Quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại
học từ năm 1992 đến năm 2015
Hoàng Lê Ngọc Anh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
E-mail: hoanglengocanh1996@gmail.com
Bản hiệu chỉnh
Hà Nội, 16-06-2019
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
HOÀNG LÊ NGỌC ANH
QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – HOA KỲ
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
chưa từng công bố trước đây dưới bất kỳ hình thức nào. Kiến thức và nội dung được nghiên
cứu trong khóa luận là quá trình nghiên cứu, phân tích, tổng hợp lý luận và thực tiễn của cá
nhân tôi, không có bất cứ sự sao chép từ các đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận tốt
nghiệp của bất kỳ ai.
Người thực hiện khóa luận
Sinh viên
Hoàng Lê Ngọc Anh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh
vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015”, đầu tiên, em muốn gửi lời cảm ơn chân
thành tới các thầy cô của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các thầy cô được mời về giảng,
đặc biệt là các thầy cô trong khoa Quan hệ quốc tế đã tận tình giảng dạy những kiến thức lý
luận nền tảng, những kiến thức chuyên ngành cũng như các môn học kĩ năng nghiệp vụ. Nhờ
những bài giảng và những chuyến học tập thực tế mà thầy cô tạo cơ hội, em đã tích lũy được
cho mình những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, là hành trang giúp em chuẩn bị bước vào
con đường sự nghiệp sau này.
Em xin dành lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Ngô Thị Thúy Hiền vì sự giúp đỡ
nhiệt tình khi em thực hiện nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp, giúp em định hướng ý tưởng,
tổng hợp kiến thức, chỉnh sửa nội dung và cả hình thức trình bày. Cô đã rất tận tâm, đưa ra
những nhận xét chi tiết giúp em hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này.
Dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực, song do hạn chế về mặt thời gian cũng như còn hạn
chế trong nhận thức của bản thân nên khóa luận không tránh khỏi tồn tại những khuyết điểm,
em kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của quý thầy cô để khóa luận hoàn
thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Sinh viên
Hoàng Lê Ngọc Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1 ......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo
dục đại học ....................................................................................................... 6
1.2. Một số vấn đề lý luận về quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong
lĩnh vực giáo dục đại học ................................................................................ 9
1.3. Một số vấn đề về thực tiễn quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ
trong lĩnh vực giáo dục đại học.................................................................... 17
CHƯƠNG 2 ....................................................................................................... 20
2.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong
lĩnh vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015 ............................... 20
2.2. Các hình thức hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ từ năm 1992 đến năm 2015 ....................................................... 21
Bảng 2.1: Các chương trình trao đổi giáo dục của Hoa Kỳ dành cho ......... 29
Việt Nam (đến tháng 12/2013) ......................................................................... 29
Bảng 2.2: Danh sách các chương trình liên kết đào tạo với Hoa Kỳ đã được
Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt (2002-2015) ............................................. 35
Bảng 2.3: Các trường đại học của Việt Nam hợp tác với các trường đại học
của Hoa Kỳ về áp dụng giảng dạy chương trình tiên tiến ............................ 38
CHƯƠNG 3 ....................................................................................................... 43
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT
NAM - HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC................... 43
3.1. Nhận xét, đánh giá hiệu quả các hoạt động hợp tác Việt Nam – Hoa
Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học.............................................................. 43
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ các chương trình học bổng của Chính phủ Hoa Kỳ dành
cho sinh viên Việt Nam (1992-2010) ................................................................ 44
Bảng 3.1: Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ (1998-2015) ..... 45
3.2. Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa
Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học.............................................................. 51
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 54
REFERENCES .................................................................................................. 55
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Các chương trình trao đổi giáo dục của Hoa Kỳ dành cho ................................. 29
Việt Nam (đến tháng 12/2013) ............................................................................................ 29
Bảng 2.2: Danh sách các chương trình liên kết đào tạo với Hoa Kỳ đã được Bộ Giáo dục và
Đào tạo phê duyệt (2002-2015) ........................................................................................... 35
Bảng 2.3: Các trường đại học của Việt Nam hợp tác với các trường đại học của Hoa Kỳ về áp
dụng giảng dạy chương trình tiên tiến ................................................................................. 38
Bảng 3.1: Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ (1998-2015) ........................... 45
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ các chương trình học bổng của Chính phủ Hoa Kỳ dành cho sinh viên Việt
Nam (1992-2010) ................................................................................................................. 44
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công tác đối ngoại của Việt Nam, Hoa Kỳ được coi là một đối tác đặc biệt. Từ
lịch sử là hai nước cựu thù, tới những khác biệt lớn về thể chế chính trị, văn hóa – xã hội,
Việt Nam và Hoa Kỳ đã mất hàng chục năm để thực hiện tiến trình bình thường hóa quan hệ
ngoại giao. Cho đến năm 1995, quan hệ song phương giữa hai nước chính thức được bình
thường hóa, Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục phải cố gắng vượt qua những mâu thuẫn để hướng
tới mối quan hệ hữu nghị, hợp tác vì lợi ích lâu dài của cả hai – xu thế tất yếu trong bối cảnh
toàn cầu hóa ngày càng phát triển. Bên cạnh vấn đề lịch sử giữa hai quốc gia, nếu như Việt
Nam coi Hoa Kỳ là đối tác đặc biệt bởi Hoa Kỳ là một nước lớn, có vị thế trên trường quốc
tế, có những tác động mạnh mẽ đến quan hệ song phương cũng như đa phương; thì Hoa Kỳ
cũng coi Việt Nam là một mối quan tâm đặc biệt bởi vị trí địa chính trị cũng như tiềm năng
khai thác của một quốc gia mới nổi, nhất là từ khi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đánh giá
tầm quan trọng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Dong, 2016). Nhìn chung, Việt
Nam và Hoa Kỳ đều coi trọng nhau trong chính sách đối ngoại của mình, ngày càng chú
trọng xây dựng những chính sách thích hợp cũng như thực hiện nhiều hoạt động hợp tác trên
đa dạng các lĩnh vực, đạt được nhiều bước tiến tích cực trong chặng đường hơn 20 năm bình
thường hóa quan hệ hai nước.
Hợp tác trên lĩnh vực giáo dục giữa Việt Nam và Hoa Kỳ lần đầu xuất hiện trước cả
khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ. Từ khi bình thường hóa quan hệ, giống
như các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng – an ninh, văn hóa – xã hội… lĩnh vực giáo dục cũng
được chú trọng tăng cường hợp tác, triển khai cụ thể từ chính sách đối ngoại của Việt Nam và
Hoa Kỳ. Thậm chí, giáo dục còn được đánh giá là phương tiện chính để hai bên tìm ra đầu
mối tiến lên và vượt qua quá khứ (Marklein & Mai, 2016). Hợp tác giáo dục ngày càng phát
triển, tạo ra những bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa hai nước.
Sinh viên lựa chọn đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đại học trong quan hệ
hợp tác giữa Việt Nam – Hoa Kỳ bởi trong bối cảnh toàn cầu hóa, giáo dục đại học trở thành
nhu cầu, ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Theo
các đánh giá, giáo dục đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng, là cốt lõi của sự phát triển
trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia. Trong khi đó, giáo dục đại
học là sản phẩm ưu thế của các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ. Các hoạt động hợp tác, giao
lưu giáo dục đại học được coi như một phương thức thực hiện đối ngoại công chúng mà đối
tượng tập trung ở đây phần lớn là lứa tuổi thanh thiếu niên, người trưởng thành ở độ tuổi lao
động chính trong xã hội, là những người có ảnh hưởng lớn nhất tới sự vận hành của đất nước,
1
đồng thời có vai trò quyết định xu hướng phát triển, bao gồm cả việc thúc đẩy quan hệ chính
trị, ngoại giao giữa hai quốc gia.
Từ những lý do trên, sinh viên chọn đề tài “Quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong
lĩnh vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015” nhằm hiểu rõ thực trạng triển khai hợp
tác của hai quốc gia trong lĩnh vực giáo dục đại học dựa trên chính sách đối ngoại hai nước
đã đề ra, từ đó đưa ra những đánh giá với thực trạng hoạt động này cũng như đóng góp một
số ý kiến nhằm hướng đến sự phát triển trong hợp tác giáo dục đại học của Việt Nam với Hoa
Kỳ một cách hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ đặc biệt với nhiều thăng trầm trong lịch sử, từ cựu thù tới phát triển
mạnh mẽ toàn diện như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Chỉ sau 20 năm bình
thường hóa quan hệ, hiếm có hai quốc gia nào trên thế giới từ chỗ đối đầu, lại có thể “gác lại
quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai” để phát triển quan hệ
cả về chất, tầm vóc và chiều sâu như vậy” (Ha, 2016), Việt Nam - Hoa Kỳ đã trở thành đề tài
của nhiều tác phẩm, giáo trình, công trình nghiên cứu khoa học, bài báo, tạp chí,... tiêu biểu
như “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Trung,
“Quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2005” của Đoàn Ngọc Tuấn, “Đảng
Cộng sản Việt Nam với quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (1995 - 2007)” của tác giả
Nguyễn Văn Thức,“Vai trò của tổng thống Bill Clinton trong việc hoạch định chính sách đối
ngoại với Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thu Hiền, “30 năm quan hệ Việt - Mỹ: Từ cựu thù
đến quan hệ đối tác toàn diện” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Châu
Mỹ số tháng 11/2016. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nổi bật nhất hầu hết tập trung vào
mối quan hệ tổng quát giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hoặc nghiên cứu chuyên sâu mối quan hệ
này trên lĩnh vực tiêu biểu như hợp tác chính trị, kinh tế, thương mại, quân sự,... Quan hệ hợp
tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học mới có số ít công trình nghiên cứu
khai thác chuyên sâu trực tiếp. Tuy vậy, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đã đề cập
đến quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học:
Cuốn sách “Quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
(1976-2006) của TS. Nguyễn Anh Cường đã khái quát hai quá trình chính: quá trình bình
thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1976-1995); quá trình phát triển quan hệ Việt Nam
- Hoa Kỳ (1996-2006) và từ đó rút ra những nhận xét cũng như kinh nghiệm lịch sử cho quan
hệ đối ngoại Việt Nam - Hoa Kỳ. Bên cạnh quá trình tiến tới bình thường hóa quan hệ hết sức
lâu dài và phức tạp, tác giả cuốn sách đã tiến hành nghiên cứu quá trình phát triển quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ trong 10 năm sau bình thường hóa, theo chủ trương của Đảng về phát
2
triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và đẩy mạnh quan hệ nhiều mặt với Hoa Kỳ. Đề cập đến sự
phát triển quan hệ hai nước trên lĩnh vực giáo dục đào tạo, tác giả đã đưa ra dẫn chứng về sự
hợp tác, trao đổi giáo dục ngày càng diễn ra sôi nổi (Nguyen A. C., 2015).
Cuốn chuyên khảo “Đối ngoại công chúng: Mô hình hoạt động của một số nước lớn
trên thế giới và đề xuất đối với Việt Nam” của tác giả Phạm Minh Sơn tập trung nghiên cứu
mô hình hoạt động, kinh nghiệm đối ngoại công chúng của các nước lớn, nhất là hoạt động
của các nước này tại Việt Nam, từ đó góp phần đề xuất giải pháp tăng cường hoạt động đối
ngoại công chúng nói riêng và công tác đối ngoại của Việt Nam nói chung. Trong nghiên cứu
này, các chương trình hợp tác, trao đổi giáo dục được coi như một trong những hình thức
hoạt động chủ yếu trong đối ngoại công chúng của Hoa Kỳ, được Hoa Kỳ thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam cũng là nước “sớm đưa
hoạt động đối ngoại công chúng phục vụ quan hệ đối ngoại với Hoa Kỳ”, do đó các hoạt
động đối ngoại công chúng nói chung và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giữa quan hệ hai
nước nói riêng sớm được tiến hành từ những năm 90 của thế kỷ XX, và ngày càng có sự tiến
bộ đặc biệt từ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995 (Pham,
2016). Như vậy, cuốn chuyên khảo tập trung nghiên cứu các mô hình đối ngoại công chúng
của một số nước lớn trên thế giới, sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ đã được đề cập đến trong mô hình hoạt động đối ngoại công chúng của Hoa Kỳ - một
nước lớn và tác động tới Việt Nam, tuy có thông tin về hoạt động hợp tác giáo dục như các
chương trình trao đổi, số lượng du học sinh cập nhật đến những năm 2015, nhưng quan hệ
hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học chưa phải là đối tượng được đi
sâu nghiên cứu trong công trình này.
Một trong số ít những công trình tập trung nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học có thể kể đến luận văn Thạc sĩ “Quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục và xã hội từ năm 1995 đến nay” của tác giả Nguyễn
Bích Thảo, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cho rằng ngoài những yếu tố chính trị
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và Hoa Kỳ, việc tăng cường trao đổi và hợp tác giáo
dục giữa hai quốc gia cũng là một cách để hai nước tăng cường tình hữu nghị, hợp tác nhằm
hóa giải những hiểu lầm trong quá khứ, giúp hai nước ngày càng có sự hợp tác nhiều hơn
trong tương lai. Ở mức độ nhất định, sự giúp đỡ của Hoa Kỳ trong việc đào tạo nguồn nhân
lực cho Việt Nam sẽ là một yếu tố tạo thành công cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ (Nguyen B.
T., 2010). Tác giả nghiên cứu các hình thức hợp tác giáo dục giữa hai nước, bao gồm các
chương trình trao đổi giáo dục giữa chính phủ, thông qua các tổ chức phi chính phủ và hợp
tác giữa các trường đại học, nhìn chung bao quát được tình hình quan hệ hợp tác Việt Nam -
3
Hoa Kỳ trên lĩnh vực giáo dục từ năm 1995 đến thời điểm hoàn thành công trình nghiên cứu
(năm 2010). Tuy nhiên theo đối tượng nghiên cứu trên cả lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội,
tác giả không lựa chọn đi sâu vào lĩnh vực giáo dục đại học, cũng như phân tích chính sách
của hai nước, đánh giá hiệu quả, hạn chế đối với riêng lĩnh vực hợp tác này.
Bên cạnh đó, bài báo khoa học “Hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
từ đầu thập niên 1990 đến nay” của PGS, TS Nguyễn Thị Thanh Thủy đăng trên Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay số 07-2015 đã phân tích các yếu tố tác động đến sự hợp tác về lĩnh vực
giáo dục đại học giữa hai nước, tập trung nghiên cứu các hình thức hợp tác và thực trạng
trong thời gian từ đầu thập niên 1990 đến năm 2015, từ đó đưa ra một số nhận xét và kiến
nghị nhằm tăng cường sự hợp tác này cũng như mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam
- Hoa Kỳ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học
nhằm nắm được thực trạng quan hệ hai nước trong lĩnh vực giáo dục đại học, tìm hiểu những
thành công, hạn chế trong việc triển khai hoạt động đối ngoại công chúng thông qua giáo dục
đại học, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất góp phần thúc đẩy quan hệ hai
nước trong lĩnh vực giáo dục đại học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, sinh viên cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể:
Làm rõ những vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hoa Kỳ trong
hợp tác giáo dục đại học giữa hai nước;
Nghiên cứu các nhân tố tác động và thực trạng hợp tác giáo dục đại học của hai nước;
Từ thực trạng đó rút ra nhận xét, đánh giá về hiệu quả hoạt động hợp tác Việt Nam –
Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học và đưa ra một số kiến nghị góp phần thúc đẩy quan
hệ hai nước trong lĩnh vực giáo dục đại học.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo
dục đại học
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục bậc
đại học trong giai đoạn từ năm 1992 khi bắt đầu xuất hiện hình thức hợp tác giáo dục đầu tiên
giữa hai nước, trước cả khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao, đến năm 2015 là
thời điểm 20 năm sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ và đạt được những
4
thành tựu nổi bật trong hợp tác giáo dục đại học. Do giới hạn của khóa luận tốt nghiệp cũng
như nguồn lực để khảo sát, dánh giá nên phạm vi không gia nghiên cứu là những hoạt động
hợp tác giáo dục diễn ra tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng nhà nước Việt Nam, chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ về đối ngoại nói chung, về đối ngoại công chúng trên lĩnh vực giáo dục nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử để nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam, Hoa Kỳ
qua thời gian, đặc biệt trong hợp tác giáo dục đại học.
Phương pháp tổng hợp, phân tích những tài liệu thu thập được một cách chọn lọc từ
chính sách của Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như từ các công trình nghiên cứu, tin tức cập nhật
về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong lĩnh vực hợp tác giáo dục đại học.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn
Kết quả đề tài nghiên cứu sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, tổng hợp những điểm cơ
bản trong chính sách của Việt Nam và Hoa Kỳ đối với hoạt động hợp tác giáo dục đại học
giữa hai nước, nằm trong chính sách đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại công chúng của hai
nước. Đồng thời tác giả tổng hợp, phân tích thực trạng các hình thức hợp tác trong lĩnh vực
giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1992 đến nay, những thành tựu đạt được
và hạn chế trong hoạt động hợp tác đó, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần tăng cường
hiệu quả hợp tác giáo dục đại học cho Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể trở thành
tài liệu tham khảo cho các sinh viên khóa sau khi nghiên cứu về quan hệ đối ngoại Việt Nam
- Hoa Kỳ, đặc biệt trong quan hệ hợp tác giáo dục đại học, hay quan hệ đối ngoại công chúng
của hai quốc gia.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài các mục mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, khóa luận
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ hợp tác Việt Nam –
Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học
Làm rõ khái niệm liên quan đến quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực
giáo dục đại; nêu ra và phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ hợp tác trong lĩnh
vực giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
5
Chương 2: Thực trạng quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo
dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015
Phân tích nhân tố tác động đến quan hệ hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ; Khái quát các hình thức hợp tác giữa Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại
học từ năm 1992 đến năm 2015 bao gồm phân tích hoạt động của các chương trình trao đổi
giáo dục đại học, Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ và hợp tác trong
xây dựng mô hình giáo dục đại học ở Việt Nam.
Chương 3: Nhận xét và một số kiến nghị cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa
Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học
Nhận xét, đánh giá hiệu quả các hoạt động hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực
giáo dục đại học và từ đó nêu một số kiến nghị góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam
- Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1.1. Khái niệm quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại
học
Về ngữ nghĩa, “quan hệ” được hiểu là những hành vi có tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp lên đối tượng khác. Phải có hai chủ thể quan hệ trở lên thì mới có quan hệ, tức là phải có
chủ thể gây tác động và chủ thể bị tác động thì tác động đó mới trở thành quan hệ (Hoang,
2016), và tác động qua lại xảy ra giữa các chủ thể là các quốc gia khác nhau thì quan hệ đó
được coi là quan hệ quốc tế. Khái niệm về quan hệ quốc tế lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ
XVIII là “sự giao tiếp giữa các quốc gia”. Tuy nhiên sự phát triển về quy mô, mức độ, đa
dạng các chủ thể tham gia cũng như các lĩnh vực, vấn đề... Chủ thể quan hệ quốc tế không chỉ
còn là các chủ thể quốc gia mà còn các chủ thể phi quốc gia, các phương thức quan hệ phát
triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, mở rộng quy mô quan hệ và mức độ chiều sâu của các
6
mối quan hệ đó. Nếu như trước đây quan hệ quốc tế chủ yếu trên lĩnh vực chính trị thì càng
ngày càng đa dạng các lĩnh vực khác tham gia vào đời sống quan hệ quốc tế như kinh tế,
quân sự, văn hóa, xã hội,... Do vậy, khái niệm quan hệ quốc tế đã được mở rộng hơn so với
khái niệm ban đầu để phù hợp với thực tiễn tình hình các quan hệ diễn ra giữa các chủ thể
quốc tế, có thể hiểu một cách bao quát: Quan hệ quốc tế là sự tương tác qua biên giới giữa
các chủ thể quan hệ quốc tế (Hoang, 2016).
Trong quan hệ quốc tế, hợp tác được coi là một trong những hình thức quan hệ cơ bản
nhất. Theo từ điển tiếng Việt, “hợp tác” nghĩa là chung sức, cùng nhau làm việc gì đó để cùng
đạt được mục đích. Hợp tác đã xuất hiện từ thời kỳ đầu của loài người khi người và người
hợp tác với nhau để hình thành các cộng đồng sơ khai nhất. Cho đến khi quốc gia và dân tộc
hình thành, tức là xuất hiện chủ thể quan hệ quốc tế, hợp tác giữa chúng đã trở thành hợp tác
quốc tế. Cho đến nay, hợp tác quốc tế đã trở thành xu thế lớn trong quan hệ quốc tế, lôi cuốn
mọi quốc gia và con người khắp nơi trên cùng thế giới cùng tham gia (Hoang, 2016).
Như vậy, khái niệm chung về hợp tác quốc tế có thể hiểu là sự phối hợp hòa bình giữa
các chủ thể quan hệ quốc tế nhằm thực hiện các mục đích chung và phân loại hợp tác quốc tế
theo ba cách phân loại chính: dựa trên lĩnh vực hoạt động, bao gồm cả các lĩnh vực lớn và
phân loại chi tiết; căn cứ trên số lượng chủ thể tham gia, có thể phân loại hợp tác quốc tế
thành song phương và đa phương; và dựa theo quy mô không gian để phân loại thành hợp tác
khu vực và hợp tác toàn cầu (Hoang, 2016). Dựa theo những cách phân loại này, có thể thấy
đối tượng nghiên cứu của đề tài - quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục
đại học - là kiểu hợp tác song phương và chọn lĩnh vực hợp tác cụ thể là giáo dục đại học.
Khái niệm “giáo dục đại học” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Sự đa dạng về
quan điểm là khó tránh khỏi, và nhiều người cho rằng đó là điều cần thiết (Mishra, 2007).
Theo Barnett (1992), có 4 khái niệm thông dụng nhất về giáo dục đại học:
i) Giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân lực đạt
chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình trong đó người học được quan
niệm như những sản phẩm được cung ứng cho thị trường lao động. Như vậy, giáo dục đại học
trở thành “đầu vào” tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của thương mại và công nghiệp.
ii) Giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu. Theo cách nhìn này, giáo
dục đại học là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà khoa học và nhà nghiên cứu thực thụ,
những người sẽ không ngừng tìm những chân trời kiến thức mới. Chất lượng ở đây hướng về
việc tạo ra các công bố khoa học và tinh thần làm việc nghiêm nhặt để thực hiện các nghiên
cứu có chất lượng.
7
iii) Giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả. Rất nhiều
người cho rằng giảng dạy là hoạt động cốt lõi của một cơ sở giáo dục. Do vậy, các cơ sở giáo
dục đại học thường chú trọng quản lý một cách hiệu quả các hoạt động dạy và học bằng cách
nâng cao chất lượng giảng dạy và nâng cao tỷ lệ kết thúc khóa học của sinh viên.
iv) Giáo dục đại học là mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người học. Theo cách tiếp
cận này, giáo dục đại học được xem như một cơ hội để người học được tham gia vào quá
trình phát triển bản thân bằng các thể thức học tập thường xuyên và linh hoạt.
Tuy vậy trong 4 khái niệm trên, không có khái niệm duy nhất chính xác nhất về giáo
dục đại học, mà 4 khái niệm đó mang tính bổ trợ cho nhau, tạo ra một bức tranh toàn cảnh để
hiểu về giáo dục đại học. Nhìn vào các hoạt động của các cơ sở đào tạo giáo dục đại học, có
thể thấy “giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng là các chức năng chính của giáo
dục đại học” (Barnett, 1992).
Theo Rhodes (2001), giáo dục đại học “là giai đoạn giáo dục thường diễn ra ở các
trường đại học, viện đại học, đại học, trường cao đẳng, học viện, và viện công nghệ.”
Hay theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, giáo dục đại học
“bao gồm các bậc sau trung học như cao đẳng, đại học và sau đại học”. Tương tự, Đoàn Văn
Dũng (2015) cho rằng ở Việt Nam hiện nay chưa có định nghĩa chính thức về giáo dục đại
học, nhưng có thể hiểu giáo dục đại học là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học sau
giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học,
trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ (Doan, 2015).
Tổng hợp quan điểm và thực tiễn của giáo dục đại học trên thế giới, UNESCO đưa ra
khái niệm về giáo dục đại học trong bản “Tuyên ngôn thế giới về giáo dục Đại học cho thế kỷ
XXI tầm nhìn và hành động” của UNESCO được ký bởi 182 quốc gia thành viên trong đó có
Hoa Kỳ và Việt Nam, giáo dục đại học “bao gồm tất cả các loại hình nghiên cứu, giảng dạy
hoặc đào tạo về nghiên cứu sau bậc trung học, được cung cấp bởi các trường đại học hoặc các
cơ sở giáo dục khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt là tổ chức giáo dục đại
học” (UNESCO, 1998).
Như vậy có thể hiểu quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại
học là hợp tác quốc tế diễn ra song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục
đại học bao gồm mọi hoạt động hợp tác về nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo bậc đại học dưới
sự phê duyệt của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền của hai nước.
8
1.2. Một số vấn đề lý luận về quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực
giáo dục đại học
1.2.1. Vai trò của hợp tác giáo dục đại học trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam và Hoa Kỳ
Trong cuốn “Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế” do Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp
đồng chủ biên, các tác giả đưa ra khái niệm về chính sách đối ngoại của một quốc gia là tập
hợp các chiến lược mà quốc gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác
và các tổ chức quốc tế, trên cách lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội, nhằm
đạt được những mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Chính sách đối
ngoại có mục đích nhất định và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với các vấn đề quốc
gia, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, khi không quốc gia nào có thể tồn tại biệt
lập và sự giao lưu, hợp tác ngày càng được chú trọng (Dao & Le, 2013).
Với các hoạt động hợp tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo bậc đại học dưới sự phê
duyệt của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền của hai nước, hợp tác trong lĩnh vực giáo
dục đại học là một trong những khía cạnh được triển khai từ chính sách đối ngoại của Việt
Nam và Hoa Kỳ, là một trong những hoạt động hợp tác quốc tế song phương diễn ra giữa hai
nước. Đặc biệt hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học còn là một hình thức điển hình của
công tác đối ngoại công chúng.
Tìm hiểu khái niệm của đối ngoại công chúng, thực chất hoạt động đối ngoại công
chúng đã được tiến hành từ lâu đời trong lịch sử quan hệ quốc tế như “Hoàng đế La Mã từng
nhận dạy dỗ con trai của các vị hoàng đế láng giềng thân thiện; người Hy Lạp cổ đại đã xây
dựng thư viện khổng lồ Alexandria như một hình thức truyền bá tri thức; Hoàng đế La Mã
Frederick II đã phân phát các bản tin sang các khu vực lân bang” (Vu, 2009), song, đến nay
vẫn chưa có một định nghĩa chung thống nhất về đối ngoại công chúng.
Tại Hoa Kỳ, đối ngoại công chúng hay ngoại giao công chúng đều sử dụng bằng thuật
ngữ “public diplomacy”. Khái niệm về thuật ngữ này lần đầu tiên được nhà ngoại giao
Edmund Gullion đưa ra vào năm 1965: Đối ngoại công chúng xử lý những vấn đề liên quan
tới tác động của công chúng đối với quá trình hình thành và thực hiện chính sách đối ngoại.
Đối ngoại công chúng đề cập đến những khía cạnh của quan hệ quốc tế, bên cạnh hình thức
ngoại giao truyền thống; định hướng quan điểm dư luận của chính phủ ở các nước khác; mối
quan hệ giữa các nhóm lợi ích của nước này với những nước kia; báo cáo về các vấn đề đối
ngoại và tác động tới chính sách; thông tin, tiếp xúc giữa các nhà ngoại giao và giới truyền
thông nước ngoài; các quá trình thông tin, giao lưu giữa các nền văn hóa. Trọng tâm của đối
ngoại công chúng là luồng thông tin và ý tưởng xuyên quốc gia (Cull, 2008).
9
Tuy nhiên ở thời điểm đó, đối ngoại công chúng được xem như bức bình phong của
công tác tuyên truyền (propaganda), một cách tiêu cực dẫn dắt dư luận theo chiều hướng đem
lại lợi ích cho một nhóm hoặc chính phủ nào đó. Cho đến những thập kỷ gần đây, đối ngoại
công chúng được nhìn nhận rộng hơn, đó là phương tiện minh bạch mà một quốc gia có chủ
quyền, giao tiếp với công chúng quốc gia khác nhằm mục đích thông tin cũng như tạo ảnh
hưởng để thúc đẩy đạt được lợi ích và các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình.
Tại Việt Nam, khái niệm “đối ngoại công chúng” còn khá mới mẻ. Trong các nghiên
cứu về công tác đối ngoại, ngoại giao, hướng tiếp cận thường là chủ thể thực hiện (kênh đối
ngoại) bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; hay theo lĩnh vực
hoạt động bao gồm ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa. Trong khi đó,
đối ngoại công chúng được tiếp cận theo hướng đối tượng tiếp nhận (Pham, 2016). Khái niệm
“đối ngoại công chúng” thường được hiểu gần nhất với “ngoại giao công chúng”, tức là các
hoạt động đối ngoại, ngoại giao không hướng đến đối tượng như ngoại giao truyền thống là
các thành phần chính phủ, lãnh đạo và nhà ngoại giao, mà hướng đến đối tượng công chúng
hay thành phần phi chính phủ của nước ngoài. Tuy nhiên, khái niệm đối ngoại công chúng
rộng hơn khái niệm ngoại giao công chúng. Nếu ngoại giao công chúng được hiểu là “các
hoạt động ngoại giao của chính phủ hướng tới công chúng nước ngoài làm cho họ hiểu tư
tưởng và quan điểm, thể chế và văn hóa cũng như các mục tiêu quốc gia và các chính sách
hiện hành của mình”, thì đối ngoại công chúng không chỉ bao gồm chủ thể là các chính phủ
mà còn bao gồm các thành phần phi chính phủ bao gồm cả các tổ chức, cá nhân tiến hành.
Như vậy, khái niệm đối ngoại công chúng có thể hiểu “là việc quan hệ với công chúng (thành
phần phi chính phủ) nước ngoài để thực hiện chính sách đối ngoại quốc gia”, bao gồm các
hoạt động đối ngoại do cả chính phủ và công chúng tiến hành nhằm tạo ảnh hưởng đến công
chúng của quốc gia khác và thông qua công chúng khiến chính phủ thực hiện những chính
sách đối ngoại có lợi (Pham, 2016).
Hoạt động hợp tác giáo dục đại học có thể coi là một hình thức hoạt động hiệu quả
của đối ngoại công chúng bởi đối tượng được hướng tới của công tác đối ngoại này là các
sinh viên, giảng viên, học giả, tức là công chúng của một quốc gia. Trong sự phát triển mạnh
mẽ ở thế kỷ XXI, chủ thể thực hiện công tác đối ngoại này không chỉ là Chính phủ, cơ quan
Ngoại giao của quốc gia mà còn bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức giáo dục,
các cơ sở giáo dục đại học, các tập đoàn, doanh nghiệp và thậm chí bản thân người học và
giảng dạy cũng tham gia vào công tác đối ngoại công chúng của Việt Nam và Hoa Kỳ. Do
vậy có thể thấy hợp tác giáo dục đại học là một lĩnh vực quan trọng để hai quốc gia thực hiện
các hoạt động cụ thể triển khai từ chính sách đối ngoại công chúng của mình.
10
1.2.2. Chính sách hợp tác giáo dục ở bậc đại học của Hoa Kỳ với Việt Nam
Hoa Kỳ đã sớm nhận thức được tầm quan trọng và tiến hành các hoạt động trao đổi
giáo dục đối với quan hệ giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác thông qua các chính sách đối
ngoại của mình. Năm 1919, Viện Giáo dục Quốc tế (IIE) là một tổ chức phi lợi nhuận có trụ
sở chính tại New York, được thành lập nhằm mục đích thúc đẩy hòa bình và hiểu biết giữa
Hoa Kỳ và các quốc gia khác thông qua hoạt động trao đổi giáo dục (Pham, 2016). Viện Giáo
dục Quốc tế là tổ chức phi chính phủ tuy nhiên vẫn được Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, do đó có
thể thấy Chính phủ Hoa Kỳ nắm bắt được tầm quan trọng và thể hiện sự quan tâm tới vấn đề
hợp tác giáo dục.
Các hoạt động trao đổi giáo dục và văn hóa được Chính phủ Hoa Kỳ đặc biệt lưu tâm
từ thời điểm sau thế chiến II, trong sự cạnh tranh với Liên Xô và tư tưởng cộng sản đang phát
triển và được truyền bá mạnh mẽ. Trong hoạt động thúc đẩy các hoạt động trao đổi giáo dục
trong thời gian này, sự ra đời của chương trình Fulbright được đánh giá là một trong những
chương trình nổi bật nhất của Chính phủ Hoa Kỳ. Năm 1945, Thượng nghị sĩ J. William
Fulbright đã đề xuất một dự luật tại Quốc hội Hoa Kỳ kêu gọi sử dụng tài sản dư thừa sau
chiến tranh để tài trợ cho việc thúc đẩy thiện chí quốc tế thông qua trao đổi giáo dục, văn hóa
và khoa học của sinh viên. Năm 1946, Tổng thống Truman ký quyết định thông qua dự luật,
Quốc hội Hoa Kỳ thành lập chương trình Fulbright, tạo bước tiến quan trọng trong sự phát
triển của các hoạt động trao đổi giáo dục sau đó.
Trên cơ sở Đạo luật Fulbright năm 1946, Quốc hội tiếp tục mở rộng các chương trình
trao đổi giáo dục thông qua ban hành năm 1961. Theo đạo luật này, các chương trình trao đổi
giáo dục được thực hiện như một hoạt động của đối ngoại công chúng. Bốn mục đích của
Đạo luật Trao đổi Giáo dục và Văn hóa được nêu ra trong phần 101:
Tăng cường sự hiểu biết giữa nhân dân Hoa Kỳ với nhân dân các nước khác bằng các
phương tiện trao đổi giáo dục và văn hóa;
Tăng cường mối quan hệ đoàn kết của Hoa Kỳ với các quốc gia khác bằng cách
chứng minh sự quan tâm, phát triển và thành tựu về giáo dục và văn hóa của Hoa Kỳ và các
quốc gia khác, và những đóng góp nhằm tạo nên một cuộc sống hòa bình, tốt đẹp cho mọi
người dân trên toàn thế giới;
Thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục và văn hóa;
Hỗ trợ thúc đẩy mối quan hệ thân thiện, giao cảm và hòa bình giữa Hoa Kỳ và các
quốc gia khác trên thế giới.
Phần 102 chỉ rõ vai trò của Tổng thống là được ủy quyền hành động khi nhận thấy các
bước hành động tạo ra sự thúc đẩy trong hợp tác quốc tế.
11
Phần 103 cho phép Tổng thống Hoa Kỳ ký kết các thỏa thuận quốc tế với Chính phủ
các nước và các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy các mục đích của Đạo luật này, và cung cấp
sự tham gia công bằng, hỗ trợ cho việc thực hiện các thỏa thuận này.
Phần 104 cho phép Tổng thống ủy quyền cho các viên chức khác của Chính phủ được
cho là thích hợp. Bộ Ngoại giao và Cơ quan Phát triển Hoa Kỳ (USAID) chịu trách nhiệm
phần lớn các hoạt động trao đổi Hoa Kỳ tài trợ. Tuy nhiên, một số cơ quan liên bang khác, ví
dụ như Viện Y tế Quốc gia, cũng chịu trách nhiệm quản lý các chương trình trao đổi dưới sự
ủy quyền của Tổng thống.
Đạo luật cũng đề cập đến việc thành lập Văn phòng Giáo dục và Văn hóa trong Bộ
Ngoại giao, chịu trách nhiệm quản lý, điều phối và giám sát các chương trình và trao đổi khác
nhau, bao gồm chương trình trao đổi J. William Fulbright, Hubert H. Humphrey Chương
trình học bổng, Chương trình Khách tham quan quốc tế, Trung tâm văn hóa và thư viện Hoa
Kỳ ở nước ngoài, và nhiều chương trình khác (United State Congress, 1961).
Những cơ sở trên thúc đẩy hoạt động trao đổi giáo dục diễn ra sôi nổi giữa Hoa Kỳ và
nhiều quốc gia khác, giúp Hoa Kỳ thành công trong việc thực hiện chính sách đối ngoại với
mục đích “cho thế giới biết về xã hội và nền chính trị của Hoa Kỳ, đặc biệt là những cam kết
của Hoa Kỳ đối với việc đảm bảo sự đa dạng văn hóa và tự do cá nhân” trong suốt thời kỳ
Chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, cuộc chiến tranh Đông Dương tạo ra một sự
căng thẳng lớn trong quan hệ hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ. Năm 1975 chiến tranh kết thúc,
Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ chính thức đóng băng khi Hoa
Kỳ ra lệnh cấm vận, khấu trừ hỗ trợ kinh tế và tài chính cho Việt Nam. Bản thân Việt Nam
cũng chưa nguôi ngoai nỗi đau mất mát sau chiến tranh, lại chưa nhận được viện trợ tái thiết
sau chiến tranh thích đáng từ Hoa Kỳ, do đó không dễ dàng đồng ý thiết lập quan hệ ngoại
giao với Hoa Kỳ, và hoạt động trao đổi trên lĩnh vực giáo dục giữa hai nước gần như không
được thực hiện trong thời gian này. Cho đến năm 1986, với chính sách Đổi mới, Việt Nam
thể hiện tinh thần cởi mở, mong muốn sự hợp tác về kinh tế, con người với các nước tư bản
phương Tây có thể đem lại những lợi ích phát triển cho Việt Nam. Trước chính sách mở cửa
này, Hoa Kỳ đã nhận thấy cơ hội lớn để có thể thực hiện tiến trình bình thường hóa với Việt
Nam. Trong quá trình tiến đến bình thường hóa quan hệ, giáo dục là một trong những lĩnh
vực đóng vai trò quan trọng, với mục đích của Hoa Kỳ lúc bấy giờ, các chương trình trao đổi
giáo dục là một cách để duy trì liên lạc và cũng là một cơ chế để tìm hiểu cộng đồng giáo dục
Việt Nam (Abuza, 1996). Năm 1992, chương trình Fulbright được bắt đầu tại Việt Nam với
mục đích gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam cũng như góp
phần tiến đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
12
Hoạt động trao đổi giáo dục tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế của
Hoa Kỳ nói chung và trong quan hệ với Việt Nam nói riêng kể từ khi chương trình Fulbright
đầu tiên được thực hiện với Việt Nam, đặc biệt là vai trò góp phần tiến đến chính thức bình
thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ vào năm 1995. Tuy nhiên, thập kỷ 90 của thế kỷ XX
với những biến động lớn bao gồm sự tan rã của Liên Xô, chứng minh được sức ảnh hưởng
của Hoa Kỳ trong quan hệ quốc tế, sự suy yếu về kinh tế của Hoa Kỳ khiến nước này không
chú trọng phát triển các chương trình trao đổi giáo dục cũng như hoạt động đối ngoại công
chúng nói chung. Điều này phần nào đã gây ra hậu quả cho Hoa Kỳ khi chỉ tập trung vào các
vấn đề đối nội và có phần yêu thích hơn các biện pháp sử dụng “sức mạnh cứng” phô trương
sức mạnh, nặng nề nhất chính là vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001. Sự kiện khủng bố chính
là dịp để Hoa Kỳ nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò của “sức mạnh mềm”, trong đó có các hoạt
động trao đổi giáo dục trong chính sách đối ngoại của mình. Khái niệm “sức mạnh mềm”
được hiểu là khả năng đạt được những gì muốn thông qua sự hấp dẫn hơn là ép buộc hoặc
thanh toán và sử dụng sự hấp dẫn của nền văn hóa, lý tưởng chính trị và các chính sách của
một quốc gia để thu hút, tạo sức ảnh hưởng tới các quốc gia khác (Nye, 2005). Hợp tác quốc
tế trên giáo dục là một lĩnh vực then chốt mà sức mạnh mềm được áp dụng và chứng minh là
thành công. Hoa Kỳ và các trường đại học của Hoa Kỳ, với nhiều lượng kiến thức bổ ích, cho
rằng có thể tạo ra lợi ích cho các quốc gia khác nếu họ có thể học và áp dụng các kiến thức cơ
bản cho đất nước mình. Do đó, sinh viên được cho là những đối tượng quan trọng có thể
truyền bá thông tin và sức ảnh hưởng ở nước ngoài, là những người đi học tại Hoa Kỳ, nhận
bằng cấp tầm cỡ thế giới và trở về quê hương, không chỉ sử dụng những kiến thức được học
vào việc thực hiện tạo ra lợi ích cho quốc gia mình, mà còn mang về đó những chia sẻ về văn
hóa, trải nghiệm tại Hoa Kỳ (Robbins, 2013).
Như vậy có thể thấy hợp tác giáo dục luôn duy trì vị trí quan trọng trong chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ, góp phần giúp Hoa Kỳ thực hiện mục tiêu truyền bá, lan tỏa những giá
trị, văn hóa của mình, mở rộng sức ảnh hưởng không chỉ bằng “sức mạnh cứng” mà bằng
“sức mạnh thông minh” tức là sự kết hợp cùng với “sức mạnh mềm”. Việt Nam cũng không
nằm ngoại lệ với chính sách đối ngoại này của Hoa Kỳ. Hơn vậy, Việt Nam còn có những
yếu tố riêng để Hoa Kỳ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước thông qua lĩnh vực giáo dục,
bao gồm lịch sử cựu thù giữa hai nước, việc thiết lập lại quan hệ ngoại giao cũng là nền tảng
cho các hoạt động hợp tác giữa hai nước trong đó có giáo dục, và vị trí địa chính trị quan
trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như Châu Á - Thái Bình Dương cho
thấy tiềm năng của Việt Nam thu hút sự tăng cường hợp tác trongchính sách đối ngoại của
13
Hoa Kỳ. Năm 2000, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Quỹ giáo dục Việt Nam với mục
đích:
(1) Thiết lập một chương trình học bổng quốc tế theo đó:
(A) Công dân Việt Nam có thể thực hiện các nghiên cứu bậc đại học và sau đại học về
khoa học (tự nhiên, vật lý và môi trường), toán học, y học và công nghệ (bao gồm cả công
nghệ thông tin);
(B) Công dân Hoa Kỳ có thể giảng dạy trong các lĩnh vực được quy định tại điểm (A)
trong các cơ quan thích hợp của Việt Nam.
(2) Tiếp tục quá trình hòa giải giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và xây dựng mối quan hệ
song phương phục vụ lợi ích của cả hai quốc gia. (United States Congress, 1961)
1.2.3. Chính sách hợp tác giáo dục ở bậc đại học của Việt Nam với Hoa Kỳ
Trong lịch sử Việt Nam, giáo dục phần lớn chịu tác động bởi các quốc gia bên ngoài
do gắn liền với yếu tố chính trị. 1000 năm Trung Quốc đô hộ cùng chính sách đồng hóa, dù là
một đất nước giàu văn hóa và tinh thần dân tộc cao, Việt Nam vẫn đã chịu những ảnh hưởng
nhất định từ với nền văn hóa nặng tính Khổng giáo (Hoang & Dung, 2009; Vuong et al.,
2018), trong đó bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Năm 1076 đời vua Lý Nhân Tông, Quốc Tử
Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam được xây dựng, ban đầu có ý định chỉ dạy cho
con cháu hoàng tộc, sau đó quyết định thu nhận đào tạo nhân tài từ khắp nơi trong cả nước để
trở thành quan lại góp công trị nước. Với tư tưởng chính trị chủ đạo là Nho giáo, trường đại
học dạy lịch sử, văn học và những tư tưởng Nho giáo, kiến thức mang tính thực hành không
được đề cao trong giai đoạn này. Sự thay đổi về nội dung giáo dục diễn ra khi Việt Nam chịu
ách cai trị của thực dân Pháp, năm 1906, trường Đại học Đông Dương là trường đại học đầu
tiên ở Việt Nam được xây dựng theo mô hình của Pháp với các chuyên ngành khoa học cơ
bản, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội - nhân văn, luật, y dược,... Sinh viên học tiếng Pháp,
các chuyên ngành đào tạo nhưng chủ yếu là để phục vụ cho chính quyền hành chính hoặc
thực dân Pháp. Đây cũng là khoảng thời gian những thanh niên Việt Nam ưu tú được chọn
gửi ra nước ngoài học tập, tuy nhiên với mục đích chính trị là tìm ra con đường cứu nước
khỏi ách thống trị. Sự ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài trên lĩnh vực giáo dục tiếp tục
sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra, Việt Nam đòi quyền tự trị khỏi tay thực dân
Pháp nhưng bị chia cách hai miền Nam - Bắc qua vĩ tuyến 17. Sau năm 1954, chính quyền ở
miền Bắc xác định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, do đó hoạt động giáo dục đại học
được tăng cường trao đổi với các quốc gia xã hội chủ nghĩa, nhiều sinh viên được gửi đi học
ở các quốc gia Liên Xô và Đông Âu trong thời gian này. Trong khi đó tại miền Nam, chính
quyền được trợ cấp bởi đế quốc Mỹ, mô hình xã hội và giáo dục cũng noi theo Mỹ. Một trong
14
những chương trình hợp tác giáo dục tại đây do trường đại học Michigan liên hệ với chính
quyền Ngô Đình Diệm, cung cấp những phương pháp sư phạm và thực hành với mục đích hỗ
trợ phát triển kinh tế và phát triển nông nghiệp ở nông thôn miền Nam (University Archives
& Historical Collections of Michigan State University (n.d.)). Sau khi thống nhất đất nước
năm 1975, hệ thống giáo dục Việt Nam được định hướng đào tạo với các mục tiêu có thể giúp
đất nước tái kiến thiết sau chiến tranh, tuy nhiên các chương trình hầu hết chỉ dựa theo mô
hình, sử dụng nguồn tài liệu, cơ sở vật chất và nhân lực do Liên Xô và các nước Đông Âu hỗ
trợ. Thời gian này, sinh viên được gửi đi học các ngành nghề đào tạo tại các nước xã hội chủ
nghĩa. Việc này tuy có vai trò hỗ trợ Việt Nam giúp khôi phục đất nước sau chiến tranh,
nhưng sự hạn chế trong tự phát triển hệ thống giáo dục và giới hạn các quốc gia hợp tác khiến
cho chất lượng giáo dục không có sự tiến bộ sau nhiều năm liền đồng thời cũng là một trong
những lý do khiến cho nền kinh tế trở nên trì trệ, đất nước còn nhiều bất cập.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, Việt Nam đã lập ra chương trình Đổi mới
(1986), chủ trương mở cửa, dù chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế với việc chuyển sang
mô hình kinh tế thị trường song các lĩnh vực xã hội, trong đó có giáo dục cũng tạo ra sức ảnh
hưởng lớn. Trước mong muốn phát triển về kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế tri thức, Việt Nam
cần có tiềm lực về những công nghệ mới, về đội ngũ nhân lực giàu kiến thức và kinh nghiệm.
Tuy nhiên do hoàn cảnh đất nước trì trệ sau cuộc khôi phục kinh tế, cũng như nền tảng chưa
đủ phát triển để đào tạo ra nguồn nhân lực tiếp nhận những công nghệ mới, do đó Việt Nam
cần có sự trợ giúp từ những quốc gia phát triển, đã đi trước về ứng dụng thành tựu khoa học
kỹ thuật hiện đại, thông qua con đường giáo dục đào tạo, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ có khả
năng tiếp thu kiến thức tiến bộ ở nước ngoài và quay về xây dựng đất nước. Dựa trên nhu cầu
đó, cùng với chủ trương mở cửa, đổi mới tư duy giáo dục, Việt Nam đưa ra những thay đổi
đối với giáo dục đại học và khuyến khích hoạt động hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học,
có xu hướng ngày càng phát triển mạnh mẽ nhất là khi bước sang thế kỷ XXI với nhiều cơ
hội và thử thách. Trước sự bức thiết phải cải thiện chất lượng giáo dục đại học, Chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010 và Đề án đổi mới giáo dục Việt Nam 2006-2020 đã đưa ra các
mục tiêu phát triển giáo dục đại học thông qua hợp tác quốc tế:
Phát triển chiến lược hội nhập quốc tế cho hệ thống giáo dục đại học của đất nước
trên cơ sở ký kết Hiệp định Thương mại Song phương Việt Mỹ (BTA), Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) và Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
Mở rộng hợp tác với các nước và các tổ chức nước ngoài để thành lập các trung tâm
công nghệ cao trong các cơ sở giáo dục đại học và có khả năng cùng thực hiện các dự án
nghiên cứu khoa học;
15
Thực hiện đề án dạy và học bằng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Lựa chọn và đưa
vào sử dụng các chương trình đào tạo, giáo trình và tài liệu hiện đại đang được sử dụng ở các
trường đại học nước ngoài và phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam trong các lĩnh vực
khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ và quản lý kinh tế;
Nâng cao chất lượng các chương trình nghiên cứu và đào tạo thể hiện đặc trưng cụ thể
của quốc gia nhằm thu hút các nhà nghiên cứu và sinh viên nước ngoài, đồng thời duy trì bản
sắc dân tộc và các giá trị truyền thống;
Tăng cường quan hệ quốc tế bằng cách trao đổi giảng viên và sinh viên, phối hợp với
các trường đại học nước ngoài đào tạo và thực hiện các chương trình nghiên cứu; tiếp tục cử
cán bộ giảng dạy và sinh viên đi du học ở các khu vực trọng điểm;
Xây dựng cơ chế, chính sách để tạo điều kiện và khuyến khích sinh viên du học tự túc
về tài chính;
Phê chuẩn "Công ước công nhận văn bằng giáo dục đại học khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương", ký kết các hiệp định song phương và thành lập các tổ chức nhằm thúc đẩy các
hoạt động liên quan;
Thiết lập các nguyên tắc, thủ tục rõ ràng và thuận lợi để khuyến khích các tổ chức
giáo dục nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm năng và trình độ cao thành lập các cơ sở giáo dục
100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam trong giáo dục đại học, dạy
nghề và giáo dục từ xa;
Thực hiện kiểm soát chất lượng trong các dịch vụ đào tạo (bao gồm các chương trình
trực tuyến) do các cơ sở đào tạo nước ngoài cung cấp;
Tận dụng mọi cơ hội để thu hút các chuyên gia có trình độ cao từ nước ngoài đến hỗ
trợ đào tạo và nghiên cứu, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách thu hút người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và công dân Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài trở lại và đóng góp
xây dựng đất nước (Nguyen T. A., 2009).
Với những mục tiêu như vậy, năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định về
hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo trong đó Chương 3, điều 10
đến 13 đưa ra các quy định về cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài, Chương 5 gồm điều
18 đến 23 khuyến khích và quy định những ưu đãi đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
Nghị định 18/2001 quy định về việc lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục
nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của các chương trình liên kết của
các cơ sở giáo dục Việt Nam và nước ngoài, năm 2012, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị
định 73 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, đưa ra những
16
quy định, thủ tục cụ thể về các loại hình liên kết đào tạo giáo dục Việt Nam với các cơ sở
giáo dục nước ngoài.
Đối với Hoa Kỳ - một quốc gia có mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam, từ lịch sử là
hai nước thù địch trong chiến tranh, cho đến khoảng thời gian đóng băng ngoại giao với lệnh
cấm vận từ phía Hoa Kỳ và chính sách đóng cửa của Việt Nam tưởng chừng như hai nước
không bao giờ có thể nối lại mối quan hệ. Cho đến khi Việt Nam quyết định thực hiện chính
sách Đổi mới, chủ trương mở cửa hợp tác với tất cả các nước, bao gồm cả việc tái thiết lập
quan hệ với các nước phương Tây, thì đây chính là cơ hội cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ bắt
đầu những bước bình thường hóa quan hệ. Trong Đại hội VI, nghị quyết 13 được thông qua,
với chủ trương “thêm bạn, bớt thù” và “kiên quyết và chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình
trạng đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình”. Nghị quyết 13
cũng kiểm điểm và rút kinh nghiệm trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, chỉ rõ chủ trương cần
thúc đẩy từng bước quan hệ bình thường hóa Việt Nam - Hoa Kỳ cần có chính sách mới toàn
diện đối với Mỹ nhằm tranh thủ dư luận nhân dân Mỹ và thế giới,... tạo điều kiện thuận lợi
cho ta tập trung giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế (Nguyen X. S., 2006). Về lĩnh vực
giáo dục đại học, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đi đầu trên thế giới về giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng, minh chứng bởi việc Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều
trường đại học danh tiếng nhất thế giới. Việc mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ, đặc biệt trên lĩnh
vực giáo dục sẽ giúp Việt Nam học hỏi nhiều kinh nghiệm trong quá trình phát triển nền giáo
dục đồng thời khai thác các nguồn tài trợ từ các dự án của chính phủ cũng như hợp tác song
phương giữa các trường đại học Việt Nam và Hoa Kỳ. Hợp tác về giáo dục đại học là một
trong những hình thức quan trọng trong việc góp phần bình thường hóa quan hệ hai nước
cũng như làm sâu sắc mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ những năm sau bình
thường hóa. Bên cạnh mục tiêu chính trị, hoạt động hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên
lĩnh vực giáo dục đại học còn giúp nhân dân hai nước tăng cường tình hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau.
Dấu mốc quan trọng là năm 2013, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập mối quan hệ đối tác
toàn diện, xác định giáo dục đào tạo là một trong bốn ưu tiên hàng đầu. Quốc hội và Chính
phủ hai nước đều dành ưu tiên cao cho hợp tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, thông
qua các chương trình cấp học bổng cho sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ,
các chương trình trao đổi giảng viên và sinh viên, các chương trình đào tạo tiếng Anh cũng
như các mô hình liên kết đào tạo giữa các trường cao đẳng và đại học của hai nước.
1.3. Một số vấn đề về thực tiễn quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh
vực giáo dục đại học
17
Mặc dù đã manh nha xuất hiện từ lâu trong lịch sử, song toàn cầu hóa được đánh giá
có tốc độ phát triển mạnh mẽ chưa từng có vào những năm cuối thế kỷ XX, gắn liền với sự
phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin liên lạc, thể hiện tiêu
biểu nhất qua vai trò của internet (Dao & Le, 2013). Toàn cầu hóa giúp các quốc gia tích cực
tham gia hội nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu thông qua các hiệp định thương mại tự do.
Thời điểm đỉnh cao của sự nổi lên xu thế toàn cầu hóa là từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc
khi mà thế giới có cơ hội kết nối với nhau nhiều hơn, đặc biệt về chính trị và kinh tế, vì vậy
không thể phủ nhận rằng thực tế xu thế phát triển của toàn cầu hóa trong bối cảnh thế giới từ
thập niên 90 của thế kỷ XX có những tác động nhất định đối với quan hệ hợp tác giữa các
quốc gia, trong đó có quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học được bắt
đầu từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX.
Thực tế đã cho thấy trong bối cảnh toàn cầu hóa, Hoa Kỳ là một quốc gia tích cực
tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế, nhằm tăng cường
vị thế của mình trên trường quốc tế cũng như tạo sức ảnh hưởng, thể hiện tinh thần thiện chí
của mình với toàn cầu. Đối với Việt Nam, bắt đầu những năm tháng đổi mới còn nhiều bất
cập nhất là nền kinh tế mà Việt Nam mong muốn có những cải cách vượt bậc, toàn cầu hóa là
cơ hội để Việt Nam nắm bắt để tham gia những sân chơi lớn, đặc biệt trên các lĩnh vực kinh
tế, thương mại. Do đó Việt Nam tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực như
trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, tham gia Khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA), tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và
được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt,
Việt Nam đạt được một bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế toàn cầu khi chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007.Việc tham gia
vào các tổ chức quốc tế và khu vực vừa tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển nền kinh tế,
nhưng đồng thời cũng tạo ra cho Việt Nam những thách thức cần phải nỗ lực thúc đẩy nền
kinh tế của bản thân cũng như của khu vực. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu hội nhập và bắt kịp
với xu thế phát triển mạnh mẽ của nhiều cường quốc, bên cạnh việc cải cách mô hình kinh tế
một cách phù hợp, Việt Nam cần thúc đẩy tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, mà phương
pháp tối ưu chính là hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học với các quốc gia phát triển.
Như vậy có thể thấy xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa
tạo ra thách thức khiến Việt Nam phải tích cực chủ động hợp tác giáo dục, nhưng đồng thời
cũng là cơ hội để việc hợp tác giáo dục với các quốc gia phát triển được dễ dàng, thuận lợi
hơn bởi nền tảng là sự hợp tác chung lợi ích khi tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế.
Điển hình là việc Việt Nam thực hiện theo Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
18
khi tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, theo đó Việt Nam thực hiện mở cửa với 11
ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ giáo dục, là cơ sở để Việt Nam thu hút nhiều hơn các nhà
đầu tư giáo dục đến từ các nước phát triển trong đó có Hoa Kỳ và thúc đẩy hợp tác trên lĩnh
vực giáo dục đại học.
Những năm đầu thế kỷ XXI phát triển nhanh chóng bởi tốc độ của khoa học, công
nghệ thông tin, các nền kinh tế cũng vận động không ngừng. Trước thách thức phát triển nền
kinh tế tri thức và nâng cao vị thế của bản thân trên trường quốc tế, Việt Nam càng có nhu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nền tảng của mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước. Việc gia tăng sự hợp tác kinh tế, thương mại với các quốc gia nước ngoài cũng
như thu hút nhiều nhà đầu tư vào thị trường tại Việt Nam yêu cầu Việt Nam phát triển chất
lượng giáo dục, bởi còn tồn tại một số hạn chế trong khả năng tự xây dựng cải cách hệ thống,
nên nhu cầu hợp tác giáo dục với các quốc gia phát triển là điều tất yếu.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2015
2.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh
vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015
2.1.1. Nhân tố ngoại sinh
Từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1992, thế giới và khu vực có những chuyển
biến tích cực với xu thế toàn cầu hóa cũng như hội nhập quốc tế. Bối cảnh đó là cơ hội cho
việc thực hiện các hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực được dễ dàng, thuận lợi hơn ví dụ như
kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo dục. Xu thế đó cũng tạo ra thách thức, yêu cầu các nước
hợp tác lẫn nhau để cùng phát triển, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, chất lượng xã
hội của bản thân quốc gia và các quốc gia cùng hợp tác. Không nằm ngoài xu thế này, Hoa
Kỳ tích cực gia tăng vai trò của mình trong các tổ chức đa phương và thiết lập quan hệ song
phương với các quốc gia, trong đó thực hiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt
Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự tích cực chủ động của nhiều cường quốc trong thúc
đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam, Hoa Kỳ cũng cần trở nên tích cực, không để đánh mất vai
trò hợp tác của mình với một đất nước mới nổi tiềm năng như Việt Nam. Đối với Việt Nam,
những cơ hội và thách thức mà bối cảnh thế giới và khu vực đem lại thông qua xu thế toàn
cầu hóa như việc tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới cũng như thiết lập quan hệ
ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới tạo cho Việt Nam xu hướng mới trong
đường lối đối ngoại, trong Đại hội VII của Đảng (1991), Việt Nam nhấn mạnh và khẳng định
chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa”.Quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa được thúc đẩy hợp tác mạnh
mẽ, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, trong đó giáo dục là một lĩnh vực quan trọng.
2.1.2. Nhân tố nội sinh
Việt Nam – Hoa Kỳ từng là cựu thù chiến tranh, sau đó đến thời kỳ đóng băng không
hề có hoạt động ngoại giao nào diễn ra giữa hai nước. Chỉ đến khi Việt Nam thực hiện Đổi
mới với những chính sách cởi mở hơn, hai nước mới có cơ hội dần nối lại quan hệ song
phương. Với chính sách mở cửa của Việt Nam, Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành hợp tác trên lĩnh
vực giáo dục thông qua Chương trình Fulbright vào năm 1992, là một trong những lĩnh vực
hợp tác đầu tiên trong quan hệ của hai nước và thúc đẩy quá trình bình thường hóa. Nhưng
tiếp đó, chính quan hệ bình thường hóa được thiết lập lại là cơ sở để hoạt động hợp tác trên
lĩnh vực giáo dục được tăng cường, hoạt động một cách sôi nổi. Có thể thấy quan hệ chính trị
20
ngoại giao được hình thành tốt đẹp là cơ sở cho sự hợp tác song phương trên các lĩnh vực,
trong đó có giáo dục đại học.
Bên cạnh nhân tố tác động là sự tái thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác giáo dục đại
học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1992 đến năm 2015 còn được tác động bởi nhu cầu
của bản thân hai quốc gia. Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Trao đổi Giáo dục và Văn hóa năm
1961 thể hiện mong muốn “tăng cường sự hiểu biết giữa nhân dân Hoa Kỳ với nhân dân các
nước khác bằng các phương tiện trao đổi giáo dục và văn hóa” cũng như “Thúc đẩy hợp tác
quốc tế về giáo dục và văn hóa; Hỗ trợ thúc đẩy mối quan hệ thân thiện, giao cảm và hòa
bình giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới” (United States Congress, 1961). Đồng
thời Hoa Kỳ mong muốn tiếp tục đầu tư vào các quốc gia tiềm năng như Việt Nam – là một
quốc gia lý tưởng để Hoa Kỳ thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục, từ đó tạo ra một thị
trường phát triển cho các hoạt động kinh tế cũng như kỹ thuật, công nghiệp của Hoa Kỳ.
Trong khi đó Việt Nam là một quốc gia vực dậy sau sự trì trệ của nền kinh tế, chưa đủ năng
lực để tự phát triển hệ thống giáo dục, và có nhu cầu cao về nguồn nhân lực chất lượng để
phục vụ nền kinh tế tri thức cũng như thu hút đầu tư từ bên ngoài, do đó những mong muốn
cải cách chất lượng giáo dục, cải thiện đầu tư giáo dục, khoa học công nghệ (Vuong, 2018)
để tiến gần hơn tới đẳng cấp quốc tế đã thúc đẩy Việt Nam tích cực hợp tác với các quốc gia
phát triển về giáo dục, đặc biệt là giáo dục bậc đại học như Hoa Kỳ.
Như vậy cả nhân tố ngoại sinh và nhân tố nội sinh đều tạo cơ hội cho sự phát triển sâu
rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
2.2. Các hình thức hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ từ năm 1992 đến năm 2015
2.2.1. Thông qua các chương trình trao đổi giáo dục đại học
Trên cơ sở các Đạo luật về trao đổi giáo dục do Quốc hội Hoa Kỳ ban hành và các
chính sách thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học của Đảng và nhà nước Việt Nam,
giữa hai nước đã diễn ra nhiều chương trình trao đổi giáo dục dành cho sinh viên, giảng viên
đại học, các chuyên gia, phần lớn được hỗ trợ học bổng bởi Chính phủ Hoa Kỳ. Trong hơn 20
chương trình học bổng được thực hiện từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, có một
số chương trình thực sự nổi bật, mang lại hiệu quả cao cho quan hệ hợp tác giáo dục đại học
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
2.2.1.1. Chương trình Fulbright
Chương trình Fulbright là một trong những chương trình trao đổi giáo dục cung cấp
học bổng quốc tế lớn nhất của Chính phủ Hoa Kỳ, được thành lập năm 1946 với mục đích
“tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và mối quan hệ thân thiện, hòa bình giữa nhân dân Hoa Kỳ
21
và nhân dân các quốc gia khác”. Chương trình nhận được tài trợ chính từ Quốc hội và Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chịu trách nhiệm quản lý tổng thể chương trình
Fulbright với các nhiệm vụ đặt mức độ ưu tiên, phân bổ nguồn và tài trợ, và trao quyền quản
lý cho các tổ chức phi lợi nhuận ví dụ như Viện Giáo dục Quốc tế (IIE) thực hiện điều phối,
sắp xếp các ứng cử viên của chương trình Fulbright tham gia vào các viện, trường đại học tại
Hoa Kỳ. Tại hơn 155 quốc gia được Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ chương trình học bổng
Fulbright, Đại sứ quán thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ được đặt tại mỗi nước có nhiệm vụ làm
việc với đối tác thuộc Chính phủ nước đó, cung cấp các chính sách, thủ tục và tuyển chọn
ứng cử viên tham gia vào chương trình Fulbright, thực hiện trao đổi giáo dục giữa hai nước.
Được bắt đầu thực hiện tại Việt Nam từ năm 1992, chương trình Fulbright là chương
trình trao đổi giáo dục sớm nhất và lớn nhất giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chương trình do
Phòng Thông tin - Văn hóa (PAS) Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đảm trách, làm việc với
các tổ chức giáo dục và chính phủ của Việt Nam và Hoa Kỳ để cung cấp cơ hội học tập và
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cho tất cả các ứng viên đủ điều kiện thông qua cuộc
thi mở, dựa trên cơ sở thành tích học tập và làm việc chuyên ngành, không phân biệt chủng
tộc, tôn giáo, giới tính hoặc liên kết. Chương trình Fulbright tại Việt Nam sau hơn 20 năm
chính thức thực hiện 5 thành phần chính: Chương trình trao đổi học giả Hoa Kỳ, Chương
trình trao đổi học giả Việt Nam, Chương trình trao đổi sinh viên Hoa Kỳ, Chương trình trao
đổi sinh viên Việt Nam và Chương trình Giảng dạy Kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương trình trao đổi sinh viên Việt Nam được thực hiện sớm nhất tại Việt Nam từ
năm 1992, trước khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Đến năm
1996, số sinh viên Việt Nam đã tham gia trao đổi lên đến 117, khiến cho chương trình
Fulbright tại Việt Nam lớn nhất Châu Á lúc bấy giờ. Điều này cho thấy quá trình bình thường
hóa thúc đẩy sự tin tưởng, hợp tác trên lĩnh vực giáo dục giữa hai quốc gia. Mục đích của
chương trình trao đổi nhằm thúc đẩy sự hiểu biết, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, cụ
thể hơn là cung cấp tối đa cơ hội giáo dục ở nước ngoài cho các cá nhân chưa có cơ hội trước
đây; trải nghiệm phải mang lại giá trị cho bản thân ứng cử viên tham gia, mang lại giá trị cho
Việt Nam, đồng thời mang giá trị cho chính các tổ chức cung cấp giáo dục tại Hoa Kỳ; và
sinh viên tham gia chương trình Fulbright cũng chính là các đại sứ văn hóa của cả Việt Nam
và Hoa Kỳ. Khoảng thời gian đầu của chương trình trao đổi sinh viên Việt Nam, với mục
đích chính mong muốn các ứng cử viên sau quá trình trao đổi học tập tại Hoa Kỳ sẽ quay lại
đóng góp công sức cho công cuộc xây dựng đất nước, chương trình quy định một số chuyên
ngành nhất định cho sinh viên Việt Nam: kinh tế, quan hệ quốc tế và các vấn đề nhân quyền
trong đó bao gồm quản trị kinh doanh và chính sách công. Các sinh viên trở về nước trong
22
thời gian này đã đóng góp cho đất nước trong việc phát triển các ngành công nghiệp tư nhân
cũng như quan hệ ngoại giao, quản lý công và phát triển nông nghiệp, tác động đến các chính
sách và sự phát triển trong nước. Đồng thời đó là những đại sứ tiềm năng, có vai trò điều phối
trong mối quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ. Chương trình trao đổi sinh viên Việt
Nam ngày càng được mở rộng, cả về đối tượng và lĩnh vực học tập. Chương trình cho phép
đối tượng tham gia đến từ mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam, đang học tập, làm việc tại các cơ
sở thuộc chính phủ, phi chính phủ, tư nhân, trường học,... Lĩnh vực học tập được mở rộng
trên tất cả các mảng về khoa học xã hội, nhân quyền, kinh tế. Dưới hai nhiệm kỳ của tổng
thống Hoa Kỳ George W. Bush, chương trình trao đổi sinh viên Việt Nam của Fulbright mở
rộng cơ hội cho sinh viên học tập ở các lĩnh vực báo chí, y tế, công tác xã hội, khoa học máy
tính, quản lý giáo dục và TESOL (chứng chỉ quốc tế về phương pháp dạy tiếng Anh cho giáo
viên tại các quốc gia coi tiếng Anh là ngoại ngữ). Chương trình Fulbright trao đổi sinh viên
Việt Nam duy trì trao học bổng cho 20-25 ứng cử viên mỗi năm.
Chương trình Fulbright thúc đẩy nhiều hơn các hoạt động trao đổi giáo dục giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ. Năm 1997, Chương trình trao đổi sinh viên Hoa Kỳ lần đầu được thực hiện
tại Việt Nam, với 5 sinh viên Hoa Kỳ được gửi tới Việt Nam để học tập các ngành như phát
triển kinh tế và thương mại, cải cách giáo dục và chính sách. Đến năm 1998, 11 sinh viên
tham gia chương trình trao đổi sinh viên Hoa Kỳ tại Việt Nam, tiếp tục học về kinh tế và giáo
dục, nhưng các môn học đã được mở rộng thêm như văn học, lịch sử Đông Nam Á, môi
trường, quy hoạch và phát triển đô thị. Có thể thấy bình thường hóa quan hệ đã tạo cơ hội cho
các hoạt động trao đổi giáo dục phát triển, đối với Hoa Kỳ đây là cơ hội để sinh viên Hoa Kỳ
được đến Việt Nam, không chỉ học tập và nghiên cứu để hiểu hơn về Việt Nam mà còn tạo ra
những tác động tích cực, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Từ năm
2001, số sinh viên Hoa Kỳ tham gia trao đổi tại Việt Nam duy trì từ 7 đến 10 sinh viên mỗi
năm, các lĩnh vực trong chương trình trao đổi được mở rộng như y tế cộng đồng, nghiên cứu
phụ nữ, các môn nghệ thuật như viết, nhiếp ảnh, quay phim.
Từ năm 1998, chương trình Fulbright đồng thời thực hiện tại Việt Nam Chương trình
trao đổi học giả Việt Nam và Chương trình trao đổi học giả Hoa Kỳ, hai chương trình cho
phép các giảng viên sang nước đối tác trong thời gian ngắn hạn để giảng dạy, nghiên cứu.
Năm hoạt động đầu tiên 1998-1999, 3 giảng viên của Việt Nam tham gia vào chương trình
trao đổi học giả Việt Nam, thực hiện nghiên cứu trên các lĩnh vực kinh tế, quản lý giáo dục
và địa lý. Số lượng ứng cử viên tham gia tăng và duy trì qua từng năm, hoạt động giảng dạy
và nghiên cứu được mở rộng thêm trên nhiều lĩnh vực như chính sách môi trường, quan trị
nhân sự, phát triển chính sách công, ngôn ngữ,...Chương trình trao đổi học giả Hoa Kỳ cho
23
phép các giảng viên, nhà nghiên cứu Hoa Kỳ giảng dạy và nghiên cứu từ 3 đến 10 tháng tại
Việt Nam. Được phụ trách bởi Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, các ứng cử viên Hoa Kỳ
thực hiện giảng dạy, nghiên cứu tại các trường đại học, cao đẳng, các cơ quan chính phủ trên
khắp Việt Nam. Năm 1998, chỉ có 1 giảng viên Hoa Kỳ tham gia chương trình trao đổi này
trên lĩnh vực nghiên cứu luật, nhưng đến năm 1999 số lượng người tham gia đã lên 7 người,
các lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu tại Việt Nam được mở rộng như quản trị kinh doanh,
kinh tế, khoa học môi trường, quản trị công, cũng như giáo dục và văn học Hoa Kỳ. Hằng
năm, chương trình Fulbright cấp 6 đến 8 học bổng cho các học giả Hoa Kỳ trao đổi tại Việt
Nam. Hoạt động trao đổi học giả này cho phép hai quốc gia trao đổi, nghiên cứu để hiểu biết
lẫn nhau sâu sắc hơn, đồng thời tạo cơ hội cho Việt Nam học hỏi trên những lĩnh vực Hoa Kỳ
đã phát triển hơn.
Cũng nằm trong khuôn khổ hoạt động của chương trình Fulbright tại Việt Nam,
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright được thành lập năm 1994, từ sự phối hợp giữa Hội
đồng các Tổ chức Học thuật Hoa Kỳ (ACLS), Chương trình Việt Nam thuộc Viện Phát triển
Quốc tế Harvard (HIID) và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh như là một công trình
tiên phong về hợp tác giáo dục ở Việt Nam. Vào tháng 7 năm 2000, sau khi Viện Phát triển
Quốc tế Harvard giải thể, Chương trình Việt Nam chuyển sang Trung tâm Doanh nghiệp và
Chính phủ (CBG) thuộc Trường Chính phủ John F. Kennedy. Chương trình nhận được sự tài
trợ chính từ Vụ Văn hóa và Giáo dục, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ với mục đích nghiên cứu nhằm
phát triển, đổi mới chính sách kinh tế và nền kinh tế của Việt Nam, thông qua nâng cao chất
lượng hiểu biết và phân tích chính sách công. Từ ngày thành lập đến nay, chương trình tập
trung hỗ trợ và thực hiện 3 sáng kiến trọng tâm: Giảng dạy, gồm chương trình Thạc sĩ Chính
sách công và đào tạo ngắn hạn cao cấp; nghiên cứu, nhắm đến những vấn đề chính sách phức
tạp mà Việt Nam đang đối mặt; và đối thoại chính sách, thông qua thảo luận với các nhà
hoạch định chính sách Việt Nam và tham gia trao đổi về chính sách công ở Việt Nam.
Chương trình đã thu hút hơn 1000 học viên đến từ 60 trên 63 tỉnh thành của Việt Nam, sau
quá trình học tập đã công tác trong các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, khu
vực tài chính ngân hàng, doanh nghiệp tư nhân, các công ty đa quốc gia và tổ chức phi lợi
nhuận.
2.2.1.2. Quỹ giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation - VEF)
Bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ mở ra cho hai nước cơ hội hợp tác trên
nhiều lĩnh vực. Bên cạnh kinh tế thương mại và công nghệ kỹ thuật, cả hai đều xác định giáo
dục là lĩnh vực ưu tiên, được quan tâm hàng đầu trong quan hệ song phương Việt Nam - Hoa
Kỳ. Thông qua Đạo luật Quỹ giáo dục Việt Nam năm 2000, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập Quỹ
24
giáo dục Việt Nam nhằm tăng cường mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
thông qua các hoạt động trao đổi giáo dục. Quỹ giáo dục Việt Nam chính thức đi vào hoạt
động từ năm 2003, với sứ mệnh giúp Việt Nam xây dựng và đạt sự xuất sắc trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ, bằng cách đó sẽ đưa Hoa Kỳ và Việt Nam đến gần nhau hơn. Cụ thể,
Quỹ giáo dục Việt Nam hướng tới giúp Việt Nam thiết lập một cộng đồng khoa học, kỹ thuật,
y tế và kỹ thuật có thể thực hiện chương trình giảng dạy và nghiên cứu phát triển, tạo ra tăng
trưởng kinh tế, duy trì hợp tác khoa học với Hoa Kỳ. Đồng thời giúp Việt Nam học hỏi cũng
như có khả năng đóng góp cho sự tiến bộ khoa học và công nghệ trên toàn cầu. Nhằm thực
hiện sứ mệnh, chương trình tạo cơ hội cho những công dân Việt Nam có khả năng nhất đến
các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ để theo học các chương trình đào tạo sau đại học và
sau đại học về khoa học và công nghệ, giúp Việt Nam tăng cường năng lực và xây dựng thể
chế khoa học và công nghệ trong nước, những lĩnh vực thiết yếu cần được nâng cao trong
công cuộc xây dựng nền kinh tế tri thức của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Đồng thời
Quỹ giáo dục Việt Nam kêu gọi tận dụng nguồn lực và huy động cộng đồng khoa học và giáo
dục Hoa Kỳ để giúp Việt Nam tập trung vào các hoạt động chất lượng cao và mở rộng trên
thế mạnh khoa học và công nghệ của Việt Nam, tạo điều kiện cho các giáo sư Hoa Kỳ tham
gia giảng dạy tại các trường đại học ở Việt Nam.
Hàng năm Quốc hội Hoa Kỳ dành ngân sách 5 triệu đô-la cho các hoạt động trao đổi
giáo dục của Quỹ giáo dục Việt Nam. Tập trung vào các ngành khoa học tự nhiên, vật chất,
môi trường và các ngành kỹ thuật, toán học, khoa học sức khỏe, công nghệ thông tin, các hoạt
động của Quỹ giáo dục Việt Nam được thực hiện thông qua 3 chương trình: Chương trình
Học bổng, Chương trình Học giả và Chương trình Giáo sư Hoa Kỳ giảng dạy tại Việt Nam.
Chương trình Học bổng là chương trình trọng tâm của Quỹ giáo dục Việt Nam, đưa
công dân Việt Nam sang Hoa Kỳ tham gia các chương trình học sau đại học, chương trình
hợp tác với các trường đại học tại Hoa Kỳ hỗ trợ tài chính cho các học viên theo học tại Hoa
Kỳ. Năm 2003, 19 công dân Việt Nam nhận học bổng của Quỹ giáo dục Việt Nam sang Hoa
Kỳ học tập, chỉ một năm sau con số này đã tăng lên 82 người. Tính đến năm 2015, chương
trình đã hỗ trợ 547 nghiên cứu sinh Việt Nam theo học các chương trình sau đại học tại 99
trường đại học uy tín của Hoa Kỳ. Trong số đó, 290 nghiên cứu sinh đã hoàn thành chương
trình dưới sự hỗ trợ của Quỹ giáo dục Việt Nam, hiện đang làm việc tại các ngành nghề khác
nhau, đang tìm kiếm cơ hội việc làm trong nước hoặc một số học tiếp chương trình tiến sĩ và
số ít ở lại Hoa Kỳ theo các dạng thị thực khác nhau.
Chương trình Học giả được bắt đầu từ năm 2007, hỗ trợ các tiến sĩ Việt Nam theo học
các chương trình sau tiến sĩ, kéo dài từ 5-12 tháng tại các trường đại học danh tiếng của Hoa
25
Kỳ, nhằm thúc đẩy khả năng nghiên cứu và lãnh đạo của họ trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ.
Năm 2008, Chương trình Giáo sư Hoa Kỳ giảng dạy tại Việt Nam được bắt đầu, tính
đến năm 2015, 34 giáo sư Hoa Kỳ đã được tuyển chọn để giảng dạy bằng tiếng Anh tại 26
trường đại học Việt Nam qua hình thức giảng dạy trực tiếp tại Việt Nam hoặc qua tương tác
trực tuyến. Cả hai chương trình trao đổi học giả này đã thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhà
nghiên cứu và các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, cho phép cả học giả Việt Nam và Hoa Kỳ
tìm hiểu về hệ thống giáo dục đại học lẫn nhau ở hai quốc gia.
Bên cạnh ba chương trình chính, Quỹ giáo dục Việt Nam thiết lập chương trình Tăng
cường năng lực cho Việt Nam với mục đích thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa chính phủ cũng
như các cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ và Việt Nam, đồng thời tăng cường phát triển
khoa học và công nghệ tại Việt Nam, tạo cơ hội cho những người đã học tại Hoa Kỳ theo
chương trình học bổng có thể quay về Việt Nam đóng góp công sức hiệu quả cho sự phát
triển của đất nước. Theo báo cáo tổng quát của Quỹ giáo dục Việt Nam năm 2015, chương
trình Tăng cường năng lực cho Việt Nam đã thực hiện hiệu quả các hoạt động:
80 nhà khoa học từ 58 cơ quan nghiên cứu của Hoa Kỳ được tài trợ để thực hiện 197
bài giảng/thuyết trình tại 66 trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam.
11 hội thảo/hội nghị khoa học được tổ chức, tài trợ 29 chuyên gia, đại diện cho 16 tổ
chức giáo dục của Hoa Kỳ đến thuyết trình trong các sự kiện khoa học này tại Việt Nam.
3 báo cáo nghiên cứu về giáo dục đại học Việt Nam đã được hoàn thành:
(1) Những quan sát về giáo dục đại học trong các ngành khoa học máy tính, kỹ thuật
điện-điện tử-viễn thông, và vật lý tại một số trường đại học Việt Nam (tháng 8 năm 2006);
(2) Những quan sát về hiện trạng giáo dục trong các ngành khoa học nông nghiệp tại
Việt Nam (tháng 1 năm 2007);
(3) Những quan sát về hiện trạng giáo dục trong các ngành khoa học nông nghiệp, xây
dựng, công nghệ thông tin, kỹ thuật điện - điện tử - viễn thông, khoa học môi trường, vật lý
và giao thông vận tải tại một số trường đại học Việt Nam (tháng 7 năm 2014).
Xây dựng, phát triển các chương trình, dự án đặc biệt ví dụ như phối hợp cùng Viện
nghiên cứu cao cấp (Princeton, NJ) và Nhóm Sáng kiến Khoa học (2004-2006) tạo ra Sáng
kiến Khoa học Thiên niên kỷ (MSI), nhằm thành lập các Trung tâm Xuất sắc tại Việt Nam về
khoa học và công nghệ, sáng kiến được triển khai theo yêu cầu của Bộ Khoa học và Công
nghệ hay tổ chức các hội thảo tại Việt Nam: Gặp mặt các Nhà Khoa học trẻ Việt Nam (tháng
6 năm 2005, tháng 7 năm 2007); Hội thảo Kỹ thuật Y sinh Quốc tế (tháng 7 năm 2007); và
Hội nghị Học liệu Mở Quốc tế (OCWC) (tháng 5 năm 2010).
26
Hỗ trợ Cục Đào tạo với Nước ngoài (VIED) của Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng
chương trình học bổng theo mô hình của Quỹ giáo dục Việt Nam
Hỗ trợ Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) của Bộ Khoa
học Công nghệ xây dựng Hệ thống Quản lý Trực tuyến
Cùng với Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam và Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng tổ chức
và tài trợ Hội nghị Giáo dục Thường niên lần thứ 4 tại Việt Nam vào tháng 4 năm 2011 nhằm
tăng cường giao lưu giáo dục đại học giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
2.2.1.3. Một số chương trình học bổng khác
Ngoài hai chương trình học bổng nổi bật như Fulbright và Quỹ giáo dục Việt Nam, có
hàng loạt các chương trình học bổng trao đổi giáo dục đại học nổi bật khác nằm trong quan
hệ hợp tác giáo dục đại học Việt Nam - Hoa Kỳ do Chính phủ trực tiếp tài trợ hoặc tạo điều
kiện, khuyến khích các tổ chức phi chính phủ và tổ chức về giáo dục tiến hành.
Có thể kể đến chương trình Hubert H. Humphrey chủ yếu do Quốc hội Hoa Kỳ tài trợ
thông qua Vụ Văn hóa và Giáo dục của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngoài ra được tài trợ bởi các
cơ quan chính phủ, các tổ chức đa quốc gia và các doanh nghiệp tư nhân (The Hubert H.
Humphrey Fellowship Program). Đây là một chương trình học bổng nghiên cứu học tập kéo
dài một năm dành cho những người có chuyên môn, kinh nghiệm trên các lĩnh vực công.
Chương trình bao gồm thời gian học tập nghiên cứu trong các trường đại học và có thể có
một kì thực tập chuyên môn ngoài trường đại học. Những lĩnh vực được khuyến khích tham
gia bao gồm các lĩnh vực công: y tế công cộng, môi trường, giáo dục, luật, nhân quyền, chính
sách công, chính sách và quản lý công nghệ, quy hoạch đô thị, báo chí, an ninh quốc gia,
phòng chống, chữa trị và giáo dục về ma túy. Để được xem xét cấp học bổng, ứng cử viên
tham gia chương trình được yêu cầu phải có bằng đại học, tối thiểu năm năm kinh nghiệm
chuyên môn, hạn chế hoặc không có kinh nghiệm trước đó tại Hoa Kỳ, chứng minh phẩm
chất lãnh đạo, thành tích phục vụ cho cộng đồng và kỹ năng tiếng Anh tốt (tối thiểu 525 điểm
TOEFL). Hàng năm, tối đa bảy cán bộ cấp trung của Việt Nam có thể được đề cử tham gia
chương trình này (U.S. Embassy & Consulate in Vietnam).
Một chương trình trao đổi giáo dục nổi bật dành cho sinh viên đại học được tài trợ bởi
Vụ Giáo dục và Văn hoá thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là UGRAD. Học bổng UGRAD dành
cho sinh viên đại học xuất sắc cơ hội nghiên cứu toàn thời gian trong vòng một học kỳ tài
trường đại học diện bốn năm tại Hoa Kỳ, ngoài ra sinh viên được tham gia vào các hoạt động
cộng đồng, các hội thảo phát triển nghề nghiệp và giao lưu văn hóa. Sinh viên sẽ phải tham
gia tối thiểu 20 giờ hoạt động cộng đồng trong chương trình. Sinh viên cũng phải đăng ký
học ít nhất một khóa học về Hoa Kỳ học, ví dụ như lịch sử, văn học, nghệ thuật, hoặc chính
27
phủ. Để đảm bảo sinh viên sẽ thành công ở môi trường học thuật Hoa Kỳ, các trường tiếp
nhận sẽ hướng dẫn cụ thể và chi tiết về cách nghiên cứu và viết bài luận, tư duy phản biện,
quản lý thời gian, cách ghi chép, cách học và làm bài thi. Sinh viên sẽ sống trong ký túc xá
cùng sinh viên Hoa Kỳ. Yêu cầu đối với ứng viên tham gia chương trình trao đổi học bổng
UGRAD: Là sinh viên đại học chính quy năm thứ nhất, thứ hai và thứ ba (hoặc năm thứ tư
đối với sinh viên các trường đại học có hệ đào tạo 5 năm hoặc dài hơn); Còn ít nhất một học
kỳ tại Việt Nam sau khi hoàn thành chương trình học tại Hoa Kỳ; Trình độ tiếng Anh giỏi;
Có kết quả học tập xuất sắc, điểm trung bình học kỳ gần nhất 7,5 trở lên; Tích cực tham gia
các hoạt động cộng đồng và ngoại khoá trong và ngoài nhà trường; Ưu tiên cho những bạn
chưa từng hoặc có ít kinh nghiệm tại Hoa Kỳ; Cam kết trở về Việt Nam ngay sau khi kết thúc
chương trình.
Bên cạnh những chương trình do Chính phủ trực tiếp tài trợ, những chương trình trao
đổi giáo dục đại học do các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức giáo dục tiến hành cũng trao
học bổng và tạo cơ hội cho nhiều sinh viên Việt Nam tham gia các chương trình học tập tại
Hoa Kỳ. Viện Harvard-Yenching thuộc Đại học Harvard là cơ sở đầu tiên thực hiện các
chương trình tài trợ cho sinh viên và học giả Việt Nam thực hiện học tập và nghiên cứu ở các
trường đại học của Hoa Kỳ (Nguyen T. T., 2015). Các tổ chức phi chính phủ có đóng góp lớn
trong việc tài trợ các giảng viên học tập và nghiên cứu tại Hoa Kỳ cũng như tài trợ cho các dự
án giáo dục tại Việt Nam có thể kể đến như Quỹ Ford, Quỹ Châu Á. Trong khuôn khổ các
chương trình này, các chuyên gia Hoa Kỳ được mời sang giảng dạy tại các trường đại học của
Việt Nam, đồng thời các giảng viên của Việt Nam được tuyển chọn cử đi học tập và nghiên
cứu tại các trường đại học của Hoa Kỳ. Một số cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ có thỏa
thuận với Cục Đào tạo với nước ngoài thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam cũng thực
hiện những hoạt động hỗ trợ có giá trị lớn nhằm tạo điều kiện cho sinh viên Việt Nam có cơ
hội học tập, nghiên cứu tại chính những cơ sở giáo dục đại học này của Hoa Kỳ.
Đến năm 2013, đã có 25 trường đại học của Hoa Kỳ đã trở thành đối tác của Cục Đào
tạo với nước ngoài (Cục Hợp tác Quốc tế). Các trường đại học này cung cấp các chương trình
đào tạo bậc đại học, phần lớn đào tạo bậc thạc sĩ và bậc tiến sĩ. Trong hợp tác với Cục Đào
tạo với nước ngoài của Bộ Giáo dục và đào tạo, các trường đại học này dành những hỗ trợ
nhất định đối với sinh viên Việt Nam ví dụ như giảm học phí, thủ tục nhập học thuận lợi,
giảm chi phí ăn ở tại trường, cấp học phí, bảo hiểm y tế trong 2 năm đầu với một số chương
trình. Đặc biệt với chương trình đào tạo tiến sĩ, nghiên cứu sinh được đảm bảo tham gia các
hoạt động giảng dạy và nghiên cứu có thu nhập chi trả sinh hoạt phí.
28
Theo tổng hợp của Phòng Văn hóa - Thông tin Hoa Kỳ tại Hà Nội, tính đến năm
2013, đã có trên 3000 học bổng đã trao cho sinh viên, giảng viên, học giả tham gia các
chương trình trao đổi giáo dục đại học của Việt Nam và Hoa Kỳ.
Bảng 2.1: Các chương trình trao đổi giáo dục của Hoa Kỳ dành cho
Việt Nam (đến tháng 12/2013)
Các chương trình (CT)
Số lượng
CT giảng dạy kinh tế Fulbright
1130
CT Fulbright cho sinh viên Việt Nam
487
CT khách thăm quan tự nguyện
447
CT khách thăm quan quốc tế
418
Các CT trao đổi khác
230
CT Fulbright cho học giả Việt Nam
108
CT của Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á – Thái Bình dương
100
CT học bổng tiếng Anh
85
CT nghiên cứu ở các viện của Mỹ
53
CT học bổng dành cho giáo viên tiếng Anh
49
CT cử nhân toàn cầu
48
CT của Hội đồng Mỹ dành cho các thủ lĩnh chính trị trẻ
47
CT nghiên cứudành cho các thủ lĩnh sinh viên
37
29
CT học bổng Hubert Humphrey
32
CT Thủ lĩnh trẻ Đông Nam Á
30
Đào tạo kỹ thuật cao cấp
27
CT cử nhân tiếng Anh
15
Hội thảo về an ninh Đông Á
11
CT thỉnh giảng/khách thăm quan văn hóa của Trung tâm Kennedy
10
CT viết quốc tế
9
Dự án LENS
3
CT đối tác thông thái dành cho phụ nữ toàn cầu
2
CT Fulbright cho học giả Mỹ
2
CT dạy tiếng Anh
2
CT học bổng U.S.DA - Cochran
2
CT giải pháp cộng đồng
1
CT Fulbright cho học giả Mỹ - ASEAN
1
CT tiến sỹ khoa học và công nghệ quốc tế
1
CT viết Iowa
1
CT học bổng quốc tế của Uỷ ban thương mại liên bang
1
Tổng cộng
3.389
30
Nguồn: Phòng Văn hóa – Thông tin Hoa Kỳ tại Hà Nội. Các chương trình trên đây do
Đại sứ quán Hoa Kỳ trực tiếp điều hành , không tính các chương trình của Qũy Giáo dục
Việt Nam (VEF).
2.2.2. Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ
Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ được thành lập tháng 6 năm
2008 theo một biên bản Ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ, có nhiệm
vụ chuyên trách đưa ra các khuyến nghị về cách thức nhằm tăng cường hợp tác giáo dục đại
học giữa hai nước, dựa trên ba nguyên tắc hoạt động chính: (1) Khuyến khích tăng thêm các
mối liên kết sâu rộng, các chương trình hợp tác chung giữa các trường đại học Việt Nam và
Hoa Kỳ; (2) Tăng số lượng sinh viên Việt Nam sang học tại các cơ sở giáo dục đại học của
Hoa Kỳ, đặc biệt là sinh viên theo học các chương trình đào tạo thạc sĩ; (3) Thúc đẩy các
chương trình giáo dục được thiết kế nhằm giúp sinh viên Việt Nam đạt được những kĩ năng
cần thiết trong quá trình hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam. (U.S. – Vietnam Education Task
Force, 2009)
Thành viên của Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ bao gồm từ
phía Hoa Kỳ: đại diện Hiệp hội các trường đại học của Hoa Kỳ, tập đoàn General Electric,
tập đoàn Intel, đại học Johns Hopkins, trường New School, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt
Nam, Vụ Văn hóa và Giáo dục Hoa Kỳ; phía Việt Nam gồm: Thứ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Vụ trưởng các vụ Giáo dục Đại học, Hợp tác quốc tế thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo,
hiệu trưởng Đại học Đà Nẵng và Đại học Cần Thơ.
Sau thời gian làm việc tích cực, Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa
Kỳ đưa ra bản báo cáo vào tháng 9 năm 2009, đóng vai trò quan trọng trong quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên lĩnh vực giáo dục đại học. Về quan hệ hợp tác giáo dục đại
học giữa hai nước, bản báo cáo nhận định những bối cảnh rộng lớn hơn để hiểu rõ những
khuyến nghị cho hợp tác giáo dục đại học giữa hai nước, bao gồm:
Thứ nhất, Nhóm Chuyên trách nhất trí cao về giá trị của việc tăng cường hợp tác giáo
dục đại học giữa sinh viên, giảng viên, các nhà nghiên cứu trên tất cả các bậc học, lĩnh vực
học và tất cả cơ sở giáo dục đại học của cả hai nước. Các hoạt động trao đổi giáo dục góp
phần tăng cường thành tựu học tập, xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị
gắn bó lâu dài giữa nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ.
Thứ hai, Nhóm Chuyên trách nhận thấy sự cần thiết phải hiện đại hóa hệ thống giáo
dục đại học của Việt Nam, bao gồm những thay đổi cơ bản trong quản trị đại học, sự tự chủ
của các cơ sở giáo dục đại học, tài chính và quản lý, tuyển dụng giảng viên, cơ cấu lương
31
thưởng cũng như chương trình đào tạo và phương pháp nghiên cứu, giảng dạy, đánh giá.
Theo Nhóm Chuyên trách, những thay đổi này không chỉ cần thiết đối với sinh viên, những
người cần có kiến thức và kĩ năng tư duy phản biện, phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa mà
Việt Nam theo đuổi, mà việc cải cách giáo dục một cách cơ bản và hệ thống sẽ tạo môi
trường cho sự hợp tác hiệu quả và bền vững giữa các trường đại học và cao đẳng của Việt
Nam và Hoa Kỳ.
Thứ ba, chủ thể chính của công tác cải cách, hiện đại hóa giáo dục đại học Việt Nam
cũng như hỗ trợ về tài chính cho quá trình này phải là Chính phủ Việt Nam. Nhu cầu cải cách
của Việt Nam chắc chắn sẽ nhận được sự cố vấn và hợp tác từ các chuyên gia nước ngoài,
trong đó có chuyên gia từ Hoa Kỳ trên các lĩnh vực giáo dục, tuy nhiên chỉ đem lại sự phát
triển một cách hệ thống nhất khi có sự hỗ trợ của Chính phủ của cả hai nước.
Thứ tư, các khuyến nghị được đưa ra trong Báo cáo này sẽ đi từ cam kết đến thực hiện
hiệu quả hợp tác giáo dục đại học trong môi trường quốc tế cạnh tranh nhờ có nỗ lực của
Chính phủ hai phía, đồng thời các cơ sở giáo dục đại học công và các thành phần tư nhân với
tính tự chủ cao của Hoa Kỳ, nơi duy trì cung cấp các chuyên gia và nguồn lực cho quan hệ
hợp tác giáo dục đại học, sẽ chỉ đầu tư khi thấy sự hợp tác đem lại lợi ích chung cho cả hai
bên.
Thứ năm, Nhóm Chuyên trách hiểu rõ con đường phía trước sẽ còn nhiều thách thức,
rất cần có sự tham gia của các thành phần chính phủ lẫn phi chính phủ, các ngành, cơ sở trên
nhiều lĩnh vực khác nhau; và trên con đường phía trước cần xác định rõ những gì mang tính
cấp thiết, những gì cần phải kiên trì, xác định những mong muốn có thể đạt được ngay và
những mong muốn cần thời gian lâu dài mới có thể đạt được.
Thứ sáu, các khuyến nghị được đưa ra có liên quan chặt chẽ với nhau, và sự tiến triển
của mỗi khuyến nghị đều là yếu tố cần thiết cho sự tiến triển của các khuyến nghị khác. Giáo
dục đại học là một hệ thống phức tạp trong bất kỳ xã hội nào, và được hình thành bởi rất
nhiều yếu tố liên quan khác trong xã hội.
Đặt ra bối cảnh chung, Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ đã
đề ra trong bản Báo cáo nội dung chính của những khuyến nghị đối với quan hệ hợp tác giáo
dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Những khuyến nghị có nội dung cơ bản:
(1)
Bước cấp thiết nhất là làm rõ và sắp xếp hợp lý các quy trình cần thiết cho
việc hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học Hoa Kỳ với các cơ sở giáo dục đại học là đối tác
của họ tại Việt Nam.
(2)
Các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam cần hoạt động một cách tự chủ hơn và
có trách nhiệm giải trình lớn hơn nếu tăng cường sự hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học
32
của Hoa Kỳ, cũng như phát triển một cách hệ thống và lâu dài thông qua các chương trình
tiên tiến. Để duy trì sự hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ, các hoạt động hợp
tác cần được vận hành một cách minh bạch, linh hoạt hơn và nhận được những hỗ trợ một
cách có hệ thống.
(3)
Để thu hút các cơ sở giáo dục đại học và các thành phần tư nhân đầu tư vào việc
xây dựng thành công một trường đại học mô hình Hoa Kỳ tại Việt Nam, cần phải thể hiện
được một triển vọng mang tính thực tế và có thể đem lại lợi ích chung, cũng như cam kết về
nguyên tắc quản trị, sự tự chủ, trách nhiệm giải trình, tài chính, hoạt động, đào tạo, chất
lượng được xác nhận bởi Nhóm Tư vấn. Cần xác định một hoặc một nhóm các cơ sở giáo dục
đại học có vai trò chủ chốt, có tiềm năng xây dựng kế hoạch chiến lược để từng bước đạt
được thành tựu và đạt được kết quả mong muốn lâu dài. Nhóm Chuyên trách khuyến nghị
bước đầu tiên là cần tập trung xây dựng một trường đại học chuyên về nghiên cứu theo mô
hình của Hoa Kỳ nhằm phục vụ cho đối tượng sinh viên bậc đại học.
(4)
Việc tăng số lượng nghiên cứu sinh Việt Nam theo học tại Hoa Kỳ yêu cầu phải
có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn từ bậc học đại học và bậc thạc sĩ nhằm giúp cho các ứng cử viên
sẽ có quá trình học tập nghiên cứu thành công hơn tại các trường đại học của Hoa Kỳ. Để tạo
ra một đội ngũ ứng cử viên xuất sắc trở thành nghiên cứu sinh tại các trường đại học Hoa Kỳ,
các chương trình đào tạo thạc sĩ trong nước trước đó cần được phát triển một cách phù hợp.
Để thu hút những tiến sĩ được đào tạo ở Hoa Kỳ trở về Việt Nam giảng dạy và nghiên cứu,
góp phần phát triển năng lực nghiên cứu và phát triển hệ thống giáo dục đại học trong nước,
cần phải có sự đổi mới tạo ra môi trường giảng dạy và nghiên cứu phong phú, cởi mở.
(5)
Đảm bảo chất lượng học tập là yếu tố tiên quyết để chính phủ, các quỹ, doanh
nghiệp hoặc các nguồn khác quyết định phân bổ nguồn hỗ trợ một cách hợp lý cho các cơ sở
giáo dục đại học. Việc thiết lập quy trình độc lập kiểm định chất lượng cơ sở đào tạo, chương
trình đào tạo được dựa trên sự đánh giá một cách khách quan, minh bạch của các cơ sở ngang
cấp là một bước đi quan trọng trong quá trình tiến tới chất lượng đào tạo được quốc tế công
nhận.
(6)
Thông qua kế hoạch hiệu quả mang tính quốc gia về việc phát triển kĩ năng
ngôn ngữ Anh là một việc cần thiết nếu Việt Nam mong muốn tích cực tham gia vào nền kinh
tế toàn cầu, hay thu hút sự đầu tư nước ngoài. Kế hoạch này đòi hỏi có sự hợp tác của các cơ
sở giáo dục quốc tế và các thành phần tư nhân.
(7)
Các doanh nghiệp và các tổ chức phi lợi nhuận phải tham gia trực tiếp và liên
tục nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn hợp tác giáo dục đại học giữa hai nước. Thường xuyên trao
đổi và tương tác giữa các trường đại học Việt Nam với các thành phần tư nhân nước ngoài là
33
yếu tố cần thiết để tăng cường lợi ích chung là tạo ra đội ngũ nhân lực có trình độ và những
kĩ năng cần thiết để có khả năng tham gia một cách cạnh tranh trong quá trình hiện đại hóa
của nền kinh tế Việt Nam.
Trên cơ sở nội dung cơ bản của các khuyến nghị, Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo
dục Việt Nam - Hoa Kỳ đưa ra những phương thức cụ thể dựa trên ba nguyên tắc hoạt động
chính bao gồm: khuyến khích tăng thêm các mối liên kết sâu rộng, các chương trình hợp tác
chung giữa các trường đại học Việt Nam và Hoa Kỳ bằng cách xây dựng một lộ trình thích
hợp để xây dựng cơ sở giáo dục đại học theo mô hình Hoa Kỳ tại Việt Nam, xây dựng
chương trình tiên tiến tại Việt Nam, làm rõ và đơn giản hóa các thủ tục để xây dựng một
chương trình giáo dục mới ở Việt Nam; tăng số lượng sinh viên Việt Nam sang học tại các cơ
sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ, đặc biệt là sinh viên theo học các chương trình đào tạo thạc
sĩ thông qua phân tích bối cảnh hợp tác giáo dục đại học Việt Nam - Hoa Kỳ và các hành
động cụ thể để đạt được hiệu quả nâng cao số lượng sinh viên trao đổi; thúc đẩy các chương
trình giáo dục được thiết kế nhằm giúp sinh viên Việt Nam đạt được những kĩ năng cần thiết
trong quá trình hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam thông qua các khuyến nghị cụ thể về nâng
cao kiến thức và kĩ năng cơ bản, nâng cao khả năng tiếng Anh, hình thức kiểm tra và công
nhận trong giáo dục, mối quan hệ giữa các cơ sở giáo dục công lập và tư nhân.
2.2.3. Hợp tác trong xây dựng mô hình giáo dục đại học ở Việt Nam
2.2.3.1. Các chương trình liên kết đào tạo của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam với cơ
sở giáo dục đại học Hoa Kỳ
Theo thống kê của Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước đến nay đã
có hơn 500 chương trình hợp tác và liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt
Nam thực hiện với hơn 200 cơ sở giáo dục đại học tại 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các
chương trình liên kết đào tạo này được triển khai dưới nhiều hình thức: Đào tạo toàn phần tại
Việt Nam hoặc một phần tại Việt Nam và một phần tại nước ngoài; đào tạo theo chương trình
của nước ngoài hoặc chương trình do hai trường đối tác cùng xây dựng, hoặc theo hình thức
chuyển nhượng "franchising", trong đó cơ sở giáo dục nước ngoài chuyển giao chương trình
đào tạo cho cơ sở giáo dục Việt Nam và giám sát điều kiện đảm bảo chất lượng (Cục Hợp tác
Quốc tế).
Trong 30 quốc gia thực hiện các chương trình liên kết đào tạo giáo dục đại học với
Việt Nam, Hoa Kỳ là quốc gia có số lượng chương trình liên kết lớn nhất. Tính đến năm
2015, có tổng số 444 chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam
với nước ngoài, 70 trong số đó là các chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở đại học của
Việt Nam với cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ. Các chương trình liên kết được thực hiện
34
có thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam phê duyệt hoặc do các cơ sở giáo dục đại học tự
phê duyệt. Theo thống kê của Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến năm 2015,
có 257 chương trình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, trong đó 36 chương trình
hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ (Cục Hợp tác Quốc tế).
Bảng 2.2: Danh sách các chương trình liên kết đào tạo với Hoa Kỳ đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo phê duyệt (2002-2015)
TT
1
2
3
4
5
6
7
Cơ sở giáo dục Việt
Nam
Học viện Cảnh sát nhân
dân
Đối tác nước ngoài
Văn bằng
Trường ĐH Maryland
Thạc sĩ
Học viện Công nghệ
Trường ĐH Staten Island
Bưu chính Viễn thông
CSI/CUNU
Học viện Ngân hàng
Trường ĐH Thành phố
Seattle
Trường CĐ Viễn Đông
Trường ĐH Valdosta
Cử nhân
Trường ĐH Bà Rịa -
Trường ĐH Thành phố
Cử nhân
Vũng Tàu
Seattle
Thạc sĩ
Trường ĐH Troy
Cử nhân
Khoa Hà Nội
City
10
Trường ĐH Bình Dương
Trường ĐH Công nghệ
Sài Gòn
Trường ĐH Công nghệ
Kỹ thuật máy tính
chuyên ngành Quản trị
Cử nhân
Columbia
Trường ĐH Oklahoma
Tư pháp
Tài chính
Nam
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Tiến sĩ
Quản trị Kinh doanh
Quản trị Kinh doanh
Khoa học máy tính
Quản trị Kinh doanh
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Cử nhân
Quản trị Kinh doanh
Trường ĐH Benedictine
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Trường ĐH Troy
Cử nhân
(NCU)
9
Cử nhân
Trường ĐH Nam
Trường Đại học Bách
Lãnh đạo trong lĩnh vực
Quản trị Kinh doanh
Hội Khuyến học Việt
Trường ĐH Northcentral
8
Cử nhân
Chuyên ngành
Trường ĐH Lincoln
TP. Hồ Chí Minh
Trường ĐH Bristol
35
Cử nhân
Thạc sĩ
Khoa học máy tính
Quản trị Kinh doanh
Quản trị Kinh doanh
Cử nhân
Kinh doanh
Thạc sĩ
Quản trị kinh doanh
Trường ĐH Utica
11
12
13
Trường ĐH Công nghiệp
Hà Nội
Trường ĐH Công nghiệp
TP.HCM
Trường ĐH Cửu Long
Trường ĐH Đông Á
Cử nhân
Quản trị Kinh doanh
Trường ĐH Frostburg
Cử nhân
Khoa học máy tính
Trường ĐH Northcentral
Cử nhân
Quản trị kinh doanh
Trường ĐH Thomas
Cử nhân
Quản trị Kinh doanh
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Thạc sĩ
Quản trị kinh doanh
Trường ĐH Bách khoa
Tây Bắc
14
Cao đẳng
Trường ĐH Benedictine
Quản trị kinh doanh
Trường ĐH Appalachian
Cử nhân
Kế toán
Khoa học máy tính
15
Trường ĐH Duy Tân
Trường ĐH Medaille
Cử nhân
Quản trị kinh doanh
Kế toán
Quản trị kinh doanh,
Trường ĐH Upper Iowa
Cử nhân
Quản trị Tài chính, Hệ
thống thông tin và Công
nghệ thông tin
16
Trường ĐH Giao thông
Trường ĐH Bang
vận tải TP. HCM
Arkansas
Kỹ thuật xây dựng
Cử nhân
Kỹ thuật điện
Kỹ thuật cơ khí
Trường ĐH bang
17
Trường ĐH Kinh tế quốc
California, San
dân
Bernardino
Trường ĐH Ohio
18
Trường ĐH Kinh tế- Tài
Trường ĐH Missouri-St
chính TP. Hồ Chí Minh
Louis
Trường ĐH Houston
19
Trường ĐH Kinh tế TP.
Hồ Chí Minh
Cử nhân
Quản trị
Thạc sĩ
Kinh tế tài chính
Cử nhân
Quản trị Kinh doanh
Khoa học máy tính
Cử nhân
Kinh tế
Thạc sĩ
Chính sách công
Trường ĐH Lincoln
Cử nhân
Quản trị Kinh doanh
Trường Kinh doanh
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Clear Lake
Trường Quản lý nhà nước
John F. Kennedy, Trường
ĐH Harvard
20
21
Trường ĐH Lương Thế
Vinh
Trường ĐH Ngoại
36
thương
Shidler thuộc Trường ĐH
Hawaii
Trường ĐH Minot State
22
Trường ĐH Northern
Hồng Bàng
Colorado
Trường ĐH Sư phạm
23
24
Trường ĐH Quốc tế
TP. Hồ Chí Minh
Cử nhân
Thạc sĩ
Kinh doanh quốc tế
Tài chính
Điều dưỡng
Giáo dục (Chương trình
Trường ĐH Houston
Thạc sĩ
và phương pháp giảng
dạy)
Trường ĐH Tài chính -
Trường ĐH Bách khoa
Marketing
Tây Bắc
Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh
Tài chính, Quản lý
chăm sóc sức khỏe,
25
Trường ĐH Thương mại
Trường ĐH Houston Clear Lake
Cử nhân
Marketing Kế toán,
Kinh doanh, Quản lý,
Hệ thống thông tin quản
lý
Nguồn: Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo
Có thể thấy các chương trình liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục đại học của Hoa
Kỳ phần lớn tập trung vào các lĩnh vực kinh tế như ngành quản trị kinh doanh, tài chính, bên
cạnh đó là các ngành khoa học máy tính và chính sách công, theo đánh giá của Cục Hợp tác
quốc tế Bộ Giáo dục và Đào tạo, về lợi ích quốc gia các chương trình này đã góp phần cung
ứng cho xã hội nguồn nhân lực có chất lượng cao, thúc đẩy Việt Nam trên con đường hiện đại
hóa nền kinh tế cũng như quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
2.2.3.2. Đại học Việt Nam áp dụng giảng dạy các chương trình tiên tiến của đại học
Hoa Kỳ
Dựa trên nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng để phát triển kinh tế - xã
hội trong thời kỳ hội nhập và từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải
xây dựng các trường đại học có chất lượng quốc tế, giải pháp trước mắt là tạo cơ hội cho một
số khoa, ngành mạnh trong các trường đại học tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và
quốc tế. Một trong những giải pháp để đạt được mục đích trên là áp dụng ngay một số
chương trình đào tạo của các trường đại học tiên tiến trên thế giới vào giảng dạy bằng tiếng
Anh ở một số trường đại học Việt Nam. Những nhận định trên của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Việt Nam cho thấy nhu cầu thiết yếu của việc áp dụng các chương trình giáo dục chất lượng
quốc tế phù hợp vào môi trường đại học tại Việt Nam. Đồng thời, tình hình thực tế cũng cho
37
thấy thấy tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều chương trình liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam với các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài, tuy đã đạt được nhiều kết quả
khách quan nhưng vẫn không đủ để tạo ra những tác động mạnh làm chuyển động toàn hệ
thống giáo dục đại học theo hướng đổi mới cơ bản và toàn diện (Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2008) do một số nguyên nhân được cho là còn ít về số lượng, các chương trình chưa được mở
rộng với quy mô đại trà, chưa có sự phát triển đồng bộ để đạt được hiệu quả lớn nhất trong
việc hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài. Từ những thực trạng trên, Bộ Giáo
dục và Đào tạo Việt Nam xây dựng đề án “Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số
trường đại học Việt Nam giai đoạn 2008 – 2015” với mục tiêu: Triển khai thực hiện một số
chương trình tiên tiến đào tạo trình độ đại học nhằm tạo điều kiện để xây dựng và phát triển
một số ngành đào tạo, khoa, trường đại học mạnh đạt chuẩn khu vực và đẳng cấp quốc tế;
góp phần nâng cao chất lượng và triển khai các chương trình đổi mới cơ bản và toàn diện
giáo dục đại học Việt Nam; phấn đấu đến năm 2020 có một số trường đại học của Việt Nam
được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới (Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2008).
Đề án được Chính phủ phê duyệt vào tháng 10 năm 2008, là cơ sở để hơn 20 trường
đại học tại Việt Nam áp dụng các chương trình giảng dạy tiên tiến từ các trường đại học tại
nước ngoài, trong đó phần lớn các chương trình thí điểm đầu tiên áp dụng mô hình tiên tiến
của đối tác là các trường đại học của Hoa Kỳ.
Dựa theo tiêu chí được xác định trong đề án, các chương trình giảng dạy tiên tiến
được các trường đại học Việt Nam áp dụng đều là chương trình từ những trường đại học chất
lượng của Hoa Kỳ, với yêu cầu phải thuộc nhóm 200 trường đại học hàng đầu thế giới trong
bảng xếp hạng của các hiệp hội, tổ chức kiểm định giáo dục cấp quốc gia hoặc quốc tế (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2008). Khác với các chương trình chất lượng cao và liên kết, các
chương trình giảng dạy tiên tiến bao gồm cả quy trình, kế hoạch đào tạo, quy định học vụ,
quản lý đào tạo được thiết kế bởi các cơ sở giáo dục đại học Hoa Kỳ và thực hiện giảng dạy
bằng tiếng Anh.
Từ năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo bắt đầu triển khai thí điểm các chương trình
tiên tiến. Theo thống kê của Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ, các
trường đại học Việt Nam ký cam kết với các trường đại học của Hoa Kỳ về sử dụng chương
trình đào tạo, tập huấn cho giảng viên và cán bộ quản lý, tư vấn xây dựng cơ sở vật chất, cử
các giảng viên Hoa Kỳ sang Việt Nam giảng dạy và giúp kiểm định chất lượng.
Bảng 2.3: Các trường đại học của Việt Nam hợp tác với các trường đại học của
Hoa Kỳ về áp dụng giảng dạy chương trình tiên tiến
38
TT
1
2
3
4
5
Tên trường đại học của Việt
Nam
Đối tác Hoa Kỳ
ĐH Khoa học tự nhiên,
ĐH Illinois tại Urbana -
ĐHQG Hà Nội
Champaign
ĐH Khoa học tự nhiên,
ĐH Washington, Bang
ĐHQG Hà Nội
Washington
ĐH Khoa học tự nhiên,
ĐHQG TP.Hồ Chí Minh
ĐH Bang Portland, Oregon
ĐH Bách Khoa, ĐHQG
ĐH Illinois tại Urbana -
TP.Hồ Chí Minh
Champaign
ĐH Công nghệ thông tin,
ĐHQG TP.HCM
ĐH bang Oklahoma
Ngành đào tạo
Hóa học
Toán
Khoa học máy tính
Kỹ thuật điện và máy tính
Hệ thống thông tin
Hóa sinh và sinh học phân
6
Đai học Cần Thơ
ĐH Bang Michigan
7
Đai học Cần Thơ
ĐH Auburn, Bang Alabama
Nuôi trồng thủy sản
8
Đai học Huế
ĐH Virginia
Vật lý
9
Đai học Đà Nẵng
10
Đai học Đà Nẵng
11
Đại học Thái Nguyên
12
Đại học Kinh tế Quốc Dân
13
Đại học Bách Khoa Hà Nội
14
Đại học Bách Khoa Hà Nội
15
Đại học Bách Khoa Hà Nội
ĐH Duke- Durham
Kỹ thuật hệ thống Y sinh
16
Đại học Nông nghiệp Hà Nội
ĐH California – Davis
Khoa học cây trồng
17
Đại học Nông nghiệp Hà Nội
ĐH Wisconsin - Madison
ĐH Washington, Bang
Washington
ĐH Washington, Bang
Washington
ĐH Bang New York tại Buffalo
ĐH Bang California – Long
Beach
ĐH Bang California, Chico
ĐH Illinois tại Urbana Champaign
39
tử/công nghệ sinh học
Kỹ thuật điện tử
Hệ thống nhúng
Kỹ thuật Cơ khí
Tài chính
Kỹ thuật Cơ khí
Kỹ thuật và Khoa học vật liệu
Quản lí kinh doanh nông
nghiệp
18
ĐH Nông Lâm TP. Hồ Chí
Minh
ĐH California – Davis
Khoa học và Công nghệ Thực
phẩm
19
Đại học Thủy lợi
ĐH Bang Colorado
Kỹ thuật nguồn nước
20
Đại học Ngoại thương
ĐH Bang Colorado
Kinh tế Quốc tế
Nguồn: U.S. – Vietnam Education Task Ford
Tại Hội nghị Tổng kết đào tạo theo chương trình tiên tiến giai đoạn 2006-2016, Bộ
Giáo dục và Đào tạo nhận định đào tạo theo chương trình tiên tiến có tác động tích cực đến
các hoạt động của trường đại học (QN, 2016).
2.2.3.3. Dự án HEEAP
Năm 2010, Intel - một trong những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới có trụ sở
chính ở thung lũng Silicon, Hoa Kỳ - mở một nhà máy lắp và kiểm nghiệm sản phẩm ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên gặp vấn đề với việc tuyển dụng nguồn nhân lực đáp ứng
được yêu cầu, Intel đã tiến hành khảo sát điều tra chất lượng tân kỹ sư tại các trường đại học
kỹ thuật Việt Nam. Kết quả cho thấy hầu hết tân kỹ sư ở Việt Nam có kiến thức lý thuyết bài
bản nhưng lại thiếu một số kỹ năng cần thiết như sử dụng tiếng Anh, kỹ năng làm việc nhóm,
kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và kỹ năng lãnh đạo để có
thể làm việc một cách hiệu quả trong môi trường thực tế. Nhận thấy nhu cầu cấp thiết về
nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như thấy được tinh thần thiện chí, khuyến khích đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đại học của Chính phủ Việt Nam, tập đoàn Intel quyết
định tài trợ thiết lập một dự án giáo dục tại Việt Nam, với mục đích ban đầu là cải thiện
phương pháp học tập mang tính thực tế tích cực hơn cho Việt Nam. Dự án Liên minh giáo
dục đại học ngành kỹ thuật (HEEAP) của Trường Kỹ thuật Ira A. Fulton thuộc Đại học bang
Arizona (ASU), Hoa Kỳ chính thức được thành lập tại Việt Nam dưới sự hợp tác cùng với tập
đoàn Intel và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Đồng thời, dự án nhận được sự
tài trợ từ các đơn vị Bộ Giáo dục Việt Nam, Khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh, Siemens,
Danaher, Cadence, National Instruments và Pearson, thực hiện kết hợp với các trường đại học
và cao đẳng kỹ thuật hàng đầu tại Việt Nam.
Với mục tiêu định hướng các chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đầu ra
sinh viên, đảm bảo sinh viên ra trường đạt được kiến thức và kỹ năng cần thiết theo yêu cầu
của môi trường làm việc, dự án tập trung cải thiện, chuyển đổi và hiện đại hóa các chương
trình đại học và dạy nghề về kỹ thuật hàng đầu Việt Nam, theo các phương hướng hoạt động
chính:
Thứ nhất là hiện đại hóa chương trình và phương pháp giảng dạy các ngành kỹ thuật ở
Việt Nam, bằng cách tạo cơ hội cho các giảng viên Việt Nam đến Hoa Kỳ học tập nâng cao
40
kiến thức cũng như các phương pháp giáo dục, từ đó giúp cải thiện các phương pháp giảng
dạy ứng dụng và xây dựng lại các chương trình đào tạo tại đại học Việt Nam đạt tiêu chuẩn
của ABET - hiệp hội kiểm định chính cho các chương trình kỹ thuật trên toàn thế giới.
Thứ hai là hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, thực hành để sinh viên có thể áp dụng
ngay những kiến thức được dạy.
Thứ ba là tạo điều kiện cho các chương trình dạy học bằng tiếng Anh để xây dựng kĩ
năng tiếng Anh cho sinh viên trong môi trường công việc sau này, đồng thời hạn chế phải
dịch các bản hướng dẫn sang tiếng Việt.
Thứ tư là thiết kế các khóa trao đổi, hướng dẫn những người đứng đầu các trường đại
học về công nghệ và kỹ thuật của Việt Nam, nhằm giúp họ có tầm nhìn và chiến lược tốt hơn
cho tương lai.
Và thứ năm, thúc đẩy sự đa dạng trong các chương trình nhằm chống lại một thực tế
rằng phụ nữ đang không nhận được nhiều ủng hộ khi tham gia vào các ngành nghiên cứu kỹ
thuật và dạy nghề tại Việt Nam.
Từ phương hướng trên, dự án đã triển khai một số hoạt động đem lại hiệu quả tích cực
trong sự hợp tác nâng cao chất lượng giáo dục ngành công nghệ kỹ thuật cho đại học Việt
Nam:
Tạo cho các giảng viên Việt Nam cơ hội tham gia khóa học kéo dài sáu tuần tại Đại
học bang Arizona và một tuần tham gia khóa huấn luyện trong nước về phương pháp giảng
dạy tích cực. Bên cạnh các chương trình học chính được giảng dạy bởi các giảng viên của
Đại học bang Arizona, các chuyên gia và các nhà lãnh đạo hàng đầu của các tập đoàn công
nghiệp sẽ được mời để tổ chức các buổi giảng và hội thảo. Các giảng viên nhận được cơ hội
này có nhiệm vụ áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực này một cách linh hoạt vào
chương trình đại học thực tế ở Việt Nam, đồng thời truyền đạt kiến thức và chia sẻ kinh
nghiệm giảng dạy với các đồng nghiệp thông qua các buổi hội thảo.
Tổ chức hội thảo huấn luyện giảng viên trong nước cho khoảng gần 100 giảng viên
mỗi năm. Hội thảo được tổ chức theo nhiều chủ đề khác nhau, phù hợp với nhu cầu thực tế
của các khoa, trường đang giảng dạy.
Tổ chức các hội thảo về kĩ năng lãnh đạo nhằm mục tiêu thay đổi tư duy và nâng cao
kỹ năng quản lý cho các nhà lãnh đạo cấp trung và cao cấp của các trường đại học.
Ngày 20 tháng 8 năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và trường Đại học
bang Arizona ký kết bản thỏa thuận đầu tư mở rộng dự án HEEAP nhằm tập trung đào tạo
giảng viên cho các trường đại học kỹ thuật Việt Nam. Dự án mở rộng thành sáu chương trình
chính bao gồm phát triển lãnh đạo; phát triển giảng viên; chương trình học, phòng thí nghiệm
41
và cơ sở hạ tầng; giáo dục từ xa; đa dạng và phát triển chuyên môn giảng dạy; và tiếng Anh,
mang lại lợi ích cho thêm khoảng 1000 giảng viên và thu hút thêm 12 đối tác tham gia mở
rộng dự án.
Tiểu kết chương 2
Dưới các nhân tố ngoại sinh là bối cảnh thế giới với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa và
nhân tố nội sinh gồm quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Việt Nam – Hoa Kỳ và nhu cầu hai
nước về hợp tác giáo dục đại học đều có tác động thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam – Hoa
Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến năm 2015, các hoạt động hợp tác giáo
dục đại học giữa hai nước được thực hiện qua nhiều chương trình hợp tác với các hình thức,
nội dung, quy mô đa dạng, nhìn chung các hoạt động hợp tác được khái quát thành:
Thứ nhất là các chương trình trao đổi giáo dục đại học, tiêu biểu là Chương trình
Fulbright, Chương trình Quỹ giáo dục Việt Nam, bên cạnh đó là các chương trình học bổng
khác như Hubert Humphrey, UGRAD, học bổng của viện Harvard Yenching.
Thứ hai là hoạt động của Nhóm Chuyên trách hợp tác giáo dục Việt Nam – Hoa
Kỳvới bản báo cáo quan trọng đưa ra những khuyến nghị cho quan hệ hợp tác giáo dục đại
học của hai nước.
Thứ ba là hoạt động hợp tác trong xây dựng mô hình giáo dục đại học ở Việt Nam bao
gồm: các chương trình liên kết đào tạo của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam với cơ sở giáo
dục đại học của Hoa Kỳ; Việt Nam áp dụng giảng dạy các chương trình tiên tiến của cơ sở
giáo dục đại học Hoa Kỳ; dự án HEEAP – tiêu biểu cho hoạt động hợp tác xây dựng mô hình
giáo dục đại học ở Việt Nam.
42
CHƯƠNG 3
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - HOA
KỲ TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
3.1. Nhận xét, đánh giá hiệu quả các hoạt động hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong
lĩnh vực giáo dục đại học
3.1.1. Những thành tựu đạt được
Những bước đầu hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
bắt đầu từ trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Tiến triển trong hơn 20
năm sau khi chính thức bình thường hóa quan hệ, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học đã
đạt được những thành tựu nhất định trong quan hệ giữa hai nước.
Thứ nhất là số lượng các chương trình trao đổi giáo dục đại học Việt Nam - Hoa Kỳ
ngày càng phong phú đa dạng cũng như đảm bảo về chất lượng chương trình, sự hỗ trợ từ
Chính phủ và các tổ chức giáo dục, phi chính phủ thông qua các chương trình học bổng đã
tạo điều kiện cho thêm rất nhiều sinh viên Việt Nam và Hoa Kỳ được tham gia vào các
chương trình trao đổi giáo dục đại học tại hai nước.
Chương trình Fulbright được bắt đầu tại Việt Nam từ năm 1992, mỗi năm đưa 25-30
sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ học chương trình thạc sĩ, và 10 học giả sang nghiên cứu tại
các trường đại học của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2015, 520 sinh viên Việt Nam thông qua
Chương trình trao đổi sinh viên của Fulbright đã được theo học chương trình thạc sĩ tại Hoa
Kỳ, 118 học giả là các giảng viên, chuyên gia từ Việt Nam thông qua Chương trình học giả
có cơ hội học tập, nghiên cứu tại các trường đại học của Hoa Kỳ (U.S. Embassy & Consulate
in Vietnam). Và trong số những ứng viên tài năng trở về từ chương trình Fulbright đã trở
thành những con người thành công, đóng góp nhiều công sức cho quá trình xây dựng, phát
triển nền kinh tế hiện đại hóa của Việt Nam. Có thể kể đến cựu thành viên viên nổi bật của
chương trình Fulbright như Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh thuộc khóa sinh viên đầu tiên theo học tại Hoa Kỳ dưới sự tài trợ của học bổng Fulbright.
Những cựu sinh viên khác cũng đều có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực khoa học,
kinh tế, học thuật và nghệ thuật. Cựu sinh viên chương trình Fulbright năm 1994, bà Đàm
Bích Thủy làm việc tại ngân hàng ANZ ở Singapore từ năm 1995, sau đó được bổ nhiệm làm
Tổng giám đốc ANZ Việt Nam vào năm 2005, là người Việt Nam đầu tiên lãnh đạo hoạt
động của một ngân hàng quốc tế trong nước, bà được đánh giá cao bởi những đóng góp cho
ngành tài chính ngân hàng nước nhà. Đỗ Minh Thùy là cựu sinh viên năm 2004 của học bổng
Fulbright đã có cơ hội học tập và nghiên cứu về lĩnh vực báo chí tại Hoa Kỳ, sau khi hoàn
thành chương trình học bổng, bà đã có những đóng góp quan trọng cho cộng đồng thông qua
43
dự án “Nâng cao năng lực dành cho nhà báo trẻ”, dự án đến năm 2012 đã thu hút hơn 2000
thành viên tham gia tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương trình học bổng của Quỹ Giáo dục Việt Nam hoạt động từ năm 2003, tính đến
năm 2015 cũng đã hỡ trợ 547 nghiên cứu sinh Việt Nam theo học các chương trình sau đại
học tại 99 trường đại học uy tín của Hoa Kỳ. Theo số liệu đến tháng 11 năm 2015, 337
nghiên cứu sinh đã tốt nghiệp với 238 người đã nhận bằng tiến sĩ, 99 người nhận bằng thạc sĩ.
Đồng thời trong 337 nghiên cứu sinh đã tốt nghiệp đó, 47 nghiên cứu sinh tiếp tục tham gia
chương trình đào tạo tại Hoa Kỳ trước khi trở về Việt Nam, còn 290 người đã hoàn thành
chương trình dưới sự hỗ trợ của Quỹ Giáo dục Việt Nam.
Theo thống kê của Quỹ giáo dục Việt Nam, trong 290 người đã hoàn thành chương
trình, 233 người (80%) đang làm việc tại các khối ngành khác nhau, 28 người (10%) vừa trở
về Việt Nam và đang tìm kiếm cơ hội việc làm, 22 người (8%) học tiếp chương trình tiến sĩ
với nguồn tài trợ khác, 7 người (2%) đang ở Hoa Kỳ theo các dạng thị thực khác nhau.
Tháng 11 năm 2015, có 186 nghiên cứu sinh đang học tập tại Hoa Kỳ theo học bổng
của Quỹ Giáo dục Việt Nam, trong đó: 87% theo học chương trình tiến sĩ, 13% theo học
chương trình thạc sĩ; 41% theo học các chuyên ngành kỹ thuật, 23% theo học chuyên ngành
sinh học và khoa học y sinh, 15% theo học chuyên ngành khoa học máy tính, 7% theo học
chuyên ngành về nông nghiệp, 5% theo học các chuyên ngành về khoa học vật chất (thiên
văn học, hóa học và vật lý), 3% theo học các chuyên ngành về toán, 3% theo học chuyên
ngành y tế công cộng, 2% theo học chuyên ngành tài nguyên thiên nhiên, và 1% theo học
nghiên cứu đa ngành.
Bắt đầu từ năm 2007, Chương trình Học giả của Quỹ Giáo dục Việt Nam đã hỗ trợ 50
tiến sĩ của Việt Nam tham gia các chương trình sau tiến sĩ kéo dài từ 5 tới 12 tháng tại 38
trường đại học danh tiếng của Hoa Kỳ.
Theo số liệu thống kê của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, đến năm 2010, Đoàn
Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao gần 1000 học bổng với tổng ngân sách lên đến 75 triệu đô la.
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ các chương trình học bổng của Chính phủ Hoa Kỳ dành cho
sinh viên Việt Nam (1992-2010)
44
Nguồn: Phòng Thông tin - Văn hóa (PAS) Đại sứ quán Hoa Kỳ
Các chương trình học bổng cũng như sự hỗ trợ khác từ Chính phủ hai nước, từ các tổ
chức giáo dục, tổ chức phi chính phủ đã tạo sự khuyến khích cho nhiều sinh viên Việt Nam
tham gia các chương trình trao đổi, và cả du học tự túc. Có thể thấy từ năm 1995 đến 2015, số
lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ tăng rõ rệt. Từ khoảng 800 sinh viên vào thời
điểm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước lên đến con số 18000 sinh viên vào
năm 2015, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng đầu ASEAN và đứng thứ 8 trên thế giới về
số lượng sinh viên theo học tại Hoa Kỳ.
Bảng 3.1: Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ (1998-2015)
Năm học
Sinh viên Việt Nam
du học tại Hoa Kỳ
Thay đổi so với năm học trước
2014-2015
18,722
12.9%
2013-2014
16,579
3.0%
2012-2013
16,098
3.4%
2011-2012
15,572
4.6%
2010-2011
14,888
13.5%
2009-2010
13,112
2.3%
2008-2009
12,823
46.2%
45
2007-2008
8,769
45.3%
2006-2007
6,036
31.3%
2005-2006
4,597
25.3%
2004-2005
3,670
16.0%
2003-2004
3,165
16.3%
2002-2003
2,722
7.5%
2001-2002
2,531
25.2%
2000-2001
2,022
-10.8%
1999-2000
2,266
42.8%
1998-1999
1,587
-
Nguồn: Báo cáo Open Door của Viện Giáo dục Quốc tế (IIE)
Thứ hai, các hoạt động hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã mang
lại những lợi ích cho Việt Nam, đặc biệt trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Nếu
như chương trình học bổng Fulbright tập trung vào các ngành khoa học xã hội, cho người học
những trải nghiệm mạnh mẽ trong chương trình học mang tính hệ thống và kết nối toàn cầu,
tạo những bài học kinh nghiệm cho cựu sinh viên trở về Việt Nam xây dựng và phát triển xã
hội, thì chương trình học bổng của Quỹ Giáo dục Việt Nam ưu tiên các chuyên ngành toán,
khoa học, y tế, kỹ thuật, máy tính hay các ngành khoa học nông nghiệp, công nghệ hạt nhân
nhằm đáp ứng nhu cầu của Việt Nam trong phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Bên cạnh đó các chuyên gia, giáo sư của Hoa Kỳ cùng các thành viên Việt Nam
của Nhóm Chuyên trách Hợp tác Giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ đã hỗ trợ Việt Nam thông qua
các báo cáo quan trọng nhằm phát triển chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam cũng như
hỗ trợ định hướng, khuyến nghị Việt Nam trong việc phát triển, phân bổ các chuyên ngành
giáo dục đại học cho phù hợp với nhu cầu thực tại của Việt Nam.
Cũng như các chương trình hỗ trợ học bổng, các chương trình đào tạo liên kết và đào
tạo theo chương trình tiên tiến của các trường đại học Hoa Kỳ đã tạo cơ hội cho cả sinh viên,
giảng viên, các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam được tiếp cận với chất
lượng giáo dục đại học tiên tiến mang đẳng cấp thế giới, đây cũng là cơ hội để Việt Nam học
hỏi, phát triển tiềm năng để có thể xây dựng các chương trình giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn
quốc tế cao trong tương lai không xa. Một trong những chương trình liên kết giáo dục đại học
nổi bật là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là trường Đại học Hawaii tại Manoa đã ký kết văn bản
ghi nhớ với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Thái Nguyên và Đại học Sư phạm Thành phố
46
Hồ Chí Minh, thiết lập các chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Sinh viên được học tại Việt
Nam và nhận bằng của Đại học Hawaii tại Manoa. Theo nhận xét của Hiệu trưởng trường Đại
học Hawaii tại Manoa - ông Donald Young, sinh viên Việt Nam thể hiện rất tốt trong quá
trình học tập, do đó trường rất mong muốn được đầu tư liên kết với các trường đại học của
Việt Nam, trong chương trình liên kết với Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo
thạc sĩ và tiến sĩ, nhiều sinh viên đầu ra xuất sắc đã trở thành những nhà quản lý giáo dục, có
đóng góp tích cực cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam. Một trong những trường đại học
công lập của Hoa Kỳ là Đại học Portland cũng mong muốn tăng cường hợp tác liên kết với
các trường đại học Việt Nam, bên cạnh hỗ trợ học bổng cho sinh viên Việt Nam theo học tại
Đại học Portland ở Hoa Kỳ, trường đại học này còn thúc đẩy liên kết với đại học Việt Nam
tiến hành các dự án nghiên cứu chung trong các lĩnh vực xử lý khủng hoảng, phát triển bền
vững, biến đổi khí hậu, quản trị công và quản trị doanh nghiệp. Tính đến năm 2015, đã có
gần 30 trường đại học của Việt Nam liên kết với các trường đại học của Hoa Kỳ, chú trọng
các chuyên ngành kinh tế, thương mại và quản trị. Trong Hội nghị tổng kết đào tạo theo
chương trình tiên tiến giai đoạn 2006-2016 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, theo nhận
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình tiên tiến được xây dựng theo mô hình của đại
học nước ngoài như Hoa Kỳ “đã có tác động khá toàn diện đến các hoạt động của các trường
triển khai theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, như các việc: phát triển
đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý; cách thức phát triển chương trình đào tạo và cơ sở vật
chất; tổ chức và quản lý đào tạo; phương pháp dạy - học và đánh giá; gắn đào tạo với nghiên
cứu khoa học và việc làm; xác lập mô hình quản trị và quản lý tự chủ trong trường đại học;
xác định chi phí đơn vị tương xứng với chất lượng đào tạo; mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế.”
Đồng thời, hợp tác với Hoa Kỳ ở lĩnh vực giáo dục đại học tạo cho Việt Nam cơ hội
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các chương trình học thuật, thực hành theo
mô hình của các trường đại học, doanh nghiệp Hoa Kỳ. Có thể thấy thành tựu của dự án
HEEAP trong sự cải tiến trong chương trình giảng dạy của các giảng viên các trường đại học,
cao đẳng, dạy nghề về lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật tại Việt Nam, bên cạnh cung cấp lý
thuyết đã nâng cao nhiều phương pháp giảng dạy mang tính thực tế và ứng dụng cao, đồng
thời chú trọng nâng cao trình độ tiếng Anh cho người học nhằm đảm bảo đầu ra của sinh viên
đạt được tiêu chuẩn của các nhà tuyển dụng cả trong và ngoài nước. “Sự hợp tác này là công
cụ thúc đẩy mục tiêu của chúng tôi” - nhận xét của Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nguyễn Vinh Hiển đối với chương trình.
47
Thứ ba, đối với Hoa Kỳ, các chương trình trao đổi giáo dục đại học với Việt Nam tạo
cơ hội để sinh viên, giảng viên, giáo sư Hoa Kỳ đến Việt Nam học tập và nghiên cứu. Các
chương trình do Chính phủ hỗ trợ như Fulbright mỗi năm đưa 10 sinh viên, 10 học giả, 15 trợ
giảng tiếng Anh và 5-10 chuyên gia cao cấp sang Việt Nam học tập, nghiên cứu, giảng dạy và
giúp Việt Nam xây dựng các dự án cải thiện chất lượng giảng dạy và quản lý giáo dục của
Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều giảng viên, chuyên gia Hoa Kỳ tham gia nghiên cứu, giảng
dạy tại Việt Nam thông qua các chương trình liên kết với các trường đại học của Việt Nam.
Mặc dù Việt Nam chưa tạo ra được nhiều chương trình hỗ trợ học bổng cho sinh viên Hoa
Kỳ, nhưng Chính phủ và các cơ quan cũng như các trường đại học và cả người dân Việt Nam
luôn tạo cơ hội, tiếp đón thân tình các sinh viên Hoa Kỳ tham gia các chương trình trao đổi,
nghiên cứu tại Việt Nam.
Với Hoa Kỳ, các hoạt động hợp tác giáo dục đại học với Việt Nam đồng thời là một
trong những cơ hội để nhân dân Việt Nam hiểu hơn về Hoa Kỳ, bỏ qua những ký ức thù địch
trong quá khứ. Tạo cơ hội cho các sinh viên, học viên tham gia các chương trình trao đổi,
theo học tại Hoa Kỳ là tạo cơ hội để Hoa Kỳ thể hiện những nét đặc trưng của mình với sinh
viên, sau đó khi sinh viên trở về Việt Nam sẽ có những chia sẻ, truyền đạt với nhân dân, đặc
biệt là những bạn trẻ Việt Nam về Hoa Kỳ, thúc đẩy sự mong muốn khám phá theo đuổi
“giấc mơ Hoa Kỳ”. Với mong muốn “tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và mối quan hệ thân
thiện, hòa bình giữa nhân dân Hoa Kỳ và nhân dân các quốc gia khác”, Hoa Kỳ đã phần nào
đạt được điều này đối với nhân dân Việt Nam thông qua các hoạt động hợp tác giáo dục giữa
hai nước. Như trong phát biểu của cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Lễ kỷ niệm 20 năm
chương trình Fulbright Việt Nam tổ chức tại Đại học Ngoại thương năm 2012, bà nhận xét
“Thật không quá khi nói rằng, các chương trình như Fulbright đóng vai trò quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ”.
Bên cạnh đó, việc hợp tác nâng cao chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam thông
qua các chương trình liên kết, chương trình tiên tiến còn giúp Hoa Kỳ có cơ hội khai thác
nguồn nhân lực chất lượng cao, đạt hiệu quả tích cực trong việc mở rộng thị trường đầu tư tại
Việt Nam đặc biệt trên lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật. Chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân
lực có tiềm năng như sinh viên Việt Nam, các tập đoàn, doanh nghiệp Hoa Kỳ như Intel,
Pearson, Siemens... sẽ có cơ hội phát triển tại thị trường lao động chất lượng cao, chính là
đầu ra của quá trình đầu tư vào các chương trình giáo dục đại học tiên tiến.
Thứ tư là sự nỗ lực trong hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ trước
khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao hai nước, đặc biệt sự đóng góp tích cực của Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright đã góp phần nâng cao hơn nữa sự hợp tác trong lĩnh vực
48
giáo dục đại học giữa hai quốc gia lên một tầm cao mới, đó là quyết định thành lập trường
Đại học Fulbright tại Việt Nam. Từ lâu, Chính phủ và các nhà hoạt động giáo dục Việt Nam
đã mong muốn xây dựng một trường đại học chất lượng quốc tế cũng như đem lại cơ hội học
tập trong một môi trường chất lượng cao cho cộng đồng học sinh, sinh viên trong nước, đặc
biệt là những người không có cơ hội du học nước ngoài bởi không đủ khả năng chi trả kinh
phí, thì việc thành lập trường Đại học Fulbright chính là cánh cửa mở ra cơ hội cho người học
Việt Nam, cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Đây sẽ là
trường đại học tư thục không lợi nhuận đầu tiên của Việt Nam, mang tính chất tự trị và chỉ
thu 50% mức học phí nhằm hỗ trợ tối đa cho sinh viên Việt Nam. Theo Công văn 821/TTgKGVX ngày 3/6/2014, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý chủ trương đầu tư
Dự án Trường Đại học Fulbright Việt Nam (Fulbright University Vietnam – FUV). Cùng
năm đó, trong quyết định phân bổ ngân sách của Quốc hội Hoa Kỳ và Luật Ngân sách được
Tổng thống Obama phê duyệt thì ngân sách đầu tiên là dành cho trường Đại học Fulbright.
Hai quyết định cho thấy sự quan tâm của hai nước dành cho lĩnh vực hợp tác giáo dục ngày
càng phát triển này.
Thứ năm là các hoạt động hợp tác giáo dục đại học có những đóng góp không hề nhỏ
trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chương trình Fulbright bắt đầu tại Việt Nam từ
năm 1992 là một trong những bước đi quan trọng giúp Việt Nam và Hoa Kỳ nhanh chóng đi
đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là một
mối quan hệ đặc biệt, nhận được sự quan tâm, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của cả hai
bên, có thể nhận thấy trên lĩnh vực giáo dục là sự ra đời của Quỹ giáo dục Việt Nam VEF,
đây là một chương trình đặc biệt, duy nhất mà Chính phủ Hoa Kỳ dành cho Việt Nam, nhằm
hỗ trợ Việt Nam phát triển tiềm năng trong các ngành về khoa học, kỹ thuật, y tế. Bên cạnh
đó có thể thấy hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học là một trong những phương tiện giúp
tạo dựng lòng tin, sự hiểu biết lẫn nhau, góp phần thúc đẩy quan hệ tích cực giữa hai nước.
Mỗi sinh viên, giảng viên Việt Nam hay Hoa Kỳ tham gia vào chương trình trao đổi giáo dục
đại học giữa hai nước đều trở thành một đại sứ thân thiện, góp phần xây dựng hình ảnh của
quốc gia mình trong lòng nhân dân đất nước đối tác. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang vào tháng 7 năm 2013, trò chuyện với Tổng thống Hoa Kỳ
Barack Obama tại Nhà Trắng, hai nhà lãnh đạo ghi nhận vai trò của giáo dục trong quan hệ
giữa hai nước từ trước đến nay, ghi nhận sự thành công của các chương trình trao đổi và các
sáng kiến giáo dục, nổi bật là chương trình Fulbright và chương trình HEEAP. Chủ tịch
Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama đồng ý rằng sự hợp tác chặt chẽ về giáo dục
và đào tạo là những yếu tố quan trọng cho giai đoạn tiếp theo của mối quan hệ.
49
3.1.2. Một số hạn chế trong hoạt động hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam Hoa Kỳ
Mặc dù hơn 20 năm hợp tác về lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
đạt được nhiều kết quả khả quan thì vẫn còn một số hạn chế mà chúng ta cần xem xét để có
thể tăng cường hợp tác và đạt được hiệu quả tối ưu từ những hoạt động hợp tác này.
Thứ nhất đó là sự hạn chế của Việt Nam trong quá trình tham gia vào hoạt động hợp
tác trên lĩnh vực giáo dục đại học với Hoa Kỳ. Có thể thấy tiềm lực của Việt Nam về nền tảng
nói chung và lĩnh vực giáo dục nói riêng còn non trẻ, so với nền giáo dục lớn mạnh lâu đời
của Hoa Kỳ. Do đó trong quá trình hợp tác với Hoa Kỳ, các hoạt động trao đổi hầu hết diễn
ra một chiều từ phía Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn luôn nỗ lực thể hiện vai trò tích cực
của mình, khuyến khích các thành phần tham gia vào hoạt động trao đổi, cũng như dành sự
chào đón nồng nhiệt đối với phía Hoa Kỳ tham gia hoạt động trao đổi giáo dục đại học với
Việt Nam.
Cũng bởi những điều kiện về giáo dục, cơ sở vật chất chưa cao, nên Việt Nam còn
hạn chế trong việc tiếp nhận những chuyển giao tri thức, tận dụng hiệu quả thành tựu giáo
dục đại học phát triển của Hoa Kỳ. Đầu tiên là rào cản về ngôn ngữ, dù là ngoại ngữ phổ biến
và được đưa vào chương trình học bắt buộc, nhưng phần lớn sinh viên, thậm chí là giảng viên
Việt Nam chưa đạt được kĩ năng sử dụng tiếng Anh cần thiết để có thể tiếp thu các chương
trình trao đổi cũng như liên kết giáo dục của Hoa Kỳ, do đó dù phía Hoa Kỳ sẵn sàng đầu tư
hỗ trợ cho sinh viên, giảng viên Việt Nam theo học tại Hoa Kỳ nhưng trình độ tiếng Anh
không đáp ứng có thể đã ngăn cản sự tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến hiện đại. Bên cạnh
đó, nền tảng giáo dục của Việt Nam còn nặng về lý thuyết, thiếu kĩ năng thực hành chuyên
môn cũng như các kĩ năng mềm khác, do đó các sinh viên, giảng viên của Việt Nam khi du
học tại Hoa Kỳ có thể gặp khó khăn trong việc tiếp thu phong cách giảng dạy, tận dụng hiệu
quả những kiến thức học được. Đồng thời khi trở về Việt Nam, họ khó có thể truyền tải hết
các kĩ năng thực hành cũng như kĩ năng mềm, một phần bởi học sinh, sinh viên Việt Nam đã
quen với cách học đề cao lý thuyết, một phần do chưa đủ cơ sở vật chất trong giảng dạy ví dụ
như các thiết bị, phòng thí nghiệm. Theo khảo sát điều tra của Tập đoàn Intel khi quyết định
mở nhà máy tại Việt Nam, trong số 2000 sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật, chỉ có 90 người
đạt trình độ tiếng Anh cần thiết và trong đó chỉ 40 người sử dụng các kĩ năng tiếng Anh một
cách thành thạo để có thể nhận vào làm việc, đồng thời hầu hết sinh viên chưa được giáo dục
những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản. Những khó khăn về nền tảng giáo dục như kiến thức thực
hành và trình độ tiếng Anh phần nào cản trở việc tiếp thu nền giáo dục tiên tiến với ý định
tích cực tăng số lượng sinh viên được học chương trình bậc cao hơn ở Hoa Kỳ.
50
Các thủ tục, hành lang pháp lý ở Việt Nam dù luôn cố gắng đơn giản hóa, song đối
với các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi vẫn còn phức tạp và là trở ngại, trong lĩnh vực hợp tác
giáo dục đại học với Hoa Kỳ, đó có thể là những khó khăn trong việc xin visa cho các giáo
sư, chuyên gia Hoa Kỳ sang giảng dạy tại Việt Nam hay các trường đại học của Hoa Kỳ
muốn đầu tư, mở rộng liên kết tại các trường đại học của Việt Nam cần trải qua các quy trình
tương đối phức tạp, điều này đôi khi ngăn cản sự phát triển của các hoạt động hợp tác giữa
hai nước. Cùng với đó, trong giai đoạn trước thế kỷ XXI, do mới bắt đầu với các chương
trình trao đổi giáo dục do đó Việt Nam chưa có đủ các cơ sở luật pháp, quy định về các
chương trình hợp tác đào tạo, phần nào tạo ra một số sơ hở trong các chương trình hợp tác,
đặc biệt là với các trường dù là của nước ngoài nhưng không đạt chất lượng, đồng thời thiếu
quy định về công nhận bằng cấp, gây thiệt thòi cho người tham gia.
Thứ hai, tuy rằng Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển với rất nhiều trường đại học danh
giá hàng đầu thế giới nhưng không phải trường đại học nào của Hoa Kỳ cũng đạt được chất
lượng này. Đồng thời bản thân nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ, hay thậm chí một số nhà hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục của Hoa Kỳ chưa thực sự đạt trình độ cao, nhìn nhận Việt Nam
như một đất nước nhỏ, kém phát triển do đó tạo ra những chương trình hợp tác không hiệu
quả, hoặc đưa ra những khuyến nghị trên quan điểm hẹp, nặng tính chính trị của họ. Hay một
số trường đại học Hoa Kỳ được đánh giá chưa thực sự hiệu quả (Koblitz, 2017). Do đó đây là
một thách thức với Việt Nam trong việc lựa chọn đối tác thích hợp, nhằm đảm bảo chất lượng
đào tạo nhân lực, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học - nền tảng của nền kinh tế tri thức mà
Việt Nam hướng tới.
Thứ ba là hạn chế trong các lĩnh vực chuyên ngành mà các chương trình hợp tác,
chương trình liên kết giữa các trường đại học của Việt Nam và Hoa Kỳ. Các lĩnh vực hợp tác
trước đó chủ yếu là tài chính, thương mại và quản trị, trong khi đó Việt Nam có rất nhiều nhu
cầu về các ngành quan trọng khác như khoa học, công nghệ, môi trường,... nhằm phát triển
Việt Nam trên nhiều khía cạnh đa dạng hơn.
3.2. Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ
trong lĩnh vực giáo dục đại học
Từ những thành tựu và hạn chế trong hoạt động hợp tác giáo dục đại học giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ nêu trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị đối với Việt Nam nhằm thực hiện
hiệu quả các chương trình hợp tác này cũng như thúc đẩy nhiều hoạt động hợp tác hơn nữa
giữa hai quốc gia trong tương lai:
Một là, xây dựng hệ thống pháp luật một cách đầy đủ, rõ ràng về việc hợp tác trong
lĩnh vực giáo dục đại học với nước ngoài ngoài, cụ thể trong các chương trình trao đổi, xây
dựng chương trình liên kết tại đại học của Việt Nam nhằm kiểm soát cũng như phát triển một
51
cách thích hợp và hiệu quả các chương trình hợp tác. Đồng thời đơn giản hóa các quy trình,
thủ tục nhưng vẫn đảm bảo đúng pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các giáo sư, chuyên gia
giáo dục đến hỗ trợ tại các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam và thúc đẩy sự đầu tư của
các quốc gia nước ngoài như Hoa Kỳ trong việc mở rộng các chương trình liên kết trong lĩnh
vực hợp tác giáo dục đại học.
Hai là, chú trọng nâng cao trình độ tiếng Anh cho sinh viên và cả những giảng viên
đại học, không chỉ cần thiết đối với những thành phần tham gia trực tiếp vào các chương trình
hợp tác giáo dục đại học với Hoa Kỳ, đây còn là kĩ năng cần thiết để hợp tác, giao lưu trên
lĩnh vực giáo dục cũng như các hoạt động hợp tác kinh tế, xã hội đối với Hoa Kỳ và cả các
quốc gia khác, khi mà tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế, ngôn ngữ cơ bản để tiếp cận được
nhiều nguồn thông tin, kiến thức từ thế giới. Làm chủ được trình độ tiếng Anh, sinh viên và
các đối tượng khác có nhiều cơ hội để tham gia vào các chương trình trao đổi, hợp tác giáo
dục đại học với những nền giáo dục đẳng cấp thế giới như Hoa Kỳ, cũng như có thể tiếp thu
một cách hiệu quả nhất những kiến thức được học trong quá trình tham gia chương trình. Để
nâng cao trình độ tiếng Anh đòi hỏi sự tích cực, chủ động của bản thân người học, đồng thời
cần sự hỗ trợ của các chương trình học hiệu quả, ứng dụng cao, chính sách từ các cơ quan
Chính phủ trong việc đầu tư nâng cao trình độ tiếng Anh cho số đông người học.
Ba là phát triển nền tảng giáo dục đại học tại Việt Nam, bằng cách nâng cao năng lực
của các giảng viên, các nhà quản lý giáo dục, học hỏi thông qua các chương trình trao đổi với
các nước thành công trong giáo dục đại học mà Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình, thông qua các
chương trình liên kết, chuyển giao chương trình giáo dục đại học của các trường đại học nước
ngoài với đại học của Việt Nam, và đặc biệt là ở lĩnh vực nghiên cứu—nơi tạo ra nền tảng tri
thức cần thiết. Điều này sẽ giúp giáo dục Việt Nam phát triển được hướng đi riêng, có khả
năng đào tạo, xây dựng một lớp kế cận có khả năng tiếp cận với các kĩ năng, phương pháp
mới trong thời đại của dữ liệu, phương pháp xử lí dữ liệu và điện toán (La & Vuong, 2019).
Nâng cao nền tảng giáo dục đại học sẽ giúp cho các sinh viên, giảng viên học bậc học cao
hơn theo các chương trình đào tạo của Hoa Kỳ một cách hiệu quả, đồng thời giúp Việt Nam
tiến gần hơn tới mục tiêu đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng giáo dục đại học.
Bốn là đầu tư cho chương trình giáo dục đại học, dùng ngân sách một cách hợp lý để
nâng cao trình độ tiếng Anh cũng như chất lượng giáo dục đại học bằng cách mời các chuyên
gia có trình độ từ các nền giáo dục đại học phát triển, đầu tư nâng cao cơ sở vật chất nhằm
đáp ứng mô phỏng thực tế các bài giảng, nhất là những bài giảng mang tính thực hành cao từ
chương trình đào tạo của Hoa Kỳ, đồng thời tạo cơ hội cho sinh viên áp dụng các kiến thức lý
thuyết được học vào thực hành. Bên cạnh đó, cần có sự đầu tư vào bộ phận kiểm định chất
lượng giáo dục đại học nhằm đánh giá hiện trạng của chương trình giáo dục đại học Việt
52
Nam, đánh giá các trường đại học từ Hoa Kỳ để chọn đối tác phù hợp với nhu cầu hợp tác
của mình cũng như đánh giá tình hình, hiệu quả hợp tác của các trường đại học Việt Nam với
các đại học của Hoa Kỳ.
Năm là, khuyến khích tăng cường các chương trình liên kết, chương trình đào tạo chất
lượng Hoa Kỳ tại các trường đại học ở Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho nhiều sinh viên,
giảng viên không có cơ hội du học tiếp cận với mô hình giáo dục tiên tiến hơn. Điều này vừa
giúp giảm chi phí, vừa hạn chế được tình trạng chảy máu chất xám không mong muốn, đồng
thời phát triển được chính các chương trình giáo dục đại học ngay tại Việt Nam. Không chỉ
giúp Việt Nam nâng cao năng lực trong đào tạo giáo dục đại học mà còn thu hút thêm nhiều
sinh viên nước ngoài du học tại Việt Nam, cũng như tạo thế cân bằng, trao đổi mang tính hai
chiều trong hợp tác với các nước phát triển như Hoa Kỳ.
53
KẾT LUẬN
Quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục đại học từ năm 1992 đến
năm 2015 nhìn chung ngày càng có sự phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức, khẳng định
vai trò của hợp tác giáo dục đại học trong sự phát triển quan hệ đối ngoại của hai quốc gia,
đặc biệt từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao và ngày càng có các bước tiến quan trọng,
dấu mốc đặc biệt là hình thành quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013. Các hoạt động hợp
tác trong lĩnh vực giáo dục đại học đã đem lại nhiều thành tựu to lớn cho cả Việt Nam và Hoa
Kỳ. Với Việt Nam, đó là cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới, cơ hội
học hỏi để phát triển nền giáo dục đại học của mình, phục vụ cho nhu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát triển nền kinh tế tri thức mà nền tảng chính là các chương trình
giáo dục đại học và những thanh niên có vai trò lãnh đạo trong tương lai của nước nhà. Đối
với Hoa Kỳ, hoạt động hợp tác giáo dục đại học là một trong những phương tiện để thực hiện
chính sách đối ngoại thông minh, tận dụng sức mạnh mềm để tăng cường hiệu quả hoạt động
đối ngoại công chúng, dành được niềm tin và sự hiểu biết của nhân dân thế giới đối với Hoa
Kỳ. Đối với cả hai nước, hoạt động hợp tác giáo dục đại học góp phần giúp quan hệ ngoại
giao gắn bó hơn, xây dựng niềm tin và sự hiểu biết lẫn nhau hơn. Bên cạnh đó, còn một số
hạn chế cần khắc phục trong hoạt động hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ. Nhưng đó chính là những bài học cho hai nước để tiếp tục cố gắng trong
tương lai, hoàn thiện các hình thức hợp tác giáo dục đại học, giữ vững và nâng cao vị trí ưu
tiên lĩnh vực giáo dục đại học trong quan hệ của hai nước.
54
REFERENCES
Abuza, Z. (1996). The politics of educational diplomacy in Vietnam: Educational exchanges
under Doi Moi. Asian Survey, 36(6), 618-631. DOI: 10.2307/2645795.
Barnett, R. (1992). The idea of quality: Voicing the educational. Higher Education Quarterly,
46(1), 5-7.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2008). Đề án Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường
đại học của Việt Nam giai đoạn 2008-2015. Hà Nội. Retrieve from
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&m
ode=detail&document_id=86901
Chính phủ. (2000). Nghị định về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa
bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học. Hà Nội. Retrieved from
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_p
age=1&mode=detail&document_id=7313
Chính phủ. (2001). Nghị định quy định về việc lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo
dục nước ngoài tại Việt Nam. Hà Nội.
Chính phủ. (2012). Nghị định quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo
dục. Hà Nội. Retrieved from
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&m
ode=detail&document_id=163907
Cục Hợp tác Quốc tế. (n.d.). Retrieved from http://vied.vn/vi/
Cull, J. N. (2008). Public diplomacy before Gullion: The evolution of a phrase. In P.M. Taylor
& N. Snow (Eds.), Routledge Handbook of Public Diplomacy (pp. 39-43). Abingdon,
U. K.: Routledge.
Dao, M. H., & Le, H. H. (2013). Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế. Ho Chi Minh City: Khoa
Quan hệ quốc tế - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Doan, V. D. (2015). Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học (Doctoral dissertation,
Học viện Hành chính Quốc gia, Hanoi).
Dong, X. T. (2016). Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á - Thái
Bình
Dương.
Tạp
chí
Cộng
sản.
Retrieved
from
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-kien/2016/41547/Su-dieuchinh-chien-luoc-cua-cac-nuoc-lon-doi-voi-khu.aspx
Ha, K. N. (2016). Quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ sau 20 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao. Đầu tư online. Retrieved from https://baodautu.vn/quan-he-doi-tac-toandien-viet-nam---hoa-ky-sau-20-nam-thiet-lap-quan-he-ngoai-giao-d44946.html
Hoang, K. N. (2016). Giáo trình nhập môn quan hệ quốc tế. Hanoi: Đại học Quốc gia Hà
Nội. Retrieved from http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/58583.
Hoang, V. Q., & Dung, T. T. (2009). The cultural dimensions of the Vietnamese private
entrepreneurship. IUP Journal of Entrepreneurship Development, VI(3-4), 54-78.
Koblitz, N. (2017). Higher education: Is it wise for Vietnam to imitate the US?. VnExpress
International. Retrieved from https://e.vnexpress.net/news/news/perspectives/highereducation-is-it-wise-for-vietnam-to-imitate-the-us-3562884.html.
55
La, V. P., & Vuong, Q. H. (2019). bayesvl: Visually Learning the Graphical Structure of
Bayesian Networks and Performing MCMC with ‘Stan’. The Comprehensive R
Archive
Network
(CRAN):
<https://cran.rproject.org/web/packages/bayesvl/index.html>; version 0.8.5 (May 24, 2019).
Marklein, B. M., & Mai, V. T. (2016). U.S. Policy, Soft Power and Higher Education Reform
in Vietnam. In Knowledge Journeys and Journeying Knowledge (pp. 125-142).
Hanoi: The Gioi.
Mishra, S. (2007). Quality Assurance in Higher Education: An Introduction. Karnataka:
Commonwealth of Learning & National Assessment and Accreditation Council
(NAAC). Retrieved from http://oasis.col.org/handle/11599/101
Nguyen, A. C. (2015). Quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
(1976-2006). Hanoi: Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyen, B. T. (2010). Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục và xã hội
từ năm 1995 đến nay (Doctoral dissertation, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Hanoi)
Nguyen, T. A. (2009). The Internationalization of higher education in Vietnam: National
policies and institutional implementation at Vietnam National University, Hanoi.
Global COE Program, Global Institute for Asian Regional Integration, GIARI. Waseda
University. Retrieved from http://www.waseda-giari.jp/sysimg/imgs/wp2008-E-21.pdf
Nguyen, T. T. (2015). Hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam và Hoa Kỳ từ đầu thập niên
1990 đến nay. Châu Mỹ ngày nay (7), 9-15.
Nguyen, X. S. (2006). Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Hanoi: Chính trị Quốc gia.
Nye, J. (2005). Soft Power: The Means To Success In World Politics. New York, NY: Public
Affairs.
Pham, M. S. (2016). Đối ngoại công chúng: Mô hình hoạt động của một số nước lớn trên thế
giới và đề xuất đối với Việt Nam. Hanoi: Lý luận Chính trị.
QN. (2016). Đào tạo theo chương trình tiên tiến có tác động tích cực đến các hoạt động của
trường
đại
học.
Báo
điện
tử
Nhân
dân.
Retrieved
from
http://www.nhandan.com.vn/giaoduc/tin-tuc/item/31707502-dao-tao-theo-chuongtrinh-tien-tien-co-tac-dong-tich-cuc-den-cac-hoat-dong-cua-truong-dai-hoc.html.
Rhodes, H. T. F. (2001). The Creation of the Future: The Role of the American University.
Ithaca, NY: Cornell University Press.
Robbins, M. E. (2013). From enemies to friends: the improvement of U.S. – Vietnam relations
through educational exchanges, 1992-2013 (Master's thesis, Georgetown University,
Washington,
D.C.).
Retrieved
from
https://repository.library.georgetown.edu/bitstream/handle/10822/55833
The
Hubert
H.
Humphrey Fellowship
Program.
(n.d.).
Retrieved
from
https://www.humphreyfellowship.org/about-program
U.S. – Vietnam Education Task Force (2009). Final Report. Retrieved from
https://photos.state.gov/libraries/vietnam/8621/pdf-forms/ETFReport-Sept09.pdf.
U.S. Congress (1961). Mutual Educational and Cultural Exchange Act of 1961.
U.S. Congress (2000). Vietnam Education Foundation Act of 2000. Retrieved from
https://www.congress.gov/106/bills/hr5581/BILLS-106hr5581ih.pdf.
56
U.S. Embassy & Consulate in Vietnam. (n.d.). Retrieved from Retrieved from
https://vn.usembassy.gov/vi/education-culture-vi/edu-exchange-vi/
U.S. Embassy & Consulate in Vietnam. (n.d.). Retrieved from Retrieved from
https://vn.usembassy.gov/education-culture/fulbright-program-vietnam/us-scholarprogram/
UNESCO. (1998). World declaration on higher education for the twenty-first century vision
and action, World Conference on Higher Education, UNESCO Headquarters in Paris.
Paris: UNESCO.
University Archives & Historical Collections of Michigan State University (n.d.). Retrieved
from
Vietnam
Project
Archives.
Retrieved
from
http://archives.msu.edu/collections/vietnam_msug.php.
Vu, L. T. H. (2009). Ngoại giao công chúng trong thế kỷ 21. Nghiên cứu Quốc tế (76).
Retrieved from http://nghiencuuquocte.org/2014/06/18/ngoai-giao-cong-chung-trongthe-ky-21/
Vuong, Q. H. (2018). The (ir)rational consideration of the cost of science in transition
economies. Nature Human Behaviour, 2(1), 5, DOI: 10.1038/s41562-017-0281-4.
Vuong, Q. H., La, V. P., Vuong, T. T., Nguyen, V. H., Ho, M. T., Nguyen, T. H. K., Bui, Q.
K., & Ho, M. T.. (2018). Cultural additivity: Behavioural insights from the interaction
of Confucianism, Buddhism, and Taoism in folktales. Palgrave Communications, 4,
143. DOI: 10.1057/s41599-018-0189-2.
57