàn toàn với các ý tưởng Pháp đưa ra. Anh phối hợp
khá nhịp nhàng với Pháp, Liên Xô, Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề
phức tạp vào các thời điểm gay cấn của Hội nghị. Kết quả là sau Hội nghị,
Anh bảo lưu quyền tham gia cùng với Mỹ trong một thỏa thuận về bảo vệ
an ninh khu vực, cải thiện một bước quan hệ với Trung Quốc, kiềm chế để
Trung Quốc không thúc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Malaysia. Thành
công nổi trội hơn cả của Anh ở Genève là ở chỗ khéo léo sử dụng ngoại
giao để giải quyết các vấn đề quốc tế, không bảo thủ bảo lưu mô hình đối
đầu quân sự.
Ngay từ đầu, Mỹ đã xác định đến Hội nghị với tư cách quốc gia thân
hữu của các nước tư bản và chủ yếu với vai trò quan sát để định liệu. Mặc
dù không mấy tin tưởng ở Pháp, cho rằng Pháp sẵn sàng “bán đứng Đông
Dương”, song Mỹ không thể bỏ mặc Pháp lâm vào thế yếu. Quan điểm của
Mỹ là Pháp phải tiến hành đàm phán trên thế mạnh, không vội chấp nhận
ngừng bắn. Mỹ phản đối phương án phân vùng và từ giữa tháng 6-1954,
tích cực vận động cho một Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á. Chỉ đến cuối
tháng 6-1954, Mỹ mới đồng ý với giải pháp chia cắt Việt Nam - đây là lần
đầu tiên kể từ cuối năm 1953, Mỹ và Pháp có chung quan điểm về các
chính sách đối với Đông Dương. Nhìn chung, lập trường tham gia Hội nghị
của Mỹ là bảo đảm ảnh hưởng đối với các quyết định, song không ràng
buộc, “là một quốc gia quan tâm, nhưng không phải là một bên tham chiến,
cũng không phải là người tham gia chính trong cuộc đàm phán"1. Đó là
cách Mỹ né tránh để không phải chịu trách nhiệm và ràng buộc bởi kết quả
của Hội nghị, chuẩn bị trước cho khả năng can thiệp vào Đông Dương khi
cần thiết, nhằm ngăn chặn khối cộng sản2. Theo logic đó, Mỹ từ chối không
tham gia vào Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị.
Tham gia Hội nghị, Quốc gia Việt Nam chỉ tồn tại một cách hình thức
bên cạnh phái đoàn Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa Pháp và Việt Nam
1
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Document 47, Memorandum from Secretary of State Dulles
on Instructions to the American Delegation at Geneva, 12 May 1954, p 507-08.
2
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
16
Dân chủ Cộng hòa, đại biểu của Quốc gia Việt Nam không được mời tham
dự dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp toàn thể, chỉ có các
trưởng phái đoàn Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra quan điểm
và thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái đoàn Quốc
gia Việt Nam. Ngày 17-7-1954, phái đoàn Quốc gia Việt Nam gửi Kháng
nghị đến Pháp và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề xuất
được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản Kháng nghị khẳng định:
“Không hề đếm xỉa đến ý chí đoàn kết dân tộc muôn người như một của
nhân dân Việt Nam”1. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam yêu cầu: “Ngừng bắn
phải đi kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại Việt Nam; đặt
Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh,
trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để
nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự
do”2. Bản Kháng nghị lưu ý: “Đặt một Việt Nam thống nhất dưới quyền
kiểm soát của Liên Hợp Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở một đất
nước bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ”3.
4- Điện Biên Phủ - Geneve: Chiến thắng và không chiến thắng?
Sau nhiều tranh cãi, thảo luận, thoả thuận và thỏa hiệp, cuối cùng,
ngày 20-7-1954, các bên tham gia Hội nghị Genève cũng đạt được những
nhất trí mang tính then chốt, thể hiện sự hòa hoãn và tư tưởng “chung sống
hoà bình” giữa các nước lớn trong thương lượng.
Hiệp định được thông qua ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp
hơn là của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy
thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm đàm phán, do thực
lực chưa mạnh, nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam trên bản đồ thế
giới”4 với ranh giới là vĩ tuyến 17 (thay cho vĩ tuyến 13 dự liệu ban đầu) và
thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị), rút hết quân
đội khỏi Lào và Campuchia. Campuchia chịu nhiều thiệt thòi, không có căn
cứ tập kết, phải phục viên tại chỗ - đó cũng là một trong những nguyên
1
The Pentagon Papers - U.S.-Vietnam Relations, 1945-1967, A Study Prepared by the Department of Defense.
Ibid.
3
Ibid.
4
Christopher E. Goscha: Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the
Internationalist Communist Movement (1945–1950), Journal of Vietnamese Studies, Vol I, N0 1-2, (February,
August), 2006.
2
17
nhân khiến sau này khiến lãnh đạo Khmer đỏ cho rằng Việt Nam phản bội
“những người anh em Campuchia” lần thứ nhất và bồi đắp thêm tư tưởng
chống Việt Nam.
Việc Trung Quốc và Liên Xô sắp đặt sẵn với Pháp, Anh một giải
pháp về Việt Nam đã làm mất hiệu lực của chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo
toàn lợi ích riêng, “cả Liên Xô, Trung Quốc đã tiết chế bớt những yêu cầu
của Việt Minh và đóng vai trò quan trọng trong việc dàn xếp thỏa hiệp”1.
Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến 17, cả Võ
Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ ngàng. Biết rằng “với so
sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là
hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành
được vĩ tuyến 16”2, song Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đành phải “nuốt
viên thuốc đắng” vĩ tuyến 17. Hãy xem Jean Lacouture mô tả nỗi “ấm ức”
của Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Chung quanh
một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và P.M.F
(Pierre Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao quanh
Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy vẻ
đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh thổ của Việt Nam
cộng sản bị đẩy lùi dần từng cây số một về phía Bắc”3. Sau này, Phạm Văn
Đồng cay đắng thốt lên: “Chúng tôi có thể giành được nhiều hơn, nhiều
hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với Trung Quốc về mọi điều.
Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội đàm bí mật với Mandès France và tất cả
đều đã thay đổi”4. Ngay từ những ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam
đã hoài nghi về khả năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp đã
không vô lý, khi lo lắng: “Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ
giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất Việt Nam”5.
Rời khỏi Genève, Liên Xô, Trung Quốc đạt được hầu hết các mục
đích. Mặc dù kết quả Hội nghị Genève chủ yếu phục vụ quyền lợi của các
nước lớn và mang tính áp đặt thiệt thòi cho các nước nhỏ Đông Dương, tuy
1
George C. Herring: America's Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975 with Poster (4th
Edition), McGraw-Hill Higher Education, November 2001, p.28.
2 17
Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd,428.
3
Jean Lacouture, Philippe Devillers: La Fin d'une guerre: Indochine 1954, Éditions du Seuil, 1960, p.311.
4
Wilfred Burchett, The China Cambodia Viet Nam Triangle, London: Zed Press, 1981.
5
Võ nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr.429.
18
nhiên, từ góc độ tiếp cận của mình, Liên Xô, Trung Quốc đều không cho đó
là một kết cục “gây tử vong”. Nghiên cứu các văn bản, giấy tờ, biên bản
hội đàm, trao đổi giữa Liên Xô với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có thể
thấy, nếu như việc chia cắt lãnh thổ làm những người cộng sản Việt Nam
đau đớn, thì Liên Xô lại không cho đó là một hiện tượng hiếm thấy (trên
thế giới đã có trường hợp Đức và Triều Tiên). Tự biện minh, thì Liên Xô
coi đây một phương thức giải quyết các xung đột quốc tế - một phương
thức cho phép đảm bảo hòa bình trong một “giai đoạn quá độ” nhất định –
một bước lùi có thể chấp nhận được, bởi nó không loại trừ việc thống nhất
quốc gia vào thời điểm thích hợp sau này.
Trung Quốc quan niệm “những nhượng bộ tại Genève là tạm thời và
chiến thuật, bởi vì vào thời điểm đó, sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc cần
tiếp tục được củng cố, còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa đủ sức để theo
đuổi một thắng lợi hoàn toàn”1. K.Lawson phân tích lập trường của Trung
Quốc: “Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định này. Trên thực tế, 10 năm sau
đó, Hiệp định Genève đã chi phối mạnh mẽ cách suy nghĩ của Trung Quốc
trong giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam”2. Thật vậy, đến Genève
với một đoàn ngoại giao hùng hậu, gồm hơn 200 người3, tập trung những
nhân tài ưu tú nhất, “đứng trên vũ đài quốc tế hát kịch văn”, diễn một vở
diễn lớn, Chu Ân Lai “rời Genève gần như với tất cả mọi thứ đã được tiên
liệu và dự đoán trước”4. Từ những gì Trung Quốc đạt được ở Genève, có
thể kết luận: Cuộc chiến tranh Việt Nam là một đầu tư ngắn hạn, nhưng
hiệu quả của Trung Quốc5.
1
Yang Kuisong: Changes in Mao Zedong's Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Cold War International
History Project, Wilson Center, p.4.
2
Engene K. Lawson, The Sino - Vietnamese conflict, NewYork: Praeger Publishers 1984, p. 39 - 40
3
Đoàn đại biểu được chia làm sáu tổ: tổ về vấn đề Triều Tiên, tổ về vấn đề Việt Nam, vấn đề tổng hợp, tổ tin tức
tuyên truyền, tổ thư ký và tổ giao tiếp hành chính, trong đó có thêm năm phiên dịch tiếng Nga, bốn phiên dịch tiếng
Anh, bốn phiên dịch tiếng Pháp, ngoài ra còn có đầu bếp, lái xe, tổng cộng là 185 người, cộng thêm 29 nhà báo.
4
Chen Jian: China and the First Indo-China War, 1950-54, The China Quarterly, No. 133 (Mar, 1993), p.110.
5
Hội nghị Genève chứng tỏ rằng, trên phương diện giải quyết những vấn đề quốc tế cấp bách, sự tham gia của
Trung Quốc có vai trò quan trọng, Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, nâng cao địa vị quốc tế. Giải quyết hòa bình
vấn đề Đông Dương đã làm rối loạn việc triển khai chiến lược của Mỹ nhằm uy hiếp Trung Quốc từ ba chiến
tuyến Nam Triều Tiên, Đài Loan, Đông Dương, đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở biên thùy phía Nam, Trung
Quốc có thể tập trung sức người, sức của vào phát triển kinh tế. Hai năm sau Hội nghị, khối lượng buôn bán giữa
Trung Quốc với các nước châu Âu tăng rõ rệt, tăng gấp đôi (năm 1954 là 173,4 triệu USD, thì đến năm 1955 đã
đạt 226,2 triệu và đến năm 1956 là 326 triệu).
19
Một tháng sau ngày kết thúc Hội nghị, có tới 2/3 số người Pháp được
hỏi ý kiến trong cuộc điều tra xã hội học cho rằng các điều khoản đạt
được là đáng mừng1. Đa phần chính giới Pháp không công kích kết quả
Hội nghị, vì tuy Pháp bị mất một nửa nước Việt Nam, song củng cố ảnh
hưởng tại Lào, Campuchia; đồng thời, rút ra khỏi “cuộc chiến tranh bẩn
thỉu”.
Về phía Quốc gia Việt Nam, tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại
trưởng Trần Văn Đỗ “yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia
Việt Nam dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ
quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện thống
nhất, độc lập và tự do cho xứ sở”2. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố:
“Chính phủ Quốc gia Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định
cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân
Việt”3. Trần Văn Đỗ yêu cầu chèn thêm vào bản Tuyên bố nội dung: "Hội
nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam về cam kết
thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực thiết lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài
tại Việt Nam; không sử dụng vũ lực chống lại các thủ tục để lệnh ngừng
bắn có hiệu lực, trong khi Nhà nước Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối
được nêu lên ở Tuyên bố cuối cùng”4. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng.
Thất vọng vì “người Pháp đã trơ trẽn và bất chấp luật lệ bán rẻ lợi ích của
Quốc gia Việt Nam”5, trả lời phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: “Phái
đoàn quốc gia Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình chiến. Từ
khi đến Genève, phái đoàn không hề được hỏi ý kiến về điều kiện đình
chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này
đều được thảo luận tại những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia
Việt Nam không thể bày tỏ quan điểm”6. Tức tưởi, chán nản, bất lực, từ
Genève, Trần Văn Đỗ gửi điện xin từ chức.
Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng Quốc gia Việt Nam Phan Huy Quát tuyên bố: “Chia cắt Việt Nam sẽ
1
Alain Rusci: Dien Bien Phu, la fin d’une illusion, L.Harmattan, 1986.
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
3
Ibid.
4
The Pentagon Papers - U.S.-Vietnam Relations, 1945-1967.
5
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
6
Ibid.
2
20
dẫn tới nguy cơ làm dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam
(…) Đình chiến và phân vùng sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguy hiểm
hơn”1. Với quan điểm tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: “Đình
chiến và chia cắt lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để ngăn
chặn sự đổ máu, nhưng không thể chấm dứt chiến tranh. Và có thể, người
Việt Nam sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi
quân đội của cả hai bên luôn đặt ngón tay lên cò súng”2.
Căn cứ trên điều khoản “không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do
Pháp ký sau này” của Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam (4-61954), Quốc gia Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định
Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong Official record của U.S. Senate
Subcommittee, thì có ít nhất hai lý do khẳng định Quốc gia Việt Nam vẫn bị
ràng buộc bởi Hiệp định Genève: 1- Chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc
tính của một chủ quyền đầy đủ; 2- Phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng3.
Đặt mục tiêu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, Hiệp định
Genève đã không bịt được kẽ hở tạo khả năng cho Mỹ vào Đông Dương;
những “lỗ hổng” trong Hiệp định đặt Đông Dương trên bờ vực của một
cuộc chiến tranh mới. Từ tiến trình và kết quả Hội nghị, nổi bật lên hai vấn
đề lớn:
Thứ nhất, trên bàn cờ chính trị thế giới, chiến lược, mục tiêu đối
ngoại của các nước lớn luôn có xuất phát điểm và được xây dựng trên
những lợi ích có ý nghĩa toàn cầu; hợp tác hay xung đột cũng từ đó mà xuất
hiện, tồn tại, triệt tiêu hoặc phát triển. Trong quá trình vận động, các nước
nhỏ, yếu dễ bị biến thành “vật tế thần”, quyền lợi và nguyện vọng bị bỏ
qua, ít được “đếm xỉa” tới. Trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Quốc gia Việt Nam là một điển hình như thế.
Thứ hai, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên “vĩ
tuyến 17” đã không mang đến thậm chí là “nền hòa bình mong manh”. Hai
miền đất nước, hai chế độ và hơn 20 năm chiến tranh dài đằng đẵng. Lịch
1
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, Ibid.
Ibid.
3
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5.
2
21
sử Việt Nam ở thời điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi “giải pháp” của
những “người ngoài cuộc”.
Trong chuỗi vận động: Điện Biên Phủ - Genève- kết quả và hệ quả,
chúng tôi muốn rút tỉa một số vấn đề để ưu tư, suy ngẫm:
1- Bỏ qua phương án “đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp
Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và
hoàn tất. Cuối cùng, để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của
mình thông qua bầu cử tự do”, phải chăng Việt Nam đã lỡ một nhịp trên
con đường hòa bình và hòa hợp?
2- Lịch sử đã vô tình và khắc nghiệt đặt dải đất hình chữ S bên cạnh
một người láng giềng phương Bắc to lớn và đầy tham vọng. Áp lực “Hán
hóa” – một câu chuyện thường trực, chưa có hồi kết thúc. Ở Genève ngày
ấy, có cơ hội nào để Việt Nam “thoát Hán, giải Trung”?
3- Chiến thắng – giống như tấm huân chương - luôn có hai mặt: Cờ
hoa và xương máu. Có điều, giá trị của chiến thắng không chỉ được khẳng
định hoặc phủ định đơn thuần bởi chủ kiến của “người trong cuộc”, mà
quan trọng hơn, tính đích thực của nó được thẩm định và quyết định bởi
quá trình lịch sử tiếp theo; trong đó, “cái tiếp nối” và “cái hiện tại” là thước
đo chính nhất. Trên góc độ ấy, ở Geneve, có chiến thắng dành cho “người
trong cuộc”?
22