No.18_Oct 2020|Số 18 – Tháng 10 năm 2020|p.140-147
DOI:
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
http://tckh.daihoctantrao.edu.vn/
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI TỈNH PHÚ THỌ
Nguyễn Thị Thu Hà1, Nguyễn Mai Chinh2*
1
Học viện Hành chính Quốc gia
2
Đại học Tân Trào
*
Email: maichinh1989@gmail.com
Thông tin bài viết
Tóm tắt
Ngày nhận bài:
28/4/2020
Ngày duyệt đăng:
20/9/2020
Với mong muốn cung cấp một nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ
mới nên việc nghiên cứu Chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu
cầu cách mạng công nghiệp 4.0 là cần thiết, từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, tác giả
đưa ra một bức tranh tổng thể về chính sách phát triển nguồn nhân lực tại Phú
Thọ trong thời gian qua, đánh giá những tồn tại và tìm ra nguyên nhân của
những hạn chế đó, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chính
sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0.
Từ khóa:
Nguồn nhân lực, Phú Thọ,
chính sách.
Đặt vấn đề
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của
nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển
của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới
đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực. Trong thế
kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên
nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã
đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn
thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài
ba thập kỷ.
Trong thời gian qua, tỉnh Phú Thọ đã thực hiện
tốt chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm xây
dựng một lực lượng lao động có chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thành phố nói riêng
và của cả tỉnh nói chung, tuy nhiên, số lượng lao
động chất lượng cao còn thiếu, tính chuyên nghiệp
của đội ngũ công chức, viên chức chưa cao, chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển của tỉnh nhà, tỷ lệ cán bộ
có trình độ sau đại học còn thấp, chưa có những
chuyên gia đầu ngành, cơ cấu nguồn nhân lực chưa
hợp lý giữa cung và cầu dẫn đến sự lãng phí trong
đào tạo…..
1. Một số khái niệm liên quan
Nguồn nhân lực
Theo PGS.TS. Phạm Minh Hạc: nguồn nhân lực
là tổng thế các tiềm năng lao động của một nước
hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được
chuẩn bị sẵn sàng tham gia một công việc lao động
nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng bằng
con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển
đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa1.
1
Phạm Minh Hạc (2003), Đi vào thế kỷ XXI phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước,Hội thảo về phát triển nguồn nhân lực KX-05-11 tại
thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/3/2003.
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: nguồn nhân
lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ
tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước2.
Nguồn nhân lực là tổng thể sức dự trữ, những
tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự
tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên và
cải tạo xã hội3.
Phát triển nguồn nhân lực
Theo Từ điển tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi
hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng, từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp”.4
Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO: phát triển
nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng, không chỉ là
sự chiếm lĩnh lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói
chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng
năng lực đó vào việc làm có hiệu quả, cũng như thỏa
mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.5
Việt Nam cũng đưa ra quan điểm riêng của mình
về phát triển nhân lực phù hợp với tình hình đất
nước. Mục tiêu chiến lược của phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam là đáp ứng sự nghiệp CNH-HDH đất
nước để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng,
đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam là: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề
thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo và bồi
dưỡng bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với
một nền khoa học công nghệ”.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chính sách phát triển nguồn nhân lực là một công
cụ quan trọng của nhà nước trong việc tạo điều kiện
và thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực. Mục
tiêu hướng tới của các chính sách phát triển nguồn
nhân lực là phải phát huy được nhân tố con người
trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền
lợi, nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ xã hội; chú trọng nâng cao đời sống vật
chất, đồng thời với đời sống tinh thần.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực chính là sự
2
Văn Đình Tấn, Nguồn nhân lực trong công cuộc công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta;
3
Trần Thị Tâm Đan, Tạp chí cộng sản số 5;
4
Từ điển tiếng việt, NXb thống kê,
5
Phát triển và quản lý nguồn nhân lực xã hội (2006), Nxb
Tư pháp;
thể chế hóa các đường lối, chủ trương, nhiệm vụ của
Đảng vào các văn bản pháp quy nhằm chăm lo, giáo
dục công dân trở thành nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng với thời kỳ công nghiệp 4.0, xây dựng
và bảo vể tổ quốc, hội nhập quốc tế.
2. Thực trạng nguồn nhân lực tại tỉnh Phú Thọ
Thứ nhất, quy mô và cơ cấu nguồn nhân lực
Theo số liệu thống kê đến năm 2017, dân số trong
độ tuổi lao động của toàn tỉnh là 854,1 nghìn người,
trong đó, số người đang làm việc là 743,8 nghìn
người chiếm 54,2% dân số. Cơ cấu lao động 15 tuổi
trở lên đang làm việc trong các khu vực kinh tế có sự
chuyển dịch đáng kể và theo hướng tích cực trong
những năm gần đây. Trong đó, cơ cấu lao động khu
vực nông, lâm, thủy sản giảm từ khoảng 55% năm
2014 xuống còn 48% năm 2018, khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng từ trên 19% lên khoảng gần
23%, khu vực dịch vụ tăng từ 25% lên gần 30%. Tỷ
lệ thất nghiệp của lao động trong độ đuổi khu vực
thành thị giảm từ 4,8% xuống còn 4,4%. Điều này
phản ánh nguồn nhân lực của tỉnh Phú Thọ đang trên
đà phát triển.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp trẻ được xem
như là một nhân tố mới trong nguồn nhân lực. Đó là
một nguồn nhân lực dồi dào của tỉnh, nếu biết khai
thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều
vấn đề trọng đại trong phát triển kinh tế, xã hội.
Hiện nay, ở tỉnh Phú Thọ có quy mô dân số khá
lớn nên số người trong độ tuổi lao động cao và tăng
nhanh. Hàng năm có khoảng gần 2000 người bước
vào độ tuổi lao động. Năm 2020 tỉnh sẽ có khoảng
gần 750.000 người trong độ tuổi lao động, chiếm
62,8% tổng dân số. Đây là cơ hội cho tỉnh Phú Thọ
phát triển, tận dụng nguồn nhân lực vô cùng quý giá
để phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH-HĐN của tỉnh. Với nguồn lực dồi dào, việc thu
hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh sẽ thuận lợi hơn rất
nhiều, nhiều dự án đầu tư cần nguồn nhân lực lớn đã
được triển khai trên địa bàn tỉnh như cơ khí, tiêu
dùng... giải quyết công ăn việc làm cho một lực
lượng lớn lao động xã hội. Bên cạnh đó, tỉnh Phú
Thọ cũng thực hiện việc xuất khẩu lao động. Đây là
thời cơ tốt nhất cho nguồn nhân lực phát triển.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực
* Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa thể hiện trí thức, kiến thức khoa
học, thể hiện khả năng nhận thức xã hội của mỗi cá
nhân, là nền tảng ban đầu để tiếp thu những kiến thức
mới, khả năng nắm bắt vấn đề cũng như thái độ và
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
cách ứng xử của mỗi cá nhân trong quan hệ với
người khác.
động có trình độ đại học và trên đại học đạt 9,1 %,
cao đẳng 8,7%.
Nhìn chung, nguồn nhân lực tỉnh Phú Thọ có
trình độ văn hóa tương đối đồng đều. Vì vậy, lãnh
đạo tỉnh cần tiếp tục quan tâm tới việc bồi dưỡng
nâng cao trình độ văn hóa hơn nữa cho đội ngũ lao
động này để đào tạo, bồi dưỡng người lao động ở
tỉnh Phú Thọ có tinh thần yêu nước, có trật tự và tôn
trọng pháp luật, hiểu biết rõ và biết so sánh hiệu quả
lợi ích có liên quan, biết thực hiện nghĩa vụ, có trách
nhiệm với nhiệm vụ của mình, xây dựng nguồn nhân
lực có trình độ văn hóa, có chuyên môn, có khả năng
tích cực và biết cần, kiệm, liêm chính, có sức khỏe,
có văn minh.
Hiện nay, tỉnh Phú Thọ đã có gần 50 cơ sở đào
tạo nghề với mạng lưới phủ kín khắp các huyện,
thành, thị trong tỉnh. Các cơ sở đào tạo, dạy nghề
từng bước được nâng cấp, mở rộng quy mô với trên
150 mã ngành nghề đào tạo, trong đó trên 40 mã đào
tạo đại học.
* Các kỹ năng mềm
Đa số lao động ở tỉnh Phú Thọ xuất thân từ nông
thôn, đã quen với lối sản xuất nông nghiệp nên khi
bước vào nền sản xuất công nghiệp, lao động chưa
thích nghi ngay với môi trường làm việc mới. Do đó,
trong giai đoạn đầu, việc chấp hành ý thức tổ chức kỷ
luật, pháp luật lao động còn hạn chế, cần thời gian để
thích nghi. Lực lượng này chủ yếu làm việc theo sự
phân công của cấp trên. Khi có sự hướng dẫn thì họ
luôn có tinh thần hợp tác, phối hợp để hoàn thành
công việc được giao, đức tính của người lao động là
cần cù, chịu khó.
Trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền,
công tác quản lý được tăng cường, hiểu biết và ý thức
chấp hành pháp luật của người dân nói chung và
người lao động nói riêng được nâng lên. Thói quen
làm việc tuân thủ các quy định, quy chế làm việc, có
kỷ luật đã có bước tiến bộ, đặc biệt trong các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến có quy mô lớn, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra cùng với
việc các doanh nghiệp không ngừng mở rộng sản
xuất, đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại, làm
việc theo dây truyền, ca kíp... cộng với công tác giáo
dục, áp dụng các quy trình quản lý chất lượng, quản lý
lao động khoa học tiên tiến được quan tâm, coi trọng,
góp phần nâng cao tình thần hợp tác, năng suất lao
động, chất lượng công việc, sản phẩm được nâng lên.
* Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đến năm 2018 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
55%, trong đó đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt
trên 24,4%, cao hơn trung bình chung của cả nước.
Chỉ tính từ năm 2013 đến nay đã có 179,2 nghìn
người được đào tạo mới; 18,7 nghìn lượt cán bộ,
công chức, viên chức, công nhân kỹ thuật đào tạo lại
và bồi dưỡng nâng cao trình độ. Nhờ vậy, chất lượng
nguồn nhân lực không ngừng được nâng lên, lao
Bên cạnh đó, tỉnh Phú Thọ đã ban hành nhiều
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa học kỹ thuật,
công nhân bậc cao, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi về
công tác tại tỉnh. Đồng thời tỉnh cũng có nhiều chính
sách hỗ trợ cán bộ công chức, viên chức đi đào tạo
nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn. Trong 5
năm, đã có 59 cán bộ được đào tạo tiến sỹ, 343 cán
bộ đi đào tạo thạc sỹ, hàng trăm cán bộ được cử đi
đào tạo bác sỹ chuyên khoa I, II; thu hút được 17 thạc
sỹ, 20 sinh viên tốt nghiệp trong nước và ngoài nước
loại giỏi, xuất xắc về công tác tại tỉnh.
Đặc biệt, tỉnh Phú Thọ cũng vừa quyết định dành
nguồn kinh phí lớn hỗ trợ đào tạo tiến sỹ y khoa cho
bác sỹ đang công tác tại các cơ sở y tế công lập của
tỉnh. Mỗi bác sỹ được cử đi học sẽ được hỗ trợ 300
triệu đồng/năm với thời gian 3 năm. Dự kiến từ nay
đến năm 2020 tỉnh sẽ đào tạo 27 tiến sỹ y khoa để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành y,
đảm bảo đội ngũ cán bộ y, bác sỹ có đủ về số lượng,
chất lượng đáp ứng nhu cầu cần thiết.
Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu địa
phương, tỉnh Phú Thọ đã đưa ra nhiều chính sách thu
hút, đãi ngộ các chuyên gia, nhà khoa học, giáo viên
có trình độ giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên gia đầu
ngành, thợ bậc cao về giảng dạy và làm việc tại tỉnh.
Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đạt chuẩn về
trình độ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp; bảo đảm chế độ chính sách cho đội
ngũ giáo viên và người học theo quy định của Nhà
nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động hướng nghiệp
trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ
thông và các cơ sở dạy nghề để giúp học sinh định
hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Tỉnh Phú Thọ đã và đang từng bước phát triển,
từng bước tiến vào hội nhập, từng bước tiếp cận khoa
học công nghệ, vì thế đòi hỏi một lực lượng đông đảo
nhân lực có trình độ cao, có khả năng làm việc trong
môi trường công nghệ và cạnh tranh. Đặc biệt với
một số ngành đặc thù như công nghệ thông tin lại
càng đòi hỏi nhân lực đạt đến trình độ quốc tế hóa.
Bên cạnh đó, một số ngành mũi nhọn của tỉnh như
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
nông nghiệp, du lịch, công nghiệp cũng yêu cầu đội
ngũ đủ khả năng thích ứng với mọi sự biến động của
môi trường trong nước và thế giới. Có thể nói rằng, ở
lĩnh vực nào thì tỉnh Phú Thọ cũng đều đang thiếu
lực lượng lao động chất lương cao. Thực tế hiện nay
ở địa phương lực lượng lao động sản xuất nông
nghiệp thiếu khoa học kỹ thuật, sản xuất manh mún.
Lực lượng công nhân trình độ thấp. Hàng năm lượng
sinh viên ra trường lớn nhưng số lượng sinh viên có
việc làm còn thấp. Tỷ lệ sinh viên có việc làm không
đúng ngành nghề còn cao.
3. Hạn chế, nguyên nhân và một số giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới
3.1. Hạn chế
Bên cạnh các kết quả đạt được, các chính sách
phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Một là, các văn bản dưới luật, cơ chế, chính sách
về phát triển nguồn nhân lực chưa đồng bộ và chưa
đáp ứng nhu cầu đổi mới. Nhiều chủ trương, chính
sách chưa được thể chế hóa và cụ thể hóa bằng các
chính sách cụ thể ở cấp vĩ mô, cấp ngành phù hợp
nền kinh tế chuyển đổi. Nhiều vấn đề mới phát sinh
và cũng có nhiều vấn đề bức xúc trong thực tiễn chưa
được nhận thức thống nhất và giải đáp về mặt lý
luận, nên khó khăn trong việc cụ thể hóa thành cơ
chế, chính sách như là một công cụ quản lý trong
điều kiện mới.
Hai là, quản lý chất lượng nguồn nhân lực là một
trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay ở tỉnh
Phú Thọ. Thực tế chất lượng quản lý nguồn nhân lực
ở tỉnh Phú Thọ còn thấp. Chất lượng nguồn nhân lực
làm cho khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế và
lao động ở tỉnh Phú Thọ thấp. Đó là một thách thức to
lớn của tỉnh trên con đường phát triển và hội nhập.
Ba là, hệ thống cơ chế, chính sách chưa thực sự
đưa ra những giải pháp khả thi để gắn giữa đào tạo
với phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực. Trong nền
kinh tế hiện đại, thị trường lao động hình thành, phát
triển và hoạt động theo những quy luật khách quan và
đòi hỏi phải đổi mới trong chính sách đào tạo nguồn
nhân lực; phải gắn giữa đào tạo nguồn nhân lực với
cầu lao động trên thị trường nhằm đáp ứng các yêu cầu
về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực.
Bốn là, thách thức lớn nhất của tỉnh Phú Thọ là
chưa có chính sách và giải pháp vừa cơ bản, lâu dài,
vừa cấp bách trước mắt nhằm tuyển dụng lao động.
Hàng năm, tỉnh Phú Thọ phải giải quyết việc làm
mới cho một lực lượng lao động rất lớn, giảm cơ cấu
lao động nông nghiệp, tăng cơ cấu lao động công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Vì vậy, tỉnh Phú Thọ
phải có công cuộc cách mạng về quản lý nguồn nhân
lực và phân công lại lao động trong toàn tỉnh. Đây là
một thách thức to lớn đối với tỉnh Phú Thọ trên con
đường CNH-HĐH và hội nhập.
Năm là, nâng cao tính khả thi của các chính sách
phát triển nguồn nhân lực gắn với cải cách hành
chính cũng là vấn đề bức xúc. Một khi rào cản về cơ
chế, chính sách, pháp luật về phát triển nguồn nhân
lực được xóa bỏ thì vấn đề còn lại là khâu tổ chức
thực hiện. Nhiều khi đây lại là rào cản không nhỏ,
thậm chí quyết định trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực do bộ máy quan liêu, hành chính tiêu
cực và tham nhũng gây ra.
Sáu là, năng lực của cán bộ làm công tác quản lý
và phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra. Một bộ phận cán bộ, công chức
sa sút, thoái hóa về đạo đức, quan liêu, cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước vẫn
diễn ra. Trong những năm gần đây, đội ngũ công
chức làm công tác quản lý nguồn nhân lực ở tỉnh Phú
Thọ đã có những bước trường thành nhất định, phần
nào đáp ứng dần những yêu cầu, nhiệm vụ của thời
kỳ đổi mới, song cũng bộ lộ nhiều mặt hạn chế, yếu
kém, bất hợp lý về số lượng, chất lượng, cơ cấu.
3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, cơ chế quản lý kinh tế xã hội cũ chưa
mất hẳn, thể chế chính sách mới được xác lập nhưng
chưa thực sự đi vào cuộc sống một cách cơ bản, toàn
diện, đã làm ảnh hưởng đến việc thực thi các chính
sách, trong đó có chính sách phát triển nguồn nhân
lực trong thời kỳ mới. Cơ chế, chính sách không
đồng bộ, chưa sát với thực tế, thiếu tính khả thi và
chưa tạo động lực mạnh để phát triển.
Thứ hai, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong
và người địa phương có nhiều diễn biến phức tạp,
trong khi đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn
đã tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng, nhận thức và
hành động của đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác quản lý, chính sách. Chưa nhận thức đầy đủ về sự
đổi mới vai trò, chức năng của nhà nước và quản lý
kinh tế trong điều kiện chuyển đổi đời sống kinh tế,
xã hội của địa phương nên còn lúng túng, bị động
trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
Thứ ba, công tác tổ chức, thực hiện các Nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa
nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thực
sự chủ động. Nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được
đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn. Một
số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có nhận thức
thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp.
Thứ tư, việc quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực ở tỉnh Phú Thọ hiện nay chưa kịp với thực
tiễn và nhu cầu phát triển khi nền kinh tế đang từng
bước chuyển mình sang nền kinh tế thị trường; chưa
có sự phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực của nhà nước và xã hội; chậm đổi mới cả về
tư duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định
hướng chiến lược và các chính sách vĩ mô đúng đắn
để xử lý mối tương quan lớn giữa quy mô, chất lượng
và hiệu quả trong phát triển nguồn nhân lực; năng lực
của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nguồn nhân
lực chưa được chú trọng nâng cao.
Thứ năm, thông tin thị trường lao động không đầy
đủ; thiếu sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo với doanh
nghiệp, sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo
nhân lực còn hạn chế.
3.3. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cách mạng
công nghiệp 4.0 từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
Một là, giải pháp về kế hoạch hóa nguồn nhân
lực
Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động
theo hướng bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao
động và người sử dụng lao động. Đẩy mạnh công tác
đào tạo nghề cho lao động, nhất là lao động nông
thôn. Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng
đa dạng hóa hình thức và phù hợp với kinh tế thị
trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực
hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và
vệ sinh lao động.
Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp cho người lao động, đồng thời tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia bảo hiểm tự
nguyện.
Ban hành chính sách thu hút các thành phần kinh
tế, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, đầu tư vào những
lĩnh vực mà tỉnh Phú Thọ có lợi thế, tiềm năng phát
triển như: công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch...
Để hỗ trợ các chính sách trên, cần chú trọng việc
cải thiện nhanh việc giải quyết các thủ tục đầu tư,
chính sách trợ giá, giải tỏa đền bù đất đai, hỗ trợ tiền
thuê đất, cung ứng và đào tạo lao động, xây dựng nhà
ở cho công nhân, đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
chính sách tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư...
trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật và
trong thẩm quyền của thành phố.
Ban hành chính sách tập trung xây dựng nhanh
các khu, cụm công nghiệp, trung tâm thương mại làm
tiền đề phát triển nhanh tỷ trọng khu vực kinh tế công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ, sử dụng lao động phi
nông nghiệp ngày càng nhiều.
Tổ chức tốt các hội chợ lao động và việc làm nhằm
tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội tìm
kiếm việc làm và các doanh nghiệp có nhiều cơ hội
tuyển dụng lao động phù hợp với yêu cầu của mình.
Xây dựng mạng lưới thông tin thị trường sức lao
động từ cấp xã, huyện. Quy hoạch và hình thành mạng
lưới trung tâm giới thiệu việc làm ở tỉnh Phú Thọ.
Hình thành hệ thống thông tin cung cầu nguồn lao
động có trình độ cao kết nối với hệ thống thông tin
thị trường lao động trong toàn tỉnh.
Hai là, giải pháp về tuyển chọn nguồn nhân lực
Sử dụng các phương pháp thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao phù hợp với khả năng, điều kiện của
cơ quan và nhu cầu, nguyện vọng của các đối tượng
từ nguồn nhân lực chất lượng từ nước ngoài trở về có
thể sử dụng nhiều hình thức. Trường hợp cơ quan,
đơn vị cần vị trí việc làm lâu dài thì cần có chính
sách và biện pháp để thu hút, tuyển dụng nhằm sở
hữu người có năng lực phù hợp. Đối với trường hợp
không có nhu cầu hoặc không đủ khả năng sở hữu
nguồn nhân lực chất lượng đó nên có cơ chế thu hút,
cộng tác thích hợp nhằm sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ công việc của cơ quan, đơn
vị. Trường hợp này chỉ thích hợp với việc xây dựng
và hoàn thiện các dự án quan trọng khi cơ quan
không có khả năng sở hữu người có tài năng thì nên
cộng tác với họ để hoàn thành dự án quá phức tạp
của cơ quan, đơn vị mình.
Xây dựng các tiêu chí đánh giá và quy trình sàng
lọc nguồn nhân lực chất lượng. Các tiêu chí đánh giá
nguồn nhân lực chất lượng cao phải cụ thể, gắn với
nhiệm vụ, vị trí công việc được giao, sát hợp với yêu
cầu, đặc điểm của cơ quan, đơn vị. Đồng thời phải áp
dụng quy trình thử thách, sàng lọc người có tài năng
rõ ràng, công khai, minh bạch.
Ba là, giải pháp về bố trí, sử dụng nguồn nhân
lực
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
Bố trí, sử dụng nguồn nhân lực là việc hình thành
và phân phối nguồn nhân lực vào các lĩnh vực, vị trí,
nhiệm vụ công tác nhằm sử dụng đầy đủ v à có hiệu
quả nguồn nhân lực. Với ý nghĩa như thế, các giải
pháp cơ bản dược đặt ra trong việc bố trí, sử dụng
nguồn nhân lực cụ thể như sau:
- Dự báo được số lượng nhu cầu nguồn nhân lực.
Dự báo sự biến động tăng hay giảm của các bộ phận,
nhu cầu về trình độ với các kỹ năng và chuyên môn
cần thiết của các công việc cụ thể.
- Tất cả các lãnh đạo UBND tỉnh Phú Thọ phải
chịu trách nhiệm về công tác bố trí nguồn nhân lực
trên địa bàn mình quản lý. Phải xuất phát từ việc
phân tích công việc, mô tả tiêu chuẩn công việc và
chủ động chuẩn bị cho mình nguồn nhân lực đảm bảo
đúng người đúng việc.
- Xây dựng quy chế về bố trí, sử dụng nguồn
nhân lực trong từng cơ quan, tổ chức. Thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả các quy trình, quy chế về công
tác quản lý nguồn nhân lực, nhất là quy định, quy chế
về tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, nhận xét, đánh giá
nguồn nhân lực... làm cơ sở cho việc bố trí, sử dụng
có hiệu quả lực lượng nguồn nhân lực. Mạnh dạn đưa
vào quy hoạch và xem xét bổ nhiệm nguồn nhân lực
trẻ có năng lực công tác, tạo môi trường làm việc cho
nguồn nhân lực yên tâm công tác, phục vụ và cống
hiến lâu dài cho tổ chức.
- Thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá việc bố
trí, sử dụng nguồn nhân lực trong tổ chức, trên cơ sở đó
để bố trí, sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ, năng lực, sở trường, trình độ đào tạo của nguồn
nhân lực. Hạn chế việc bố trí lực lượng nguồn nhân lực
không phù hợp với chuyên môn được đào tạo.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách khuyến
khích, tạo điều kiện cho nguồn nhân lực được đi học,
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tạo điều
kiện cho lực lượng này đi học tập, nghiên cứu ở trong
và ngoài nước.
- Thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết về lý
luận, thực tiễn định kỳ hàng tháng, tháng quý, hàng
năm về việc bố trí sử dụng nguồn nhân lực, đánh giá
đúng những mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra
bài học kinh nghiệm.
Bốn là, giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực
Hợp tác quốc tế trong đào tạo là hình thức liên kết
đào tạo giữa nhiều nước và vùng lãnh thổ. Đào tạo
hợp tác quốc tế phối hợp hoạt động giáo dục đào tạo
để thúc đẩy sự phát triển về chất và lượng của giáo
dục. Hoạt động đào tạo hợp tác quốc tế đang diễn ra
mạnh và trong lĩnh vực đào tạo đại học và sau đại học.
Hiện nay các trường đại học ở nước ta đều có liên kết
đào tạo với nước ngoài. Hợp tác quốc tế trong đào tạo
và nghiên cứu khoa học được coi là chìa khóa trong hội
nhập và phát triển nguồn nhân lực.
Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đa
dạng hóa các loại hình trường, lớp; chú trọng các
hoạt động khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội
học tập, mô hình công dân học tập suốt đời, đáp ứng
nhu cầu, quyền được học tập của nhân dân, nhất là
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Có chính sách huy động nguồn đóng góp từ phía
doanh nghiệp cho đào tạo nghề, chính sách khuyến
khích thành lập các trung tâm đào tạo có chất lượng cao.
Khuyến khích các doanh nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh và nhân dân
có khả năng và điều kiện đưa lao động hoặc con em
mình đi đào tạo, học tập ở nước ngoài sau đó trở về
làm việc.
Đẩy mạnh đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh
nghiệp và theo nhu cầu xã hội. Phát triển các mô
hình, hình thức phối hợp, hợp tác và hỗ trợ đào tạo;
thiết lập và phát triển quan hệ hợp tác giữa đơn vị
đào tạo và dạy nghề, giữa cơ sở đào tạo với các tổ
chức sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh thông qua
việc ký hợp đồng đào tạo theo nhu cầu. Tăng cường
hợp tác và liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực với
các trường đại học có năng lực và uy tín để đào tạo
nhân lực chất lượng cao.
Thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích xã hội
hóa trong công tác phát triển nhân lực trên địa bàn
tỉnh. Khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
ODA, NGO, vốn tín dụng thương mại ưu đãi phục vụ
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ.
Tận dụng các cơ hội đào tạo nhân lực trình độ cao
của các tổ chức trong nước và quốc tế.
Tiếp tục duy trì, phát triển và sử dụng có hiệu quả
các nguồn quỹ hỗ trợ khoa học kỹ thuật, quỹ khuyến
học, khuyến tài Đất Tổ. Tăng cường khuyến khích
thành lập quỹ khuyến học, khuyến tài các đơn vị trên
địa bàn Tỉnh. Tiếp tục đầu tư hỗ trợ, tập trung đổi mới,
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các trung
tâm học tập cộng đồng tại các xã, phường, thị trấn.
Năm là, giải pháp về đãi ngộ đối với nguồn nhân
lực
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
- Hoàn thiện hệ thống trả lương hợp lý, trên cơ sở
kết hợp giữa lương cơ bản và các khoản lương phụ
cấp. Lương cơ bản là phần lương cứng trả theo cấp
bậc công việc, được áp dụng đối với tất cả người lao
động trong biên chế của cơ quan hoặc làm việc theo
chế độ hợp đông. Phụ cấp là phần lương mềm mà
đơn vị trả cho người lao động tùy theo hiệu quả công
việc và mức độ đóng góp thực tế của người lao động
được trích từ quỹ khen thưởng phúc lợi của cơ quan
theo quy định của Chính phủ. Hai loại lương này có
quan hệ hỗ trợ nhau và phải đảm bảo tỷ lên hợp lý
trong cơ cấu lương. Lương cơ bản phải chiếm tỷ lệ
vừa đủ khiến người lao động yêu tâm làm việc cho
dù có thể có biến động của môi trường bên ngoài và
bên trong cơ quan. Phần lương biến đổi sẽ có tác
dụng khuyến khích họ làm việc tích cực và đạt kết
quả cao. Nếu lương cơ bản chiếm tỷ trọng nhỏ và
thấp đến mức không đủ đảm bảo cuộc sống tối thiểu
thì cũng không đủ tạo tâm lý ổn định cho người lao
động; trong khi đó lương biến đổi quá lớn và quá
khác biệt nhau giữa những người lao động sẽ tạo nên
những mâu thuẫn không đáng có giữa họ. Ngược lại,
nếu phần lương cơ bản quá lớn sẽ khiến phần lương
biến đổi không phát huy được tác dụng khuyến khích
của nó.
- Đổi mới chính sách đãi ngộ: cần có chính sách
đãi ngộ một cách thỏa đáng thì mới khai thác được
tiềm năng của nguồn nhân lực trong quá trình hoạt
động công việc. Tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho
đội ngũ nhân lực như cung cấp thông tin, trang thiết
bị hiện đại kết hợp giải quyết thỏa đáng các loại lợi
ích vật chất và tinh thần.
Kết luận
Nguồn lực về con người luôn là yếu tố cơ bản,
quan trọng nhất quyết định sự phát triển đối với mọi
hình thái kinh tế xã hội. Ở tỉnh Phú Thọ, nguồn nhân
lực là nội lực cơ bản nhất, động lực không thể thiếu
và là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước
và hội nhập quốc tế, việc nâng cao chất lượng dân số
và phát triển nguồn nhân lực là một trong những
trọng điểm của chiến lược phát triển đất nước, là
chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên hàng đầu
trong toàn bộ chính sách phát triển kinh tế xã hội của
thành phố. Hệ thống chính sách hiện hành của tỉnh đã
tạo sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực so với những năm trước. Tuy
vậy, các chính sách vẫn chưa đủ mạnh chưa thực sự
tạo động lực hấp dẫn thu hút nguồn nhân lực, đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tỉnh Phú Thọ có một nguồn nhân lực dồi dào
nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo kỹ thuật chuyên
môn còn thấp, phần lớn là lao động thủ công. Cơ cấu
nguồn nhân lực còn lạc hậu. Để có một nguồn nhân
lực tốt đáp ứng được những yêu cầu của xã hội trong
thời kỳ đổi mới của đất nước, tỉnh Phú Thọ đã không
ngừng cải tiến, sửa đổi, bổ sung những chính sách
phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố
nhằm đưa ra một hệ thống cơ chế chính sách đúng
đắn, hợp lý phù hợp với từng thời kỳ phát triển.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh trong
thời gian tới cần được đổi mới theo hướng tạo điều
điện thuận lợi hơn cho sự phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
REFERENCES
1. Academy of Public Administration (2011),
Curriculum of state administrative personnel,
Statistics Publishing House;
2. Pham Minh Hac (2003), Entering the 21st
century, developing human resources to serve
industrialization and modernization of the country,
Workshop on human resource development KX05011 in Ho Chi Minh City on 22nd / 3/2003;
3. Decision No. 27/2011 / QD-UBND dated
November 28, 2011 on approving the planning for
human resource development in Phu Tho province
for the period 2011-2020;
4. Hoang Phe (2016), Vietnamese Dictionary,
Statistical Publishing House;
5. People's Committee of Phu Tho province
(2016), Plan No. 3906 / KH-UBND dated September
8, 2016, the provincial People's Committee signed to
promulgate Plan No. 3906 / KH-UBND on
implementing breakthroughs in human resource
development. force of Phu Tho province in the period
2016-2020;
6. Vu Cao Dam (2009), Collection of published
works of author Vu Cao Dam, Volume 2: Research
on strategy and policy, The Gioi Publishing House,
Hanoi;
N.T.T.Ha et al/ No.18_Oct 2020|p.140-147
THE SOLUTIONS TO IMPROVE POLICIES TO DEVELOP HUMAN
RESOURCES IN PHU THO PROVINCE
Article info
Recieved:
28/4/2020
Accepted:
20/9/2020
Keywords:
Human resources, Phu
Tho, policy.
Abstract
With the desire to provide a human resource to meet the requirements in the new
period, it is necessary to study the Human Resource Development Policy to meet
the needs of industrial revolution 4.0, from the reality of Phu Tho province, The
author gives an overall picture of human resource development policies in Phu
Tho recently, assessing the shortcomings and finding the causes of those
limitations, thereby proposing some solutions to well implementing human
resource development policies to meet the requirements of the 4.0 revolution.