Academia.eduAcademia.edu
Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam MỤC LỤC Khái quát về mô hình tăng trưởng kinh tế ....................................................................... 2 I. 1. Khái niệm ................................................................................................................... 2 2. Các mô hình tăng trưởng kinh tế điển hình ................................................................ 2 a) Mô hình cổ điển ...................................................................................................... 2 b) Mô hình của Các Mác ............................................................................................. 3 c) Mô hình tân cổ điển ................................................................................................ 4 d) Mô hình của Keynes ............................................................................................... 5 e) Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại của P.A. Samuelson - hỗn hợp .................... 6 Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam ........................................................................ 6 II. 1. Thời kỳ trước đổi mới ................................................................................................ 6 2. Thời kỳ sau đổi mới ................................................................................................... 8 a) Giai đoạn 1986 - 1997: ........................................................................................... 8 b) Giai đoạn 1997 – 2006: ......................................................................................... 10 c) Khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 – 2008 và những hệ luỵ................................ 10 III. Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2012 - 2020) ........................................................................................................... 16 1. Quan điểm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế................................................ 16 2. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế .................................................................................... 18 3. Giải pháp chủ yếu nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta giai đoạn 2012 - 2020 ............................................................................................................... 19 IV. Kết luận ........................................................................................................................ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 22 1 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam I. Khái quát về mô hình tăng trưởng kinh tế 1. Khái niệm Để nghiên cứu kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng mô hình hay học thuyết. Các mô hình là khuôn mẫu để tổ chức phương pháp tư duy về một vấn đề. Các mô hình được đơn giảm hoá bằng cách bỏ qua một vài chi tiết của thế giới hiện thực, qua đó tập trung vào các điểm chính yếu, từ đó giúp chúng ta triển khai phân tích xem nền kinh tế hoạt động thế nào. Trong khi lập mô hình, chúng ta có quyền bỏ qua những chi tiết không quan trọng của hiện thực, nhưng nếu chúng ta lập quá đơn giản, bỏ qua những chi tiết quan trọng thì mô hình sẽ không có tác dụng, và sẽ không phù hợp với thế giới hiện thực. Giữa mô hình kinh tế và số liệu thực tế có mối quan hệ chặt chẽ, các số liệu tương tác với mô hình theo hai hướng: số liệu giúp lượng hoá các quan hệ mà mô hình lý thuyết quan tâm; số liệu giúp ta kiểm nghiệm mô hình. Như vậy, để tiến hành xây dựng mô hình kinh tế, người ta phải bắt đầu bằng việc thu thập các số liệu để tìm mối quan hệ logic giữa các yếu tố của nền kinh tế, sau đó sử dụng các kết quả đã phân tích để xây dựng mô hình quan hệ kinh tế. Cuối cùng, dù muốn ủng hộ lý thuyết nào chăng nữa, chúng ta vẫn phải kiểm nghiệm bằng số liệu thực tế. Vậy, mô hình kinh tế chính là cách thức diễn đạt những con đường, hình thái, nội dung phát triển kinh tế của các quốc gia thông qua các biến số, các nhân tố kinh tế trong quan hệ chặt chẽ với các điều kiện chính trị, xã hội. Các mô hình có thể được diễn đạt dưới dạng lời văn, biểu đồ, đồ thị hoặc phương trình toán học. 2. Các mô hình tăng trưởng kinh tế điển hình a) Mô hình cổ điển Được hình thành cách đây 200 năm bởi Adam Smith và Ricardo, mô hình này có những nội dung căn bản sau: Yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong ba yếu tố trên thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự tăng trưởng. Phân chia xã hội thành 3 nhóm người: địa chủ, tư bản và công nhân. Sự phân phối thu nhập của ba nhóm này phụ thuộc vào quyền sở hữu của họ đối với các yếu tố sản xuất. Địa chủ có đất thì nhận địa tô, tư bản có vốn thì nhận lợi nhuận, công nhân có sức lao động thì nhận 2 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiền công. Cách phân phối này được họ cho là hợp lý. Vậy, thu nhập xã hội = địa tô + lợi nhuận + tiền công. Trong 3 nhóm người này, thì nhà tư bản giữ vai trò quan trọng trong cả sản xuất, tích luỹ và phân phối. Họ đứng ra tổ chức sản xuất, giành lại một phần lợi nhuận để tích luỹ và chủ động trong quá trình phân phối. Các nhà kinh tế học cổ điển còn cho rằng, hoạt động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi bàn tay vô hình - cơ chế thị trường, phủ nhận vai trò của nhà nước, cho rằng đây là cản trở cho phát triển kinh tế. b) Mô hình của Các Mác Theo Mác, các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động, vốn, tiến bộ kĩ thuật. Mác đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Theo Mác, sức lao động đối với nhà tư bản là một loại hàng hoá đặc biệt. Trong quá trình nhà tư bản sử dụng lao động, hàng hoá sức lao động tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động dành cho bản thân người lao động, cộng với giá trị thặng dư dành cho tư bản và địa chủ. Về yếu tố vốn và tiến bộ kĩ thuật, Mác cho rằng mục đích của các nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư, tuy nhiên, việc tăng sức lao động cơ bắp cảu người công nhân cần dựa vào cải tiến kĩ thuật. Tiến bộ kĩ thuật làm tăng số máy móc và dụng cụ lao động, nghĩa là cấu tạo hữu cơ của tư bản C/V có xu hướng tăng lên. Do đó, các nhà tư bản cần nhiều tiền vốn hơn để mua máy móc, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ mới. Cách duy nhất để gia tăng vốn là tiết kiệm. Vì vậy, các nhà tư bản chia giá trị thặng dư ra hai phần: một phần để tiêu dùng, một phần tích luỹ phát triển sản xuất. Đó là nguyên lý tích luỹ của chủ nghĩa tư bản. Cũng như các nhà kinh tế học cổ điển, Mác cho rằng khu vực sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội gồm ba nhóm: địa chủ, tư bản, công nhân. Tương ứng, thu nhập của họ là địa tô, lợi nhuận và tiền công. Tuy nhiên, sự phân phối này mang tính bóc lột: thực chất là hai giai cấp: bóc lột và bị bóc lột. Các nhà kinh tế trước Mác chỉ phân biệt rõ hai thuộc tính có mâu thuẫn của hàng hoá: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Trái lại, Mác khẳng định rằng hàng hoá là sự thống nhất biện 3 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chứng của hai mặt: giá trị sử dụng và giá trị. Mác là người đầu tiên đưa ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá và xây dựng lý luận về tư bản bất biến, tư bản khả biến, hoàn thiện việc phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Về mặt giá trị: Mác đã phân chia sản phẩm xã hội thành 3 phần c + v + m , trên cơ sở đó, Mác cho rằng : Tổng sản phẩm xã hội = c + v + m Tổng thu nhập quốc dân = v + m Trong đó: C: tư bản bất biến V: tư bản khả biến M: giá trị thặng dư Về mặt hiện vật, Mác chia làm hai khu vực: Khu vực 1: sản xuất ra tư liệu sản xuất Khu vực 2: sản xuất ra tư liệu tiêu dùng Về quan hệ cung cầu và vai trò của nhà nước: trong khi phân tích chu kì kinh doanh và khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng, khủng hoảng thừa do thiếu số cầu tiêu thụ, đây là biểu hiện của mức tiền công giảm và mức tiêu dùng của cá nhân nhà tư bản cũng giảm vì khát vọng tăng tích luỹ. Muốn giải thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước phải có những biện pháp kích cầu nền kinh tế. Như vậy, Mác đã đặt nền tảng đầu tiên cho xác định vai trò của nhà nước trong điều tiết cung cầu kinh tế. c) Mô hình tân cổ điển Vào cuối thế kỉ 19, cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, trường phái kinh tế tân cổ điển ra đời. Bên cạnh một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế tương đồng cùng trường phái cổ điển như sự tự điều tiết của bàn tay vô hình, mô hình này có các quan điểm mới sau: Đối với các nguồn lực về tăng trưởng kinh tế, mô hình nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn. Từ đó họ đưa ra hai khái niệm: 4 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Phát triển kinh tế theo chiều sâu: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động Phát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn tương ứng với sự gia tăng lao động Để chỉ quan hệ giữa gia tăng sản phẩm và tăng đầu vào, họ sử dụng hàm sản xuất Cobb Douglass Y = F (k, l, r, t) Sau khi biến đổi, Cobb - Douglass thiết lập mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng các biến số: g = t + ak + bl + cr Trong đó: G: tốc độ tăng trưởng GDP K, l, r: tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên T phần dư còn lại, phản ánh tác động khoa học kĩ thuật A, b, c: các hệ số, phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong tổng sản phẩm: a + b + c = 1 d) Mô hình của Keynes Nhấn mạnh vai trò của tổng cầu trong xác định sản lượng của nền kinh tế: sau khi phân tích các xu hướng biến đổi của tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, và ảnh hưởng của chúng đến tổng cầu, khẳng định cần thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội. Nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế. Những chính sách làm tăng tiêu dùng: tác động vào tổng cầu nhưu: sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư, đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế, công trái nhà nước để bổ sung ngân sách, tăng đầu tư của nhà nước vào các công trình công cộng và một số biện pháp hỗ trợ khác khi đầu tư tư nhân giảm sút. Phát triển tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 của thế kỉ 20, hai nhà kinh tế học là Harod nguời Anh và Domar người Mĩ đưa ra mô hình xem xét mối quan hệ tăng trưởng với các nhu cầu về vốn g = s/k = i/k 5 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng s: tỉ lệ tiết kiệm i: tỉ lệ đầu tư k: hệ số ICOR: hệ số gia tăng tư bản - đầu ra Hệ số ICOR phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư (để tăng 1 đồng tổng sản phẩm cần k đồng vốn) e) Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại của P.A. Samuelson - hỗn hợp Sau một thời gian áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy của Keynes, quá nhấn mạnh tới vai trò bàn tay hữu hình của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế bàn tay vô hình, tạo trở ngại cho quá trình tăng trưởng. Các nhà kinh tế học của trường phái hỗn hợp ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp. Trên thực tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp ở những mức độ khác nhau, vì thế, đây được coi là mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, nội dung cơ bản của nó là: Giống mô hình của Keynes, quan niệm sự cân bằng của kinh tế xác định tại giao AS và AD. Thống nhất với mô hình kinh tế tân cổ điển, mô hình kinh tế học hiện đại cho rằng, tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đó là tài nguyên, lao động, vốn, khoa học công nghệ. Thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglass về sự tác động của các yếu tố trên với tăng trưởng. Các nhà kinh tế học hiện đại cũng thống nhất với mô hình Harrod - Domar về vai trò tiết kiệm và vốn đầu tư trong tăng trưỏng kinh tế. Chính vì thế, nhiều người cho rằng mô hình kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết kinh tế của Keynes. II. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 1. Thời kỳ trước đổi mới Trước đổi mới, mô hình kinh tế ở Việt Nam là mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với những đặc điểm chủ yếu là: 6 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất. Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: + Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. + Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. 7 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam + Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”. Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. 2. Thời kỳ sau đổi mới Trong 25 năm từ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, mô hình tăng trưởng kinh tế đã có nhiều thay đổi quan trọng phù hợp với các điều kiện trong nước và quốc tế. Vì vậy, nước ta đã đạt được nhiều thành tưu quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế quốc gia trên quốc tế. Có thể khái quát bởi ba mô hình tăng trưởng theo thời gian như sau: a) Giai đoạn 1986 - 1997: Đại hội VI của Đảng năm 1986, khởi xướng công cuộc đổi mới, đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần và qua từng kỳ đại hội sau đó, tư tưởng này đã có những phát triển. 8 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là khắc phục khủng hoảng của mô hình kế hoạch hóa tập trung. Đặc điểm quốc tế của giai đoạn này là hệ thống các nước XHCN bị tan rã, nước ta bị cô lập về kinh tế do chính sách cấm vận của Mỹ. Trong khi đó ở trong nước, mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên mối quan hệ toàn diện trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), do sự hỗ trợ từ Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu sụt giảm mạnh nên nền kinh tế gặp khó khăn, không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, lạm phát tăng cao cộng với việc điều chỉnh kinh tế vĩ mô chậm được đổi mới để phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời kỳ này, mục tiêu của mô hình tăng trưởng kinh tế là: đáp ứng các yêu cầu ổn định đời sống nhân dân, ổn định kinh tế, ổn định chính trị đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Các đột phá cơ bản đã được áp dụng trong giai đoạn này bao gồm: + Đột phá về tư duy chính trị, tư duy kinh tế để xóa bỏ các ràng buộc về thể chế quản lý kinh tế, quản lý nhà nước từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. + Nông nghiệp được coi trọng đổi mới thông qua các chính sách như Chỉ thị 100, Khoán 10 với mục tiêu trong thời gian một nhiệm kỳ Đại hội cơ bản ổn định được đời sống của nhân dân. + Ngành sản xuất hàng tiêu dùng được chọn làm một bước đột phá với mục tiêu là thay thế hàng nhập khẩu. + Thực hiện tổng thể các biện pháp chống cấm vận thông qua bước đột phá là thúc đẩy thương mại Việt – Trung. + Thực hiện đột phá, đổi mới về nhân sự. Thành tựu của giai đoạn này hết sức to lớn, các biện pháp đột phá được chọn đã phát huy được tác dụng. Chỉ trong vòng 5 năm đã ổn định được kinh tế vĩ mô, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Cụ thể, từ một nước nhập khẩu lương thực Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới. Ổn định và mở quan hệ Việt – Trung sang một trang mới, tạo tiền đề quan trọng trong việc Mỹ xóa bỏ cấm vận năm 1994 và Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) một năm sau đó. Tăng trưởng kinh tế đã góp phần ổn định xã hội, ổn định chính trị và bảo vệ CNXH. 9 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam b) Giai đoạn 1997 – 2006: Mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là: tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu. Trong giai đoạn này, tình hình quốc tế có đặc điểm là thế giới 2 cực bị phá vỡ, mô hình đa cực chưa hình thành, kinh tế khu vực rơi vào khủng hoảng tài chính tiền tệ (bắt đầu từ Thái Lan năm 1997). Ở trong nước, đời sống nhân dân được nâng cao, tích lũy của cải trong xã hội được đầu tư cho phát triển do các nhà đầu tư cảm nhận được sự thông thoáng trong chính sách. Mục tiêu của mô hình tận dụng thời cơ hướng tới xuất khẩu là tận dụng mọi lợi thế so sánh và điều kiện mở của thị trường Mỹ để phát triển nuôi trồng thủy sản, các ngành công nghiệp chế biến thu hút nhiều lao động với yêu cầu tay nghề thấp. Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Các đột phá chính trong thời kỳ này có thể nêu ra: + Tiếp tục chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính. + Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. + Ưu đãi với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, dệt may, da giày xuất khẩu. Thành tựu của giai đoạn này là đã góp phần đưa tổng kim ngạch XNK dần vượt qua giá trị GDP cả nước, hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam được thị trường quốc tế chấp nhận. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, thành tích xóa đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tạo được bước đi vững chắc cho nước ta trở thành thành viên của WTO. c) Khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 – 2008 và những hệ luỵ Những tháng cuối năm 2008 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt Nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt Nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buộc bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu,… Việt Nam là một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa. 10 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Bối cảnh này, cộng với những vấn đề nội tại khiến kinh tế Việt Nam ngày càng khó khăn và chưa thể thoát khỏi đáy suy thoái. Hình 1. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam 2007 – 2013 (đơn vị %) Tăng trưởng kinh tế thụt lùi Giai đoạn 2002 - 2007, Việt Nam luôn được coi một trong những điểm sáng trong bản đồ kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,8%. Với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP lên tới gần 8,5%. Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra năm 2008, Việt Nam chìm trong vòng xoáy tăng trưởng chậm khi các thị trường xuất khẩu lớn bị ảnh hưởng, sức mua trong nước giảm. Cả giai đoạn này, tăng GDP luôn thấp hơn 7% và ngày càng đi xuống, đến năm 2012 chỉ còn 5,03%, chưa bằng hai phần ba so với mức trước khi khủng hoảng. Chính phủ đã tung ra gói kích cầu một một tỷ USD vào năm 2009 nhưng do những yếu kém nội tại, nền kinh tế chưa thể bứt lên. "Việt Nam chưa thể thoát khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng thấp như trên", chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định. 2013 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) nhưng tăng trưởng GDP có thể chỉ đạt 5,2 - 5,3%, điều này sẽ dồn gánh nặng cho những năm tới nhằm đạt mục tiêu 7 - 7,5%. Theo bà Lan, cơ hội để Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng vẫn còn nếu quá trình tái cơ cấu được thực hiện quyết liệt, những điểm nghẽn được khắc phục. 11 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Hình 2. Biểu đồ tốc độ tăng giá tiêu dùng của Việt Nam 2007 – 2013 (đơn vị %) Lạm phát nhảy múa Vấn đề luôn làm đau đầu nhà quản lý từ năm 2007 đến năm 2012 chính là kiểm soát lạm phát, sau giai đoạn quá ưu tiên cho tăng trưởng và tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kéo dài. Đỉnh điểm của quá trình này là lạm phát năm 2008 lên tới gần 20% và duy trì ở hai con số năm 2010 và 2011. Giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế đều bày tỏ mối quan ngại lạm phát cao làm xấu đi môi trường kinh doanh tại Việt Nam, ảnh hưởng đến giá trị tiền đồng. Từ năm 2012, Chính phủ tiến hành thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và luôn đặt mục tiêu này lên hàng đầu. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm về một con số, song kèm theo đó là những hệ quả như tăng trưởng tín dụng thấp, vốn đầu tư toàn xã hội suy giảm. Ngoài ra, một số chuyên gia phân tích, lạm phát thấp thời gian quá chủ yếu do sức cầu kiệt quệ, rủi ro tăng giá vẫn luôn hiện hữu. Hình 3. Biểu đồ vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam 2007- 2013 12 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Vốn đầu tư toàn xã hội teo tóp "Đừng hy vọng giảm đầu tư mà vẫn tăng trưởng cao", Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Đỗ Thức nhận định. Suy thoái kinh tế, thắt chặt đầu tư công để kiểm soát lạm phát dẫn tới tỷ lệ đầu tư trên GDP liên tục suy giảm từ năm 2010 đến năm 2012, xuống dưới 30% GDP trong nửa đầu năm 2013 so với mức trên 40% GDP trước đó. Thực tế này quá tệ hại với kinh tế Việt Nam vốn nhiều năm chỉ tăng trưởng dựa vào đầu tư. Trong hoàn cảnh này, để giúp kinh tế thoát khỏi sự phát triển "làng nhàng", nhiều chuyên gia khuyến nghị Chính phủ nên có gói kích cầu khoảng 100.000 - 200.000 tỷ đồng để kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, người phát ngôn của Chính phủ - Bộ trưởng Vũ Đức Đam nhiều lần khẳng định sẽ không có bất kỳ gói kích cầu nào bởi mục tiêu hiện nay vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Các giải pháp đưa ra thời gian qua như giãn, giảm thuế, cho vay hỗ trợ mua nhà, hay ngay cả chương trình xử lý nợ xấu của Công ty VAMC phần nhiều cũng mang tính chất động viên tinh thần. Do vậy, chưa thể hy vọng sẽ có một sức bật lớn cho nền kinh tế bứt phá lúc này. Hình 4. Biểu đồ chỉ số sản xuất công nghiệp của Việt Nam 2007 – 2013 (đơn vị %) Sản xuất công nghiệp lao đao, tồn kho lớn Từ trước năm 2007, ngành công nghiệp của Việt Nam tăng trưởng rất mạnh và được coi là trụ đỡ để tiến hành công nghiệp hóa xong vào năm 2020. Tuy nhiên, từ năm 2007 đến năm 13 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 2011, lĩnh vực này đã có sự suy yếu dần do ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu, sức mua trong nước và nhu cầu xuất khẩu giảm. Đến năm 2012, tăng trưởng nhóm ngành công nghiệp ở mức báo động khi chỉ số sản xuất công nghiệp tăng dưới 5%. Nhiều ngành công nghiệp chủ chốt như khai khoáng, chế tạo sắt thép lao đao, thể hiện qua những con số tồn kho cao của toàn ngành. Từ đó, Chính phủ đã phải đưa ra nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng như hạ lãi suất, tạo điều kiện giảm hàng tồn kho cho doanh nghiệp... Với hành động này, sản xuất công nghiệp của Việt Nam 8 tháng đầu năm 2013 đã nhích lên, song vẫn còn ở mức rất thấp. Hình 5. Biểu đồ tổng mức hàng hoá bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam 2007 - 2013 Sức mua suy yếu, tiêu thụ hàng hóa khó khăn Trước khủng hoảng kinh tế, tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tăng tới 31%, song khi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tăng trưởng kinh tế giảm, đời sống người dân khó khăn, tốc độ tăng của chỉ tiêu này liên tục giảm từ năm 2010 đến năm 2013, phản ánh sức cầu ngày càng đi xuống. Tại một báo cáo khảo sát doanh nghiệp gần đây, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng chỉ ra khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp lúc này không còn là lãi suất mà chính là thị trường tiêu thụ. 14 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Hình 6. Biểu đồ số doanh nghiệp thành lập mới của Việt Nam 2007 - 2013 Số doanh nghiệp 'khai sinh' ngày càng giảm Từ năm 2010, số lượng doanh nghiệp thành lập mới lần đầu tiên có xu hướng giảm xuống kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp rời thị trường cũng chiếm tỷ trọng đáng kể. Theo nhận xét của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, trong khoảng 600.000 doanh nghiệp đã đăng ký thành lập, đến nay chỉ còn gần 380.000 đơn vị hoạt động, trong số này có tới 70% "bị thương", tức làm ăn không có lãi. "Điều này cho thấy khó khăn của doanh nghiệp vẫn còn đấy như sự suy giảm của thị trường trong nước, niềm tin giảm xuống do sức mua của nền kinh tế xuống rất thấp", bà Phạm Chi Lan nói. Hình 7. Biểu đồ thu hút và giải ngân vốn FDI của Việt Nam 2007 – 2013 (đơn vị: nghìn tỉ đồng) Thu hút vốn nước ngoài khó khăn 15 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những năm kinh tế thế giới biến động đã giảm sút rất rõ rệt. Từ mức gần 72 tỷ USD năm 2008, đến năm 2013 trung bình chỉ còn khoảng 13 tỷ USD mỗi năm. "Việt Nam từng là điểm đầu tư hấp dẫn nhất của Đông Nam Á, nhưng từ năm 2009, đầu tư đã suy giảm mạnh do khủng hoảng kinh tế toàn cầu", chuyên gia trong ngành kế hoạch đầu tư nhận định. Bên cạnh đó, những trở ngại lớn trong lĩnh vực thu hút đầu cũng ngày càng bộc lộ như chất lượng lao động thấp, chính sách thu hút đầu tư còn nhiều điểm hạn chế, nạn tham nhũng... III. Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2012 - 2020) Lựa chọn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu để sớm vượt ra khỏi tình trạng một nước có mức thu nhập trung bình thấp, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững. Để thực hiện việc lựa chọn và chuyển đổi đó cần phải hiểu rõ các mô hình tăng trưởng kinh tế, thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay, phương hướng và giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới. 1. Quan điểm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Mô hình tăng trưởng kinh tế là sự phản ánh khái quát những đặc tính chủ yếu của phương thức tăng trưởng kinh tế thể hiện các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau trong từng giai đoạn nhất định. Các yếu tố đóng góp tạo nên tăng trưởng kinh tế gồm lao động, tư bản (vốn) và các yếu tố tăng năng suất lao động. Tùy theo mức đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng kinh tế, đã hình thành nên các mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng theo chiều sâu và tăng trưởng kết hợp theo chiều rộng với theo chiều sâu. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng khối lượng sản xuất chỉ bằng tăng các yếu tố đầu vào: vốn, lao động và tiêu hao vật chất mà không kèm theo tiến bộ công nghệ. Tăng trưởng theo chiều rộng là con đường đơn giản nhất để mở rộng sản xuất, nó nhanh chóng khai thác được các nguồn tự nhiên, thu hẹp nạn thất nghiệp,... Nhưng con đường tăng trưởng như vậy có nhiều hạn chế là trì trệ và về lâu dài sẽ dẫn đến tình trạng nhịp độ tăng năng suất lao động xã hội thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch 16 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm, chất lượng của từng sản phẩm nói riêng và cả nền sản xuất nói chung ngày càng kém đi, tới một thời điểm nào đó sẽ xuất hiện bế tắc xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư trở nên kém phát triển... Thoát khỏi tình thế đó chỉ có con đường tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng chủ yếu là nâng cao hiệu quả của tất cả các yếu tố truyền thống trên cơ sở tiến bộ kỹ thuật, còn được gọi là năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP - Total Factor Productivity). Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có tính đặc thù và ưu điểm là: Tiến bộ khoa học kỹ thuật đóng vai trò chính trong quá trình tăng trưởng; không chỉ tăng tổng khối lượng mà còn tăng cả chất lượng sản phẩm; giảm chi phí lao động và tư liệu sản xuất tính trên một đơn vị thu nhập quốc dân, giảm giá trị một đơn vị sản phẩm. Trong tổng khối lượng sản xuất, tỷ trọng của các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng lên; tỷ trọng sản phẩm trung gian giảm và tỷ trọng sản phẩm cuối cùng đi vào tiêu dùng tăng lên tương ứng, do vậy mà nâng cao được hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng sống của dân cư. Việc nâng cao mức sống của con người trong điều kiện tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu không chỉ thể hiện ở tăng phúc lợi vật chất, mà còn ở tăng chất lượng các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế...) và môi trường xung quanh (giảm thiểu ô nhiễm môi trường, loại bỏ những công nghệ rủi ro...), tăng thời gian tự do, nâng cao mức thỏa mãn nhu cầu đẳng cấp cao... Tăng trưởng kinh tế được tính là thuộc mô hình này hay mô hình kia phụ thuộc vào mức độ đóng góp của các yếu tố sản xuất vào tổng mức tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Trong tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, sự tăng đơn thuần khối lượng các yếu tố sản xuất (lao động, vốn) tạo ra trên 50% tổng số sản phẩm tăng thêm. Còn trong mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều sâu thì trên 50% tổng số sản phẩm tăng thêm là do TFP mang lại. Tuy nhiên, trong thực tế không thể phân biệt rạch ròi phương thức tăng trưởng theo chiều rộng hay theo chiều sâu, mà chúng thường được kết hợp theo một tỷ lệ nào đó, có thể gọi đó là mô hình kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng với tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Mô hình kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu vừa chú ý tới số lượng các yếu tố tăng trưởng, nhưng quan trọng hơn là vừa chú trọng nâng cao chất lượng và phối hợp giữa chúng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học 17 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam - công nghệ, làm cho yếu tố TFP đóng góp ngày càng lớn hơn vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Để vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, Việt Nam cần phải “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Để chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, đòi hỏi phải nâng cao nhanh chóng tỷ lệ đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng GDP. Hướng kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng và theo chiều sâu một cách hợp lý ở Việt Nam tới đây là chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu. Đại hội XI của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế là 31- 32% và năm 2020 là 35%. Dựa vào tiềm năng trong nước và khả năng mở rộng hợp tác khoa học - công nghệ với các nước, có ý kiến cho rằng, cần và có thể nâng tỷ lệ đóng góp của TFP lên tới 40% vào năm 2020 khi nước ta đã trở thành một nước công nghiệp (nếu đạt được như vậy thì cũng mới chỉ gần ngang với các nước Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan,... hiện nay). 2. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Mục tiêu tổng quát là “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. 18 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. 3. Giải pháp chủ yếu nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta giai đoạn 2012 - 2020 Để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam theo hướng nâng cao nhanh chóng mức đóng góp của yếu tố TFP vào tăng GDP, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ năng lực ứng dụng công nghệ mới bằng cách tạo môi trường đầu tư lành mạnh, làm cho yếu tố công nghệ trở thành điều kiện quyết định giành thắng lợi trong cạnh tranh, giảm các ưu tiên, ưu đãi cho một số loại hình doanh nghiệp; có chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ; có các giải pháp quyết liệt để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp đi đầu trong ứng dụng công nghệ mới; thúc đẩy tăng tốc chuyển giao công nghệ vào các ngành, lĩnh vực bằng cách thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển doanh nghiệp khoa học - công nghệ để tăng nguồn cung sản phẩm công nghệ mới cho thị trường. Thu hút vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn, chọn các nhà khoa học đầu đàn làm chủ các công trình nghiên cứu khoa học. Quy định mức thù lao, mức thưởng thỏa đáng đối với những người có năng lực sáng tạo, có công trình khoa học được áp dụng vào thực tiễn. Tăng cường chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các dự án FDI. Hai là, đổi mới chính sách tài chính để góp phần thực hiện chuyển đổi quá trình tăng trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư mà phần lớn là từ ngân sách nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, sang quá trình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng mạnh vốn đầu tư của khu vực dân doanh để khai thác tiềm năng của đất nước. inh nghiệm của các nước Đông Nam Á cho thấy, cần phải tìm cách tăng tỷ trọng tích lũy đầu tư của khu vực dân doanh trong tổng số vốn tích lũy đầu tư của toàn xã hội. Ở Việt Nam, đây là khu vực đầu tư đang có hiệu quả cao gấp đôi so với khu vực kinh tế nhà nước. Giảm tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vì hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước thấp và có xu hướng giảm. 19 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam Để khuyến khích tích lũy vốn đầu tư ở khu vực dân doanh thì chính sách tài chính quốc gia cần được đổi mới theo hướng: Chính sách thu phải đảm bảo nâng cao tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là cho khu vực dân doanh bằng cách giảm tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách nhà nước. Hiện nay tỷ lệ này là khoảng 26% - 27%, theo nhiều chuyên gia kinh tế, đó là tỷ lệ cao, cần giảm xuống còn khoảng 15% - 16%. Về chính sách chi ngân sách nhà nước cần điều chỉnh theo hướng tăng chi cho các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội, giảm chi cho đầu tư và chi hành chính, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, huy động các nguồn lực xã hội cho tăng đầu tư phát triển thông qua kênh phát hành trái phiếu. Thu hẹp phạm vi trang trải của ngân sách, mở rộng phạm vi xã hội hóa, áp dụng mô hình phối hợp công và tư (mô hình PPP - Public Private Partnerships) trong hoạt động dịch vụ công. Cơ cấu lại đầu tư công theo hướng ưu tiên cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng sâu, vùng xa. Giảm tỷ trọng đầu tư của Nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội không chỉ làm giảm tỷ lệ bội chi ngân sách mà còn hạn chế được mức nợ công. Ba là, phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng. Thực hiện các giải pháp quyết liệt nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp để thay đổi cơ cấu lao động hiện nay. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo các kỹ năng chuyên sâu, giảm tải thời gian học lý thuyết, tăng cường thời gian thực hành cho học sinh, sinh viên. Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đáp ứng sự đổi mới của chương trình giáo dục - đào tạo. Tăng cường nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, chú trọng xây dựng mới và củng cố các phòng thí nghiệm, xưởng thực nghiệm của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là đối với cơ sở đào tạo các chuyên ngành mũi nhọn, các ngành nghề mới. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khuyến khích và mở rộng cơ chế để các cơ sở đào tạo trong nước hợp tác với các cơ sở đào tạo của các nước phát triển. Đổi mới chính sách sử dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực theo hướng dựa trên năng lực chuyên môn và hiệu quả thực hiện công việc. IV. Kết luận Tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng 20 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trưởng mang tính hai mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những mô hình thích hợp để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. 21 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Đức Kiên. Mô hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam ở giai đoạn thu nhập trung bình thấp (2012 – 2020). [2] Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. [3]http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books0105201511342446/index-210520151130204632.html [4]http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/585-ve-chuyen-doi-mo-hinh-tangtruong-kinh-te-o-viet-nam-hien-nay.html [5] http://kinhdoanh.vnexpress.net/photo/vi-mo/5-nam-du-chan-khung-hoang-tai-chinh-thegioi-tai-viet-nam-2877946.html [6] http://agro.gov.vn/news/tID22923_Khung-hoang-toan-cau-anh-huong-kinh-te-viet-namthuc-trang-va-giai-phap.htm [7] https://kikiko.wordpress.com/2007/06/07/cc-m-hnh-tang-tr%C6%AF%E1%BB%9Engkinh-t%E1%BA%BE/ [8] http://www.tailieuontap.com/2012/10/vai-tro-cua-tang-truong-kinh-te-vai-tro.html 22