« Home « Kết quả tìm kiếm

Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa


Tóm tắt Xem thử

- Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa Phạm Trọng Nghĩa Nghiên cứu sinh Luật học Đại học Brunel, Vương quốc Anh 1.
- Toàn cầu hóa có tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống con người: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa… Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng sâu, rộng và quá trình toàn cầu hóa, mọi mặt của đời sống xã hội đã và đang thụ hưởng lợi ích đồng thời cũng chịu sự tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, trong đó có vấn đề lao động và pháp luật lao động.
- Trước thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa đến lao động và pháp luật lao động nói riêng là hết sức cần thiết.
- Bài viết này tập chung làm rõ những đặc điểm của lao động trong quá trình toàn cầu hóa, đánh giá những tác động của quá trình toàn cầu hóa đến pháp luật lao động, từ đó đưa ra một số khuyến nghị mang tính định hướng cho việc nghiên cứu, xây dựng chính sách để làm tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật lao động của Việt Nam.
- New Haven: Yale University Press trang 14 3 Xem Globalization tại http://en.wikipedia.org/wiki/Globalization [Truy nhập ngày Lao động và nhân công: Thông qua việc di cư, nhập cư của người lao động - Vốn: Thông qua việc đầu tư ra nước ngoài hay nhận đầu từ từ nước ngoài - Công nghệ: Thông qua việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia.
- Theo cách tiếp cận này, dưới tác động của toàn cầu hóa, vấn đề lao động có các đặc điểm nổi bật như sau.
- Toàn cầu hóa sẽ cho phép sự dịch chuyển tự do của lao động.
- Toàn cầu hóa cho phép người lao động có nhiều sự lựa chọn hơn trong công việc của mình, phạm vi làm việc không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà người lao động còn có thể di chuyển sang quốc gia khác để tìm kiếm việc làm.
- Sự chuyển dịch lao động trong quá trình toàn cầu hóa chính là giải pháp để giải quyết sự chênh lệch về điều kiện lao động, nhu cầu lao động giữa nước giàu và nước nghèo.
- 4 Có hai nhóm lao động chính tham gia quá trình chuyển dịch lao động: (i) Lao động có trình độ chuyên môn cao và (ii) lao động phổ thông.
- Trong khi, phần lớn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao di chuyển từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển thì ngược lại lao động phổ thông từ các nước kém phát triển triển lại đi đến các nước phát triển hơn để tìm kiếm việc làm.
- 6 Lực lượng lao động di cư ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động của quốc gia tiếp nhận, theo thống kê, số lượng lao động là người nước người của một số nước Châu Âu trong năm 2001 là 11% ở Áo, 18% ở Thủy điển và cá biệt là 61% ở Lucxambua.
- 7 Ở Việt Nam, tính đến hết năm 2007, đã có khoảng 500.000 Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước 4 Bob Hepple (2005) Labour Law and Global Trade.
- với tư cách là chủ sử dụng lao động.
- Thứ ba, cạnh tranh của người lao động trên phạm vi toàn cầu.
- Khi lựa chọn địa điểm đầu tư, bên cạnh các yếu tố về tài nguyên, chính trị, văn hóa, môi trường đầu tư… một yếu tố khác mà nhà đầu tư không thể không tính đến đó là yếu tố lao động: các tiêu chuẩn về lao động, giá nhân công, trình độ, kỹ năng của lực lượng lao động….
- Nơi nào có yếu tố lao động phù hợp hơn sẽ được lựa chọn để đầu tư.
- Trong bối cảnh như vậy, một người lao động vừa phải cạnh tranh với những người lao động khác trong nước vừa phải hợp sức với những người lao động khác để hợp thành lực lượng lao động đủ sức mạnh để cạnh tranh với lực lượng lao động của các nước các khu vực khác trên thế giới.
- Mặ khác, với sự phát triển ngày càng nhanh chóng của làn sóng lao động di cư, người lao động bản địa không chỉ phải cạnh tranh với nhau mà còn phải đối mặt với nguy cơ cạnh tranh của những lao động nhập cư.
- Netherlands: Kluwer Law International trang toàn cầu hóa, người lao động ở mọi nơi trên thế giới phải cạnh tranh với nhau.
- Họ không chỉ phải chứng tỏ rằng mình là người lao động có năng suất – chất lượng hơn, làm việc chăm chỉ hơn mà còn phải chứng tỏ rằng mình sẽ tốn ít chi phí hơn, ít đòi hỏi quyền lợi hơn để thu hút vốn từ những người sử dụng lao động (TNCs) và để tìm kiếm việc làm.
- 11 - Thứ tư, nguy cơ mất việc làm và phải giảm tiêu chuẩn lao động ở các nước phát triển.
- Đối với các nước phát triển, người lao động và tổ chức công đoàn của họ bị đe dọa bởi hàng hóa nhập khẩu từ những nơi có giá lao động rẻ hơn.
- 13 Sự chênh lệch về chi phí nhân công giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển đã khiến cho các ngành nghề kinh doanh có sử dụng nhiều lao động được điều chuyển từ các nước phát triển (nơi có chi phí nhân công cao, điều kiện lao động cao) sang các nước đang phát triển (nơi có chi phí nhân công thấp và điều kiện lao động đỡ ngặt nghèo hơn).
- 15 Bên cạnh đó, với mức sống và thu nhập cao hơn, các nước phát triển là địa điểm đến lý tưởng của làn sóng lao động di cư.
- Theo thống kê của IOM, nước đến chủ yếu của lao động nhập cư là Hoa Kỳ, Anh quốc, Canada, 11 Harry Arthur (2005) Reinventing Labor Law for the Global Economy.
- International Labour Review, Vol No1-2 trang Australia, Canada, các Quốc gia vùng Vịnh giàu có như: A rập Saudi, Kuwait, Oman… 16 Với quyết tâm tìm kiếm việc làm bằng mọi giá, những người lao động nhập cư này trở nên đối thủ cạnh tranh nặng ký đối với lao động bản địa.
- Để thu hút được vốn đầu tư, một trong những yếu tố mà nhà đầu tư sẽ xem xét đó là chi phí nhân công và các tiêu chuẩn về lao động.
- Nếu tiêu chuẩn về lao động quá cao, phí nhân công cao nhà đầu tư sẽ bỏ đi.
- Như vậy, các quốc gia phát triển đứng trước nguy cơ phải giảm thiểu điều kiện lao động và các quyền lợi của người lao động.
- Các học giả gọi đây là “sự phá giá về mặt xã hội” (social dumping) ở các nước phát triển trong quá trình toàn cầu hóa.17 - Thứ năm, nguy cơ phải đối mặt với tiêu chuẩn lao động tồi tệ ở các nước đang phát triển.
- Ở các nước đang phát triển, có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc người lao động có thể sẽ phải đối mặt với những tiêu chuẩn lao động tồi tệ và giá nhân công rẻ mạt.
- Do đó, để “giữ chân” những nhà đầu tư đã đến và “hấp dẫn” những nhà đầu tư khác, những quốc gia này sẵn sàng duy trì chi phí lao động rẻ mạt và bỏ qua việc cải thiện điều kiện lao động nghèo nàn của người lao động.
- Do vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, điều kiện lao động ở những nước đang phát triển có nguy cơ bị giảm sút, hoặc không được cải tiến.
- Cũng chính tại đây, người lao động đang và sẽ tiếp tục phải làm việc nhiều giờ trong ngày với mức lương thấp, điều kiện an toàn vệ sinh lao động nghèo nàn để đem lại lợi nhuận cho những người sử dụng lao động quốc tế cũng như để đảm bảo tính cạnh tranh của những người chủ sử dụng lao động trong nước.
- Điều này thường xảy ra ở các khu chế xuất (Exporting Zones) hay khu công nghiệp (Industrial Zones), nơi chủ sử dụng lao động được nhiều ưu đãi, đồng thời tại đó các tiêu chuẩn lao động thường bị lãng quên, quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể của người lao động bị vi phạm, việc thanh tra, kiểm tra thường ít được thực hiện vì lý do đảm bảo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- 19 Hay nói một cách khác, người lao động ở những nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ bị bóc lột về mặt xã hội (social exploited) trong quá trình toàn cầu hóa.20 Bên cạnh những tác động nêu trên, theo Werner Sengenberger, 21 toàn cầu hóa còn ảnh hưởng đến vấn đề lao động như sau.
- Sự chênh lệc giàu nghèo và bất công giữa người lao động trong một quốc gia và giữa các quốc gia.
- Tác động của toàn cầu hóa đến pháp luật lao động Pháp luật lao động là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực lao động.
- Trước những tác động như đã phân tích ở trên của quá trình toàn cầu hóa đối với lao động, pháp luật lao động phải chịu những ảnh hưởng như sau trong quá trình toàn cầu hóa.
- Thứ nhất, chủ thể của quan hệ pháp luật lao động được mở rộng.
- Bên cạnh việc điều chỉnh mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong nước, nay luật lao động còn điều chỉnh: (i) mối quan hệ giữa người sử dụng lao động có yếu tố nước với người lao động trong nước.
- (ii) mối quan hệ giữa người sử dụng lao động trong nước với người lao động là người nước ngoài và (iii) mối quan hệ giữa người sử dụng lao động có yếu tố nước ngoài và người lao động là người nước ngoài.
- Thứ hai, về đối tượng điều chỉnh của luật lao động (quan hệ lao động) trở nên khó xác định rõ.
- 22 Trong quá trình toàn cầu hóa, mối liên hệ giữa người lao động và người chủ sử dụng lao động thực tế có nguy cơ bị mờ nhạt và lợi ích chung của những người lao động bị xóa nhòa.
- Nếu như trước đây, chủ sử dụng lao động và người lao động cùng đóng trên địa bàn của một quốc gia, thì ngày nay, ngày càng có nhiều chủ sử dụng lao động có người lao động ở trên nhiều quốc gia khác nhau.
- Trong trường hợp này, quan hệ lao động tập thể, quyền thương lượng tập thể của những người lao động cùng làm việc cho TNC này sẽ vượt ra sự điều chỉnh của pháp luật lao động của một quốc gia riêng lẻ.
- Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động có sự thay đổi.
- Ở những quốc gia phát triển, phạm vi điều chỉnh của Luật lao động bị thu hẹp vì sự 22 Harry Arthur (2005) Reinventing Labor Law for the Global Economy.
- Nội dung các quy phạm pháp luật về thương lượng tập thể có nguy cơ bị thu hẹp.24 Ở các nước đang phát triển, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật lao động bằng cách ban hành các quy định cải tiến điều kiện lao động, tăng cường việc bảo vệ người lao động là khó có thể thực hiện được.
- Như đã phân tích ở trên, để duy trì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và để thu hút vốn đầu tư nước ngoài dưới sức ép của quá trình cạnh tranh toàn cầu, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ tiếp tục duy trì điều kiện lao động nghèo nàn với giá nhân công rẻ mạt như là một yếu tố đảm bảo tính cạnh tranh.
- Do đó, việc ban hành các quy định pháp luật lao động mới, tiến bộ hơn – việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật lao động là khó có thể được thực hiện.25 - Thứ tư, sự can thiệp của các TNCs và các thiết chế tài chính quốc tế vào quá trình xây dựng và trong việc thi hành pháp luật lao động.
- Mặt khác, mặc dù hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật khác nhau, tuy nhiên các TNCs vẫn duy trì việc áp dụng một số quy định riêng của mình trong vấn đề lao động.26 Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa, pháp luật lao động còn chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thiết chế tài chính quốc tế.
- 8 pháp luật, trong đó có pháp luật về lao động cho phù hợp với mục tiêu của họ.
- 27 - Thứ năm, khả năng xung đột của pháp luật lao động quốc gia tăng cao.
- Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài phát sinh trên lãnh thổ của một quốc gia.
- Như vậy, một quan hệ lao động có thể được điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật trở lên và điều này dẫn đến nguy cơ xảy ra xung đột pháp luật.
- Trong quá trình toàn cầu hóa, một TNC có trụ sở chính tại nước A hoàn toàn có thể thuê lao động ở nước E để đi làm việc cho mình tại một nhà máy ở nước G.
- Điều này dẫn đến mối quan hệ lao động giữa chủ sử dụng lao động và người lao động được điều chỉnh bởi 3 hệ thống pháp luật của 3 quốc gia khác nhau và khi tranh chấp lao động xảy ra sẽ dẫn đến sự xung đột pháp luật giữa các quốc gia này.
- Thứ sáu, việc thi hành pháp luật lao động quốc gia trở nên khó khăn hơn.
- Nếu như trước đây, người lao động và người sử dụng lao động có cùng ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, lịch sử, giá trị truyền thống.
- Sự thông hiểu giữa người lao động và người sử dụng lao động tốt hơn và việc thi hành các quy định của pháp luật lao động sẽ trở lên dễ dàng hơn.
- Đây cũng là một trong số các nguyên nhân làm cho việc thi hành các quy định của pháp luật lao động trở nên khó khăn hơn.28 Bên cạnh đó, pháp luật của một quốc gia riêng lẻ không thể điều chỉnh được một TNC vì công ty này hoạt động trên nhiều quốc gia khác nhau chứ không hoàn toàn nằm trong “chủ quyền tài phán” của một quốc gia riêng biệt nào.
- Các công ty này sẽ hoạt động bên ngoài khuôn khổ của pháp luật quốc gia, chốn tránh việc thực hiện luật lao động quốc gia.29 - Thứ bảy, nhu cầu đưa các quy định về lao động vào trong các hiệp định về thương mại.
- Oregon: Hart Publishing trang 11 28 Việc thi hành pháp luật lao động dựa trên trên tính tự giác và sự hợp tác của người sử dụng lao động và người lao động là chủ yếu.
- Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn hóa, truyền thống… nên sự thấu hiểu lẫn nhau để có thể hợp tác được với nhau giữa người sử dụng lao động và người lao động của hai quốc gia khác nhau là khó hơn so với những người cùng một quốc tịch.
- Có thể dễ dàng nhận thấy, ở nước ta số cuộc đình công trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn cao hơn số cuộc đình công trong nước mà nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc đình công này là bên cạnh nguyên nhân là người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động còn có một lý do khác là sự bất đồng giữa người sử dụng lao động và người lao động do sự khác biệt về văn hóa, truyền thống, tôn giáo… 29 Xem Brian W.
- (ii) những học giả theo chủ thuyết thương mại công bằng (Fair – Trade) và (iii) các nhà hoạt động về quyền của người lao động.
- Những quốc gia theo chủ nghĩa bảo hộ thường là những nước phát triển,30 bởi họ lo sợ hàng hóa giá rẻ đến từ các nước có chi phí nhân công và tiêu chuẩn lao động thấp sẽ đánh bại các doanh nghiệp trong nước, nơi mà chi phí nhân công và tiêu chuẩn lao động cao hơn.
- Hoa Kỳ là quốc gia tiêu biểu cho quan điểm này và là chủ thể đầu tiên đề cập đến việc đưa các quy định về lao động vào trong các hiệp định thương mại.
- Họ đề xuất phải đưa các quy định về quyền của người lao động vào trong các hiệp định thương mại và trong các quy định của các thiết chế thương mại thể giới.
- Họ cho rằng, bằng việc đưa các quy định về lao động vào trong các hiệp định thương mại như vậy, hoạt động thương mại giữa các quốc gia vẫn phát triển, đồng thời việc vi phạm quyền lợi của người lao động ở các quốc gia sẽ được khắc phục.
- Dưới sức ép của các chế tài thương mại, các quốc gia sẽ cố gắng thực hiện việc đảm bảo quyền lợi của người lao động và nâng cao các tiêu chuẩn lao động để tránh những thiệt hại có thể xảy ra đối với nền kinh tế khi phải gánh chịu các biện pháp trừng phạt thương mại.
- 35 - Thứ tám, sức ép đòi xóa bỏ các quy định pháp luật lao động quốc tế 36 của những người theo học thuyết thương mại tự do.
- 37 Để quá trình toàn cầu hóa phát triển, mọi rào cản chống lại thương mại tự do phải được dỡ bỏ, trong đó có các các yếu tố như: thuế quan, hạn ngạch…và các tiêu chuẩn về lao động.
- Theo quan điểm của họ, các quy định lao động quốc tế là nhân tố gây ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của thị trường, làm hạn chế tính hiệu quả của thị trường, suy yếu tính cạnh tranh, làm nản lòng giới đầu tư và từ đó cản trở sự phát triển.38 Những người theo quan điểm này cho rằng, biện pháp bảo vệ người lao động tốt nhất đối với người lao động trong cơ chế thị trường không phải là các quy định về điều kiện lao động.
- Cơ chế thị trường sẽ tự đặt ra các tiêu chuẩn lao động.
- Geneva: International Institute for Labour Studies trang 3 11 Người sử dụng lao động nào trả lương thấp, có điều kiện lao động không đảm bảo, chế độ đãi ngộ với người lao động không tốt thì sẽ mất những lao động có tay nghề, có kinh nghiệm cũng như sẽ không có được đội ngũ nhân công ổn định.
- 39 Do đó, để doanh nghiệp phát triển, chính bản thân chủ sử dụng lao động sẽ phải đặt ra các quy định về lao động trong bản thân doanh nghiệp mình làm sao đảm bảo tính cạnh tranh đối với những chủ sử dụng lao động khác trong việc tuyển dụng những lao động có chuyên môn, có kỹ năng và kinh nghiệm.
- Quan điểm này còn cho rằng các quy định về lao động và tiêu chuẩn lao động sẽ gây ra chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Bởi lẽ, để đáp ứng các quy định về lao động người sử dụng lao động phải trả thêm chi phí, điều này làm hạn chế tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
- 40 Hơn thế nữa, theo họ, nếu quy định một tiêu chuẩn lao động chung cho các quốc gia sẽ làm mất đi lợi thế cạnh tranh của những quốc gia có tiêu chuẩn lao động thấp.
- 41 Do vậy, những người theo quan điểm này cho rằng việc ban hành quy định chung về lao động không thúc đẩy cạnh tranh toàn cầu và không thúc đẩy tự do thương mại và như vậy, các quy định chung về lao động ở cấp quốc tế (Luật Lao động quốc tế) là không cần thiết.
- Kết luận & Đề xuất Toàn cầu hóa có tác động lớn đến lao động và pháp luật lao động.
- Bên cạnh những tác động tích cực đem lại cơ hội tốt, toàn cầu hóa cũng có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến pháp luật lao động quốc gia cũng như pháp luật lao động quốc tế.
- Chúng ta không bàn đến việc có nên tham gia vào quá trình toàn cầu hóa hay không (vì câu trả lời đã rõ) mà chúng ta cần tập trung vào việc tìm hiểu phải toàn cầu hóa như thế nào để mọi người cùng được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt là người lao động.
- London: Cameron May trang 73 12 Việt Nam chưa phải là một cường quốc kinh tế trên trường quốc tế, nhưng Việt Nam là một cường quốc về lao động – nguồn nhân lực.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cần phải có những giải pháp để tận dụng những thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa cũng như có biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế nhưng tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đến người lao động và pháp luật lao động.
- Cũng trong bối cảnh như vậy, việc xây dựng, hoàn thiện và đảm bảo thực thi các quy định pháp luật về lao động để phát huy thế mạnh về lao động của Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng.
- Qua nghiên cứu những ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lao động và pháp luật lao động, xu hướng phát triển của các quy phạm pháp luật lao động trong tương lai, với khả năng hạn chế của mình, chúng tôi xin mạo muội đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng nghiên cứu như sau.
- Thứ nhất, rà soát, đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật lao động cả trên phương diện kỹ thuật lập pháp cũng như trong khâu tổ chức thực hiện, trong đó có so sánh với pháp luật lao động của các quốc gia khác và đối chiếu với các quy định của Luật Lao động quốc tế.
- Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá chi tiết sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến các vấn đề lao động cả về lý luận và thực tiễn theo từng nội dung phân tích ở phần 2, phần 3, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO.
- Thứ ba, nghiên cứu dự báo chính xác xu hướng vận động và phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong tương lai.
- tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam đến quá trình xây dựng pháp luật lao động quốc tế.
- nghiên cứu để đề xuất xây dựng và tiến tới dự thảo Công ước lao động quốc tế từ thực tiễn của Việt Nam.
- Thứ sáu, nghiên cứu để đề xuất đưa các quy định về lao động vào trong khuôn khổ hợp tác của Asean, Apec… Trong Khối Asean, Việt Nam là nước có dân số và lực lượng lao động đứng thứ 3 (chỉ sau Indonesia với 225,9 triệu dân và Philipin với 88,8 triệu dân)46.
- Trong tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và một phần lớn là làm việc trong khu vực Asean.
- Chúng ta cần nâng cao vai trò và tiếng nói của Việt Nam trong các diễn đàn về vấn đề lao động của khu vực, đồng thời chủ động đề xuất và dự thảo các quy định chung về lao động để đưa vào khuôn khổ hợp tác của Asean – có lẽ đây cũng có thể là cách thức bảo vệ tốt nhất những người lao động Việt Nam đi làm việc ở các quốc gia Asean khác.
- Tóm lại, chúng tôi cho rằng, một hệ thống pháp luật lao động tiến bộ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ và phát triển nguồn nhân lực – tài sản quý nhất của quốc gia.
- Một hệ thống pháp luật lao động phù hợp với các yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa là điều kiện cần thiết để tận dụng thời cơ, phát huy thế mạnh của lực lượng lao động nước ta, góp phần quan trọng vào việc đưa nước ta từ một cường quốc về lao động trở thành một cường quốc về kinh tế trong tương lai