Academia.eduAcademia.edu
ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI VN Hiện nay, phát triển xanh đang là chủ đề nóng mà toàn thế giới quan tâm. Nhiều nước phát triển trên thế giới đã rất quan tâm đến vấn đề này và đã đưa ra những chiến lược phát triển cụ thể như Hàn Quốc, Trung Quốc, Mexico… Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam thời gian qua theo mô hình nền “kinh tế nâu”, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên với hiệu quả sử dụng thấp, phát sinh nhiều chất thải, gây ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất còn lạc hậu... Vì thế, Việt Nam quan tâm đến tăng trưởng xanh nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia, phát triển cho DN.   Quan điểm của Việt Nam về tăng trưởng xanh Là một phần quan trọng của Định hướng Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tái cơ cấu nền kinh tế, điều chỉnh mô hình tăng trưởng. Giảm phát thải khí nhà kính và đóng góp vào nỗ lực chung của thế giới trong quá trình thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Tạo việc làm và cải thiện cuộc sống. Là định hướng để điều chỉnh các chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành, địa phương liên quan. Mục tiêu chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam là nhằm  thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế so  sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, cụ thể: Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế, tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Ứng dụng và phát  triển công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí  hậu; Nâng cao đời sống nhân  dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường. Những xu thế đặc thù của quá trình chuyển dịch sang nền “kinh tế xanh”, đó là: Trụ cột để giảm nghèo. Tình trạng nghèo kinh niên là hình thức dễ thấy nhất của bất bình đẳng xã hội, cũng như bất bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục, y tế, tín dụng, cơ hội thu nhập. Một đặc tính quan trọng của nền “kinh tế xanh” là nó tìm cách cung cấp các cơ hội đa dạng cho phát triển kinh tế và xóa đói, giảm nghèo mà không thanh lý hoặc làm xói mòn tài sản tự nhiên của quốc gia. Điều này đặc biệt cần thiết ở các nước có thu nhập thấp, nơi sinh kế chủ yếu của cộng đồng nghèo nông thôn là hàng hóa và dịch vụ hệ sinh thái. Hệ sinh thái và các dịch vụ cung cấp một mạng lưới an sinh chống lại thiên tai và khủng hoảng kinh tế. Tạo ra việc làm và cải thiện công bằng xã hội. Thực tế, các nước tiến tới một nền “kinh tế xanh” đã nhìn thấy khả năng tạo việc làm và tiềm năng có thể được nhân lên khi tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực xanh. Vì vậy, họ đã đưa ra những gói kích thích tài chính tăng cường việc làm với các hợp phần “xanh” quan trọng. Bảo vệ đa dạng sinh học, kết cấu sống của hành tinh. Đa dạng sinh học đóng góp cho phúc lợi của con người và cung cấp cho các nền kinh tế nguồn tài nguyên đầu vào có giá trị cũng như các dịch vụ điều hòa hướng tới một môi trường vận hành an toàn. Tuy nhiên, những “dịch vụ hệ sinh thái” chủ yếu mang bản chất hàng hóa và dịch vụ công cộng nên không được lượng hóa giá trị kinh tế đầy đủ. Điều này là một trong những nguyên nhân chính khiến giá trị của đa dạng sinh học không được đánh giá đúng mức và quản lý yếu kém gây nhiều tổn thất, trong khi giá trị kinh tế của các dịch vụ hệ sinh thái là một phần cơ bản của vốn tự nhiên. Sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ các-bon thấp thay thế cho nhiên liệu hóa thạch. Nguồn cung cấp năng lượng tái tạo ngày càng tăng sẽ giảm những rủi ro về biến động giá nhiên liệu hóa thạch, đồng thời đạt được lợi ích giảm phát thải khí nhà kính (Greenhouse gases -GHGs) vì hệ thống năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa thạch hiện nay là gốc rễ của hiện tượng biến đổi khí hậu (BĐKH). Ngành năng lượng chiếm tới 2/3 lượng phát thải GHGs và chi phí thích ứng với BĐKH ước đạt 50 tỷ - 170 tỷ USD vào năm 2030, trong đó các nước đang phát triển có thể phải gánh chịu một nửa chi phí đó. Nhiều quốc gia, đặc biệt những nước nhập khẩu dầu ròng phải đứng trước thách thức giá nhiên liệu hóa thạch tăng cao. Chính vì vậy, đầu tư vào các nguồn tái tạo có sẵn (thậm chí dồi dào ở nhiều nơi) có thể cải thiện đáng kể an ninh năng lượng, nói rộng ra là an ninh kinh tế và tài chính. Ngoài ra năng lượng tái tạo còn mang lại nhiều cơ hội kinh tế lớn.  Hướng tới lối sống đô thị bền vững và giao thông các-bon thấp. Khu vực thành thị ngày nay là nơi cư trú của hơn 50% dân số thế giới, tiêu thụ 50% - 60% năng lượng và phát thải 75% tổng lượng GHGs. Đô thị hóa nhanh chóng đang gia tăng về áp lực cung cấp nước sạch, hệ thống thoát nước và y tế cộng đồng, thường gây nên kết cấu hạ tầng nghèo nàn, hoạt động môi trường suy giảm và chi phí chăm sóc sức khỏe công cộng cao. Trong bối cảnh đó, cơ hội duy nhất cho các thành phố tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm lượng khí thải cũng như rác thải là nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu thông qua các phương thức giao thông cải tiến, các-bon thấp, giúp tiết kiệm tiền, đồng thời cải thiện năng suất và công bằng xã hội. Định hướng chung của VN Đến năm 2020: GDP bình quân đầu người gấp đôi mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3% mỗi năm, giảm cường độ phát thải khí nhà kính 10-15% so với mức 2010; hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả, trong đó giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 42-45% trong tổng GDP, yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%. Đến năm 2030: Việt Nam đạt trình độ nước có thu nhập trung bình trên thế giới, thiết lập được đầy đủ nền tảng vật chất, kỹ thuật, nguồn nhân lực và thể chế phù hợp để thực hiện phổ biến phương thức tăng trưởng xanh. Giảm tổng mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 2-3%; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 50%. Đến năm 2050: Năng lượng và công nghệ xanh được sử dụng. Hướng đi cụ thể cho Việt Nam: Tăng trưởng xanh, kinh tế xanh là mục tiêu của nhiều nước trên thế giới hiện nay nhưng tùy điều kiện, đặc thù mà mỗi quốc gia  lại có mô hình phát triển và cơ cấu ngành nghề riêng. Tại tọa đàm về Kinh tế xanh cho phát triển bền vững vừa được tổ chức, nhiều chuyên gia cho rằng, với những đặc điểm hiện nay, Việt Nam nên ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực có thế mạnh, mang lại tác động lớn cho xã hội, người dân. Trong đó, cần tập trung vào các ngành nghề có thế mạnh như nông nghiệp hữu cơ giá trị cao, năng lượng tái tạo, du lịch sinh thái gắn với tái sinh rừng tự nhiên, xây dựng hệ thống giao thông bền vững, không gian xanh… Đặc biệt, đối với ngành nông nghiệp, hiện đang thu hút khoảng 50% lao động cả nước, đóng góp khoảng 20% vào tăng trưởng GDP cả nước. Tuy chưa được đầu tư nhiều và trình độ phát triển còn thấp, nhưng nhiều sản phẩm của chúng ta đứng đầu thế giới về sản lượng như lúa gạo, cà phê, thủy hải sản… Vì vậy, nếu có được một kế hoạch và nguồn lực đầu tư hợp lý tăng chất lượng của các loại nông sản đáp ứng nhu cầu của quốc tế, từ đó tạo dựng giá trị cho các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, nước ta hoàn toàn có khả năng trở thành quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, mang lại giá trị cao. Từ đó, góp phần vào công cuộc giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.  Theo nhiều chuyên gia, cùng với nông nghiệp, Việt Nam có thể tập trung vào phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo với nguồn vốn tự nhiên dồi dào từ năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng khí sinh học… Từ đó, giảm dần sự phục thuộc vào năng lượng hóa thạch, tăng cường an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Kết hợp năng lượng tái tạo, năng lượng xanh trong việc phát triển giao thông vận tải bền vững, phát triển các khu đô thị xanh… Từ xanh hóa sản xuất, hướng tới xanh hóa xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững, phát huy nếp sống hòa hợp với thiên nhiên, môi trường của dân tộc. Song song với đó, khuyến khích các hoạt động mua sắm, đầu tư công nghệ của thị trường xanh trong cả khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp và khu vực dân cư.