BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
TRƯƠNG MINH TUỆ
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01
HÀ NỘI - 2015
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
TRƯƠNG MINH TUỆ
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Lê Văn Ái
2. TS. Nguyễn Thị Lan
HÀ NỘI - 2015
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án " Chính sách tài chính nhằm phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam " là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư
liệu sử dụng trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, có xuất xứ rõ ràng và
được ghi trong tài liệu tham khảo.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
TRƯƠNG MINH TUỆ
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
CHƯƠNG 1. ...........................................................................................................11
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ..............................11
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ.......................... 11
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm CNHT.................................................................... 11
1.1.2. Vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng giá trị .................... 17
1.1.3. Nội dung và điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ .............................. 19
1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ......... 25
1.2.1. Tài chính công và chính sách tài chính công .......................................... 25
1.2.2. Những tác động của chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ ................................................................................................... 40
1.2.3. Những tiêu chí đánh giá tác động của chính sách tài chính công đến phát
triển công nghiệp hỗ trợ................................................................................... 45
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng việc sử dụng chính sách tài chính công phát triển
công nghiệp hỗ trợ ........................................................................................... 49
1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM .................. 53
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới ............................................ 53
1.3.2. Bài học về sử dụng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam ............................................................................ 59
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................63
CHƯƠNG 2. ...........................................................................................................64
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY .................64
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM ................................64
2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM 64
2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ ............................................................................................... 75
2.2.1. Văn bản pháp luật thực thi chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển
công nghiệp hỗ trợ ........................................................................................... 75
2.2.2. Thực tiễn áp dụng chính sách tài chính công trong lĩnh vực công nghiệp
hỗ trợ ở một số ngành cụ thể............................................................................ 79
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM ..................................... 86
2.3.1. Tình hình thực hiện chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam................................................................................. 86
2.3.2. Đánh giá chung.....................................................................................100
2.3.3. Những hạn chế ......................................................................................103
2.3.4. Các nguyên nhân...................................................................................105
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................................110
CHƯƠNG 3. .........................................................................................................111
GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG NHẰM PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 ...............................111
3.1. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
............................................................................................................................111
HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020...............................................................111
3.1.1. Cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2020111
3.1.2. Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020 .......................112
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
CÔNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN NĂM 2020......114
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ...................................................................118
3.3.1. Một số giải pháp chung.........................................................................118
3.3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện chính sách tài chính công phục vụ phát
triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 .....................................................125
3.3.3. Các giải pháp có tính bổ trợ..................................................................142
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................155
KẾT LUẬN...........................................................................................................156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................158
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1 - Mô hình phân chia của các công nghiệp hỗ trợ ................................. 17
Sơ đồ 1.2: công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị của nhà lắp ráp........................ 18
Sơ đồ 1.3. Sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ......................................... 19
Sơ đồ 1.4: Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logic............ 28
Bảng 2.1. Kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số công nghiệp hỗ trợ giai
đoạn 2010-2014 ................................................................................................. 888
Biểu đồ 2.1: Tổng hợp kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số công
nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2010-2014 .................................................................... 899
Sơ đồ 3.1. Khả năng xuất khẩu .........................................................................1533
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNHT:
Công nghiệp hỗ trợ
JETRO:
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
DNNVV:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
ASEAN :
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
CNĐT:
Công nghiệp điện tử
NCKH:
Nghiên cứu khoa học
NCS:
Nghiên cứu sinh
ĐTPT:
Đầu tư phát triển
CNH & HĐH: Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa
FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP:
Tổng thu nhập quốc dân
KTQT:
Kinh tế quốc tế
TCNN:
Tài chính Nhà nước
NSNN:
Ngân sách Nhà nước
FTA:
Hiệp định thương mại tự do
BHXH:
Bảo hiểm xã hội
KT-XH:
Kinh tế - xã hội
TNDN:
Thu nhập doanh nghiệp
GTGT:
Giá trị gia tăng
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
TSCĐ:
Tài sản cố định
WTO:
Tổ chức Thương mại Quốc tế
USD:
Đô la Mỹ
TP.HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh
ODA:
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
CKD:
Việc lắp ráp ôtô sử dụng hoàn toàn các linh kiện đồng bộ từ
nguồn nhập khẩu.
IKD:
Việc lắp ráp ôtô sử dụng kết hợp các linh kiện không đồng bộ
từ nguồn nhập khẩu và các linh kiện nội địa hoá
SKD:
Việc lắp ráp ôtô sử dụng chủ yếu các linh kiện nhập khẩu, kết
hợp một số ít linh kiện nội địa hoá
VDB:
Ngân hàng Phát triển Việt Nam
EU:
Liên minh châu Âu
WB:
Ngân hàng thế giới
KCN:
Khu công nghiệp
KCX:
Khu chế xuất
KH&CN:
Khoa học và công nghệ
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, là một công cụ
giúp cho các nền kinh tế phát huy nội lực để phát triển. Nhờ hội nhập kinh tế quốc
tế, các quốc gia có thể tận dụng được nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý và những
tiến bộ khoa học kỹ thuật của các chủ thể kinh tế trên thế giới để phục vụ cho công
cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, để thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế
thì ngoài cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, cải cách thủ tục
hành chính, chính sách đầu tư thông thoáng, các quy định, thủ tục pháp lý đơn
giản, hiệu quả, đồng bộ, kịp thời có thể hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp nước
ngoài cũng như doanh nghiệp trong nước còn yêu cầu một sự hỗ trợ, hợp tác mạnh
mẽ từ các doanh nghiệp nội địa. Mặt khác, khi trình độ phân công lao động quốc tế
và phân chia quá trình sản xuất đã đạt đến mức độ rất cao, thì không một sản phẩm
công nghiệp nào còn được sản xuất tại một không gian, địa điểm hay một công ty
duy nhất của một quốc gia mà được phân chia thành nhiều công đoạn ở các công ty
đặt tại các vùng lãnh thổ, quốc gia, châu lục khác nhau.
Thực tiễn đã chứng minh, một trong những tiền đề quan trọng để thu hút và
hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp nói
riêng, và nền kinh tế nói chung, chính là sự phát triển mạnh mẽ của các CNHT.
Nói cách khác, một nền CNHT đồng bộ có khả năng đáp ứng những yêu cầu về số
lượng và chất lượng của nền công nghiệp chế tác và lắp ráp được coi “ bà đỡ” cho
việc phát triển công nghiệp chế tác lắp ráp tạo ra sản phẩm hàng hóa cuối cùng đưa
vào lưu thông…
Trong thời gian qua ở Việt Nam, môi trường đầu tư - kinh doanh từng bước
được cải thiện, phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế. Việt Nam đang trở thành
1
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
điểm hấp dẫn đầu tư ở khu vực châu Á, trong đó có ngành công nghiệp. Song, Việt
Nam còn nhiều vấn đề phải giải quyết để đón nhận có hiệu quả làn sóng đầu tư mới
này, trong đó có vịêc phát triển CNHT.
Ở Việt Nam, phát triển CNHT là một vấn đề mới được nhận thức và quan tâm
trong những năm gần đây, cho dù sản phẩm của nó vẫn có mặt trong các doanh
nghiệp nhà nước sản xuất công nghiệp. Về tổng thể CNHT ở Việt Nam vẫn chưa
được định hình rõ nét và càng thiếu các cơ chế tài chính cần thiết để hỗ trợ phát
triển CNHT. Mặc dù tính pháp lý ở mức thấp, nội dung còn chung chung và còn
chậm trễ, song Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 và Quyết định
1483/2011/QĐ-TTg ngày 26/08/2011 của Thủ tướng Chính phủ được coi là luồng
gió mới đối với vấn đề nhận thức và chính sách phát triển CNHT Việt Nam.
Hơn nữa, cả trong lý thuyết và thực tế quản lý nhà nước, còn thiếu vắng các
công trình nghiên cứu sâu, toàn diện cần thiết về phát triển CNHT nhìn từ góc độ
tài chính.
Trong bối cảnh đó, đề tài “Chính sách tài chính nhằm phát triển công nghiệp
hỗ trợ ở Việt Nam” là có tính cấp thiết cả về khoa học và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
“Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” đã được nhắc đến trong “Lợi thế cạnh
tranh của các quốc gia” [78]. Trong đó, cụm từ này đã được phân tích như là một
trong năm yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia [78]. Nhưng
các nghiên cứu về CNHT nhiều nhất vẫn là ở các quốc gia Đông Á, đặc biệt là
Nhật Bản, nơi ra đời khái niệm CNHT. Tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng
cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản đã được phân tích trong “Nền kinh tế
không biên giới” [79]; Trong công trình đó, nhóm tác giả Fujita, M., Krugman, P.,
2
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
and Venables, A. (1999) đã chỉ ra chi nhánh các tập đoàn Nhật Bản ở châu Á, đặc
biệt là Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Inđô-nê-xi-a đã sử dụng hệ thống thầu phụ được
hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn
đầu tư từ Nhật Bản.
Năm 2008, Kimura F. đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT trong cuốn
“The Mechanics of Production Networks in Southeast Asia: The Fragmentations
Theory Approach” [81]. Đây là tài liệu hữu ích cho các nước đang phát triển về
chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các
chính sách này tập trung vào một số điểm chính: thu hút đầu tư nước ngoài vào
phát triển CNHT, quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các hỗ trợ mạnh mẽ hiệu quả từ
phía Chính phủ dành cho liên kết doanh nghiệp, như là điều kiện tiên quyết để phát
triển CNHT.
Năm 1998, nghiên cứu của Goh Ban Lee, đại học Sains, Ma-lay-xi-a “Liên kết
giữa các Tập đoàn đa quốc gia và các CNHT nội địa” (Linkage between the
Multinational Corporations and Local Supporting Industries) đã đánh giá rất cao
vai trò của chính sách phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết
của chính phủ Ma-lay-xi-a giữa các tập đoàn Đầu tư giáo dục của Nhật Bản với các
doanh nghiệp nội địa sản xuất linh kiện cho ngành điện tử.
Năm 2002, Noor, Halim, Clarke, Roger, Driffield và Nigel Năm 2002, Noor,
Halim, Clarke, Roger, Driffield và Nigel chỉ ra vai trò quan trọng của hỗ trợ từ
phía chính phủ cho đổi mới và sáng tạo của các doanh nghiệp nội địa trong phát
triển cung ứng cho ngành điện tử, trong: “Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công
nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp
điện và điện tử Ma-lay-xi-a” (Multinational cooperation and technological effort
by local firm: a case study of the Malaysian Electronics and Electrical Industry).
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
3
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Tháng 3 năm 2004, báo cáo nghiên cứu điều tra “Xây dựng và đẩy mạnh
CNHT ở Việt Nam” do JETRO thực hiện được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá về
các CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNHT ở Việt Nam đã bắt đầu hình
thành. Mặc dù nhận thức của các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp thời điểm đó
còn rất thấp, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và
khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội.
Năm 2004, Nguyễn Kế Tuấn đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, “Phát
triển CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” đã đề cập đến: khái
niệm, vai trò, các nhân tố tác động đến phát triển CNHT, đề xuất một số chính sách
chủ yếu về phát triển CNHT, đặc biệt là quan điểm để lựa chọn xây dựng chính
sách phát triển CNHT cho Việt Nam.
Năm 2005, Trần Văn Thọ, “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hoá Việt Nam”, đã phân tích con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam
theo hướng toàn cầu hoá, thông qua phát triển CNHT như là lĩnh vực của hệ thống
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tại Hội thảo về CNHT của JETRO.
Năm 2005, Phan Đăng Tuất, trong “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh
nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho Việt Nam”, trong “Kế hoạch hành động về
phát triển CNHT Việt Nam” tại Diễn đàn Liên kết hội nhập cùng phát triển.
Năm 2008 và trong “CNHT, vấn đề trọng đại” đăng trên Báo Công Thương số
Tết 2009, đã khẳng định các vai trò quan trọng của CNHT đối với nền kinh tế, yêu
cầu về DNNVV và sự hợp tác với Nhật Bản trong phát triển CNHT ở Việt Nam.
Năm 2007, Bộ công nghiệp (nay là Bộ công thương) đã phê duyệt Quy hoạch
phát triển CNHT Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020. Trong quy hoạch
này, lần đầu tiên khái niệm CNHT được chính thức hoá ở Việt Nam. Theo quy
hoạch này, kế hoạch và các giải pháp phát triển CNHT: tạo dựng môi trường đầu
4
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
tư, phát triển khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực,
liên kết doanh nghiệp đã được đề xuất cho 5 ngành công nghiệp ưu tiên: Điện tử
tin học, Dệt may, Da giày, sản xuất lắp ráp ô tô, Cơ khí.
Năm 2014, Bộ trưởng Bộ công thương đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có 3 lĩnh vực ưu tiên:
Linh kiện phụ tùng, Dệt may - da giày, Công nghệ cao.
Cuốn “Xây dựng các CNHT ở Việt Nam”, GS. Ohno chủ biên năm 2007, đã
trình bày các kết quả khảo sát về thực trạng các CNHT.
Cuốn “CNHT Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản”;
Nguyễn Thị Xuân Thuý đã tổng kết lịch sử ra đời của khái niệm CNHT và đề xuất
khái niệm cho Việt Nam trong chương 2 “CNHT, Tổng quan về khái niệm và sự
phát triển”; đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT ở chương IV “Thiết kế cơ
sở dữ liệu cho CNHT”.
Năm 2005, trong cuốn sách “Cải thiện hoạch định chính sách công nghiệp ở
Việt Nam”, Mitarai với chương “Các vấn đề của ngành công nghiệp điện tử ở các
nước ASEAN và khuyến nghị với Việt Nam” đã phân tích bài học về tận dụng lợi
thế cạnh tranh quốc gia của các nước ASEAN khi phát triển CNĐT, Mori trong
chương “Chiến lược mua sắm tối ưu: Các yếu tố quyết định tỷ lệ nội địa hoá trong
bối cảnh cạnh tranh và liên kết khu vực” đã chỉ ra các vấn đề liên quan đến phát
triển CNHT cho Việt Nam ở một số ngành, trong đó có CNĐT.
Năm 2006, Bộ Bưu chính Viễn thông đã công bố “Nghiên cứu xây dựng kế
hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử tại Việt Nam giai đoạn 2006 -2010”
với các kết quả phân tích đánh giá kỹ lưỡng ngành CNĐT do Hiệp hội Doanh
nghiệp điện tử thực hiện năm 2006 và đề xuất các định hướng phát triển đến năm
2010, trong đó có các chính sách quan trọng cho CNHT.
5
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Năm 2008, Đại học Ngoại thương có đề tài “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn
cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam” do
Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, trong giai đoạn hiện
nay và sắp tới, Việt Nam nên tập trung vào công đoạn sản xuất, là khâu có thể
tranh thủ sự hợp tác của các tập đoàn điện tử quốc tế, chứ chưa nên tham gia vào
khâu thiết kế, phân phối của chuỗi giá trị.
Ngoài ra, có thể kể đến các công trình đã nghiên cứu về CNHT và tài chính
thúc đẩy CNHT như sau:
- Vũ Nhữ Thăng(2013) - Giải pháp tài chính phát triển CNHT, đề tài NCKH
cấp Bộ, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách- Bộ Tài chính. Đây là đề tài giải
quyết những vấn đề về tài chính đối với phát triển CNHT. Tuy nhiên, đề tài nghiên
cứu này còn nặng về phân tích thực tế, phần lý luận về nội hàm CNHT và công cụ
Tài chính không được nhóm tác giả tập trung nghiên cứu nhiều.
- Hoàng Văn Châu (2008), Chính sách phát triển CNHT của Việt Nam, Đề tài
NCKH cấp nhà nước. Công trình nghiên cứu dưới góc độ chính sách, phần nghiên
cứu khía cạnh lý luận về tài chính tác động đến nền CNHT chưa được nhiều.
- Trương Đình Tuyển – Bộ Thương mại “ Phát triển CNHT Kiến nghị cách
tiếp cận và chính sách cho Việt Nam” tại cuộc hội thảo do Viện Chiến lược và
chính sách – Bộ tài chính phối hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách
công nghiệp đồng tổ chức tháng 12 năm 2011 tại Hà nội. Đây là bài tham luận có
nhiều ý tưởng độc đáo xét trên góc độ lý luận cũng như thực tiễn.
- Trương Thị Chí Bình (2011),“Chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở
Việt Nam” Hội thảo khoa học Viện Chiến lược và chính sách - Bộ tài chính phối
hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp.Bài tham luận nêu
bật những bất cập của chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở Việt Nam và đề
6
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
cập đến kinh nghiệm sử dụng chính sách tài chính thúc đẩy phát triển CNHT ở một
số nước. Đặc biệt bài tham luận phân tích làm rõ những bất cập về chính sách
chung và chính sách tài chính đối với vấn đề phát triển CNHT thể hiện trong Quyết
định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ, từ đó đưa ra
những đề xuất hoàn thiện.
- Trần Đình Thiên và Lê Văn Hưng (2011)- CNHT: khái niệm, kinh nghiệm
phát triển và gợi ý- Hội thảo Viện Chiến lược và chính sách - Bộ Tài chính phối
hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp. Những quan niệm
về CNHT ở các nước và trình bày chứng kiến của hai tác giả về CNHT dưới góc
độ nhận thức về khái niệm, đặc biệt bài tham luận đã đưa ra những gợi ý về phát
triển CNHT của Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước.
- Vũ Nguyên Thức (2014) “Phát triển CNHT – Gỡ từ cơ chế, chính sách”Tạp chí Kinh tế- dự báo. Bài báo phân tích vị trí tầm quan trọng của cơ chế chính
sách đối với CNHT, phân tích những bất cập trong cơ chế, chính sách đối CNHT ở
Việt Nam và định hướng các giải pháp.
2.3 Khoảng trống trong nghiên cứu
Các nghiên cứu kể trên đã phản ánh được nhiều mặt về CNHT và phát triển
CNHT ở Việt Nam, trong đó có công nghiệp điện tử. Chính sách tài chính công tác
động đến phát triển CNHT. Đây đều là các tài liệu có giá trị tham khảo cao. Tuy
nhiên, ở tầm vĩ mô, các nghiên cứu chưa đề cập đến bản chất của CNHT, chưa
phân tích thấu đáo các yếu tố tác động đến phát triển CNHT, chưa đưa ra hệ thống
chỉ tiêu đánh giá mức độ tác động của chính sách tài chính công phát triển CNHT.
Từ đó chưa chỉ ra các căn cứ để xác định cách thức phát triển CNHT cho quốc gia
đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là trước tác động ngày càng gia tăng của
toàn cầu hoá. Ở quy mô ngành, các nghiên cứu mới chỉ phân tích CNHT trong nội
vi ngành công nghiệp hạ nguồn như CNĐT, mà chưa đặt trong tổng thể các ngành
7
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
cung ứng khác. Vì vậy, các đề xuất chính sách và giải pháp phát triển CNHT ở
Việt Nam vẫn chưa thuyết phục và thiếu tính khả thi.
Về tổng thể, các nghiên cứu trên chưa tập trung sâu và toàn diện vào nghiên
cứu các chính sách tài chính phát triển CNHT trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở
Việt Nam, nhất là chưa làm rõ những bất cập và định hướng khắc phục để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hỗ trợ phát triển CNHT của những chính sách này.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhằm
phát triển CNHT thông qua tác động của các công cụ tài chính công.
- Phân tích một số lý luận cơ bản về CNHT; vai trò và tác động của cơ chế,
chính sách tài chính trong phát triển CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Đánh giá thực tế xây dựng và thực thi chính sách tài chính hỗ trợ phát triển
CNHT để luận giải và minh chứng cho những tồn tại và bài học thực tiễn CNHT
ở Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm, mục tiêu và những giải pháp tài chính chung chủ yếu
thúc đẩy sự phát triển của CNHT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT và các giải pháp tài chính
nhằm phát triển CNHT;
- Phạm vi nghiên cứu
8
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
+ Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các giải pháp về Tài
chính công như: Thuế, chi NSNN, tín dụng và các quỹ tài chính Nhà nước
ngoài NSNN nhằm phát triển CNHT;
Nói đến chính sách tài chính công bao giờ cũng gắn liền với nhà nước. Đối
với Việt Nam nền công nghiệp hỗ trợ đang trong bước đi ban đầu. Chính vì
vậy, để có thể phát triển được nhất thiết phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà
nước. Với cách đặt vấn đề như vậy, mặc dù là tên đề tài luận án là chính
sách tài chính, song nghiên cứu sinh giới hạn phạm vi nghiên cứu là chinh
sách tài chính công
+ Phạm vi không gian và thời gian, luận án nghiên cứu ở Việt Nam với thực
trạng trong giai đoạn 2009 - 2014 và các đề xuất về giải pháp tài chính công
nhằm phát triển CNHT được nghiên cứu áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
Các phương pháp được luận án sử dụng trong qúa trình nghiên cứu:
Phương pháp kế thừa: Luận án sử dụng kết quả nghiên cứu và số liệu thứ cấp
từ các công trình khoa học có liên quan đến CNHT và một số ngành công nghiệp
cụ thể.
Phương pháp thống kê so sánh và phân tích đánh giá tổng hợp: Luận án phân
tích hệ thống số liệu theo chuỗi thời gian về CNHT, công nghiệp điện tử và công
nghiệp ô tô, công nghiệp chế tạo…và những tác động của Việt Nam trong các giai
đoạn, có so sánh với các quốc gia khác.
9
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa những nhận thức cơ bản về lý
luận CNHT, nguồn lực tài chính và tài chính công, phương thức tác động của các
chính sách tài chính công đối với nền kinh tế nói chung và CNHT nói riêng.
Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích và đánh gía thực tiễn phát triển CNHT và
tác động của mốt số chính sách tài chính công đến phát triển CNHT của Việt Nam
5 năm qua. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản về chính sách tài chính
công để thúc đẩy phát triển CNHT của Việt Nam trong thời điểm mà CNHT vẫn
còn non trẻ như hiện nay.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận án được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về CNHT và chính sách tài chính công phát triển
CNHT
Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính công nhằm phát triển CNHT ở
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp về chính sách tài chính công nhằm phát triển CNHT ở
Việt Nam đến năm 2020.
10
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chương 1.
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm CNHT
1.1.1.1. Khái niệm CNHT
Khái niệm công nghiệp hỗ trợ bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 thế kỷ 20,
phổ biến ở Nhật Bản và lan dần sang các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới ở
châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan. Đến nay, cách hiểu về thuật ngữ này
vẫn chưa thống nhất.
CNHT là một khái niệm của công nghiệp hiện đại, được kế thừa từ những
khái niệm có liên quan và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các ngành công
nghiệp cung cấp các yếu tố trung gian đầu vào cũng như các yếu tố hỗ trợ cho các
ngành công nghiệp then chốt, có giá trị kinh tế cao và quá trình sản xuất phức tạp.
CNHT không được xem xét trong hệ thống phân loại ngành kinh tế theo quan điểm
truyền thống (phân biệt theo lĩnh vực sản xuất) mà chỉ được xem xét như một
ngành công nghiệp với sự tái định nghĩa các ngành công nghiệp theo cấu trúc dọc
(phân biệt theo hoạt động sản xuất) dưới áp lực của chuyên môn hóa quy trình và
tái cấu trúc doanh nghiệp công nghiệp.
Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, có hai cách quan niệm về CNHT. Ở góc
độ hẹp, CNHT là các ngành sản xuất phụ tùng linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp
ráp ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ở góc độ rộng hơn, CNHT được hiểu như toàn bộ các
ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo ra các máy móc, thiết bị hay
những yếu tố vật chất nào khác góp phần tạo thành sản phẩm. Khái niệm CNHT
trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự
11
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
kết nối của nhiều chi tiết phức tạp, đòi hỏi tính chính xác cao, dây chuyền sản xuất
đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn rộng
hơn, CNHT phải được hiểu một cách tổng quát như toàn bộ quá trình sản xuất nói
chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi
loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ
khác nhau về yếu tố hỗ trợ.
Xét về quy mô thì CNHT là một khu vực công nghiệp rộng lớn, bao gồm
nhiều ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp và chiếm phần chủ yếu của giá trị gia
tăng sản xuất công nghiệp. CNHT được ví như chân núi cho một nền công nghiệp
bền vững, còn công nghiệp hoàn thiện, công nghiệp lắp ráp được coi là phần ngọn.
Tùy vào chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tùy vào năng lực
nội tại và bối cảnh phát triển mà khu vực CNHT được chú trọng ưu tiên phát triển,
kéo theo khu vực công nghiệp lắp ráp phát triển tương ứng.
Từ những công đoạn của quá trình sản xuất: Chế tạo vật liệu; Sản xuất gia
công phụ tùng, linh kiện; Lắp ráp hoàn chỉnh, CNHT được hiểu như sau:
- Theo định nghĩa của Cục phát triển CNHT Thái Lan: CNHT là ngành công
nghiệp cung cấp các linh kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng gói cho
các ngành công nghiệp cơ bản và nhấn mạnh rằng các bộ phận kim loại và công
nghiệp chế tạo, sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng điện, điện tử là những CNHT
quan trọng. Cục phát triển CNHT Thái Lan chia các ngành sản xuất thành 3 cấp
độ khác nhau: (1) cấp độ lắp ráp, (2) cấp độ sản xuất linh phụ kiện, (3) cấp độ
các ngành hỗ trợ. [77]
- Khái niệm có tính chất chung nhất đó là CNHT không phải là một ngành cụ
thể mà bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian (linh kiện,
bộ phận) cung cấp cho ngành lắp ráp. [2] Khái niệm này hoàn toàn khác với
cách phân loại các ngành công nghiệp như hiện nay thành các ngành công
12
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp cơ khí, công nghiệp điện - điện tử, công nghiệp dệt may - da giầy.v.v….
Dựa trên mức độ phức tạp của ba công đoạn sản xuất chính là: (1) chế tạo vật
liệu, (2) sản xuất gia công phụ tùng, linh kiện, (3) lắp ráp hoàn chỉnh. CNHT
thuộc về công đoạn (2) là sản xuất gia công phụ tùng, linh kiện.
- Một số khái niệm khác cho rằng CNHT là ngành công nghiệp có vai trò hỗ
trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. CNHT rất đa dạng bao gồm cả
ngành đúc nhựa và chế tạo khuôn đúc, gia công cơ khí, đúc, rèn, hàn, nhiệt
luyện, xử lý bề mặt. Sản xuất những linh kiện, phụ tùng, sản phẩm bao bì,
nguyên liệu để sơn, nhuộm… bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế công đoạn 1 và 2. Sản phẩm CNHT thường được sản xuất
với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. [29]
Hiện nay các CNHT còn được hiểu là các ngành sản xuất nền tảng của ngành
công nghiệp chính yếu. Bắt đầu từ việc sản xuất nguyên vật liệu công đoạn 1 đến
gia công chế tạo các sản phẩm phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu bằng các công
nghệ chuyên môn hóa sâu công đoạn 2, đáp ứng cho ngành công nghiệp sản xuất
lắp ráp các sản phẩm thuộc công cụ, tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng công
đoạn 3. CNHT có tính chất đan chéo nhau, nghĩa là có thể gia công, cung cấp sản
phẩm đồng thời cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Thông thường ở các
nước phát triển, CNHT phát triển trước làm cơ sở để ngành công nghiệp chính
như: ngành công nghiệp ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, da giầy, viễn thông phát
triển. Trên thực tế cũng có quốc gia mà hai CNHT và chính yếu phát triển song
song: CNHT phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chính yếu phát
triển đồng thời kích thích CNHT phát triển theo.
Tóm lại, cho đến nay ít nhất có hai quan niệm tương đối khác nhau về CNHT:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: CNHT bao gồm những ngành sản xuất sản
phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng
13
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nhất định. Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung
gian có thể bao gồm nguyên, vật liệu, linh kịên phụ tùng, các bộ phận (chi tiết)
lẻ, phụ liệu, bao bì, nhãn mác... Đây là quan niệm gắn với yêu cầu của sản phẩm
cuối cùng để xác định sản phẩm trung gian cần có - Sản phẩm CNHT.
- Quan niệm thứ hai cho rằng: CNHT là toàn bộ những sản phẩm công
nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất tạo ra các thành phẩm chính. Chúng
bao gồm những linh kiện, phụ kiện, nguyên liệu, sơ chế, phụ liệu phụ tùng, bao
bì, sản phẩm trung gian... Như vậy, các quan niệm trên vừa đề cập đến nhiều
loại sản phẩm vừa đề cập tới một loại sản phẩm. Do dó, có thể nói "CNHT” là
một thuật ngữ khá mơ hồ, nếu không có một khái niệm cụ thể thì khó có thể xác
định được ngành công nghiệp nào là CNHT và hỗ trợ cái gì và cho ai?. Do có sự
tương đối trong khái niệm của CNHT nên việc phân biệt phạm vi của CNHT
cũng chưa được thống nhất.
Như vậy, CNHT không phải là một ngành cụ thể mà chúng bao hàm toàn bộ
những lĩnh vực sản xuất từ nguyên vật liệu đến gia công chế tạo các sản phẩm, phụ
tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm… để cung cấp cho ngành công nghiệp
lắp ráp các sản phẩm cuối cùng là tư liệu, công cụ sản xuất hoặc sản phẩm tiêu
dùng. Đây là quan niệm của NCS về CNHT và sẽ được sử dụng xuyên suốt trong
qúa trình nghiên cứu luận án.
Có thể nói thêm, CNHT cần được coi là một cơ sở công nghiệp hoạt động với
nhiều chức năng để phục vụ số lượng lớn các ngành lắp ráp, chứ không nên coi
chúng đơn giản chỉ là ngành “thu thập” ngẫu nhiên những linh kiện sản xuất không
liên quan. CNHT không chỉ sản xuất linh kiện mà quan trọng hơn là thực hiện quá
trình sản xuất hỗ trợ việc sản xuất các bộ phận nhựa và kim loại, chẳng hạn như
cán, ép dập khuôn.
14
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Hơn nữa, không nên quan niệm một cách đơn giản CNHT chỉ gồm những sản
phẩm trung gian được sản xuất một cách rời rạc ở những doanh nghiệp đơn độc mà
nên quan niệm CNHT là một ngành cho dù sản phẩm của nó rất đa dạng nhiều
chủng loại. Nhận thức CNHT là một ngành công nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng
trong chiến lược đầu tư của Nhà nước và trong sự liên kết tạo ra sức mạnh cạnh
tranh.
Trên thực tế, khái niệm CNHT thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp
sản xuất những sản phẩm có sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp, đòi hỏi tính
chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt.
1.1.1.2. Đặc điểm của CNHT
Một là, CNHT phát triển gắn kết với ngành/phân ngành công nghiệp hoặc sản
phẩm công nghiệp cụ thể nào đó (đối tượng hỗ trợ) và tích hợp theo cả chiều dọc
và chiều ngang. Đồng thời, sự phát triển của CNHT có tác dụng thúc đẩy những
ngành công nghiệp (sản phẩm) phát triển và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất
hỗ trợ cấp dưới.
Hai là, sử dụng nhiều vốn và mức độ lành nghề của công nhân có yêu cầu cao
hay không cao còn tùy thuộc vào mỗi ngành là đối tượng hỗ trợ. CNHT cần thiết
cho cả công nghiệp lắp ráp (ô tô, xe máy, điện tử…) và công nghiệp chế biến (dệt
may, giầy da…). Tuy nhiên, đối với mỗi ngành thì CNHT lại có những đặc điểm
và yêu cầu chính sách khác nhau: CNHT cho công nghiệp lắp ráp đòi hỏi nguồn
lao động có kỹ năng cao hơn, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện kim loại, nhựa,
cao su và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm; trong khi đó, CNHT cho
công nghiệp chế biến lại không đòi hỏi nguồn nhân lực có kỹ năng cao, sản xuất ít
loại linh phụ kiện và không tác động lớn đến chất lượng của sản phẩm.
15
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Ba là, CNHT xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công
nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp,
thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh
nghiệp sản xuất hỗ trợ.
Bốn là, đối với một ngành/phân ngành và nhất là các sản phẩm cụ thể nào đó,
các tổ chức hoạt động trong CNHT thường có quy mô vừa và nhỏ với mức độ
chuyên môn hoá sâu, dải sản phẩm hẹp, dễ thay đổi mẫu mã, có sức sống và sức
cạnh tranh cao.
Năm là, sản phẩm của CNHT có thể được cung cấp cho cả thị trường trong
nước và xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Sáu là, giá trị của sản phẩm CNHT chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm cuối
cùng đưa ra thị trường, thậm chí có lên tới 80-90%.
Trong việc hoạch định chính sách phát triển CNHT của Nhà nước, cần tùy
theo phân ngành của CNHT để có thể xác lập chính sách thích hợp, nhất là chính
sách tài chính.
1.1.1.3. Phân loại CNHT
Tùy theo mục đích nghiên cứu, quản lý hay đầu tư mà người ta dựa vào
những tiêu thức khác nhau để phân loại CNHT.
Thông thường, nếu dựa vào đặc tính sử dụng của các sản phẩm CNHT đối với
các ngành công nghiệp chính yếu, có thể chia CNHT thành hai loại cơ bản: CNHT
cơ bản và CNHT đặc thù.
CNHT cơ bản là các ngành cung cấp các sản phẩm có thể sử dụng chung cho
nhiều ngành công nghiệp, chủ yếu là các ngành sản xuất lắp ráp. Thuộc nhóm
ngành này là các cơ sở sản xuất các thiết bị, linh kiện bằng nhựa, kim khí phục vụ
chung cho các ngành xe máy, điện - điện tử...
16
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
CNHT đặc thù là các ngành cung cấp các sản phẩm công nghiệp đặc thù, chỉ
sử dụng được trong một hoặc một số ngành. Công nghiệp chủ yếu như dệt may, da
giầy, công nghiệp chế biến.
Xe máy
Điện
tử
Nghe
nhìn
ô tô
Công nghiệp hỗ trợ cơ bản: chế biến
nhựa và kim loại (cắt , nén, rèn ,đúc…)
Dệt may và
giầy dép
Chế biến
thực phẩm
Quần áo, da,
phụ kiện…
nông, lâm,
ngư nghiệp
Nguồn: [5]
Sơ đồ 1.1 - Mô hình phân chia của các công nghiệp hỗ trợ
Việc phân loại nền CNHT là để xác định chiến lược đầu tư và quản lý thích
hợp, cả vi mô, cũng như vĩ mô.
1.1.2. Vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng giá trị
Việc xác định chính xác vị trí của CNHT trong chuổi cung ứng giá trị có ý
nghĩa quan trọng việc xác định phương hướng đầu tư của các chủ thể trong nền
kinh tế.
CNHT là một thuật ngữ đề cập tới một nhóm các hoạt động công nghiệp là
trung gian cung cấp các đầu vào cho sản xuất (không bao gồm nguyên liệu và sản
phẩm cuối cùng) ở các ngành công nghiệp hạ nguồn [2]. Nói cách khác, CNHT ở
vị trí giữa trong dây chuyền sản xuất theo chiều dọc từ thượng nguồn đến hạ
nguồn. K.Ohno(2005) cho rằng: mặc dù CNHT được gọi là một ngành công nghiệp
nhưng không được phân loại như các ngành công nghiệp điện tử, dệt may [45].
17
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Phạm vi, ví trí của CNHT theo mô hình sau:
Nguồn: [4]
Sơ đồ 1.2: Công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị của nhà lắp ráp
Như vậy, theo sơ đồ trên, vị trí của CNHT nằm trong chuỗi giá trị lắp ráp. Nói
cách khác để tạo ra được chuỗi giá trị lắp ráp cần thiết phải có CNHT.Thiếu CNHT
không thể tạo ra được chuỗi giá trị lắp ráp.Với cách xem xét vị trí của CNHT như
vậy, cho thấy cần phải đầu tư phát triển CNHT.
Tùy theo năng lực công nghệ, tài chính mà các chủ thể trong nền kinh tế tham gia
vào vị trí của CNHT khác nhau.
Một nghiên cứu khác chỉ ra các doanh nghiệp của Việt Nam chỉ tham gia được
theo mức sản xuất chi tiết đơn giản.
18
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Tính ph
c
Sản xuất một số chi tiết có độ
phức tạp cao hơn nữa và lắp ráp
các chi tiết này với các chi tiết
nhóm 3 thành bộ phận
Chủ yếu là
các doanh
nghiệp FDI
Kh
ản xuất và chiều cung ứng (khoảng 5
ản s
ăng
Sản xuất một số chi tiết
(thường là bí quyết
công nghệ) và lắp ráp
các cụm nhóm thành
sản phẩm cuối cùng
Chủ yếu là
các doanh
nghiệp FDI
Các doanh
nghiệp Việt
Nam và doanh
nghiệp FDI
Sản xuất phần lớn các chi tiết có độ phức tạp
không cao (bao gồm các chi tiết tiêu chuẩn)
Chủ yếu các
doanh nghiệp
SME của
Việt Nam
Số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất các sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ
-10 năm)
Sản xuất một số chi tiết có độ phức tạp
cao và lắp ráp các chi tiết này với các chi
tiết từ nhóm 4 thành cụm chi tiết
Nguồn: [5]
Sơ đồ 1.3. Sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
1.1.3. Nội dung và điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ
Hiểu một cách đơn giản ngắn gọn nhất, song không kém phần chuẩn xác, phát
triển CNHT là làm thay đổi hiện trạng về quy mô, cơ cấu, chất lượng của CNHT
theo hướng gia tăng, đảm bảo yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp hạ
nguồn (lắp rắp, chế tác, chế biến… tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng phục vụ
sản xuất và tiêu dùng).
1.1.3.1. Phát triển quy mô công nghiệp hỗ trợ
19
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Quy mô của CNHT thường được xác định dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, số doanh nghiệp tham gia vào sản xuất sản phẩm thuộc CNHT. Số
doanh nghiệp tham gia vào sản xuất sản phẩm thuộc CNHT phụ thuộc vào hai yếu
tố cơ bản: (i) nhu cầu phát triển CNHT và (ii) khả năng sinh lời của CNHT. Như
chúng ta biết để phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn (lắp ráp, chế tác, chế
biến…) tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, tất
yếu cần thiết phải phát triển CNHT. Đó là nhu cầu tất yếu, tuy nhiên, nhu cầu này
có được doanh nghiệp đáp ứng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong số các
yếu tố đó, yếu tố khả năng sinh lời của sản xuất sản phẩm CNHT có ý nghĩa quyết
định bởi lẽ mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng vào mục tiêu tối thượng là
lợi nhuận. Do đó, để có thể gia tăng được số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt
động trong lĩnh vực CNHT đòi hỏi về phía Nhà nước phải có chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT.
Thứ hai, quy mô nguồn vốn đầu tư của xã hội cho phát triển CNHT
Nguồn vốn đầu tư của xã hội cho phát triển CNHT bao gồm nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, nguồn tài trợ của các tầng
lớp dân cư của các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước. Quy mô nguồn vốn
đầu tư xã hội càng lớn chứng tỏ sự quan tâm của xã hội đối với phát triển CNHT
càng nhiều.
Thứ ba, giá trị của sản phẩm CNHT so với giá trị tổng sản phẩm xã hội hoặc
so với giá trị sản phẩm sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng này càng
lớn cho thấy quy mô phát triển CNHT càng lớn.
Đương nhiên, yêu cầu phát triển quy mô CNHT phải hợp lý, nghĩa là vừa phải
đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp hạ nguồn, vừa phải phù hợp
với nguồn lực hiện có để phát triển CNHT.
20
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Phát triển cơ cấu CNHT, cơ cấu CNHT được hiểu là số lượng nhóm ngành và
tỷ trọng của từng nhóm ngành trong lĩnh vực CNHT. Phát triển cơ cấu CNHT là sự
thay đổi hiện trạng về cơ cấu CNHT hướng tới một cơ cấu CNHT hợp lý và tích
cực. Tính hợp lý và tích cực của cơ cấu CNHT liên quan mật thiết với tính hợp lý,
tích cực cơ cấu ngành công nghiệp hạ nguồn (công nghiệp lắp ráp, chế tác, chế
biến). Khi có sự thay đổi cơ cấu các ngành công nghiệp hạ nguồn bắt buộc phải
thay đổi cơ cấu CNHT một cách thích hợp.
1.1.3.2. Nâng cao chất lượng công nghiệp hỗ trợ
Chất lượng CNHT được thể hiện qua chất lượng chủng loại sản phẩm của nó.
Chất lượng chủng loại sản phẩm của CNHT phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng các
yếu tố đầu vào như nguồn nhân lực, máy móc thiết bị, quy trình công nghệ, nguyên
nhiên vật liệu tạo ra sản phẩm CNHT. Do đó, phát triển chất lượng CNHT chính là
nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào tạo ra sản phẩm CNHT. Phát triển chất
lượng CNHT là nội dung quan trọng có tính chất quyết định đến sự hiện diện của
CNHT và tạo ra khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hạ nguồn.
Tóm lại, phát triển quy mô, cơ cấu, chất lượng CNHT là ba nội dung quan
trọng của sự phát triển CNHT. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được ba nội dung
trên cần phải có những điều kiện nhất định.
1.1.3.3. Điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ
Thứ nhất, điều kiện về thị trường
Đề cập đến điều kiện về thị trường cho sự phát triển bền vững CNHT là đề
cập các yếu tố chủ yếu sau đây:
- Nhu cầu thị trường linh phụ kiện
Qui mô thị trường này phải đủ lớn và ổn định để lôi kéo các doanh nghiệp
công nghiệp tham gia vào lĩnh vực cung ứng. Ở Việt Nam, hiện nay dung lượng thị
21
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
trường một số ngành đã đủ lớn để tập trung phát triển ngành cung ứng linh kiện và
phụ tùng, đặc biệt là ngành Điện tử.
- Khả năng liên kết
Đặc điểm của các thị trường các nước đang phát triển là sự chênh lệch về khả
năng công nghệ và quản lý giữa các doanh nghiệp hạ nguồn và các doanh nghiệp
nhỏ, sự hạn chế về thông tin, pháp luật và các rào cản đến từ văn hóa và tập quán
kinh doanh sẽ là những trở ngại cho việc thiết lập các quan hệ liên kết công nghiệp
lâu dài. Nếu việc liên kết không được bảo đảm bền vững lâu dài giữa các doanh
nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ nhằm đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm CNHT thì
khả năng lôi kéo các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào lĩnh vực CNHT sẽ rất khó
khăn. Mặt khác, sự chênh lệch khá lớn cũng hạn chế đến việc lựa chọn đối tác, tìm
nhà cung ứng của các doanh nghiệp lớn. Ở đây các cơ quan Chính phủ phải đóng
vai trò cực kỳ quan trọng, là cầu nối giữa các doanh nghiệp CNHT và khách hàng.
- Điều kiện về lợi thế so sánh
Điều kiện cuối cùng trong các điều kiện thị trường là việc tạo dựng các động
cơ để các doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp thực hiện các chiến lược nội địa hoá và
mua ngoài. Động cơ cơ bản nhất để các công ty nước ngoài lựa chọn chiến lược là
lợi thế so sánh mà chiến lược sử dụng nội địa hoá và thuê ngoài mang lại, bao gồm
lợi thế về chi phí như các khoản thuế và lợi thế về công nghệ và tính chủ động của
qui trình sản xuất.
Thứ hai, điều kiện hạ tầng công nghiệp
Các hoạt động CNHT được hình thành trên cơ sở phát triển chung của các
ngành cơ bản này, như ngành vật liệu và các công nghệ công nghiệp cơ bản.
Sự cân đối khu vực thượng nguồn bao gồm các ngành cung ứng và sản xuất
nguyên vật liệu chủ chốt (sắt, thép, nhựa, hóa chất, cao su....) và nhu cầu hạ nguồn
22
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
bao gồm các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp và chế tạo (điện tử, ô tô, xe máy,
...) sẽ là điều kiện cần thiết để phát triển khu vực trung gian-CNHT. Trong lợi thế
so sánh về qui mô kinh tế, việc phải nhập khẩu phần lớn các vật liệu cơ bản đã làm
các sản phẩm CNHT nội địa giảm tính cạnh tranh.
Các công nghệ cơ bản công nghiệp như công nghệ đúc, hàn, ép, xử lý bề mặt,
xử lý nhiệt và chế tạo khuôn mẫu quyết định việc hình thành CNHT. Sự sẵn sàng
về nguồn lực, công nghệ, nhân lực và vốn trong khu vực này đảm bảo CNHT phát
triển bền vững.
Thứ ba, điều kiện về nguồn nhân lực
Khi vấn đề dung lượng về thị trường đã được giải quyết, thị trường có nhu
cầu thì nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển CNHT là nguồn lao động có kỹ
năng cao do hàm lượng công nghệ trong sản phẩm CNHT. Chất lượng nguồn nhân
lực quan trọng hơn nhiều so với máy móc. Công nhân có trình độ cao vận hành
máy móc cũ thậm chí còn hiệu quả hơn công nhân có trình độ thấp vận hành máy
móc mới.
Thứ tư, khả năng công nghệ sản xuất
Phần lớn sản phẩm CNHT đều có hàm lượng công nghệ khá cao, vì vậy,
CNHT đòi hỏi phải có sự đầu tư chiều sâu về thiết bị, máy móc và công nghệ sản
xuất. Các doanh nghiệp lắp ráp luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe, nghiêm ngặt về
tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các loại linh, phụ kiện. Vì thế nếu các doanh nghiệp
không áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại trong sản xuất thì sẽ không đáp ứng
được yêu cầu của nhà lắp ráp. Sản phẩm CNHT thường xuyên thay đổi theo yêu
cầu của các Tập đoàn lắp ráp, vì vậy công nghệ và thiết kế của các doanh nghiệp
CNHT cũng phải thay đổi để phù hợp với nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, đây là
23
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, loại hình chủ yếu sản xuất
sản phẩm CNHT.
Các Tập đoàn lắp ráp thiết kế và chế tạo các sản phẩm ở hạ nguồn đặt ra
những yêu cầu cho khu vực CNHT phải triển khai nghiên cứu và sản xuất những
vật liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp.
Theo chiều ngược lại, việc áp dụng các thành tựu mới của khoa học và công
nghệ vào chế tạo các sản phẩm CNHT có tính dẫn dắt khu vực hạ nguồn nhờ tạo ra
những bộ phận chi tiết hoặc vật liệu mới góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong
thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn.
Thứ năm, nguồn lực tài chính
Đối với lĩnh vực đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao như CNHT thì sự đầu tư
nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng. Đầu tư vào lĩnh vực CNHT thời gian thu hồi vốn
dài, có độ rủi ro nên khiến các nhà đầu tư e ngại khi đầu tư sản xuất các sản phẩm
CNHT. Điều này cho thấy, việc cân đối nguồn lực vốn của Nhà nước có vai trò hết
sức quan trọng trong việc bảo đảm CNHT phát triển có hiệu quả, bền vững.
Hiện nay, năng lực của các doanh nghiệp CNHT vẫn còn rất kém một phần
cũng vì không có đủ tiềm lực tài chính. Các tổ chức tín dụng Việt Nam chưa có
đánh giá tín dụng tốt về CNHT cho các doanh nghiệp. Vì thế, chính sách giúp huy
động tối đa nguồn lực tài chính, bao gồm các nguồn lực trong và ngoài nước có thể
coi là bước đi quyết định trong quá trình hình thành và phát triển CNHT.
Thứ sáu, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp
Đóng vai trò tích cực trong các mối liên kết khu vực và toàn cầu hiện nay
chính là các Tập đoàn đa quốc gia. Với tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và
đặc biệt thương hiệu mạnh, các tập đoàn này thiết lập mạng lưới sản xuất và phân
phối rộng khắp trên thế giới với chiến lược và thương hiệu thống nhất toàn cầu.
24
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Mỗi chi nhánh trong mạng lưới đó sẽ được chuyên môn hóa hợp lý nhằm khai thác
tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và chi phối thị trường theo khu vực. Theo
đó, theo lợi thế so sánh, những bộ phận hay chi tiết nhất định được sản xuất ở 1
quốc gia để cung cấp cho chi nhánh ở các quốc gia khác. Việc sản xuất như vậy tạo
điều kiện cho các chi nhánh, bộ phận phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình, bổ
trợ cho nhau, tập trung nguồn lực để có thể tạo ra những sản phẩm có giá thành
cạnh tranh, chất lượng đảm bảo.
Ngày nay, không một Tập đoàn nào còn thực hiện sản xuất khép kín theo mô
hình tích hợp dọc từ sử dụng nguyên liệu sơ chế để sản xuất các linh kiện, phụ tùng
cho đến lắp ráp hoàn chỉnh. Các công đoạn khác nhau trong qui trình sản xuất được
thực hiện tại các chi nhánh khác nhau của doanh nghiệp hoặc mua từ các doanh
nghiệp hỗ trợ khác ngoài mạng lưới. Do quá trình toàn cầu hóa, một sản phẩm
hoàn chỉnh có xuất xứ từ một nước nhưng các chi tiết, phụ tùng của nó có thể xuất
phát từ nhiều nước khác nhau. Quá trình chuyên môn hóa này tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp CNHT phát triển, nhưng lại tùy thuộc vào khả năng hội nhập KTQT.
Như vậy, để có thị trường, theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh
nghiệp khi sản xuất các loại linh kiện và phụ tùng không chỉ dựa vào nhu cầu của
các nhà lắp ráp nội địa mà cần phải chủ động tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của các
khách hàng nước ngoài, từ đó tham gia vào mạng lưới sản xuất của họ. Để tạo lập
và sử dụng nguồn lực tài chính, tất yếu phải sử dụng một hệ thống chính sách tài
chính quốc gia nói chung, đặc biệt là chính sách tài chính công nói riêng sao cho
thích hợp với yêu cầu thực tế.
1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
1.2.1. Tài chính công và chính sách tài chính công
1.2.1.1. Tài chính công
25
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Tài chính là một phạm trù kinh tế lịch sử, ra đời và tồn tại trong những điều
kiện nhất định.
Tài chính trước hết được hiểu là một số tiền (quỹ tiền tệ) được hình thành
trong quá trình phân phối và sử dụng nhằm phục vụ nhu cầu của Nhà nước, của các
đơn vị kinh tế, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình. [15]
Theo tác giả luận án, Tài chính là quan hệ phân phối sản phẩm xã hội dưới
hình thức giá trị nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về tài chính công, song nhìn
chung đều cho rằng tài chính công là một bộ phận của tài chính nhà nước gắn với
việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Tài chính nhà nước bao gồm:
- Tài chính chung của Nhà nước
- Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước
- Tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
- Tài chính của các doanh nghiệp nhà nước
Theo các nhà nghiên cứu về tài chính cho rằng loại trừ tài chính các doanh
nghiệp nhà nước, tất cả bộ phận còn lại của tài chính nhà nước thuộc phạm trù tài
chính công. Cơ sở quan trọng để các nhà nghiên cứu tài chính quan niệm các bộ
phận: tài chính chung của Nhà nước, tài chính của các cơ quan hành chính nhà
nước, tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập vào phạm trù tài chính công vì
hoạt động của các bộ phận này không vì mục tiêu lợi nhuận và được điều chỉnh bởi
luật công. Tài chính chung của Nhà nước là một phận quan trọng nhất của tài chính
công, đó là các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước bao gồm; quỹ NSNN, một số quỹ
thuộc NSTW (Quỹ dự trữ ngoại tệ; Quỹ điều hòa lưu thông tiền tệ; Quỹ dự bắt
buộc đối với hệ thống NHTM nhà nước…) các quỹ tiền tệ có nguồn gốc từ NSNN
gọi là các quỹ TCNN ngoài NSNN (Quỹ bình ổn giá, Quỹ dự trữ nhà nước, Quỹ hỗ
trợ xuất khẩu; Quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài; Quỹ quốc gia giải quyết việc
26
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
làm….). Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ kể trên là quá trình Nhà
nước tham gia phân bổ các nguồn lực tài chính thông qua hoạt động , chi tài chính
công gắn với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, Tài chính công được coi là phương
tiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Từ đó, có thể hiểu: “Tài
chính công là các hoạt động thu, chi công do Nhà nước tiến hành nhằm thực hiện
các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của xã hội” [15].
1.2.1.2. Chính sách tài chính công
Chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT được hiểu là tổng thể các
quan điểm, các nguyên tắc, các mục tiêu, các giải pháp và các công cụ, phương
tiện sử dụng phạm trù tài chính công của Nhà nước để thúc đẩy phát triển CNHT.
Thực chất chính sách tài chính công phát triển CNHT là sự thể hiện, sự can thiệp
của Nhà nước đối với quá trình phát triển CNHT bằng việc sử dụng các công cụ
của tài chinh công (NSNN, Tín dụng nhà nước, Các quỹ TCNN ngoài NSNN).
Chính sách tài chính công cũng như các chính sách khác thúc đẩy phát triển CNHT
thường bao gồm các yếu tố: các yếu tố đầu vào, các hành động, đầu ra, kết quả và
tác động của chính sách:
- Đầu vào (Inputs): đây là các nguồn lực của chính sách, trong chính sách thúc
đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT gồm: nhân lực, tài
lực, vật lực và thông tin liên quan tới hoạt động đổi mới công nghệ trong lĩnh vực
CNHT.
- Hoạt động (Activities): là những hành động thực hiện chính sách, đối với
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT
gồm: (i) xây dựng khung thể chế thực thi chính sách như ban hành các văn bản
pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đổi mới công nghệ, (ii) xác định
đối tượng doanh nghiệp thụ hưởng và các mức ưu đãi nhằm thúc đẩy doanh nghiệp
đổi mới công nghệ (ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, hỗ trợ trực tiếp), và (iii) xác
27
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
định phương thức đào tạo, thông tin, tuyên truyền nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi
mới công nghệ.
Sơ đồ 1.4: Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logic
Nguồn: [15 ]
Nguồn: [15]
Sơ đồ 1.4. Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logich
Đặc điểm cơ bản của chính sách tài chính công thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu
sau đây:
28
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền thiết lập, vận hành chính
sách tài chính công, gắn liền với quyền lực chính trị. Ngoài Nhà nước ra, không
một chủ thể nào trong nền kinh tế được quyền thiết lập và vận hành chính sách tài
chính công trong đời sống kinh tế xã hội, bởi lẽ việc thiết lập, vận hành chính sách
tài chính công đụng chạm đến lợi ích chung của quốc gia. Nhà nước là tổ chức đại
diện cho lợi ích chung đó. Việc thiết lập, vận hành chính sách tài chính công không
cho phép lấy lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân để chi phối.
Thứ hai, chính sách tài chính công hàm chứa những quy định của Nhà nước
không chỉ liên quan đến các vấn đề tài chính một cách đơn thuần mà liên quan chặt
chẽ đến các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước. Mọi quy định thu, chi
đối với tài chính công đều được đặt trên tầm nhìn về kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước.
Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập, mở cửa của đất nước, tham gia vào sân chơi
theo những luật lệ chung của thế giới, các quy định trong chính sách tài chính công
luôn chịu sự chi phối bởi những quy định về luật lệ của thế giới.
Nhận thức rõ những đặc điểm trên đây của tài chính công, có ý nghĩa quan
trọng trong cân nhắc, tính toán đến việc thiết lập vận hành chính sách tài chính
công của Nhà nước.
1.2.1.3. Cấu thành chính sách tài chính công
Như chúng ta đã biết, chính sách tài chính công là chính sách của Nhà nước
điều chỉnh các bộ phận cấu thành tài chính công. Do đó, cấu thành của chính sách
tài chính công bao gồm: chính sách NSNN. Chính sách tín dụng nhà nước, chính
sách các quỹ TCNN ngoài NSNN.
a. Chính sách NSNN ,thường được hiểu là chính sách tài khóa
29
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
NSNN là khâu quan trọng nhất đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính
công; là bản dự toán hàng năm về toàn bộ nguồn lực tài chính huy động cho Nhà
nước và dự trù việc sử dụng nguồn lực tài chính dự kiến huy động được nhằm bảo
đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của Nhà nước trong năm kế hoạch. Về
khía cạnh hiện vật NSNN được coi là nguồn lực quan trọng để tiến hành thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Hoạt động của NSNN bao gồm: hoạt
động thu, (chủ yếu thuế); hoạt động chi và cân đối NSNN. Hoạt động thu NSNN
bao gồm hoạt động thu thuế, phí lệ phí và hoạt động các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật. Hoạt động chi NSNN bao gồm quy định các khoản chi thường
xuyên và chi ĐTPT.
Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách của chính phủ về tài chính,
thường được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài chính, nhằm
tác động đến các định hướng phát triển của nền kinh tế, thông qua những thay đổi
trong kế hoạch chi tiêu chính phủ và chính sách thu ngân sách (chủ yếu là các
khoản thu về thuế). Chính sách tài khoá có thể tạm chia thành chính sách tài khoá
cân bằng, chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tài khoá thắt chặt.
Chính sách tài khoá cân bằng là chính sách tài khoá mà theo đó, tổng chi tiêu
của Chính phủ cân bằng với các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các nguồn thu
khác mà không phải vay nợ.
Chính sách tài khoá mở rộng (hay còn gọi là chính sách tài khóa thâm hụt) là
chính sách nhằm tăng cường chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách:
- (i) gia tăng mức độ chi tiêu chính phủ mà không tăng nguồn thu; hoặc
- (ii) giảm nguồn thu từ thuế mà không giảm chi tiêu; hoặc
- (iii) vừa gia tăng mức độ chi tiêu của chính phủ đồng thời giảm nguồn thu
từ thuế.
30
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chính sách tài khoá mở rộng có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo
thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, chính sách tài khoá mở rộng thường dẫn đến việc
Chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Chính sách tài khoá thắt chặt (hay còn gọi là chính sách tài khóa thặng dư) là
chính sách hạn chế chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách:
- (i) chi tiêu của chính phủ ít đi nhưng không tăng thu; hoặc
- (ii) không giảm chi tiêu nhưng tăng thu từ thuế; hoặc
- (iii) vừa giảm chi tiêu vừa tăng thu từ thuế.
Chính sách tài khoá thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng
trưởng nhanh và thiếu bền vững hoặc khi nền kinh tế gặp tình trạng lạm phát cao.
Việc này có thể làm thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so
với trước đó.
b. Thuế
Thuế là một hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước nhằm tập trung một
bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách nhà nước để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế có những đặc điểm nổi bật cần lưu ý.
Thuế là một khoản thu có tính chất bắt buộc của Nhà nước. Để đảm bảo nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước trong việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng, Nhà
nước tất yếu phải sử dụng quyền lực của mình để huy động sự đóng góp bắt buộc .
Thuế là khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Tính
không bồi hoàn ở đây được hiểu là người nộp thuế phải nộp một khoản tiền vào
Ngân sách Nhà nước nhưng không được nhận các đối khoản trực tiếp hữu hình, mà
nhận được các “hàng hóa vô hình” như được đảm bảo về an ninh quốc phòng… và
không cảm nhận được một cách trực tiếp.
31
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thuế là hình thức phân phối của cải xã hội gắn liền với các yếu tố chính trị,
kinh tế và xã hội. Thông qua thuế, Nhà nước điều tiết thu nhập của các thể nhân và
pháp nhân, làm ảnh hưởng đến lợi ích của các tầng lớp trong xã hội. Mặt khác
nguồn thu của thuế gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ chủ yếu để huy động nguồn lực
vào ngân sách, đồng thời cũng là công cụ quan trọng để Nhà nước điều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế thông qua tác động đến tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng… Khi giảm
thuế sẽ có tác dụng tăng cầu, khuyến khích đầu tư mở rộng kinh doanh, ngược lại
khi tăng thuế sẽ thu hẹp đầu tư; thông qua các qui định cụ thể về đối tượng, thuế
suất, những ưu đãi và miễn giảm, thuế cũng thực hiện vai trò điều chỉnh cơ cấu nền
kinh tế theo ngành kinh tế và theo vùng lãnh thổ; thuế cũng nhằm điều tiết thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội.
Thông thường, các sắc thuế được phân loại theo một số căn cứ nhất định:
- Căn cứ vào khả năng chuyển dịch gánh nặng thuế từ người phải nộp cho
người khác thông qua cơ chế giá, các sắc thuế chia thành 2 loại: thuế trực thu và
thuế gián thu. Thuế trực thu gồm các sắc thuế như Thu nhập cá nhân, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế tài sản… Thuế gián thu gồm các sắc thuế như : thuế
Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Tuy
nhiên, sự phân định này chỉ mang tính chất tương đối, vì khó xác định khả năng
chuyển dịch gánh nặng về thuế.
- Căn cứ vào cơ sở tính thuế, hệ thống thuế chia thành thuế thu nhập, thuế
tiêu dùng và thuế tài sản.
- Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tác động của một số
chính sách thuế có những đặc điểm riêng thể hiện trên các mặt sau:
32
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
- Đối với thuế Nhập khẩu: Thuế Nhập khẩu thể hiện rõ nét nhất về mức độ
hội nhập kinh tế quốc tế thông qua cắt giảm thuế quan. Để đối phó với tình trạng
này, các nước lựa chọn các cách sau đây:
Tập trung vào lĩnh vực mà mình có lợi thế so sánh, khi đó tất cả mọi
người đều có lợi;
Mỗi vùng có thể có được những khối lượng hàng hóa lớn hơn với thời
gian lao động như cũ, vì họ chuyên môn hóa vào các lĩnh vực có lợi thế so
sánh;
Làm gia tăng nhanh chóng thương mại quốc tế cả về quy mô và cơ cấu
hàng hóa xuất, nhập khẩu, thương mại quốc tế được mở rộng và thu nhập
quốc dân của mỗi nước đều tăng. Nhờ vậy, làm thay đổi cơ cấu kinh tế
trong nước theo hướng phát triển những ngành nghề có lợi thế, hạn chế và
thu hẹp những ngành nghề không có khả năng cạnh tranh.
Theo lộ trình cắt giảm thuế quan, vai trò bảo hộ sản xuất của thuế suy giảm
nhưng không hoàn toàn mất đi, mà vẫn tiếp tục phát huy trong một chừng mực
nhất định cả về mặt thời gian cũng như về phạm vi cần bảo hộ; nhưng vai trò kiểm
soát hoạt động xuất nhập khẩu của thuế ngày càng trở nên quan trọng. Thuế sẽ tác
động đến thu ngân sách theo hai hướng. Một mặt, do thuế suất giảm làm giảm thu
về xuất nhập khẩu (bao gồm thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc
biệt hàng nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng hàng nhập khẩu và chênh lệch giá hàng
nhập khẩu); mặt khác, cũng do thuế suất giảm làm tăng trưởng ngoại thương và
tăng thu về xuất nhập khẩu. Nên trong quá trình chưa loại bỏ hoàn toàn thuế quan,
nguồn thu về xuất nhập khẩu vẫn có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối nhưng giảm
về tỷ trọng trong cơ cấu thu của ngân sách.
33
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chính sách thuế Nhập khẩu có tác động khuyến khích đầu tư nước ngoài đối
với toàn bộ khu vực cũng như đối với từng quốc gia trong khối liên kết vì một số
lý do sau:
Thứ nhất, Đa số các quốc gia thực hiện chính sách miễn giảm thuế khi nhập
khẩu máy móc thiết bị chuyên dùng, vật tư để tạo tài sản cố định mà trong nước
chưa sản xuất được.
Thứ hai, Khi Chính phủ ký kết hiệp ước tránh đánh thuế hai lần để đảm bảo
lợi ích cho nhà đầu tư;
Thứ ba, thuế Nhập khẩu được cấu tạo phù hợp với thông lệ quốc tế (gồm 3
cột: thông thường, ưu đãi theo nguyên tắc MNF và ưu đãi đặc biệt trong FTA),
nhờ đó mà thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng đến tất cả các nước trong
khối liên kết.
- Đối với thuế Xuất khẩu, chính sách thuế Xuất khẩu chủ yếu nhằm khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô để bảo vệ nền sản xuất
trong nước. Theo đó, không thu thuế (hoặc thuế suất 0%) đối với hầu hết các
mặt hàng sản xuất trong nước, chỉ thu thuế đối với các mặt hàng cần hạn chế
xuất khẩu, nhằm đảm bảo nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước như các loại
nguyên liệu thô, khoáng sản thô… Tuy nhiên, việc đánh thuế Xuất khẩu cao
cũng có hai mặt: một mặt là đảm bảo nguyên liệu sản xuất lâu dài trong nước,
nhưng mặt khác khi thuế suất cao gây ra hiệu ứng tăng giá thành sản phẩm dẫn
đến hạn chế khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Do đó, thuế Xuất khẩu
cần được áp dụng linh hoạt và điều tiết kịp thời giữa mục tiêu đảm bảo sản xuất
trong nước và cạnh tranh trên thị trường.
- Đối với thuế nội địa, Chính sách thuế nội địa tạo ra môi trường bình đẳng
và hấp dẫn đối với cá nhà đầu tư thông qua nguyên tắc không phân biệt đối xử
34
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
về thuế đối với nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các
ưu đãi về thuế (chẳng hạn như ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo ngành
nghề, lĩnh vực và địa bàn đầu tư) có vai trò quan trọng để khuyến khích, thu hút
đầu tư các nhà đầu tư.
c. Chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng Quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực
hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
Chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ gốc
và lãi các khoản vay của chính phủ, viện trợ của Chính phủ, chi bổ sung quỹ dự trữ
tài chính… và nhiều khoản chi khác. Có thể hiểu chi ĐTPT là quá trình phân phối
và sử dụng một phần vốn tiền tệ từ Quỹ ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất, dự trữ vật tư hàng hóa của Nhà
nước nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Về nội dung,
chi ĐTPT gồm: chi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đây là
khoản chi có tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong cơ cấu chi ĐTPT; chi đầu
tư cho các DNNN nhà nước, góp vốn cổ phần vào doanh nghiệp khác khi cần có sự
tham gia của Nhà nước; chi cho dự trữ nhà nước. Chi ĐTPT của ngân sách có
những đặc điểm cơ bản:
- Chi ĐTPT là khoản chi lớn vì chúng tạo ra tài sản cố định, năng lực sản
xuất mới cho nền kinh tế, đòi hỏi một lượng vốn lớn nhưng không mang tính ổn
định, vì nhu cầu đầu tư lớn nhưng phụ thuộc vào khả năng có thể đáp ứng của
ngân sách;
- Chi ĐTPT mang tính tích lũy, bởi chúng tạo ra những tài sản làm cơ sở cho
phát triển kinh tế, tăng tích lũy cho ngân sách;
35
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
- Phạm vi và mức độ chi ĐTPT luôn gắn với mục tiêu, yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong từng năm hoặc từng thời kỳ.
Chi thường xuyên của ngân sách là quá trình phân phối, sử dụng vốn ngân
sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với nhiệm vụ thường xuyên của
Nhà nước và các dịch vụ công mà Nhà nước phải cung ứng. Về nội dung, chi
thường xuyên bao gồm: chi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội; chi
sự nghiệp kinh tế để phục vụ cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế; chi
cho các hoạt động quản lý nhà nước; chi cho hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội; chi cho quốc phòng an ninh và các khoản chi khác. Chi thường xuyên có
đặc điểm sau:
- Là khoản chi mang tính ổn định;
- Đại bộ phận chi thường xuyên mang tính tiêu dùng xã hội;
- Phạm vi và mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với
cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn các hàng hóa công cộng mà
Nhà nước cung ứng.
Chi ngân sách nhà nước làm một công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ
mô. Chính sách chi ngân sách nhà nước có xu hướng thay đổi từ chỗ ngân sách đầu
tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế Ngân sách không trực tiếp
đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, mà tập trung cho đầu tư kết cấu hạ tầng và các
dịch vụ công. Ngân sách còn là điều kiện đảm bảo thực hiện các cam kết về cải
cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường
khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Xu hướng thay đổi
của chi ngân sách cũng làm giảm gánh nặng cho ngân sách và vai trò đảm bảo
nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh được chuyển giao cho các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế. Từ đó, ngân sách có điều kiện tập trung đầu tư kết
36
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
cấu hạ tầng để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, kinh doanh và giải quyết các vấn đề
xã hội, xóa đói giảm nghèo.
d. Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa
mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu
không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế
yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan
trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. Tín dụng nhà nước có đặc điểm:
(1)Chủ thể là nhà nước;(2) Hình thức đa dạng, phong phú; (3)Tín dụng nhà nước
chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian.
Công cụ để thực hiện tín dụng nhà nước, khi nhà nước là người đi vay bao gồm:
- Tín phiếu kho bạc;
- Trái phiếu kho bạc;
- Trái phiếu đầu tư:
- Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình;
- Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển;
- Công trái;
- Trái phiếu chính phủ quốc tế.
Tín dụng nhà nước bao gồm:
- Cho vay đầu tư;
- Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư;
- Bảo lãnh tín dụng.
37
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Sử dụng tín dụng nhà nước nói chung có nhiều ưu điểm, song cũng chứa đựng
những rủi ro nhất định trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Ưu điểm của tín dụng nhà nước là:
- Phạm vi hoạt động vốn rộng lớn vừa trong nước vừa ngoài nước
- Hình thức huy động phong phú, đa dạng có thể là tiền, vàng, hiện vật
- Các hình thức huy động linh hoạt về thời gian cũng như loại hình.
Nhược điểm của tín dụng nhà nước có thể là rủi ro vỡ nợ của nhà nước, do
không tính toán kỹ nhu cầu vay và sử dụng vốn vay không hiệu quả;
Như vậy, tín dụng nhà nước là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài
chính công, không những có tác dụng bù đắp bội chi NSNN mà còn là công cụ
quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế góp phần điều chỉnh lạm phát, điều hòa lưu
thông tiền tệ, thực hiện chính sách xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nếu mức độ huy
động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng chèn ép đầu tư của khu vực tư
nhân do chính phủ huy động vốn qua phát hành trái phiếu, gây sức ép tăng lãi suất
khiến cho đầu tư của khu vực tư nhân giảm xuống. Chính lẽ đó nhà nước phải có
chính sách đối với tín dụng nhà nước một cách thích hợp.
Chính sách tín dụng nhà nước là chính sách của nhà nước điều chỉnh quá
trình hình thành và hoạt động của tín dụng nhà nước thông qua việc quy định mức
độ hình thức và công cụ huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong xã hội, thông
qua việc quy định cách thức, nội dung, các nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính huy
động được từ hoạt động tín dụng nhà nước.
e. Các quỹ Tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước
Các quỹ TCNN ngoài NSNN là các quỹ tiền tệ tập trung do Nhà nước thành
lập, quản lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý các biến
38
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
động bất thường trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và để hỗ trợ thêm cho
NSNN trong trường hợp khó khăn về vốn. So với các loại quỹ khác trong nền kinh
tế, các quỹ TCNN ngoài NSNN có đặc điểm: (1) Nhà nước là người quyết định
thành lập, huy động nguồn lực tài chính, sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN; (2)
Nguồn tài chính của các quỹ TCNN ngoài NSNN bao gồm: Được trích từ NSNN
theo quy định của pháp luật, một huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong
nền kinh tế (3) Sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN chủ yếu dùng để đối phó
những biến động bất thường, không dự báo trước được trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước, các khoản chi không có trong dự toán NSNN nhưng
bắt buộc nhà nước phải chi để xử lý những biến động bất thường .(3) Việc sử dụng
có tính linh hoạt hơn so với quỹ NSNN, hoạt động của các quỹ TCNN ngoài
NSNN thường được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản dưới luật. (4) thời gian
tồn tại của một số quỹ TCNN ngoài NSNN tùy thuộc vào kết quả xử lý các trường
hợp bất thường. Các quỹ TCNN ngoài NSNN, có rất nhiều loại. Để nghiên cứu,
quản lý người ta phân loại thành các nhóm chủ yếu sau đây:
- Nhóm quỹ TCNN thực hiện chức năng dự trữ, dự phòng phục vụ cho việc
đối phó những rủi ro bất trắc. Loại nhóm này không ổn định, tùy thuộc vào kết
quả xử lý những rủi ro bất trắc. Các quỹ thuộc nhóm này như Quỹ dự trữ quốc
gia; Quỹ quỹ dự trữ tài chính,Quỹ dự trữ ngoại tệ…
- Nhóm Quỹ TCNN ngoài NSNN có tính chất hỗ trợ từ phía Nhà nước chủ
yếu phục cho vấn đề an sinh xã hội. Tính chất đặc biệt của nhóm quỹ này là việc
chi ra không có khả năng thu hồi. Các quỹ TCNN ngoài NSNN thuộc nhóm này
bao gồm: Quỹ BHXH, Quỹ xóa đói giảm ngheo, Quỹ xóa mù chữ, Quỹ phòng
chống ma túy…Cơ chế quản lý của nhóm quỹ này chủ yếu là bảo đảm thu chi
đúng chế độ, chính sách của nhà nước, đúng mục tiêu của quỹ và cân đối giữa
thu và chi.
39
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
- Nhóm quỹ TCNN ngoài NSNN có tính chất thu hồi vốn khi chi ra:
Các Quỹ thuộc nhóm này bao gồm: Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng chính
sách; Quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ
tín dụng đào tạo… Đặc điểm quan trọng của các quỹ thuộc nhóm này là thực hiện
cơ chế tín dụng có vay có trả cả gốc lẫn lãi song bảo đảm được tính chất ưu đãi.
Chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN là chính sách của Nhà nước điều tiết,
điều chỉnh sự vận hành của các quỹ TCNN ngoài NSNN thông qua việc quy định,
hình thành, nội dung sử dụng cũng như quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức
nhà nước quản lý và sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN. Chính sách tài chính
công của Nhà nước có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh
vực phát triển CNHT. Khi áp dụng vào quá trình phát triển CNHT, Chính sách tài
chính công có những tác dụng quan trọng đối với quá trình phát triển CNHT của
quốc gia.
1.2.2. Những tác động của chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ
Có thể phân tích tác động của chính sách tài chính công đến quá trình phát
triển CNHT trên ba phương diện: (1) Tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy
động sử dụng nguồn lực tài chính của xã hội nói chung, nguồn lực tài chính nhà
nước nói riêng; (2) Điều chỉnh, điều tiết thu nhập và hoạt động CNHT; (3) tạo ra
môi trường kinh tế ổn định cho sự phát triển CNHT.
Một trong những yếu tố có tính quyết định đối với phát triển CNHT là nguồn
lực tài chính. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển CNHT, sự hỗ trợ và sử
dụng một phần nguồn vốn từ NSNN và các quỹ TCNN ngoài NSNN, cũng như
huy động nguồn vốn qua quỹ tín dụng nhà nước là hết sức quan trọng. Tuy nhiên,
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT không thể tự động huy động
40
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
được mà phải căn cứ vào cơ chế chính sách của nhà nước mới có thể tiến hành các
giải pháp huy động. Những quy định trong chính sách NSNN, chính sách tín dụng
nhà nước, chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN chính là cơ sở pháp lý tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tài chính từ NSNN, từ
các quỹ tài chính nhà nước, từ kết quả hoạt động tín dụng nhà nước. Không những
thế, chính sách tài chính công cũng tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc phân bổ, bố
trí sử dụng nguồn vốn huy động được để phát triển CNHT, bảo đảm việc sử dụng
tập trung tránh dàn trải và sử dụng có hiệu quả.
Mặt khác, chính sách tài chính công là công cụ quan trọng để nhà nước điều
chỉnh, điều tiết thu nhập và hoạt động của CNHT, tạo điều kiện hướng hoạt động
của CNHT theo đúng quy họach của Nhà nước đề ra. Nhà nước sử dụng chính sách
thuế với những ưu tiên ưu đãi có trọng tâm, trọng điểm có thể thúc đẩy tăng quy
mô và chuyển dịch cơ cấu của CNHT, phục vụ tốt cho sự phát triển của ngành
công nghiệp hạ nguồn. Đặc biệt với chính sách tài khóa, được điều chỉnh theo sự
biến động của chu kỳ kinh tế đã góp phần quan trọng tạo ra môi trường kinh tế ổn
định cho sự phát triển CNHT.
Do đặc điểm, tính chất có sự khác nhau, nên mỗi loại chính sách trong hệ
thống chính sách tài chính công có mức độ tác động khác nhau đến sự phát CNHT:
Thứ nhất, tác động của chính sách thuế đối với phát triển CNHT
Chính sách thuế là một nội dung của chính sách tài chính công, là tổng thể các
quan điểm, tư tưởng, giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng đề ra quyết định
về thu nhập và huy động nguồn thu để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Chính sách thuế là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính
sách tài chính công, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng trong
41
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
việc thực hiện đường lối phát triển KT-XH của đất nước. Tác động của chính sách
thuế đối với phát triển CNHT thể hiện qua chức năng cơ bản tự thân của nó:
- Chức năng định hướng: Chính sách thuế góp phần định hướng cho nhà
quản lý thu và nộp thuế một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và hợp lý. Đồng
thời, chính sách thuế còn giúp các nhà sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
CNHT định hướng, xác định ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh để mang
lại hiệu quả phù hợp với khả năng và năng lực của mình.
- Chức năng điều tiết: Chính sách thuế giúp phân phối, điều tiết thu nhập của
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nhằm thực hiện nguyên tắc
phân phối công bằng trong xã hội, thúc đẩy phát triển CNHT theo định hướng
của Nhà nước.
Như vậy, tác động của chính sách thuế đối với phát triển CNHT thường diễn
ra ở hai trạng thái khuyến kích hoặc kiềm chế phát triển CNHT tùy thuộc vào quan
điểm của Nhà nước đối CNHT. Sự tác động của chính sách thuế đối với CNHT
được thực hiện thông qua việc áp dụng các sắc thuế cụ thể và chế độ ưu đãi, miễn
giảm của từng sắc thuế đó.Trong số hệ thống các sắc thuế có thể nói việc thực hiện
những ưu đãi, miễn, giảm của ba sắc thuế: thuế TNDN và thuế GTGT, thuế XNK
có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hoạt động của CNHT.
Với những ưu đãi và chế độ miễn giảm của thuế TNDN sẽ ảnh hưởng đến quy mô,
cơ cấu và phân bổ thu nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT.
Với những ưu đãi, miễn, giảm của thuế GTGT chủ yếu liên quan đến đầu ra
của sản phẩm CNHT, liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm CNHT, thúc đẩy
công tác hạch toán kế toán trong hoạt động của các doanh nghiệp CNHT.
Với những ưu đãi, miễn, giảm của thuế XNK sẽ có tác động đến các yếu tố
đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất CNHT, đồng thời góp phần khuyến khích mở
42
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
rộng thị trường xuất khẩu của sản phẩm CNHT. Đối với những quốc gia khi CNHT
còn non yếu, Nhà nước chủ trương sử dụng chính sách thuế đối với CNHT theo
hướng khuyến khích ưu tiên, ưu đãi, thực hiện chế độ miễn, giảm là chủ yếu.
Thứ hai, tác động của chính sách tín dụng ưu đãi đối với CNHT
Tác động chủ yếu của chính sách tín dụng đầu tư của nhà nước đối với phát
triển CNHT chính là ở chỗ tín dụng đầu tư của Nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ hình thức cấp phát trực tiếp của NSNN sang hình thức tín dụng đặc biệt
có ưu đãi về lãi suất song vẫn thực hiện nguyên tắc tín dụng có vay có trả cả gốc
lẫn lãi. Chính việc thực hiện nguyên tắc tín dụng, tín dụng đầu tư của Nhà nước có
tác dụng đối với phát triển CNHT không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn mà còn tăng
cường công tác hạch toán đối với các doanh doanh nghiệp hoạt động trong ngành
lĩnh vực CNHT. Các doanh nghiệp muốn sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư của
Nhà nước trước hết phải chú trọng nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh để có thể hoàn trả được vốn và lãi. Như vậy, để có thể nâng cao được tác
dụng tích cực của tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển CNHT trước hết
phải chú trọng hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước theo hướng:
- Nghiên cứu, xây dựng danh mục dự án đầu tư ưu đãi sử dụng tín dụng đầu
tư của Nhà nước.
- Nghiên cứu xây dựng lãi suất, thời gian sử dụng vốn vay một cách hợp lý
gắn với đặc thù của hoạt động CNHT ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
- Thực hiện cải tiến quy trình tín dụng đầu tư của nhà nước theo yêu cầu của
cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với
nguồn vốn của tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Thứ ba, tác động của chính sách trực tiếp sử dụng nguồn tài chính từ NSNN
hỗ trợ phát triển CNHT
43
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Hầu hết ở các nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển CNHT, Nhà
nước đều sử dụng một phần nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho hoạt
động phát triển CNHT. Nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho hoạt
động của CNHT có tác động như là một “ cú huých” ban đầu nhằm kích thích các
thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT. Đương nhiên, yêu cầu đặt ra đối với “cú
huých” đó phải đủ lớn mới có thể khuyến kích được các thành phần kinh tế bỏ vốn
ĐTPT CNHT. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho phát
triển CNHT bị ràng buộc bởi các quy định trong Luật NSNN. Do đó, để có thể sử
dụng được nguồn lực tài chính từ NSNN, đòi hỏi trước hết trong Luật NSNN phải
những điều khoản chi cho phát triển CNHT, đồng thời trong dự toán NSNN hàng
năm phải có khoản dự toán chi NSNN cho hoạt động CNHT. Mặt khác, kết quả
thực hiện các khoản chi NSNN cho phát triển CNHT phải được quyết toán theo
quy định của Luật NSNN.
Thứ tư, tác động của chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối với
phát triển CNHT.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, cũng như thực tế ở Việt Nam cho
thấy, chưa có một tài liệu nào đề cập đến chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài
NSNN đối với phát triển CNHT. Tuy nhiên, trên phương diện lý luận, chức năng
quan trọng của các quỹ TCNN ngoài NSNN là bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
ổn định trước những rủi ro bất khả kháng, không dự báo trước trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Với chức năng này, chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài
NSNN đối với phát triển CNHT có tác dụng gián tiếp tạo ra môi trường kinh tế ổn
định cho phát triển CNHT. Mặc dù, chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài
NSNN có tác dụng gián tiếp đối với phát triển CNHT, song hết sức quan trọng.
Các doanh nghiệp nói chung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nói
riêng không thể hoạt động một cách độc lập diễn ra trong nội bộ mà trái lại mọi
44
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
hoạt động sản xuất, kinh doanh của nó đều có liên hệ chặt chẽ với môi trường kinh
tế, xã hội. Khi môi trường bên ngoài mất ổn định tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của họ.Từ đó, cho thấy việc hoàn thiện chính sách sử dụng các
quỹ TCNN ngoài NSNN góp phần bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn
định, bền vững là yếu tố quan trọng đối với phát triển CNHT.
Tóm lại, mỗi một loại chính sách trong chính sách tài chính công có mức độ,
cách thức tác động đối với phát triển CNHT khác nhau, song nhìn chung việc sử
dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT có thể diễn ra hai trạng thái
khuyến khích, hoặc kìm chế sự phát triển CNHT tùy thuộc vào quan điểm, chủ
trương của Nhà nước đối với CNHT.
1.2.3. Những tiêu chí đánh giá tác động của chính sách tài chính công đến
phát triển công nghiệp hỗ trợ
Trên phương diện lý thuyết để đánh giá tác động của một chính sách đến một
đối tượng điều chỉnh của một chính sách nói chung của tác động chính sách tài
chính công đến CNHT nói riêng người ta thường dựa vào các tiêu chí chủ yếu sau
đây:
a. Nhận biết của doanh nghiệp về các chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ
sản xuất sản phẩm CNHT của Nhà nước.
Để có thể tiếp cận được với chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, trước tiên doanh nghiệp phải nhận biết được về mặt nội dung các chính sách
do Trung ương/địa phương ban hành liên quan tới phát triển CNHT, khuyến khích
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. Cho nên, đây là tiêu chí
đầu tiên để đánh giá sự quan tâm tới chính sách của doanh nghiệp cho hoạt động
đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT.
45
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Để đo lường mức độ nhận biết chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới
công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, luận án sử dụng thang đo Likert 5:
Mức 1- doanh nghiệp không nhận biết có chính sách liên quan;
Mức 2 -doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan nhưng không
biết nội dung;
Mức 3 -doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan nhưng còn lờ
mờ về nội dung;
Mức 4 - doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan và nắm
tương đối rõ nội dung;
Mức 5- doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan và nắm rõ nội
dung chính sách.
b. Khả năng tiếp cận và sử dụng chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ sản
xuất sản phẩm CNHT của doanh nghiệp
Sau khi đã nhận biết được các chính sách do Trung ương/địa phương ban
hành, doanh nghiệp tiếp cận chính sách thông qua kênh thông tin nào (chính thức,
phi chính thức?), thời gian tiếp cận ra sao (nhanh, trung bình, chậm) và chi phí để
tiếp cận như thế nào (đắt, trung bình, rẻ).
Sau khi đã tiếp cận được chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công
nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, doanh nghiệp có sử dụng được chính sách hay
không? Để đo lường tiêu chí này, người ta đưa ra 5 mức khi nghiên cứu khảo sát ý
kiến của doanh nghiệp
Mức 1 - doanh nghiệp không sử dụng được chính sách liên quan;
Mức 2 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan nhưng ít;
46
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Mức 3 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức độ trung
bình;
Mức 4 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức tương đối
thường xuyên;
Mức 5 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức thường
xuyên.
c. Đánh giá của doanh nghiệp về mức độ thuận lợi và khó khăn khi sử dụng
chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT của Nhà nước
Sau khi sử dụng chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản
xuất sản phẩm CNHT, doanh nghiệp đánh giá được mức độ thuận lợi/khó khăn
trong quá trình sử dụng chính sách về thủ tục, qui trình, thời gian và độ trễ chính
sách. Để đo lường tiêu chí này, đề tài sử dụng thang đo likert 5. Cụ thể:
Về thủ tục, qui trình để được hưởng ưu đãi:
Mức 1- rườm rà,
Mức 2 - tương đối rườm rà,
Mức 3 - bình thường,
Mức 4- tương đối đơn giản;
Mức 5 - đơn giản;
Về thời gian và độ trễ chính sách:
Mức 1- độ trễ chính sách lớn;
Mức 2- độ trễ chính sách tương đối lớn;
Mức 3- độ trễ chính sách trung bình;
Mức 4- độ trễ chính sách tương đối nhỏ;
47
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Mức 5- độ trễ chính sách không đáng kể (nhỏ).
d. Số lượng doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT trong 3
năm vừa qua và mức đầu tư/doanh thu cho các hoạt động đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp.
- Về tiêu chí số lượng doanh nghiệp đổi mới công nghệ trong 3 năm vừa qua,
tiêu chí này đánh giá xem có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp đổi mới công nghệ
sản xuất sản phẩm hỗ trợ trong 3 năm qua mà không biết, hoặc không hưởng bất cứ
ưu đãi nào từ chính sách và bao nhiêu % doanh nghiệp đã được hưởng ưu đãi từ
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT.
Từ đó, kết hợp phỏng vấn sâu các chuyên gia, các doanh nghiệp để có thể kết luận
được tác động của chính sách Nhà nước đến đối tượng thụ hưởng chính sách.
- Về tiêu chí mức đầu tư/doanh thu cho đổi mới công nghệ, tiêu chí này cho
biết hiện nay các doanh nghiệp CNHT đầu tư bao nhiêu/doanh thu cho các hoạt
động đổi mới công nghệ như: (1) Mức đầu tư/doanh thu cải tiến dây chuyền công
nghệ; (2) Mức đầu tư nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới/qui trình mới; (3)
Mức đầu tư nâng cao năng lực nguồn nhân lực công nghệ phục vụ cho đổi mới
công nghệ; (4) Mức đầu tư hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho hoạt động đổi
mới công nghệ; (5) Mức đầu tư cập nhật thông tin liên quan tới đổi mới công nghệ
và bản quyền công nghệ.
e. Đánh giá chung của doanh nghiệp, chuyên gia về chính sách thúc đẩy doanh
nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
Đây là tiêu chí đo lường sự hài lòng của doanh nghiệp (đối tượng thụ hưởng
chính sách) đối với các cơ quan ban hành chính sách (chủ thể chính sách – Nhà
nước) về các vấn đề liên quan tới chính sách phát triển CNHT, chính sách đổi mới
công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT như mức được hưởng ưu đãi, thời gian được
48
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
hưởng ưu đãi, các thủ tục, qui trình, thái độ phục vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan. Để đo lường tiêu chí này, ta sử dụng
thang đo likert 5, kết hợp với phỏng vấn sâu có chọn lọc một số chuyên gia trong
lĩnh vực đổi mới công nghệ, CNHT ở cả Trung ương và địa phương, phỏng vấn
sâu có chọn lọc một số các lãnh đạo doanh nghiệp CNHT.
Như vậy, các tiêu chí đánh giá ở trên là cơ sở để có thể tiến hành các hoạt động
như thiết kế câu hỏi trong phiếu điều tra các doanh nghiệp CNHT, cơ quan quản lý
nhà nước, các chuyên gia về đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT. Từ đó,
kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng trên cơ sở sử dụng các dữ
liệu sơ cấp (điều tra, khảo sát, phỏng vấn sâu doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT,
các chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước về đổi mới công nghệ) và dữ liệu thứ
cấp (các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới chính sách phát
triển CNHT, đổi mới công nghệ) để đánh giá, hoàn thiện hay ban hành chính sách
mới nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng việc sử dụng chính sách tài chính công phát
triển công nghiệp hỗ trợ
Suy cho cùng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT là sản phẩm chủ
quan của Nhà nước. Mọi quy định sử dụng TCC đối với phát triển CNHT của Nhà
nước đều chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan.
1.2.4.1. Những nhân tố khách quan
a. Nhu cầu và khả năng nguồn lực tài chính ĐTPT CNHT
Bất cứ một chính sách nào khi ban hành đều phải tính toán đến nhu cầu nguồn
lực tài chính của đối tượng mà chính sách muốn tác động tới và khả năng nguồn
lực tài chính cần có để thi hành chính sách đó trong thực tiễn. Khi hoạch định và
thực thi chính sách mà không tính đến nhu cầu và khả năng nguồn lực tài chính coi
49
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
như chính sách đó không có tính khả thi. Việc hoạch định và thực thi chính sách tài
chính công đối với phát triển CNHT cũng vậy. Nhân tố quan trọng phải tính đến
khi hoạch định và thực thi chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT phải
tính toán, cân nhắc đến nhu cầu nguồn lực tài chính và khả năng nguồn lực tài
chính có thể đáp ứng yêu cầu của phát triển CNHT. Đối với Việt Nam, trong giai
đoạn phát triển ban đầu CNHT nhu cầu nguồn lực tài chính rất lớn, song trong bối
cảnh quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất hiệu quả còn thấp nên khả năng tài
chính trong xã hội còn hạn chế không thể đáp ứng một lúc nhu cầu tài chính đối
với CNHT. Thực tế này đặt ra cho việc xác định những ưu tiên của chính sách tài
chính công đối với phát triển CNHT phải có sự chọn lọc, không thể thực hiện
những ưu tiên mang tính đại trà, thiếu trọng tâm, trọng điểm.
b. Yếu tố toàn cầu hóa, hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực
Toàn cầu hóa, hội nhập, mở của nền kinh tế, đồng nghĩa với việc chấp nhận
những quy định chung có tính thông lệ của quốc tế về mặt chính sách. Chính vì
vậy, khi hoạch định và thực thi hệ thống chính sách tài chính công đối với phát
triển CNHT của nước nhà phải tính những cam kết của nhà nước thể hiện trong các
hiệp định thương mại, hiệp định về thuế mà nhà nước đã ký với các nước. Chẳng
hạn chúng ta không thể sử dụng khía cạnh ưu đãi của chính sách tài chính công đối
với phát triển CNHT vượt quá những quy định liên quan đến ưu đãi chính sách đối
với các nước mà Việt Nam đã ký kết trong các hiệp định thương mại, bởi lẽ nếu ưu
đãi vượt trội những ưu đãi chung của các nước dẫn đến sự bất bình đẳng diễn ra
trong cùng một sân chơi được quy định bởi những luật lệ chung. Do đó, trong quá
trình hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát triển CNHT nội địa
phải tính toán cân nhắc đến những cam kết mà các quốc gia đã ký kết trong các
Hiệp định thương mại, hiệp định thuế quan…
50
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
1.2.4.2. Nhân tố chủ quan
a. quan điểm định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nhà Lãnh đạo
Chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT là cụ thể hóa quan điểm,
định hướng phát triển CNHT của Nhà nước về mặt tài chính. Do đó, những quy
định về chính sách tài chính công phát triển CNHT không thể thoát ly những quan
điểm định hướng của Nhà nước đối với phát triển CNHT. Quan điểm định hướng
chung phát triển CNHT của nhiều quốc gia là ưu tiên phát triển CNHT nội địa bảo
đảm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp, khuyến kích
gia tăng số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT, đổi mới khoa học, kỹ
thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp sản
xuất sản phẩm CNHT…Những quan điểm định hướng như vậy, đã được cụ thể hóa
trong các chính sách thuế, chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Từ thực tế này
cho thấy chính sách tài chính công là sự cụ thể hóa quan điểm định hướng của Nhà
nước đối với CNHT. Nếu quan điểm định hướng phát triển CNHT của Nhà nước
không phù hợp, không gắn với tính đặc thù của CNHT, tất yếu việc hoạch định và
thực thi chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT cũng sẽ đi lệch hướng.
b. Năng lực hoạch định và tổ chức thực thi chính sách
Suy cho cùng cho dù các nhân tố khách quan và chủ quan kể trên là tạo điều
kiện cho việc hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát triển CNHT,
nhưng thiếu đội ngũ hoạch định và tổ chức thực hiện có năng lực, có trình độ
chuyên môn sâu thì cũng khó có được một hệ thống chính sách tài chính công tốt,
chuẩn mực, phát huy được hiệu quả trong thực tế. Do đó, để có được hệ thống
chính sách tài chính công tốt bảo đảm phát huy hiệu quả trong thực tiễn, đòi hỏi
phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ hoạch định, thẩm định
chính sách cũng như tổ chức triển khai thực hiện chính sách trong thực tiễn.
51
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
c. Xây dựng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT phải quán
triệt những yêu cầu cơ bản
Những tác động tích cực của chính sách tài chính công đối với phát triển
CNHT chỉ có thể phát huy khi và chỉ khi việc thiết lập và sử dụng nó đạt được các
yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, bảo đảm yêu cầu phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách trong hệ
thống chính sách tài chính quốc gia, đặc biệt phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan
trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa
có tính độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp
chính phủ điều hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng
trưởng và kiểm soát lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng,
không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách trầm trọng, thậm chí còn
làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai loại chính
sách này không chỉ có lợi cho nền kinh tế nói chung mà còn có lợi cho quá trình
phát triển CNHT.
Hai là, bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng
Bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, bình đẳng, công bằng trong thiết lập
và thực thi chính sách là động lực quan trọng khuyến khích thức các thành phần
kinh tế bỏ vốn đầu phát triển CNHT. Nói đến công khai minh bạch trong chính
sách trước hết là nói đến công khai về quan điểm thiết lập và thực thi chính sách,
sau nữa là thực hiện công khai những thông tin liên quan đến chính sách. Bình
đẳng công bằng trong chính sách nghĩa là chính sách không có phân biệt đối xử đối
52
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
với các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT, nhất là trong việc sử dụng chính
sách thuế, chính sách chi của NSNN, chính sách tín dụng.
Ba là, Trong bối cảnh hội nhập KTQT, việc thiết lập, thực thi chính sách phải
bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hội nhập, mở cửa nền kinh tế thường được thực hiện trên hai trụ cột: (i) đưa
nền kinh tế và thị trường hội nhập vào nền kinh tế và thị trường của thế giới; (ii)
giảm bớt tính đặc thù về thể chế tạo ra tính tương đồng về chính sách với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Có như vậy, mới có thể đưa nền kinh tế hoạt động
trong một sân chơi chung của khu vực và thế giới. Chính sách tài chính quốc gia
đối với phát triển CNHT, trong bối cảnh hội nhập, mở của khi thiết lập và thực thi
không thể thoát ly được những quy định chung mang tính thông lệ quốc tế, mà phải
nghiên cứu vận dụng các quy định chung mang tính thông lệ quốc tế. Có như vậy,
mới tận dụng được lợi thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý phục vụ tốt cho
phát triển CNHT.
1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
Đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở khu vực Châu Á nói
riêng thành công trong việc phát triển CNHT. Một số quốc gia Châu Á như Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc…đã rất thành công
trong việc phát triển CNHT. Tuy nhiên, có một số quốc gia khác như Hàn Quốc,
Đài Loan … trước đây đã rất thành công với chính sách nội địa hóa nhưng trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay thì việc áp dụng những quy tắc về nội địa hóa nói riêng
và các biện pháp phi thuế quan nói chung đã không còn thích hợp nữa. Như vậy,
Chính sách phát triển CNHT của các nước tùy theo hoàn cảnh cụ thể có thành công
và có thất bại. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển CNHT kể cả thành
53
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
công cũng như thất bại đều cho chúng ta những bài học cần thiết. Nhìn chung, qua
nghiên cứu thực tế phát triển CNHT của các nước cho thấy người ta rất chú trọng
đến việc áp dụng các chính sách tài chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển CNHT và tập trung vào hai loại chính sách chủ yếu: (i) chính sách tài
khóa; (ii) Chính sách tiền tệ. Cụ thể:
1.3.1.1. Miễn, giảm, thuế, thúc đẩy đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ
Ấn Độ, bắt đầu quan tâm CNHT trong những năm 1985. Khi công nghiệp
phần mềm bắt đầu phát triển Chính phủ đã nhận thấy đây là cơ hội phát triển kinh
tế đất nước và đã áp dụng nhiều giải pháp phát triển nền công nghiệp này, đặc biệt
là bãi bỏ các giấy phép liên quan đến công nghiệp phần mềm, cho phép nhập khẩu
miễn thuế các sản phẩm phục vụ phát triển công nghệ phần mềm, doanh nghiệp
mới thành lập được miễn các loại thuế 5 năm hoạt động đầu tiên. Đối với sản phẩm
phần mềm xuất khẩu được khấu trừ 50% trên thu nhập xuất khẩu.
Ở Trung Quốc, theo chính sách mới đối với công nghệ phần mềm hoạt động
trên 15 năm được miễn thuế TNDN trong 5 năm (kể từ khi có thu nhập), giảm 50%
thuế trong 5 năm tiếp theo. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và phân tích phần
mềm, thuế GTGT sản phẩm phần mềm được giảm 6% so với thuế suất các ngành
sản xuất khác. Ở khu công nghệ phần mềm miễn thuế GTGT khi bán các phần
mềm máy tính tự sản xuất, miễn thuế thu nhập công ty về hoạt động chuyển giao
công nghệ, phát triển công nghệ và tư vấn các dịch vụ liên quan. Chính phủ đề ra
các chính sách thuận lợi cho các doanh nghiệp bán phần mềm, tăng lương thực tế
cho các công nhân hoạt động trong các doanh nghiệp sản xuất phần mềm bằng
cách khấu trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế. Đối với phần mềm xuất
khẩu thì được miễn thuế. Khi nhập công nghệ, thiết bị tiên tiến mà trong nước
không thể sản xuất thì được hưởng chính sách ưu đãi thuế.
54
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Ở Nga, Luật thuế mới được phê chuẩn tháng 8/2001 và có hiệu lực thi hành
1/1/năm 2002 áp dụng chế độ miễn trừ thuế dựa theo thực tế đối với các nhà đầu tư
đổi mới. Việc chuyển giao tài sản vô hình như phần mềm cho các tổ chức khác
được coi là bán sản phẩm và do vậy không chịu thuế nếu sự chuyển giao này mang
tính chất đầu tư. Đối với doanh nghiệp đạt 90% lợi nhuận từ việc bán sản phẩm
phần mềm và sử dụng ít nhất 50 công nhân sẽ được áp dụng mức đóng bảo hiểm
cho người lao động là 14% thay cho mức trước đây là 34%.
Ở Thái Lan, Ủy ban đầu tư (BOI) là cơ quan chịu trách nhiệm phê duyệt và
cấp ưu đãi đầu tư đã đưa ra hai loại ưu đãi: ưu đãi thuế và ưu đãi phi thuế dựa trên
hệ thống phân vùng. Việc ưu đãi thuế bao gồm: miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu
máy móc nguyên liệu thô cũng như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể miễn
thuế thu nhập trong 8 năm đầu và giảm thuế thu nhập 50% cho 5 năm tiếp theo;
miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc; miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu
sản xuất sản phẩm CNHT để xuất khẩu trong 5 năm đầu; miễn thuế nhập khẩu
75% đối với nguyên liệu sản xuất sản phẩm CNHT tiêu thụ trong nước trong 5 năm
đầu. Ưu đãi phí, thuế bao gồm: cho phép thuê công nhân nước ngoài, sở hữu đất,
mang hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
Kinh nghiệm phát triển CNHT của Thái Lan cho thấy, nước này đã lập mô
hình Ban phát triển CNHT (BSID) thuộc Bộ Công nghiệp Thái Lan (MOI) nhằm
xây dựng các dự án hữu ích, tập trung vào 3 khía cạnh là con người, công nghệ và
liên kết, cũng như thúc đẩy, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, đào tạo và
tư vấn kỹ thuật. BSID định hướng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà khởi nghiệp
CNHT, các cơ quan quản lý, ngân hàng và tổ chức tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp.
Đây cũng là cơ quan điều phối chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài vào CNHT của
Thái Lan từ Trung ương đến địa phương nhằm bảo đảm không xảy ra tình trạng ưu
đãi quá mức và dàn trải.
55
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Tại Nhật, việc phát triển CNHT là một trong 4 lĩnh vực được Chính phủ thực
hiện chính sách ưu tiên. Từ năm 1999, Chính phủ bắt đầu thực hiện các biện pháp
khuyến khích cải tiến thuế theo “ Chương trình giảm thuế cho các chi phí gia tăng
với nghiên cứu và thử nghiệm” Chương trình khuyến khích để các hãng tư nhân
đầu tư vào CNHT theo đó chi phí nghiên cứu hỗ trợ trong năm tài khóa áp dụng
nhiều hơn so với chi phí nghiên cứu hỗ trợ trung bình của 3 năm có chi phí cao
nhất trong 5 năm gần nhất thì được miễn thuế 15% cho chi phí của năm đó. Theo
Cục thuế Quốc gia năm 2000 toàn bộ thuế được giảm là 38 tỷ Yên, năm 2001 là 41
tỷ Yên Nhật.
1.3.1.2. Thực hiện hoàn thuế thông qua việc cho phép khấu hao nhanh
Nhằm giúp cho các doanh nghiệp tăng khả năng tài chính và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đổi nhanh TSCĐ, nhiều nước đã cho phép các doanh nghiệp thực
hiện khấu hao nhanh TSCĐ.
Ở Mỹ, theo cải cách thuế năm 1996 các hãng được phép khấu hao nhanh
TSCĐ hơn so với khấu hao trực tiếp.
Ở EU, các doanh nghiệp ở các nước thành viên đều được các Chính phủ cho
phép khấu hao nhanh khi tính thuế. Chẳng hạn ở Ba Lan trong Luật thuế doanh
nghiệp sửa đổi ngày 20/11/1999 quy định tăng tỷ lệ khấu hao nhanh TSCĐ vô hình
vào quy định trong Luật thuế TNDN.
Ở Hàn Quốc, Chính phủ sử dụng các chương trình khấu hao ưu tiên đối với
các loại đầu tư và các loại doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp sử dụng
công nghệ mới, đầu tư R&D trong có CNPM.
1.3.1.3. Nhà nước đầu tư tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt
doanh nghiệp nhỏ và vừa
56
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Nói chung ở các nước có nền CNHT phát triển người ta vẫn chú trọng đến
vấn đề tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp NVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT
từ phía Chính phủ.
Ở Canada, đã thành lập Quỹ đối tác công nghệ Canada (TPC) để phát triển cơ
sở công nghệ và năng lực công nghệ, phát triển cạnh tranh về ứng dụng công nghệ,
đặc biệt đối với doanh nghiệp NVV với ngân sách ban đầu năm 1996 là 150 triệu
USD/ năm, năm 2001 là 300 triệu USD/ năm. Ở Mexhicô từ năm 1998 hàng năm
đều có kế hoạch tài chính trình Quốc hội cấp cho CNHT, cấp 20% số chi phí cho
R&D đối với doanh nghiệp lớn và đối với doanh nghiệp NVV là 35%.
Ở Thụy Điển (NUTEK) cũng thực hiện chương trình tài trợ cho CNHT đối
với các doanh nghiệp NVV. Bắt đầu từ tháng 4 năm 2001 tăng khả năng sử dụng
chiến lược công nghệ trong các doanh nghiệp NVV với tổng số kinh phí là 3,2
triệu EUR trong 2 năm.
Ở Bỉ, Chính phủ tài trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở những hoạt động
nghiên cứu kinh tế kỹ thuật, chuyển giao công nghệ …trong đó tài trợ trên 80% chi
phí nghiên cứu khả thi để phát triển phần mềm mới.
Ở Hà Lan, năm 2001 khoản ngân sách dành cho khuyến khích hoạt động
CNHT của các doanh nghiệp lên tới con số 505 triệu EUR trong đó dành cho
doanh nghiệp NVV chiếm tới 65% số kinh phí trên. Ba Lan chú trọng hơn về yêu
cầu bình đẳng khi khu vực tư nhân tiếp cận đến nguồn tài trợ từ ngân sách nghiên
cứu khoa học, đặc biệt phần hỗ trợ lớn hơn từ ngân sách nghiên cứu khoa học cho
doanh nghiệp NVV, đơn giản hóa thủ tục xin cấp và xét tài trợ. Vì vậy số doanh
nghiệp hoạt động trong CNHT ngày một tăng năm 1996 là 296 doanh nghiệp năm
1999 là 498 doanh nghiệp.
57
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
1.3.1.4. Thực hiện tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp hỗ trợ
Biện pháp cung ứng tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp CNHT cũng được
Chính phủ các nước trên thế giới sử dụng khá phổ biến. Ở Mêhicô nhiều chương
trình do Hội đồng KH&CN Quốc gia (CONACYT) quản lý như hỗ trợ hiện đại hóa
công nghệ bao gồm cho vay với lãi suất thấp. Ở Ba Lan, Luật Ban hành ngày 3
tháng 5/1997 bảo lãnh tín dụng kho bạc Nhà nước thì các doanh nghiệp có thể
được bảo lãnh tín dụng với điều kiện số tín dụng được bảo lãnh dùng để đầu tư vào
các biện pháp công nghệ hoặc kỹ thuật mới. Người bảo lãnh sẽ được thanh toán
60% số tín dụng và 60% lãi suất của số tín dụng. Trung Quốc các tổ chức tài chính
trung gian đẩy mạnh các dịch vụ tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực CNHT, mở rộng các loại hình tín dụng, các hình thức thế chấp cho tín
dụng CNHT. Đối với các dự án của doanh nghiệp đem lại nhiều lợi ích kinh tế và
thay thế nhập khẩu thì được tăng khoản vay, Nhà nước giúp đỡ bằng cách giảm lãi
suất cho các khoản vay đó. Ở Hàn Quốc Chính phủ cho vay dài hạn với lãi suất
thấp đối với CNHT ở những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT mới …
1.3.1.5. Hình thành phát triển và tăng cường khả năng tiếp cận sử dụng nguồn
vốn đầu tư mạo hiểm đối với công nghiệp hỗ trợ
Ở Canada, Ngân hàng phát triển kinh doanh (BDC) đã thiết lập quỹ vốn mạo
hiểm trên cả nước đối với các đối tác khác nhau để tập trung vào tài trợ cho doanh
nghiệp NVV phát triển công nghệ, mới thành lập, rủi ro cao và tăng trưởng nhanh,
có khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn truyền thống. Giai đoạn 20002001, NH đã cam kết đầu tư vốn mạo hiểm lên tới 296 triệu USD so với 44 triệu
USD giai đoạn 1994-1995. Kể từ khi bắt đầu áp dụng vốn mạo hiểm, BDC đã cung
cấp khoảng 400 triệu USD vốn mạo hiểm cho hơn 300 doanh nghiệp.
58
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Ở Thụy Sĩ, để khuyến khích phát triển qũy đầu tư mạo hiểm, Chính phủ đã
thực hiện giảm thuế cho các tổ chức đầu tư vốn mạo hiểm cho các doanh nghiệp
nghiên cứu sản xuất sản phẩm CNHT.
Ở Nga, bắt đầu từ năm 2000 Chính phủ thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu
tư cho quỹ phát triển công nghệ của Nga.
Ở Trung Quốc, Hội nghị về đổi mới công nghệ quốc gia năm 1999 được coi là
bước ngoặt về chính sách tăng cường đối với công nghệ, phát triển công nghệ cao,
một trong những chính sách mà hội nghị đưa ra là ưu tiên phát triển thị trường vốn,
từng bước thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, phát triển các công ty đầu tư mạo hiểm,
thiết lập hệ thống rút khỏi vốn vốn mạo hiểm, tiêu chuẩn hóa hoạt động của thị
trường của đầu tư vốn mạo hiểm.
1.3.1.6. Hỗ trợ tài chính đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ
Ở Nga, để hỗ trợ cho việc xuất khẩu, chuyển giao công nghệ hàng năm đều
tiến hành các hội nghị, hội thảo về chủ đề xuất khẩu sản phẩm của CNHT và
chuyển giao công nghệ. Kinh phí cho các hội nghị, hội thảo do Nhà nước tài trợ.
Ở Ba Lan, các hợp đồng xuất khẩu kết quả nghiên cứu sản phẩm CNHT được
bảo lãnh bởi Kho bạc nhà nước với điều kiện tỷ lệ % tối thiểu của các thành phần
nội địa trong hàng hóa và dịch vụ là đối tượng xuất khẩu phải bằng 50% giá trị
thành phẩm chuyển giao xuất khẩu. Tại Malaysia, Chính phủ áp dụng biện pháp tài
chính để thúc đẩy xuất khẩu như tính gấp đôi các chi phí có liên quan đến việc tìm
cơ hội xuất khẩu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đồng thời thực hiện giảm
thuế xuất khẩu, thực hiện chương trình tài trợ với phát triển công nghệ cao nhằm
tạo điều kiện cạnh tranh trên trường quốc tế.
1.3.2. Bài học về sử dụng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam
59
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thứ nhất, xây dựng chính sách tài chính công theo hướng linh hoạt tạo lợi
thế so sánh cao cho CNHT
Chính phủ cần tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư cả trong
nước và nước ngoài vào phát triển CNHT. Đặc biệt, chính phủ cần hợp tác với các
nhà đầu tư, lắng nghe ý kiến của họ, thỏa thuận với họ những mục tiêu về chuyển
giao công nghệ và mua hàng trong nước, hợp tác chặt chẽ với các địa phương để
hoạch định được các chính sách công nghiệp phù hợp, tạo thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp, nhất là thiết lập các biện pháp hỗ
trợ tài chính thống nhất trong đa dạng và linh hoạt; tạo ra lợi thế so sánh cao hơn
và giảm chi phí về hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp CNHT.
Đặc biệt, cần phải quan tâm đến hỗ trợ tài chính cả về chi NSNN, thuế, tín
dụng và khấu hao…để phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các CNHT.
Các biện pháp khuyến khích cần hướng đến giảm thuế cho máy móc và nguyên
liệu thô mà Việt Nam chưa sản xuất được và phải nhập khẩu. Đồng thời, có những
ưu đãi như cấp vốn vay với lãi suất tín dụng thấp, đặc biệt là những doanh nghiệp
nhỏ và vừa; xây dựng biểu thuế ưu đãi đối như miễn, giảm thuế TNDN, thuế môn
bài…(bài học từ Malaysia); hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong việc nghiên
cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; khai thác thị trường…
Thứ hai, coi trọng việc sử dụng chính sách tài chính thúc đẩy các doanh
nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong CNHT theo xu thế và phân công lao
động quốc tế chung hiện nay của các MNC.
Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy thành công trong việc thúc đẩy liên
kết công nghiệp là nhờ sự phản ứng kịp thời của chính phủ với những thay đổi
trong môi trường kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến thất bại hoặc chỉ đạt được
thành công ở mức vừa phải trong việc thúc đẩy liên kết công nghiệp là do thiếu sự
phối hợp giữa các bộ (Thái Lan); doanh nghiệp thiếu hiểu biết về các chính sách
60
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
của Chính phủ (Thái Lan); chính sách của chính phủ không đáp ứng được nhu cầu
của doanh nghiệp (Thái Lan); có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh
nghiệp (Hàn Quốc) và thiếu sự nhiệt tình của doanh nghiệp (Hàn Quốc). Chính phủ
nên tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin để thu hẹp khoảng cách thông tin và
hiểu biết giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Một cơ
sở dữ liệu về công nghiệp hoàn chỉnh sẽ là chất xúc tác giúp các doanh nghiệp tiết
kiệm được thời gian để tìm được nhà cung cấp hay khách hàng cho mình.
Đặc biệt, hàng năm nên xuất bản Sách trắng về công nghiệp, trong đó có
CNHT. Lý do vì sao chính phủ Nhật Bản có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của
doanh nghiệp là vì họ có Sách trắng toàn diện phân tích, dự báo các điều kiện và
xu thế phát triển thương mại, công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các vấn
đề liên quan khác… Sách trắng cũng như cơ sở dữ liệu công nghiệp và hệ thống
thống kê công nghiệp là tối cần thiết cho hoạt động nghiên cứu, phân tích và hoạch
định chính sách về công nghiệp. Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu hiện nay và đuổi kịp
các nước đi trước, các chính sách công nghiệp cần phải chú trọng xây dựng đồng
thời xã hội công nghiệp và xã hội tri thức. Điều này có nghĩa là chính sách không
chỉ tập trung vào việc giảm chi phí và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng công
nghiệp mà còn phải duy trì được môi trường thuận lợi cho việc cải cách, đổi mới
trên cơ sở liên kết giữa doanh nghiệp, trường đại học và cơ quan nghiên cứu.
Thứ ba, hiÖn nay yªu cÇu hµm lîng néi ®Þa kh«ng cßn cã thÓ ®îc ¸p dông,
nhng mua hµng trong níc vÉn cã thÓ t¨ng nÕu cã c¸c biÖn ph¸p khuyÕn khÝch
nh gi¶m thuÕ cho m¸y mãc vµ nguyªn liÖu th« mµ ViÖt Nam cha s¶n xuÊt ®îc
vµ ph¶i nhËp khÈu. Đèi víi nh÷ng ngµnh c«ng nghiÖp hỗ trî ®îc ChÝnh phñ u
tiªn ph¸t triÓn th× cÇn ph¶i cã nh÷ng u ®·i hơn nh cÊp vèn vay víi l·i suÊt tÝn
dông thÊp, ®Æc biÖt lµ nh÷ng doanh nghiÖp võa vµ nhá; x©y dùng biÓu thuÕ u ®·i
®èi nh miÔn, gi¶m thuÕ thu nhËp doanh nghiÖp, thuÕ m«n bµi…(bµi häc tõ Trung
61
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Quốc); hç trî vèn cho c¸c doanh nghiÖp trong viÖc nghiªn cøu, ph¸t triÓn vµ øng
dông khoa häc c«ng nghÖ; khai th¸c thÞ trêng…
Tóm lại, kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong mỗi giai đoạn phát triển CNHT
và trong điều kiện mỗi quốc gia, tác động của các chính sách tài chính đến sự phát
triển CNHT là khác nhau. Trong điều kiện nguồn lực tài chính là có hạn, việc xác
định chính sách nào có tác động quan trọng và phù hợp cho CNHT ở trình độ phát
triển của Việt Nam, từ đó định hướng nguồn lực tài chính cho chính sách đó là đặc
biệt quan trọng.
62
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
CNHT ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền công nghiệp đất nước.
Trong bước đi ban đầu của quá trình phát triển CNHT của một quốc gia, Nhà
nước đóng vai trò “bà đỡ” nuôi dưỡng cho quá trình trưởng thành của CNHT của
nước nhà.
Để thực hiện vai trò “bà đỡ” nuôi dưỡng cho sự trưởng thành của CNHT Nhà
nước cần phối hợp thực hiện nhiều chính sách. Một trong những chính sách đó là
chính sách tài chính quốc gia nhằm một mặt tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc huy động nguồn lực tài chính phục vụ ĐTPT CNHT và tạo môi trường kinh tế
vĩ mô ổn định, thúc đẩy CNHT phát triển một cách thuận lợi, mặt khác thực hiện
việc điều tiết thu nhập và điều tiết hoạt động của CNHT đi đúng hướng. Điều quan
trọng là phải nhận rõ về mặt lý thuyết cơ chế tác động của chính sách tài chính
quốc gia phát triển CNHT với vai trò là “bà đỡ”. Đó là vấn đề được chương 1 của
luận án đi sâu nghiên cứu.
Ngoài những nghiên cứu về phạm trù CNHT, phát triển CNHT, nội hàm và vị
trí của CNHT đối với nền kinh tế, điểm nhấn quan trọng mà chương 1 của luận án
đã đề cập là: làm sáng tỏ các vấn đề có tính lý luận về tài chính, tài chính công và
chính sách tài chính công đối với vấn đề phát triển CNHT như khái niệm, đặc
điểm, cấu trúc của chính sách tài chính công. Các tiêu chí được sử dụng để đánh
giá mức độ phát triển của CNHT được luận án nghiên cứu. Đặc biệt là phân tích rõ
nội dung các bộ phận cấu thành chính sách tài chính công và cơ chế tác động của
chính sách tài chính công đối với quá trình phát triển CNHT. Những kinh nghiệm
thực tiễn của một số nước đi trước được luận án nghiên cứu và rút ra nhiều bài học
cho Việt Nam.
63
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chương 2.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng để đầu tư, phát triển
các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển
ngành công nghiệp. Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển những CNHT, kể
cả những ngành hóa dầu, chế biến nông sản xuất khẩu, kinh tế biển, công nghệ
thông tin, ôtô…do dân số đông, lực lượng lao động trẻ, người lao động chịu khó
làm việc...
Tuy vậy, CNHT mới được quan tâm phát triển ở Việt Nam trong khoảng 10
năm trở lại đây và đã thu được một số kết quả nhất định, như góp phần nâng dần tỷ
lệ nội địa hóa của một ngành công nghiệp lắp ráp, giảm bớt tỷ lệ linh kiện, phụ
tùng phải nhập khẩu từ nước ngoài. Một số tập đoàn điện tử, viễn thông nước
ngoài đã quyết định chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế
giới. Khởi đầu cho xu hướng này là các tập đoàn điện tử Nhật Bản, như Nidec,
Canon và Sanyo. Tiếp đến là các tập đoàn đến từ Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan,
trong đó đáng kể nhất là dự án của Intel, Hon Hai Foxconn, mỗi dự án có vốn 1 tỉ
đô la Mỹ, và Samsung Electronics. Sự thay đổi chiến lược đầu tư của các tập đoàn
trên gần như ngay lập tức đã có tác động tích cực đến lĩnh vực CNHT. Trong vài
năm qua, hàng loạt dự án đầu tư sản xuất linh kiện của nước ngoài đã ra đời với
mức đầu tư từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đô la Mỹ. Đáng kể nhất là các dự
án 300 triệu đô la Mỹ của Meiko (Nhật Bản), chuyên sản xuất mạch in điện tử và
các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh. Dự án của Hoya cũng đến từ Nhật Bản, đầu tư
100 triệu đô la Mỹ để sản xuất đĩa quang, linh kiện để chế tạo ổ đĩa cứng máy vi
64
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
tính và máy nghe nhạc. Bên cạnh đó, còn hàng chục dự án khác, sản xuất các loại
linh kiện như máy biến dòng, biến thế, linh kiện chống nhiễm từ, linh kiện cộng
hưởng âm thanh, thẻ cảm ứng, bộ nối cáp quang, chíp điện tử và các loại linh kiện
hàng điện tử gia dụng khác...Đáng chú ý là các cứ điểm sản xuất của những tập
đoàn điện tử không dàn trải, mà chủ yếu tập trung ở hai cụm. Khu vực phía Bắc là
các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội. Còn phía Nam hầu hết các cơ
sở đều đặt tại TPHCM, Bình Dương và Đồng Nai. Đây là điều kiện rất thuận lợi để
các địa phương nêu trên thu hút các doanh nghiệp vệ tinh, đồng thời cũng là cơ hội
cho các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh phát triển, chẳng hạn như logistics, tài
chính và ngân hàng. Ngoài ra, những trung tâm sản xuất lớn ra đời còn giúp cho
một số CNHT trong nước phát triển mạnh.
Mặc dù có những kết quả bước đầu, song nhìn chung CNHT của Việt Nam
trong thời gian qua còn có rất nhiều hạn chế, yếu kém, thể hiện qua các mặt sau:
Một là, CNHT nội địa của Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ khai và tỷ lệ
nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng phục cho ngành công nghiệp lắp
rắp, chế tác còn rất cao, chưa đạt mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng được nhu cầu của
các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô tô, xe máy; công nghiệp dệt may, dày da.
Được coi là lĩnh vực xương sống đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước, tuy nhiên việc phát triển CNHT thời gian qua tại Việt Nam vẫn chưa đáp
ứng kịp, phần lớn sản phẩm CNHT đang phải nhập khẩu. Việt Nam hiện có khoảng
30 ngành kinh tế - kỹ thuật cần đến CNHT, trong đó có nhiều ngành sản xuất hàng
xuất khẩu, nhưng hầu hết các ngành công nghiệp lớn ở Việt Nam đều phải nhập
khẩu nguyên liệu, phụ kiện ở nước ngoài để sản xuất. Chẳng hạn như ngành dệt
may hàng năm xuất khẩu mang về cho nước ta hàng tỷ đô la Mỹ, nhưng phần lớn
số ngoại tệ đó lại được sử dụng để nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện phục vụ cho
65
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
sản xuất. Đây chỉ là một trong số nhiều ngành của Việt Nam điển hình trong việc
phụ thuộc vào nguyên phụ liệu và linh kiện từ bên ngoài.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, CNHT trong ngành dệt may của Việt Nam
đã có những chuyển biến bước đầu. Tuy nhiên, nhìn chung quy mô nhỏ bé, kỹ
thuật công nghệ còn lạc hậu và cũng chỉ làm nhiệm vụ gia công cho nước ngoài,
giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, sản phẩm CNHT cung cấp cho ngành xe máy
được coi là thành công nhất với việc hình thành một hệ thống các nhà cung ứng
ngay trong nội địa nhờ đặc thù phát triển với quy định nội địa hoá của Chính phủ
và dung lượng thị trường xe máy đủ lớn. Ngành cơ khí và nhựa cung cấp linh kiện
cho xe máy đã có những bước phát triển về trình độ kỹ thuật, quản lý và tay nghề
lao động. Mặc dù vậy, nhiều linh kiện chi tiết quan trọng với giá trị cao vẫn do các
nhà cung ứng FDI thực hiện, nhìn chung CNHT ở Việt Nam còn chưa đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng của các ngành công nghiệp hạ nguồn, CNHT cho các
ngành công nghiệp quan trọng khác như điện tử, ô tô, chế tạo máy móc,… còn rất
yếu. Cơ bản nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đa phần là nhập từ nước
ngoài; Đối với lắp ráp ô tô mặc dù đã có nhiều năm phát triển, nhưng CNHT cho
ngành ngày được đánh giá là kém phát triển nhất hiện nay với tỷ lệ nội địa hóa chỉ
chiếm từ 20 - 30%. Doanh nghiệp mới cung cấp được vài sản phẩm đơn giản, giá
trị thấp như bộ dây điện, ghế ngồi, một số chi tiết kim loại, nhựa trong xe,… Cho
dù trong những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu và sản xuất thử linh
kiện điện tử, đồng thời có một số cơ sở đã mạnh dạn đầu tư lớn và đi vào hoạt
động sản xuất như nhà máy sản xuất đèn hình Orion - Hanel Hà Nội đầu tư 178
triệu USD và đã đi vào hoạt động có hiệu quả với công suất 1,6 triệu sản phẩm
năm, doanh thu hàng năm lên 100 triệu USD, song nhìn chung tỷ lệ nội địa hóa vẫn
còn thấp, chỉ đạt mức từ 20-40% (với sản phẩm ti vi màu).
66
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Theo báo cáo của Viện Chiến lược Công nghiệp, tỷ lệ linh kiện, phụ kiện sản
xuất trong nước hiện mới chỉ đạt 27,8%, trong khi đó tại Thái Lan đã đạt 60% và
Trung Quốc cũng đạt tỷ lệ nội địa hóa 50%. Nhiều lĩnh vực không đạt mục tiêu đề
ra. Cụ thể ngành công nghiệp ôtô đặt mục tiêu 2010-2020 nội địa hóa 60%, nhưng
hiện chỉ đạt 7% - 8%. Ngành dệt may có kế hoạch nâng tỉ lệ nội địa hóa lên 60%
vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. Tuy nhiên, đến năm 2013, ngành này vẫn
phải nhập khẩu 99% bông, 60% sợi, 70% vải. Ngành cơ khí dự kiến 2020 nội địa
hóa 75% nhưng công nghệ chế tạo cơ khí nội địa về tổng thể vẫn là công nghệ chế
tạo đơn giản. Ngành điện tử nội địa hóa gần 20% nhưng thực chất chưa có công
nghiệp điện tử mà chỉ mới có ngành lắp ráp điện tử.
Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, tính đến
nay, Việt Nam có khoảng 210 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp
cho 50 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe ô tô. Nhưng các linh kiện, phụ tùng đó
chủ yếu là các sản phẩm đơn giản, hàm lượng công nghệ thấp như: các chi tiết cấu
thành khung gầm xe, thùng xe, Săm lốp, bộ tản nhiệt... Mục tiêu quy hoạch đặt ra
đến năm 2010 là các chi tiết, linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số, cụm truyền
động phải sản xuất được 100.000 bộ sản phẩm/năm đã không đạt được. Mỗi năm,
ngành sản xuất ô tô trong nước phải nhập khẩu gần 2 tỉ USD linh kiện, phụ tùng.
Mặc dù đã có nhiều năm phát triển, nhưng các sản phẩm phụ trợ của ngành này
được đánh giá là kém phát triển nhất hiện nay, với tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 5-10%.
Hiện tại ở Việt Nam CNHT cho ngành sản xuất xe gắn máy là thành công nhất. Do
thị trường tiêu thụ tốt, doanh nghiệp lắp ráp như Honda khi đầu tư vào Việt Nam
đã kéo theo nhiều nhà cung ứng linh kiện hỗ trợ đầu tư theo mà chẳng cần phải đợi
một chính sách hỗ trợ nào, CNHT cho ngành xe máy thậm chí còn phát triển trước
khi các quy hoạch, quyết định, chính sách hỗ trợ của nhà nước ra đời.
67
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Ngành dệt may - da giày là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam, nhưng có tới 80 - 85% tỷ lệ nguyên phụ liệu phải nhập
khẩu, bao gồm: vải, da, chỉ khâu cao cấp, nút áo, khoá kim loại...
Hiện nay 70-80% sản phẩm phụ trợ của các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp vẫn
phải nhập khẩu.CNHT Việt Nam đang bị rỗng, vừa thiếu vừa yếu về nhiều mặt.
Kim ngạch nhập khẩu mỗi năm của nước ta ước tính khoảng 100 tỷ đô la Mỹ,
trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng 23%, tương đương trên 20 tỷ
đô la Mỹ.
Hai là, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở nước ta còn ít về số
lượng, nhỏ về quy mô và công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp.
Dù gần đây, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã có
sự gia tăng, nhưng đa số là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hơn nữa, CNHT chưa
được phân loại và thống kê theo các phân ngành kinh tế trong danh mục thống kê,
vì vậy chưa có số liệu chính thức về số lượng doanh nghiệp sản xuất CNHT. Theo
các số liệu khảo sát thực tế về hiện trạng cung ứng của các tập đoàn lắp ráp tại Việt
Nam của Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách công nghiệp (Bộ Công thương,
năm 2012), Việt Nam hiện có gần 350 doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng,
nguyên vật liệu, hiện đang cung ứng cho các tập đoàn lắp ráp trong các lĩnh vực:
xe máy, điện tử, ô tô, chế tạo máy móc; Trong đó, có 252 doanh nghiệp ở quy mô
doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm khoảng 73% và khoảng 27% doanh nghiệp có quy
mô lớn đang sản xuất linh phụ kiện phục vụ các nhà lắp ráp (hầu hết là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 56 doanh nghiệp). Ngoài ra, chưa tính đến
các doanh nghiệp CNHT hoạt động trong các lĩnh vực khác theo Quyết định số
12/QĐ-TTg như dệt may, da giày,…Tuy nhiên, do đặc thù của các CNHT, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa nội địa khó có khả năng trở thành các nhà cung cấp cho
các tập đoàn lớn. CNHT còn thiếu các cơ sở sản xuất nguyên, vật liệu hỗ trợ cơ
68
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
bản như sắt, thép, nguyên liệu nhựa, cao su kỹ thuật, hóa chất cơ bản, linh kiện
điện tử… Một số doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động đầu tư vào công nghệ để
sản xuất sản phẩm CNHT. Nhờ đó, trình độ công nghệ được cải thiện. Một số sản
phẩm CNHT có khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu. Mặc dù vậy, công
nghệ gia công còn lạc hậu, công suất thấp, giá thành cao, chất lượng không ổn định
như các khâu đúc tạo phôi, rèn ép, mài, gia công, xử lý bề mặt, sản xuất khuôn
mẫu…Khu vực đầu tư nước ngoài có công nghệ gia công tiên tiến hơn, cũng chỉ đủ
phục vụ cho nhu cầu nội bộ công ty mẹ.
Các sản phẩm CNHT bắt đầu được hình thành, mặc dù quy mô chưa đáng kể.
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đã chú ý đến việc tìm
kiếm nhà cung cấp và đặt hàng đối với sản phẩm CNHT. Tuy nhiên, sản phẩm
CNHT hiện chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa (đáp ứng khoảng 10% nhu cầu),
xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn do chưa có kênh tiếp cận thị trường hoặc chưa
đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế.
Năng lực cạnh tranh của các cơ sở sản xuất CNHT còn thấp. Cạnh tranh còn
thiếu lành mạnh, tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp kém. Thiếu sự phối kết
hợp, phân giao chuyên môn hóa giữa các cơ sở sản xuất hỗ trợ và hầu như thiếu
hẳn sự phối hợp, phân giao sản xuất, liên kết giữa nhà sản xuất chính với các nhà
thầu phụ, giữa các nhà thầu phụ với nhau, giữa các doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp nội địa. Vấn đề sản xuất các sản phẩm hỗ trợ để xuất khẩu (cho dù
xuất khẩu tại chỗ) hầu như đều do các doanh nghiệp FDI nói riêng và các tập đoàn
đa quốc gia nói chung khống chế và điều tiết. Các doanh nghiệp CNHT Việt Nam
chưa chủ động tham gia vào mạng sản xuất công nghiệp thế giới. Trên cả nước đã
có gần 500 doanh nghiệp sản xuất xe máy cả nội địa và FDI cung cấp được linh
kiện phụ tùng cho các nhà lắp ráp xe gắn máy Nhật Bản; tỷ lệ nội địa hóa hiện đã
đạt trên 95%. Trong đó, khoảng 200 doanh nghiệp trong nước tham gia được sản
69
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
xuất cho nước ngoài nhưng mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xe máy và điện tử,
trong khi nhiều ngành khác như dệt may, da giày, cơ khí, ôtô... lại bỏ ngỏ. Toyota
Việt Nam đang có 13 nhà sản xuất, cung ứng linh kiện cho lắp ráp xe trong nước,
nhưng đến nay chỉ có vẻn vẹn 2 doanh nghiệp nội địa sản xuất bộ phụ tùng sửa xe
đi kèm theo.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cả nước hiện có khoảng 3.100 doanh
nghiệp cơ khí trên tổng số 53 nghìn cơ sở sản xuất cơ khí, trong đó có gần 450
doanh nghiệp quốc doanh, 1.250 cơ sở sản xuất tập thể và 156 xí nghiệp tư doanh.
Khoảng 50% cơ sở sản xuất cơ khí chuyên chế tạo, lắp ráp, còn lại hầu hết là các
cơ sở sửa chữa. Công nghệ chế tạo cơ khí nội địa về tổng thể vẫn là công nghệ chế
tạo đơn giản, lạc hậu, trình độ tụt hậu khoảng hai đến ba thế hệ so với khu vực.
Đồng Nai là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng doanh nghiệp CNHT
với 588 doanh nghiệp, nhưng theo Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai, các sản phẩm
của các doanh nghiệp này cung cấp được chủ yếu là sản phẩm thô cho dệt may,
bao bì giấy, gỗ, văn phòng phẩm, nguyên liệu thô… Còn các linh kiện, phụ tùng,
vật liệu cao cấp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Qua khảo sát của các chuyên gia ở Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và
Công nghệ thì trình độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp sản xuất các sản
phẩm hỗ trợ ở nước ta mới chỉ đạt ở mức trung bình so với khu vực và nhiều quốc
gia trên thế giới. Chỉ có sản phẩm của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tham gia vào lĩnh vực này là có trình độ tiến tiến.
Ba là, các sản phẩm hỗ trợ của nước ta còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu
dáng, mẫu mã đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu.
Thực tế hiện nay, phần lớn các sản phẩm của CNHT ở nước ta vẫn do các
doanh nghiệp nhà nước sản xuất và cung cấp, chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh
70
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
hạn chế nên chủ yếu chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước. Vẫn còn tình trạng
thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc sản xuất các sản
phẩm hỗ trợ. Chính điều này đã dẫn đến không ít trường hợp doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài phải nhập khẩu những linh kiện, chi tiết sản phẩm mà doanh
nghiệp trong nước sản xuất được với giá rẻ hơn giá nhập khẩu. Trong khi đó, các
sản phẩm hỗ trợ của Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia... nhất là của Trung
Quốc tuy chất lượng cũng không phải là cao hơn sản phẩm cùng loại của Việt
Nam, nhưng hàng của họ giá rất rẻ, nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng; thêm vào
đó, các quốc gia này còn có rất nhiều chính sách ưu ái với những khách hàng mới,
khách hàng lớn, nhất là chính sách ưu đãi về giá, cho thanh toán chậm và có phong
cách phục vụ tận tình nên được nhiều doanh nghiệp trong nước thuộc các lĩnh vực
dệt may, dày da, lắp ráp xe máy, sản xuất sản phẩm điện tử đặt hàng.
Hiện nay công nghiệp sản xuất các loại linh kiện, phụ tùng của Việt Nam còn
kém phát triển, sản phẩm linh kiện trong nước chỉ đáp ứng được từ 23 đến 37%
nhu cầu của các nhà lắp ráp. Hiện CNHT của Việt Nam nói chung mới chỉ đáp ứng
được khoảng 10% nhu cầu trong nước, (trong khi các nước trong khu vực đạt từ
40% đến 60%) dẫn đến nhập siêu quá lớn, tác động tiêu cực lên tỉ giá. CNHT kém
phát triển đã biến nền công nghiệp trong nước thành nền công nghiệp lắp ráp phụ
thuộc với lợi nhuận rất thấp và không bền vững. CNHT của nước ta hiện đang ở
giai đoạn chủ yếu là phục vụ cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Tỉ lệ doanh
nghiêp CNHT trên doanh nghiệp công nghiệp chính là 2,07 lần, trong khi Thái Lan
là 50 lần. Trong đó, thấp nhất là ngành cơ khí (1,7 lần) và cao nhất là ngành ô tô (5
lần). CNHT nước ta dù đã hình thành khá lâu nhưng chưa tạo ra được bước đột phá
nào đáng kể. Các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu phần lớn còn phụ thuộc vào
nguyên vật liệu, linh kiện nhập khẩu. Theo ước tính của Bộ Công Thương, hiện
71
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
CNHT phụ thuộc vào 80% nguyên liệu nhập khẩu.Theo ông Hirotaka Yasuzumi
Giám đốc điều hành Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TP.HCM,
hiện tỉ lệ cung ứng nội địa của các doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt Nam đã
tăng lên 32,2% (năm 2012 là 27,9%). Trong đó tỉ lệ cung ứng từ các doanh nghiệp
nội địa tại phía Nam mới đạt 14,8%, phía Bắc đạt 11,7%. Đây là tỉ lệ thấp so với tỉ
lệ cung ứng của các doanh nghiệp Indonesia, Thái Lan.
Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin thị trường và hỗ trợ sản xuất giữa các doanh
nghiệp khác chủ sở hữu với nhau rất hạn chế. Các nhà đầu tư FDI trên thực tế ít
quan tâm đến phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa. Ngược lại, các doanh
nghiệp nội địa vì nhiều lý do khác nhau, trong điều kiện sản xuất kinh doanh của
mình, khó tiếp cận với các doanh nghiệp FDI. Vai trò dẫn dắt của các Hiệp hội
nghề nghiệp trong vấn đề này chưa thực sự nổi rõ.
Bốn là, nhân lực phục vụ CNHT chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng.
Các CNHT Việt Nam gặp nhiều bất lợi do thiếu đội ngũ nhân lực có trình độ,
đặc biệt là các kỹ sư và kỹ thuật viên có tay nghề cao đã qua đào tạo. Các công ty
nước ngoài thường không thể thu hút đủ nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nhu
cầu của họ tại Việt Nam. Việc thiếu hụt này làm nảy sinh những vấn đề khác như
năng suất thấp, khả năng sản xuất thấp, không có khả năng tiếp nhận các công
nghệ hoặc thiết bị mới. Đây là một đặc điểm rất dễ thấy ở hầu hết các công ty gặp
phải vấn đề về năng lực quản lý. Họ không có đủ năng lực trong quản trị tài chính,
marketing và phân tích chi phí - lợi nhuận. Khả năng tiến hành các nghiên cứu thị
trường và xây dựng chiến lược kinh doanh cũng bị giới hạn. Hơn thế nữa, hiện tại,
họ vẫn còn phải đối phó với việc thiếu hụt các nhân viên có trình độ, đặc biệt là các
kỹ sư và kỹ thuật viên.
Hiện nay, nguồn nhân lực giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh trong việc thu
hút FDI của Việt Nam, khi mà các thỏa thuận về miễn giảm thuế nhập khẩu chính
72
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
thức được thực hiện. Vấn đề cần phải quan tâm là làm thế nào để sản xuất được các
mặt hàng vừa có chất lượng tốt, vừa có giá thành rẻ. Bởi sản phẩm rẻ nhưng chất
lượng kém hay sản phẩm tốt nhưng giá thành cao về lâu dài đều rất khó có thể
cạnh tranh được trước các sản phẩm nhập khẩu. Vì thế, điều cốt yếu hiện nay là
cần phải đào tạo được nguồn nhân lực có khả năng quản lý, khả năng ứng dụng và
có tính sáng tạo để sản xuất ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, CNHT sẽ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng nội
địa và xuất khẩu, 25% giá trị sản xuất công nghiệp. Tỉ trọng giá trị sản xuất của
CNHT chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến, chế tạo...xây
dựng và phát triển CNHT bảo đảm thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...Bức tranh toàn cảnh này
càng được thể hiện rõ nét khi đi sâu nghiên cứu hiện trạng CNHT phục vụ một số
ngành công công nghiệp chính.
Thực trạng CNHT nội địa kể trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:
Một là, sự yếu kém của bản thân các doanh nghiệp
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên trước hết xuất phát từ sự kém năng động
và nhạy bén của các nhà cung cấp Việt Nam trong việc tiếp cận khách hàng, chưa
tự tin và chưa có khái niệm “xây dựng quan hệ” trong kinh doanh. Nhiều trường
hợp khách hàng lại là người tìm đến doanh nghiệp để đề nghị cung cấp sản phẩm.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho CNHT.
Hai là, do thiếu vốn và công nghệ của các Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gặp khó khăn về vốn và kỹ thuật
cũng như đầu ra trong điều kiện quy mô thị trường quá nhỏ.Thực tế là, luôn tồn tại
một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như
73
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
thời hạn giao hàng của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của
các doanh nghiệp Việt Nam. Không phải các doanh nghiệp Việt Nam không hiểu
được thực trạng trên mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ đặc điểm của CNHT,
yêu cầu vốn đầu tư lớn, sản lượng phải nhiều để có thể giảm giá thành và đảm bảo
chất lượng. Đây có lẽ là khó khăn lớn nhất của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa
hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Khó khăn này càng tăng lên khi không có những
hỗ trợ cần thiết về kỹ thuật, công nghệ cho các công ty linh kiện phụ tùng Việt
Nam từ phía các cơ quan chức năng. Bản thân hệ thống các trung tâm kiểm soát và
kiểm định chất lượng linh kiện phụ tùng cũng gần như không có ở nhiều địa
phương hoặc nếu có thì cũng hoạt động cực kỳ kém hiệu quả.
Ba là, các khó khăn về quy mô cầu
Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp đặc biệt là các nhà sản xuất ô tô còn
khá nhỏ. Hơn nữa, mức độ tăng trưởng của thị trường nội địa thấp. Với quy mô thị
trường quá nhỏ, nhiều doanh nghiệp lớn trong nước đã tỏ ra e ngại khi được đề
nghị trở thành vệ tinh của các tập đoàn lớn. Nguyên do là họ phải bỏ vốn lớn ra
đầu tư nâng cấp thiết bị dây chuyền cho phù hợp với yêu cầu chất lượng, trong khi
chưa thấy hiệu quả trước mắt. Thêm vào đó, với quy mô thị trường trong nước nhỏ
bé, các nhà đầu tư nước ngoài cũng ít quan tâm đầu tư vào CNHT.
Bốn là, thiếu thông tin
Một nguyên nhân nữa bắt nguồn từ tình trạng thiếu các kênh thông tin giữa
các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp và các công ty nội địa có khả năng và các tập
đoàn lớn bên ngoài đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản. Bên cạnh đó là việc
thiếu cơ sở dữ liệu phù hợp và đầy đủ về các công ty nội địa, các công ty FDI, các
nhà lắp ráp và thiếu thông tin về các liên kết khác nhau giữa các nhà lắp ráp và các
công ty cung cấp linh kiện trong nước. Chính vì vậy các nhà sản xuất phải rất khó
74
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
khăn trong việc tìm kiếm đơn vị cung cấp linh kiện và dịch vụ hỗ trợ cho mình
cũng như doanh nghiệp phải vất vả trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm.
Năm là, hệ thống chính sách phát triển CNHT của Chính phủ chưa thực rõ
ràng cụ thể gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, trong đó có chính
sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT
2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ
2.2.1. Văn bản pháp luật thực thi chính sách tài chính công thúc đẩy phát
triển công nghiệp hỗ trợ
Năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã ban hành Quyết
định số 34/2007/QĐ-BCN nhằm phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm
2010, tầm nhìn đến năm 2020. Tuy nhiên, trên cơ sở rà soát các mục tiêu đã đề ra
và thực tiễn triển khai quy hoạch đó, Bộ Công Thương cùng với các ngành có liên
quan đã tiến hành xây dựng, hoàn thiện và ban hành Quy hoạch phát triển CNHT
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 thay thế Quy hoạch năm 2007 đã bị lạc
hậu, đặt mục tiêu các sản phẩm CNHT cơ bản đáp ứng 45% nhu cầu trong nước và
nâng lên 60% vào năm 2025. Để đảm bảo việc thực hiện được quy hoạch này, Nhà
nước đã tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện quy
hoạch phát triển CNHT; từng bước đầu tư có trọng điểm về mặt tài chính, công
nghệ, nhân lực để tạo điều kiện từng bước hiện đại hóa các ngành như cơ khí chế
tạo, điện tử, nhựa, cao su....Theo định kỳ, bộ phận này sẽ họp với đại diện các
ngành để nắm chắc được tình hình thực hiện, qua đó, góp phần giải quyết những
vướng mắc cho các doanh nghiệp trong quá thực hiện; đồng thời, tham mưu, đề
xuất các kiến nghị, giải pháp cho lãnh đạo Bộ và Chính phủ để việc tổ chức thực
hiện theo đúng lộ trình mà các quy hoạch, kế hoạch phát triển CNHT đã đề ra.
75
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các doanh nghiệp sản
xuất các sản phẩm hỗ trợ kể cả những doanh nghiệp được thành lập mới hay những
doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất) được thuê lâu dài và ổn định theo luật
định. Các doanh nghiệp này được thuê đất với mức giá ưu đãi để các chủ doanh
nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.
Thực tế cho đến nay, Việt Nam chưa có hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật riêng đề cập đến chính sách tài chính công dành cho phát triển CNHT. Các nội
dung về chính sách tài chính công phát triển CNHT thường được lồng ghép trong
các văn pháp luật chung về phát triển CNHT. Đó là các văn bản như:
a. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách phát triển một số CNHT.
Theo đó, các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được ưu tiên hỗ trợ và dành quỹ
đất thích hợp cho dự án về diện tích, vị trí, tiền thuê đất. Các dự án sản xuất sản
phẩm CNHT sử dụng đất trong khu cụm công nghiệp được sử dụng các công trình
kết cấu hạ tầng, các dịch vụ công cộng và các dịch vụ khác trong khu, cụm công
nghiệp; được hỗ trợ và tạo điều kiện trong việc tuyển dụng, đào tạo lao động; được
hưởng các chính sách hỗ trợ khác theo quy định tại Quyết định số 105/2009/QĐTTg ngày 19 tháng 8 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy
chế quản lý cụm công nghiệp. Chủ đầu tư dự án sản xuất sản phẩm CNHT là doanh
nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách khuyến khích về mặt bằng sản xuất
theo quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của
Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các dự án sản xuất sản
phẩm CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao được áp dụng chính sách
khuyến khích về đất đai theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Dự án sản
xuất sản phẩm CNHT được xem xét cho vay một phần tín dụng ĐTPT của Nhà
nước theo quy định hiện hành. Chủ đầu tư dự án sản xuất CNHT là doanh nghiệp
76
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nhỏ và vừa được hưởng chính sách trợ giúp tài chính theo quy định tại Nghị định
56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ. Dự án sản xuất sản phẩm CNHT
nhằm phát triển công nghệ cao được hướng chính sách thuế theo quy định của
pháp luật công nghệ cao. Như vậy, trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ- Quyết định được coi là tuyên bố chính thức của Chính phủ về
phát triển CNHT, vấn đề chính sách tài chính công phát triển CNHT cũng chưa đề
cập đậm nét, thiếu tính cụ thể. Vì vậy khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn nhiều
vướng mắc
b. Quyết định 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Ban
hành Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển.
Quyết định nêu rõ các danh mục sản phẩm CNHT được chính phủ ưu tiên
phát triển. Cụ thể: “Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh mục sản
phẩm CNHT ưu tiên phát triển được xem xét áp dụng cơ chế ưu đãi thích hợp. Chủ
đầu tư xây dựng dự án theo quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các cơ chế
ưu đãi thích hợp, trình Hội đồng thẩm định dự án phát triển CNHT xem xét, báo
cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định”
c. Quyết định số 9028/QĐ-BCT ngày 08/10/2014 của Bộ Công thương Phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Vấn đề áp dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT cũng chưa được
đề cập một cách cụ thể mà chỉ nêu việc áp dụng các khuyến khích về tài chính theo
tinh thần của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg. Quyết định 1483/QĐ/TTg, Quyết định
1556/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ
d. Thông tư số 96/2011/TT- BTC ngày 7 tháng 7 năm 2011 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện một số chính sách tài chính cho phát triển một số CNHT.
77
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Nội dung Thông tư đưa những quy định ưu đãi về thuế, tín dụng đầu tư và trợ
cấp tài chính của Nhà nước theo tinh thần của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ.
e. Quyết định số 10/2009/QĐ–TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm
cơ khí trọng điểm đến năm 2015;
Để phát triển cơ khí trọng điểm thì thực hiện các chính sách ưu tiên như: ưu tiên
tín dụng đầu tư; kích cầu; đầu tư nghiên cứu và phát triển; thuế phí;
f. Thông tư 214/2010/TT-BTC ngày 28/12/2010 của Bộ Tài Chính về Hướng dẫn
chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản
phẩm cơ khí trọng điểm;
g. Thông tư 157/2011/TT-BTC ngày 14/11/2011 ban hành biểu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế.
h. Nghị định 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu;
i. Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát
hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; quản lý thuế đối với hàng hóa XK,NK.
k. Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ban hành ngày 12-2- 2015 nhưng được áp
dụng từ ngày 1-1- 2015, cùng thời điểm Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các
luật về thuế số 71/2014/QH13 có hiệu lực, được kỳ vọng sẽ tạo ra những tác động
tích cực để hỗ trợ đối tượng nộp thuế, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam hoạt
động trong ngành công nghiệp hỗ trợ.
Theo đó, doanh nghiệp có dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc danh mục sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển sẽ được hưởng thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp (“TNDN”) ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, tính liên tục từ năm
đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ dự án đầu tư mới đó. Tuy nhiên, để được
78
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
hưởng ưu đãi thuế TNDN trên đây, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm của ngành
công nghiệp hỗ trợ phải đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, sản phẩm phải là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao theo
quy định của Luật Công nghệ cao;
Thứ hai, là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất sản phẩm các ngành: dệt may; da - giày; điện tử - tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà các sản
phẩm này tính đến ngày 1-1-2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất
được nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên hiệp châu Âu (EU)
hoặc tương đương.
Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế quy
định tại khoản này được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Đây được xem là một chính sách mới thể hiện sự quan tâm của Nhà nước nhằm tạo
điều kiện cho sự đầu tư và phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu,
phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp
sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh (ví dụ như ngành công nghiệp xe hơi)
với mục tiêu là doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất được các nguyên vật liệu
dùng cho ngành công nghiệp chính thay vì phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Với điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế TNDN như trong Nghị định 12 (doanh
nghiệp phải sản xuất các nguyên vật liệu, phụ tùng linh kiện để sản xuất thành
phẩm mà tính đến đầu năm nay, trong nước chưa sản xuất được), có lẽ ít doanh
nghiệp trong nước có thể đáp ứng được.
Hiện tại thì mới chỉ có danh mục các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát
triển được ban hành kèm theo Quyết định 1483 mà chưa có danh mục sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế do Chính phủ ban hành theo
quy định tại Nghị định 12.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng chính sách tài chính công trong lĩnh vực công nghiệp
hỗ trợ ở một số ngành cụ thể
2.2.2.1. Ngành Dệt May
79
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Đối với ngành Dệt May, Chính phủ đã ban hành Quyết định 36/2008/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến
2015, định hướng đến năm 2020;Theo đó, khuyến khích ngành Dệt May huy động
vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác
kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp,
doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài và thông qua thị trường chứng
khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều
kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ.
Ngoài các chính sách ưu đãi chính chung theo Luật hiện hành, Nhà nước hỗ
trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện nghiên cứu, các Trường
đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện
các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May theo
nguyên tắc phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Nhà nước
cho doanh nghiệp Dệt May được vay vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA và vốn của
quỹ môi trường để thực hiện các dự án xử lý môi trường.
Về vấn đề nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng trong
tương lai nếu ngành dệt may tận dụng được những ưu đãi về thuế và kim ngạch
xuất khẩu từ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP) thì có nhiều cơ hội
tăng trưởng và phát triển bền vững. Theo đó, nếu đàm phán thành công TPP sẽ có
hiệu lực vào năm 2015, khi đó, xuất khẩu dệt may sử dụng nguyên phụ liệu trong
nước sẽ được hưởng thuế suất 0% đối với thị trường các nước thành viên TPP
trong đó lớn nhất là Mỹ, thay vì thuế suất 17-35% (tùy chủng loại) như hiện nay.
Và đây là một trong những lý do các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm cơ hội liên kết
đầu tư các nhà máy dệt, nhuộm, sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam trong thời
gian tới.
80
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.2.2.2. Ngành da giày
Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước có chính sách thuế đối
với sản phẩm giày dép xuất khẩu (thuế xuất 0%) và nguyên liệu nhập cho hàng gia
công. Nguyên liệu nhập cho sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu bán thành
phẩm thì được hoàn thuế khi xuất khẩu hàng hoá. Qui định thủ tục cấp xuất xứ
hàng hóa (C/O form A) tạo điều kiện để ngành được hưởng ưu đãi thuế quan ở một
số thị trường. Việc kéo dài thời gian hoàn thuế từ 90 ngày lên 270 ngày đối với
nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đã tạo điều kiện cho doanh
nghiệp làm tốt việc thanh toán quyết toán.
Trong năm 2014, ngành da giày được hưởng lợi nhiều từ các Hiệp định ưu đãi
thuế quan từ phía các thị trường nhập khẩu chính của ngành như Mỹ, EU và các
nước ASEAN. Được đưa ra khỏi danh mục trưởng thành của EU và được hưởng
chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) trong thời gian 3 năm kể từ ngày 1-1-2014
đến ngày 31-12-2016. Theo đó, trong 3 năm tới, mức thuế áp dụng cho sản phẩm
giày dép có xuất xứ từ Việt Nam sẽ được giảm xuống còn từ 3,5-4% thay vì 7,69%
như trước đây. Với việc EU tiếp tục dành ưu đãi thuế quan theo GSP cho các sản
phẩm giày dép của Việt Nam là tin vui cho ngành xuất khẩu da giày bởi nhiều năm
qua EU là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của ngành da giày Việt Nam. Thời
gian qua, các nước EU gặp khó khăn về kinh tế, nên lượng hàng xuất khẩu sang thị
trường này cũng bị thu hẹp. Việc được hưởng ưu đãi thuế sẽ giúp cho sản phẩm da
giày của Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các sản phẩm cùng loại ở những quốc gia
khác xuất khẩu vào EU. Bên cạnh chế độ GSP, việc ký kết FTA Việt Nam-EU
trong thời gian tới cũng được kì vọng là sẽ mang lại nhiều lợi ích cho hàng hóa XK
của Việt Nam và cho ngành da giày nói riêng. Theo đó sẽ có ít nhất 90% dòng thuế
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ được miễn thuế nhập khẩu vào thị
trường này.Việc ký kết một FTA với EU sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho doanh
81
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp để tiếp cận sâu hơn vào thị trường EU.Tuy nhiên cũng buộc các doanh
nghiệp phải tiến gần hơn đến các tiêu chuẩn quốc tế và các vấn đề pháp lý. Theo
Hiệp định thương mại tự do ASEAN mà Việt Nam đã kí kết, hầu hết cam kết thuế
quan của các nước thuộc khối ASEAN năm 2014 là từ 1% -3% đến 2015 là 0% đối
với giày dép các loại. Với hiệp định này ngành da giày Việt Nam sẽ có nhiều cơ
hội trong việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là nguyên phụ liệu. Đồng thời
thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng được mở rộng qua việc tiếp cận với thị
trường ASEAN và các thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây
cũng là cơ hội để ngành da giày tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu.
2.2.2.3. Ngành Ô tô
Chính sách nội địa hóa nhằm phát triển ngành ô tô có các quy định liên quan
đến tỷ lệ nội địa hóa, cụ thể mức ưu đãi thuế nhập khẩu tài chính cho dự án được
dựa trên mức độ cam kết nâng tỷ lệ nội địa của công ty sau một thời gian hoạt
động, và dựa trên dạng thức lắp ráp. Trong giấy phép đầu tư, các công ty lắp ráp ô
tô nhận được một số ưu đãi về đầu tư, như miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị,
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, không tính
thuế giá trị gia tăng đối với ô tô lắp ráp trong nước. Đổi lại các công ty cam kết
nâng dần tỷ lệ nội địa hóa trong khoảng một thời gian nhất định. Thông thường các
công ty cam kết đạt mức 30% nội địa hóa sau 10 năm hoạt động. Trong biểu thuế
ưu đãi đối với ngành ô tô ban đầu, chia xe lắp ráp trong nước thành các loại CKD,
CKD1, CKD2, IKD, theo tỷ lệ nội địa tăng dần và được hưởng các ưu đãi về thuế
nhập khẩu theo sự khác nhau về tỷ lệ nội địa. Thuế nhập khẩu thấp nhất là đối với
loại IKD, chỉ từ 3-5%, CKD2 trung bình khoảng 15%, CKD1 từ 25% đến 30%,
cao nhất là nguyên chiếc 50% đến 60%, thấp hơn dạng SKD từ 40%-50%. Các
công ty sản xuất ô tô ban đầu sản xuất xe dạng SKD, sau đó khi hoàn thành nhà
xưởng họ chuyển dần sang sản xuất dạng CKD2. Rất ít doanh nghiệp sử dụng hình
82
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
thức IKD để sử dụng linh kiện trong nước do sự khan hiếm cũng như tính hiệu quả
về chi phí khi mua linh kiện trong nước so với mức thuế ưu đãi nhận được của
dạng CKD và IKD. Thời kỳ này việc phát triển CNHT vẫn chủ yếu sử dụng linh
hoạt chính sách thuế ưu đãi giữa dạng CKD và IKD công nghiệp ô tô Việt Nam
giai đoạn này vẫn chỉ là lắp ráp đơn thuần.
Theo nghiên cứu, hiện nay thuế nhập khẩu phụ tùng ô tô còn bất hợp lý và
thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc đang phải đối diện với việc công bố lộ trình điều
chỉnh giảm trong các cam kết quốc tế từ năm 2015. Cùng với đó, thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với xe sản xuất trong nước và xe nhập khẩu chưa hợp lý. Do tính theo giá
bán, nên thuế tiêu thụ đặc biệt cho xe sản xuất trong nước đang bị tính cao hơn
15% do phải chịu giá tính thuế bao gồm chi phí vận chuyển, kho bãi, chi phí bán
hàng và lợi nhuận. Nếu ngành công nghiệp ô tô trong nước đáp ứng được 70% nhu
cầu thị trường, đặc biệt là với các loại xe đến 9 chỗ, thì năm 2025 có thể giảm được
3-7 tỉ đô la Mỹ kim ngạch nhập khẩu. Đến năm 2030 giảm khoảng 5-12 tỉ đô la
Mỹ. Ngành ô tô có thể đóng góp trên 15 tỉ đô la Mỹ, tương đương 5% GDP. Tiềm
năng thị trường Việt Nam đối với ngành công nghiệp ô tô là rất lớn tuy nhiên thách
thức lại không nhỏ. Đến năm 2018, thuế suất trong Hiệp định thương mại hàng hóa
trong ASEAN đối với mặt hàng ô tô sẽ về 0%.
Ngoài ra, còn có một số chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào công
nghiệp hỗ trợ ô tô. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn còn chung chung chưa tạo ra
động lực khuyến khích đầu tư vào ngành này.
2.2.2.4. Ngành Cơ khí - chế tạo
Quyết định 186/2002/QĐ -TTg ngày 26 tháng 12 năm 2002 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010,
tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó có nhấn mạnh các giải pháp phát triển ngành Cơ
khí - chế tạo:
83
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chính sách thị trường: Nhà nước ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật cho sản
phẩm cơ khí trọng điểm làm căn cứ để kiểm tra chất lượng sản phẩm sản xuất
trong nước và nhập khẩu. Thực hiện bảo hộ có điều kiện và có thời hạn đối với một
số sản phẩm cơ khí trong nước và ban hành các chính sách nhằm khuyến khích,
tăng khả năng tiêu thụ các sản phẩm cơ khí trong nước.
Chính sách tạo vốn: Nhà nước có cơ chế hỗ trợ về vay vốn lưu động cho các
nhà sản xuất thiết bị cơ khí, các công trình chế tạo thiết bị toàn bộ cần vốn lớn, chu
kỳ sản xuất dài.
Các dự án sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn theo Nghị
quyết số 11/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 của Chính phủ với mức lãi suất tín
dụng 3%/năm, thời hạn vay 12 năm, 02 năm đầu không phải trả lãi và bắt đầu trả
nợ vào năm thứ năm hoặc được bù chênh lệch lãi suất nếu các doanh nghiệp vay
vốn thương mại.
Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp cơ khí, kể cả bán cổ phần cho người
nước ngoài, để tạo vốn đầu tư mới và đa dạng hóa nguồn vốn.
Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất
phụ tùng, linh kiện theo hướng nâng cao khả năng chuyên môn hóa, hợp tác hóa
trong toàn ngành cơ khí.
Chính sách thuế: Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện, bộ
phận của sản phẩm cơ khí trọng điểm để phục vụ sản xuất trong nước.
Miễn hoặc giảm thuế có thời hạn cho các sản phẩm cơ khí mới lần đầu sản
xuất ở Việt Nam.
Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển: Đối với các sản phẩm cơ khí
trọng điểm, Nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ vốn cho các dịch vụ kỹ thuật, như thuê
84
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
chuyên gia, mua thiết kế, mua công nghệ, chuyển giao công nghệ vượt quá khả
năng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất cơ khí được trích tối đa đến 2% doanh số bán ra
cho nghiên cứu và phát triển.
Chính sách đào tạo nguồn nhân lực: Nhà nước ưu tiên đầu tư nâng cấp các
cơ sở đào tạo ngành cơ khí và hỗ trợ kinh phí cử cán bộ, công nhân giỏi đi đào tạo
và thực tập tại nước ngoài theo các chương trình, dự án được phê duyệt. Ngoài ra,
ngành cũng được các chính sách ưu đãi chính chung theo Luật hiện hành.
2.2.2.5. Ngành Công nghệ cao
Quyết định 53/2008/QĐ-BCT ngày 30/12/2008 của Bộ Công Thương phê
duyệt phát triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao đến 2020, trong đó quy
định các chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển ngành công nghệ cao như
chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc, trang thiết bị phục vụ đầu tư áp
dụng công nghệ cao trong các dây chuyền sản xuất hiện có của doanh nghiệp; Hỗ
trợ lãi suất hoặc bảo lãnh vay vốn đầu tư vào các dự án áp dụng công nghệ cao; các
doanh nghiệp đầu tư áp dụng công nghệ cao được phép khấu hao máy móc và thiết
bị nhanh hơn như một khoản chiết khấu khi xác định thuế lợi tức. Ngoài ra, còn có
một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu đổi mới công nghệ,
áp dụng công nghệ cao; chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công nghệ cao tại Việt Nam.
Qua nghiên cứu việc vận dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT
phục vụ một số ngành công nghiệp chính kể trên cho thấy, bước đầu Nhà nước đã
có sự quan tâm sử dụng chính sách tài chính công ( chính sách tài khóa, chính sách
tín dụng nhà nước, chính sách các quỹ TCNN ) thúc đẩy phát triển CNHT.
85
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
2.3.1. Tình hình thực hiện chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
Việc xây dựng các chính sách ưu đãi tài chính công để phát triển các ngành
công nghiệp hạ nguồn là cần thiết, tạo môi trường tích cực cho phát triển CNHT.
Chính sách tài chính công áp dụng cho mỗi ngành công nghiệp hạ nguồn cũng sẽ
có những nét đặc thù, phụ thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi ngành để đạt được
mục tiêu hỗ trợ hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp.
Trong đa số các trường hợp phát triển CNHT, chỉ cần dung lượng thị trường
lớn, dù không có chính sách hỗ trợ nào, CNHT vẫn sẽ phát triển một cách tự nhiên.
Dung lượng thị trường nội địa đủ lớn để đảm bảo hiệu quả sản xuất và thúc đẩy
phát triển CNHT.
Thời gian qua, một số chính sách của Chính phủ chưa nhất quán, có tác động
không tốt, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành công nghiệp hạ
nguồn, điển hình là ngành sản xuất, lắp ráp ô tô. Dung lượng thị trường trong nước
nhỏ hẹp, chính sách phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn không mạnh mẽ và
nhất quán, chiến lược phát triển trong dài hạn không rõ ràng, thiếu các chính sách
ưu đãi mạnh mẽ để phát triển CNHT đã làm doanh nghiệp nản lòng khi đầu tư vào
lĩnh vực CNHT. Chính vì vậy rất cần đánh giá chi tiết những mặt được và chưa
được về từng bộ phận của Chính sách tài chính công cho CNHT.
2.3.1.1. Đối với chính sách Thuế
Có thể nói trong hệ thống chính sách tài chính công, chính sách tài khóa có
ảnh hưởng lớn đến bước đi ban đầu của CNHT ở Việt Nam được Nhà nước quan
tâm áp dụng nhiều nhất. Cụ thể:
86
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thời gian qua, chính sách thuế là một trong những công cụ được Chính phủ
Việt Nam hết sức quan tâm chú ý sử dụng nhằm thúc khuyến khích, phát triển
CNHT theo hướng ưu đãi, miễn, giảm cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực
phát triển CNHT. Tinh thần đó, được quy định tại Thông tư 96/2011/TT-BTC của
Bộ Tài chính.
Cụ thể: Thông tư quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT với những nội dung cụ thể sau đây:
- Ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu đối với CNHT được thể hiện rõ nét trong các văn
quy phạm pháp luật như: Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập
khẩu. Theo Nghị định này, hoạt động CNHT được ưu đãi thuế xuất nhập khẩu với
các quy định cụ thể như miễn thuế nhập khẩu đối với:
Thủ tục miễn thuế nhập khẩu, không thu thuế xuất khẩu và hoàn thuế thực
hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 194/2010/TT-BTC ngày 6/12/2010, Thông tư
128/2013/TT-BTC ngày 10/09/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Thông tư số 194/2010/TT-BTC, Thông tư
số 128/2013/TT-BTC).
87
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Bảng 2.1. Kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số ngành CNHT giai đoạn 2010-2014
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm 2010
Kim
ngạch
Năm 2011
Thuế
NK
Kim
ngạch
Năm 2012
Thuế
NK
Năm 2014
Thuế
NK
Kim
ngạch
Thuế
NK
Kim
ngạch
1,050
169,298
1,693
179,380
1,794
22,348
2,235
28,441
2,844
31,657
3,166
3,582
15,184
3,796
18,996
4,749
20,906
5,227
6,367
30,430
4,564
35,319
5,298
44,170
6,626
285,610 14,280 323,521 16,176 334,019 16,701
393,058 19,653
467,348
23,367
Máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện
120,114
-
372,611
-
391,118
-
Nguyên phụ liệu dệt,
may, da, giày
52,166
7,898
79,495
9,539
99,601
11,952
547,692 28,583 671,974 35,069 845,888 36,244 1,097,217 43,776 1,234,180
52,131
STT
Ngành
1
Điện thoại các loại và linh
kiện
37,576
376
56,673
2
Máy ảnh, máy quay phim
và linh kiện
6,551
655
10,060
1,006
3
Hàng điện gia dụng và
linh kiện
12,603
3,150
14,330
4
Linh kiện, phụ tùng ô tô
40,708
6,106
42,447
5
Máy móc, thiết bị, dụng
cụ, phụ tùng khác
6
7
Tổng cộng
- 163,521
6,260
61,422
Kim
ngạch
Năm 2013
567 105,015
- 273,076
7,371
65,816
Thuế
NK
Nguồn: [59]
88sĩ, luận án tiến sĩ
Viết thuê luận văn thạc
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Bảng trên cho thấy kể từ năm 2010 đến năm 2014 thuế nhập khẩu đối với các các
linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất trong nước liên tục
giảm làm cho kim ngạch nhập khẩu các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên vật
liệu càng gia tăng.Trong giai đoạn đầu khi CNHT nội địa chưa phát triển thì việc
giảm thuế nhập khẩu để gia tăng kim ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng trên là
cần thiết nhằm một mặt đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp của các
doamh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, nếu kéo dài chính sách
giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng trên, khi mà CNHT nội địa có bước
trưởng thành nhất định sẽ là lực cản hạn chế sự phát triển của CNHT nội địa.
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: [59]
Biểu đồ 2.1: Tổng hợp kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số
sản phẩm CNHT giai đoạn 2010-2014
- Ưu đãi về thuế TNDN
Thông tư 96/2011/ TT- BTC của Bộ Tài chính quy định:
89
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Trường hợp dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao
thuộc doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao,
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm phần mềm, hoặc
doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế, xã
hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được ưu đãi về
thuế suất (áp dụng thuế suất 10%), miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định về chế độ miễn giảm của Luật thuế TNDN. Thông tư 96/2011/TT-BTC
của Bộ tài chính là Thông tư cụ thể hóa và hướng dẫn thực thi chế độ ưu đãi, miễn,
giảm thuế của luật thuế TNDN đối với CNHT.
Như vậy, việc ưu đãi về thuế suất và miễn, giảm thuế thu nhập doanh đối với
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT không phải thực hiện đại trà cho tất
cả doanh nghiệp hoạt động trong CNHT mà chỉ những doanh nghiệp mới thành lập
sản xuất những sản phẩm cho lĩnh vực công nghệ cao, doanh nghiệp có thực hiện
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, sản xuất phầm mềm, hoặc những
doanh nghiệp mới thành lập ở những địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn
hoặc đặc biệt khó khăn. Khi mà CNHT đã phát triển tương đối thì việc lựa chọn ưu
đãi về thuế TNDN như vậy là hợp lý, song trong điều kiện CNHT đang trong giai
đoạn phát triển sơ khai đòi hỏi phải có sự hỗ trợ nhiều từ phía nhà nước, việc thu
hẹp phạm vi ưu đãi về thuế TNDN đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
CNHT như vậy có phần chưa thật hợp lý. Mặc dù đối tượng được ưu đãi về thuế
TNDN có phần thu hẹp, song theo đánh giá của các chuyên giá kinh tế, các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT vẫn khó tiếp cận được những ưu đãi về
thuế TNDN, phần vì những quy định ưu đãi về thuế TNDN chưa thực rõ ràng, cụ
thể, phần vì trong thực tế những ưu đãi đó do nhiều nguyên nhân chưa được thực
hiện một cách quyết liệt. Cho đến nay, số doanh nghiệp được thừa hưởng những ưu
đãi về thuế TNDN còn ở mức khá khiêm tốn, theo Bộ Công thương chưa quá 30%
90
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
số doanh nghiệp thuộc diện được hưởng ưu đãi thừa hưởng được ưu đãi về thuế
TNDN theo quy định tại thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính.
- Ưu đãi thuế GTGT
Việc ưu đãi Thuế GTGT đối với CNHT thể hiện trong Nghị định số
123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (nay là Nghị định số
209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ, Thông tư 219/2013/TT-BTC
ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính). Theo các văn bản trên, hoạt động CNHT được
ưu đãi thuế GTGT với các nội dung chủ yếu như:
Các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT thực hiện nghĩa vụ
thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng.
Các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT được áp dụng thủ
tục gia hạn nộp thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy
móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ
và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập
khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp nếu đáp ứng được các điều
kiện quy định tại Thông tư số 92/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thủ tục gia hạn nộp thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng
đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây
chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất
được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.
- Ưu đãi tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước và thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp
Những ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước và thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp đối với CNHT được quy định trong các văn bản quy
91
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
phạm pháp luật của Nhà nước với những nội dung như: Các dự án đầu tư sản xuất
sản phẩm CNHT thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư hoặc
đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các ưu đãi như sau:
Miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Nghị định số 198/2004/NĐCP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất; Nghị định số
44/2008/NĐ-CP ngày 9/4/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về
thu tiền sử dụng đất; Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 198/2004/NĐCP và các văn bản hướng dẫn thực hiện (nay là Nghị định 45/2014/NĐCP ngày 15/5/2014 của Chính phủ).
Miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định tại Nghị định số
142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất,
thuê mặt nước; Nghị định số 121/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất,
thuê mặt nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện (nay là Nghị định số
46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ).
Miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định tại Luật Thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Mặc dù việc sử dụng công cụ thuế theo hướng ưu đãi, miễn, giảm cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã được quy định khá rõ ràng, cụ
thể trong các văn bản quy phạm pháp luật, song việc vận dụng trong thực tế ở các
địa phương vẫn còn nhiều vướng mắc. Thực ra, các ưu đãi, miễn, giảm thuế đối với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được quy định trong Quyết định
92
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ
tài chính không vượt được các quy định các văn bản pháp luật về thuế (Luật, Nghị
định,Thông tư) có trước đó. Nói cách khác, những ưu đãi miễn, giảm về thuế đối
với CNHT hai văn bản trên bị khống chế bởi các quy định trước đó. Hiện nay, một
số quy định về thuế thuộc các văn bản trước đã hết hiệu lực, chẳng hạn như đối với
thuế TNDN quy định ưu đãi miễn giảm thuế đều có thời hạn. Do đó, việc vận dụng
chính sách thuế trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC
gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, để tiếp cận được Chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế
theo Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC phải trải qua
nhiều thủ tục hành chính thuế. Đó là những bất cập trong quá trình thực hiện chính
sách thuế đối với phát triển CNHT được quy định trong hai văn bản trên.
Trên thực tế, cho đến nay, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
CNHT được hưởng chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế chưa nhiều. Có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về cơ chế, chính sách thuế của chúng ta.
Như vậy, có thể nói chính sách thuế là một trong những công cụ quan trọng
của Nhà nước trong thời gian qua đối với phát triển CNHT của nước nhà. Quan
điểm sử dụng chính sách thuế của Nhà nước đối với CNHT là ưu tiên, ưu đãi, coi
trọng chế độ miễn, giảm của hầu hết sác sắc thuế đối với hoạt động CNHT. Tuy
nhiên, để hưởng được những ưu đãi, miễn, giảm đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực CNHT phải đáp ứng được các điều kiện do các văn bản quy
phạm pháp luật về thuế đề ra. Những điều kiện được hưởng ưu đãi do các văn bản
quy phạm pháp luật về thuế quy định là sự thể hiện quan điểm, định hướng của
Nhà nước đối với lĩnh vực CNHT. Tuy nhiên, qua khảo sát ý kiến của các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT cho rằng những điều kiện đó chưa thực
thích hợp với hoạt động CNHT đang giai đoạn phát triển sơ khai.
93
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.3.1.2. Chính sách hỗ trợ trực tiếp từ nguồn NSNN
Điều 6 khoản c trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chỉ rõ: Chủ
đầu tư các dự án sản xuất sản phẩm CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa được
hưởng các chính sách trợ giúp tài chính theo quy định tại Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì việc trợ giúp tài chính từ NSNN thông
qua việc thành lập Quỹ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguồn hình thành quỹ này được
NSNN tài trợ một phần. Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập
theo Quyết định 601/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng chính phủ, Vốn điều
lệ của Quỹ do NSNN cấp 2000 tỷ với thời hạn 3 năm, 2 năm đầu mỗi năm cấp 500
tỷ đồng năm thứ 3 cấp 1000 tỷ đồng.
Như vậy, qua tình hình thành lập và hỗ trợ của NSNN cho Quỹ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy, quyết định hỗ trợ nguồn NSNN cho phát triển
CNHT được Chính phủ đề ra từ năm 2011 (Quyết định 12/2011/QĐ-TTg) nhưng
đến năm 2013 mới thực hiện. Hơn nữa, NSNN hỗ trợ 2000 tỷ cho quỹ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT
mà còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nữa. Điều này cho thấy, mức
độ hỗ trợ từ nguồn NSNN cho phát triển CNHT mang tính tượng trưng, có tính
chất là vốn “mồi” nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT
CNHT. Vẫn biết, trong bối cảnh NSNN còn eo hẹp, phải chi dùng cho nhiều mục
tiêu khác song thiết nghĩ với vai trò vị trí, tầm quan trọng của CNHT đối với phát
triển nền công nghiệp chính nước nhà trong bối cảnh đẩy mạnh CNH&HĐH, hội
nhập kinh tế quốc tế, và CNHT đang trong thời kỳ thai nghén, sự đầu tư trực tiếp
của NSNN như vậy là chưa tương xứng.
94
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.3.1.3. Chính sách tín dụng nhà nước đối với CNHT
Việc áp dụng chính sách tín dụng nhà nước thúc đẩy phát triển CNHT, đặc
biệt là chính sách tín dụng đầu tư của Chính phủ, tín dụng xuất khẩu trong những
năm qua cũng được Nhà nước quan tâm áp dụng.
Nghị định 75/2011/NĐ-CP ngày 30/08/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước nhằm: cho vay đầu tư; hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư và cho vay xuất khẩu. Cụ thể:
Một là, đối với cho vay đầu tư
- Đối tượng cho vay đầu tư
Chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc Danh mục các dự án vay vốn tín dụng
đầu tư như: Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; Nông nghiệp nông thôn; Dự
án thuộc danh mục các CNHT theo Quyết định của Thủ tướng chính
phủ...).
Danh mục các dự án, chương trình được chi tiết theo từng đối tượng, thời
hạn áp dụng ưu đãi và do Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan liên quan trình Chính phủ quyết định.
- Điều kiện cho vay đầu tư
Thuộc đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định này;
Đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật;
Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, đảm bảo
trả được nợ, được ngân hàng phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài
chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay.
Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20%;
95
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chủ đầu tư thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định tại Nghị định này và
quy định của pháp luật;
Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động hợp pháp tại Việt Nam;
Chủ đầu tư phải thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy
định của pháp luật, báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi
cơ quan kiểm toán độc lập.
Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định giữa hai Chính
phủ và dự án đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng chính
phủ thì thực hiện theo quy định tại Điều 11 Nghị định này.
- Mức vốn cho vay đầu tư
Mức vốn cho vay đối với từng dự án do Ngân hàng phát triển quyết định,
tối đa bằng 70% tổng số vốn đầu tư của dự án. Số vốn còn lại, chủ đầu tư
phải xác định được nguồn và các điều kiện tài chính cụ thể, bảo đảm tính
khả thi của dự án. Đồng thời mức vốn cho vay đối với mỗi dự án không
vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng phát triển báo cáo Bộ Tài chính trình
Thủ tướng xem xét, quyết định.
- Thời hạn cho vay đầu tư
Thời hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc
điểm sản xuất, kinh doanh của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư
nhưng tối đa không quá 12 năm.
Ngân hàng phát triển Việt Nam quyết định thời hạn cho vay đối với từng
dự án theo quy định tại khoản 1 Điều này.
96
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
- Lãi suất cho vay đầu tư
Lãi suất cho vay đầu tư không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn
cộng với chi phí hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Ngân hàng phát triển Việt Nam tính toán mức lãi suất bình quân các
nguồn vốn và chi phí hoạt động báo cáo Chủ tịch hội đồng quản lý trình
Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay tín dụng đầu tư. Trường hợp lãi
suất huy động bình quân có biến động lớn, Chủ tịch hội đồng quản lý báo
cáo Bộ tài chính điều chỉnh cho phù hợp.
Lãi suất cho vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng.
Mức lãi suất cho vay được điều chỉnh theo từng lần giải ngân theo lãi suất
cho vay được công bố.
Lãi suất nợ quá hạn đối với mỗi khoản giải ngân bằng 150% lãi suất cho
vay trong hạn đối với từng khoản giải ngân.
Hai là, đối với hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
- Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Các chủ đầu tư có dự án thuộc Danh mục đối tượng vay vốn đầu tư theo
quy định của Nghị định này, trừ các dự án cho vay theo Hiệp định của
Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng
chính phủ.
Các dự án được xác định được hỗ trợ sau đầu tư tại thời điểm có Quyết
định phê duyệt dự án đầu tư lần đầu của cơ quan có thẩm quyền.
- Điều kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Dự án thuộc đối tượng hỗ trợ sau đầu tư quy định tại Điều 12 Nghị định
này.
97
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Được Ngân hàng phát triển Việt Nam thẩm định và ký kết hợp đồng hỗ
trợ sau đầu tư.
Dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, có quyết định phê duyệt
quyết toán đầu tư của cơ quan có thẩm quyền và đã hoàn trả được vốn
vay.
- Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Bộ Tài chính quyết định mức hỗ trợ sau đầu tư trên cơ sở chênh lệch lãi
suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất vay vốn tín dụng
đầu tư của Nhà nước và đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý ngân hàng
phát triển Việt Nam.
Ngân hàng phát triển Việt Nam xem xét quyết định cấp hỗ trợ sau đầu tư
theo kết quả trả nợ của chủ đầu tư.
Ba là, đối với Tín dụng xuất khẩu
- Đối tượng cho vay
Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu và nhà nhập khẩu nước ngoài có hợp
đồng nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu
được ban hành kèm theo Nghị định này.
- Điều kiện cho vay
Thuộc đối tượng cho vay vốn theo quy định tại Điều 16 Nghị định này.
Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu, nhà nhập khẩu có hợp đồng nhập
khẩu đã ký kết.
Có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả được Ngân hàng phát triển
thẩm định và chấp thuận cho vay.
98
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu nước ngoài có năng lực pháp luật, năng lực
hành vi dân sự đầy đủ.
Ngoài các điều kiện quy định trên, nhà xuất khẩu phải thực hiện theo quy
định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Nghị định này, nhà nhập khẩu
nước ngoài phải được Chính phủ hoặc ngân hàng của nước bên nhập khẩu
bảo lãnh vay vốn.
Nhà xuất khẩu phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán đầy đủ, báo cáo tài
chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập.
- Thời hạn cho vay
Được xác định phù hợp với khả năng thu hồi vốn của từng hợp đồng xuất khẩu
nhưng không quá 12 tháng; đối với tàu biển xuất khẩu tối đa không quá 24 tháng.
- Mức cho vay
Mức cho vay đối với một dự án không vượt quá 85% giá trị hợp đồng xuất
khẩu và không vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng phát triển.
Nhằm hỗ trợ một phần nguồn lực tài chính cho phát triển CNHT, Quyết định
12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC đều có quy định cho phép các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được vay, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh
tín dụng đầu tư để giải quyết khó khăn về tài chính.
Tuy nhiên, việc quy định sử dụng tín dụng đầu tư của Nhà nước trong hai văn
bản kể trên còn chung chung không mang tính đặc thù của CNHT; trong khi đó,
những quy định về vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh đầu tư ở Nghị
định 106/2004/NĐ-CP với những điều kiện quá ngặt nghèo đối với các doanh
nghiệp, nếu áp dụng Nghị định vào lĩnh vực CNHT thì khó triển khai.
99
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thực tế, kể từ khi Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TTBTC được triển khai vào thực tiễn, thì rất ít các doanh nghiệp được tiếp cận những
ưu đãi đối với tín dụng đầu tư của Nhà nước. Cụ thể kể từ năm 2011 đến nay số
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được tiếp cận nguồn vốn tín dụng
đầu tư của Nhà nước chưa nhiều.
Tuy nhiên, theo nhận định của tác giả, mặc dù có các cơ chế ưu đãi về vay
vốn cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, nhưng thực tế doanh nghiệp phải
vay VDB đến 10% và các ngân hàng thương mại là 12%, trong khi các doanh
nghiệp này chỉ vay 3% mới có thể thu hồi vốn.
2.3.1.4. Chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN phát triển công nghiệp hỗ trợ
Thực ra cho đến nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định việc
sử dụng các Quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN để hỗ trợ phát triển CNHT.Tuy
nhiên, với vai trò, vị trí của Quỹ TCNN ngoài NSNN nếu quản lý tốt sẽ tạo môi
trường, điều kiện gián tiếp thúc đẩy phát triển CNHT, bởi lẽ việc sử dụng các quỹ
này có ảnh hưởng đến việc quản lý vĩ mô của Nhà nước. Theo nhiều chuyên gia
kinh tế cho rằng, thời gian qua việc quản lý các Quỹ TCNN ngoài NSNN chưa
được quan tâm đúng mức, vai trò giám sát của Quốc hội không được coi trọng đối
hoạt động thu chi các Quỹ.
2.3.2. Đánh giá chung
Một là, nhìn chung chính sách tài chính công thể hiện trong các văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước về phát triển CNHT đã thể hiện rõ quan điểm, định
hướng phát triển CNHT của Đảng và Nhà nước nhất là chính sách thuế.
Hai là, trong điều kiện nguồn lực tài chính của Nhà nước, của xã hội có hạn
nên mặc dù chính sách tài chính công thể hiện rõ quan điểm định hướng ưu tiên
phát triển CNHT, song để thực hiện được ưu tiên, ưu đãi trong hệ thống chính sách
100
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
tài chính công phải thỏa mãn những điều kiện nhất định do hệ thống tài chính công
quy định. Đứng trên quan điểm vĩ mô, những điều kiện được ưu tiên, ưu đãi theo
quy định của các chính sách tài chính công là hợp lý thể hiện được vai trò hướng
dẫn, điều tiết của chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT.
Ba là, việc ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách tài chính công
thời gian vừa qua bước đầu đã ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy động và sử
dụng nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, thúc đẩy
phát triển CNHT, tạo ra sự chuyển biến nhất định đối với CNHT của nước nhà.
Qua nghiên cứu thực tiễn, những ưu đãi của chính sách tài chính công được khái
quát thông qua các hình thức ưu đãi tài chính chủ yếu bao gồm các lĩnh vực sau:
Các ưu đãi thuế
Chính phủ quy định áp dụng cho các CNHT (như: miễn, giãn, giảm, khấu trừ)
đối với một hoặc nhiều sắc thuế, tùy thuộc các mục tiêu của chính sách ưu đãi tài
chính. Một số sắc thuế cơ bản có thể áp dụng ưu đãi như sau:
Miễn giảm, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp CNHT
ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành. Khấu trừ thuế cho các khoản chi
tại nước ngoài.
Miễn, giảm thuế nhập khẩu, xuất khẩu đối với hàng hóa; thuế nhập khẩu đối
với các trang thiết bị công nghệ hoặc nguyên liệu thô, phụ tùng và các yếu tố đầu
vào cho quy trình sản xuất cho các doanh nghiệp CNHT ở mức ưu đãi cao nhất
trong quy định hiện hành.
Gia hạn nộp thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, nguyên nhiên
liệu đầu vào…theo quy định và theo từng điều kiện cụ thể.
Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho lao động trong nước đối với các ngành
nghề cụ thể ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành..
101
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Các ưu đãi liên quan đến chi phí sản xuất
Các ưu đãi liên quan đến chi phí sản xuất cơ sở hạ tầng cho sản xuất là các
biện pháp của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi đầu tư
sản xuất kinh doanh vào địa điểm đó. Bao gồm một số lĩnh vực:
- Mức giá ưu đãi dành riêng cho kết cấu hạ tầng cơ sở của CNHT như điện,
nước, viễn thông, giao thông vận tải.
- Giảm tiền thuê và sử dụng đất; tiền thuê mặt nước, mặt bằng sản xuất; hỗ trợ
chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng; giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp…. ở
mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành.
Các ưu đãi liên quan đến vốn tài chính (áp dụng cho các doanh nghiệp CNHT
trong nước). Về cơ bản, các ưu đãi liên quan đến vốn tài chính được hiểu là hoạt
động của Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể duy trì số vốn cần
thiết để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, bằng một số biện pháp:
- Hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi: cung cấp các khoản vay với các ưu đãi
kèm theo, như lãi suất thấp, hình thức trả lãi linh hoạt …; hỗ trợ tín dụng xuất
khẩu; cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Chính phủ bảo lãnh cho Doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, đối với một số
loại rủi ro nhất định như biến động tỷ giá, đồng tiền mất giá hoặc các rủi ro phi
thương mại như bất ổn chính trị (thường được thông báo từ một cơ quan quốc tế).
Các hình thức ưu đãi tài chính kể trên, bao gồm ưu đãi về vốn, về các sắc
thuế hay cơ sở hạ tầng đều có tầm ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động và phát
triển của mỗi ngành nghề, mỗi doanh nghiệp.Vì vậy, để ưu đãi tài chính đạt hiệu
quả toàn diện khi áp dụng, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn và hài hòa các hình
thức ưu đãi tài chính này.
102
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.3.3. Những hạn chế
Một là, cho đến nay Việt Nam thực sự chưa có một hệ thống chính sách tài
chính công riêng dành cho phát triển CNHT
Hầu hết nội dung quy định về chính sách tài chính công đối với phát triển
CNHT được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật chung về phát triển
CNHT. Trên thực tế, các chính sách ưu đãi này chỉ đơn thuần là sự vận dụng các
chính sách ưu đãi chung hiện hành, mà chưa có sự ưu đãi về phát triển CNHT khác
biệt so với các lĩnh vực khác, ít có gì mới so với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa . Nhà nước chưa quy định rõ danh mục sản phẩm nào được ưu tiên, mà
chủ yếu đây chỉ là cơ chế xin-cho, doanh nghiệp thiếu gì thì đề xuất và chỉ duy
nhất một doanh nghiệp (Công ty Kyocera Vietnam) được hưởng ưu đãi khi thực
hiện văn bản hiện hành : “Chủ đầu tư xây dựng dự án theo các quy định hiện hành,
trong đó đề xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi hội đồng thẩm định dự án CNHT
xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”.
Hai là,chính sách ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi tài chính công đối với CNHT,
chưa đủ để khuyến khích phát triển CNHT. Mặt khác, các chính sách còn bị ràng
buộc bởi các Luật có liên quan. Với khung chính sách thuế như hiện nay, ưu đãi
thuế TNDN được thực hiện theo địa bàn và theo lĩnh vực. Ưu đãi thuế TNDN cho
các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn chưa thể
hiện được tính ưu đãi đối với các doanh nghiệp CNHT. Trong khi đó, ưu đãi theo
lĩnh vực chỉ mới tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao. Trên thực tế, số lượng
doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách ưu đãi CNHT là không đáng kể.
Ba là, các quy định về chính sách tài chính công trong các văn bản quy phạm
pháp luật về thúc đẩy phát triển CNHT chủ yếu là vận dụng các quy định đã có về
chính sách ưu tiên, ưu đãi về tài chính chung cho các ngành chưa mang tính đặc
thù của CNHT, nhất là chưa có tầm chiến lược gắn với vấn đề hội nhập kinh tế
103
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
quốc tế. Khi Việt Nam tham gia đầy đủ các cam kết hội nhập quốc tế thì các luồng
sản phẩm của các nước tràn vào có thể phá hủy nền tảng công nghiệp Việt Nam,
các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ mất cơ sở chế tạo và chỉ giữ lại các đại lý
bán hàng… vừa tạo ra lợi thế mới cho các ngành thâm dụng nhiều lao động đang
ngày một mất đi lợi thế về chi phí nhân công rẻ. Chính sách nói chung, chính sách
tài chính công thúc đẩy phát CNHT nội địa nói riêng, hiện chưa lường trước được
những thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thể hiện rõ quan điểm, giải
pháp của chính sách trong những thách thức đó.
Bốn là, qua khảo sát ý kiến các chuyên gia, các nhà quản lý cho thấy: các
chính sách nói chung và chính sách tài chính công nói riêng hiện chưa có tác dụng
nhiều đến các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT.
Cụ thể, Mặc dù Chính phủ đã có chủ trương và có chính sách cụ thể (Quyết
định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số CNHT), trên thực tế, các
chính sách này hoàn toàn không có gì mới so với các chính sách ưu đãi hiện hành.
-Chính sách ưu đãi riêng biệt cho phát triển CNHT là điều 4 trong QĐ12:
Chủ đầu tư dự án CNHT xây dựng dự án theo các quy định hiện hành, trong đó đề
xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi Hội đồng thẩm định dự án CNHT xem xét,
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Điều này có thể thực hiện được đối với các
doanh nghiệp lớn, dự án lớn, nhưng lại là trở ngại lớn đối với doanh nghiệp có quy
mô nhỏ và vừa, là đối tượng chính sản xuất CNHT.
-Các chính sách khác liên quan đến phát triển CNHT như chính sách cho
các ngành công nghiệp hạ nguồn (ô tô, cơ khí trọng điểm, DNNVV) không có tác
động nhiều đến việc phát triển CNHT, do không khuyến khích phát triển tạo ra thị
trường tiêu thụ cho CNHT. Doanh nghiệp sản xuất CNHT được khuyến khích ưu
đãi ngang bằng với các DNNVV kinh doanh thương mại, dịch vụ sẽ không tạo
động lực và không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất vào lĩnh vực này.
104
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
2.3.4. Các nguyên nhân
Qua nghiên cứu những hạn chế của hệ thống chính sách tài chính công phát
triển CNHT thời gian qua, có thể thấy những hạn chế đó bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân:
Một là, nhận thức tầm quan trọng và ảnh hưởng của CNHT đối với quá trình
phát triển kinh tế đất nước của các cơ quan quản lý nhà nước còn chậm.
Chính phủ đã có các văn bản chỉ đạo phát triển về CNHT, tuy nhiên, một số
kế hoạch hành động và các biện pháp để thúc đẩy phát triển vẫn còn chưa đồng bộ,
chưa thống nhất và chưa cụ thể. Bên cạnh đó, nhận thức về CNHT vẫn chưa được
cụ thể hóa trong lãnh đạo, công chức hay cộng đồng doanh nghiệp. Vai trò hỗ trợ
của các tổ chức, hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước còn yếu, kể cả ở khâu hoạch
định chính sách đến thực thi các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Có thể nói so với các nước, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước của
Việt Nam chậm nhận thức ra tác động ảnh hưởng của CNHT. Mãi đến năm 2011
khi có Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, chúng ta mới có
một định nghĩa chính thức mang tính pháp lý về CNHT và cũng từ đó Nhà nước
đặt ra các chính sách ưu đãi phát triển CNHT. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg được
coi là một công bố chính thức của Nhà nước từ trước đến nay về quan điểm phát
triển CNHT của Việt Nam. Chính sự nhận thức chậm đó, cho nên văn bản pháp
luật đối với phát triển CNHT mới chỉ có tính pháp lý ở tầm thấp, thiếu tính đồng
bộ. Hơn nữa, do chậm nhận biết về CNHT, nên cũng chưa nhận thức hết tính đặc
thù của hoạt động CNHT. Vì vậy, việc ban hành hệ thống chính sách chưa phản
ánh được tính đặc thù của CNHT, nhất là giai đoạn đầu phát triển của CNHT.
Hai là, chưa hoàn thiện khung pháp luật quản lý nhà nước về CNHT
105
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Hiện nay, trong hệ thống luật pháp, vẫn chưa có các văn bản pháp quy ở dạng
các luật để có chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển CNHT. Trong khi
CNHT của các nước đều phát triển dựa trên khung pháp lý (các luật).
Trong chính sách phát triển CNHT và chính sách thu hút đầu tư còn một số
bất cập. Nhiều năm qua, chúng ta tập trung thu hút đa số các tập đoàn lớn nhưng
chủ yếu là doanh nghiệp lắp ráp, tạo ra giá trị gia tăng thấp trong sản phẩm, không
có tác động lan tỏa cho doanh nghiệp nội địa.
Ngoài ra, nguồn vốn tập trung để đầu tư cho CNHT còn hạn chế, nói chung
mọi chính sách được ban hành đều phải cân nhắc tính toán đến nguồn lực tài chính
để thực hiện chính sách. Việc ban hành hệ thống chính sách tài chính công thúc
đẩy phát triển CNHT cũng vậy, trước hết phải cân nhắc tính toán đến nguồn lực tài
chính của Nhà nước thực hiện chính sách. Nguồn lực tài chính của Nhà nước trước
hết trông cậy và nguồn từ NSNN, nguồn huy động vào các quỹ của Nhà nước.
Trong bối cảnh quy mô NSNN còn nhỏ, lại phải gánh vác nhiều nhiệm vụ kinh tế,
xã hội của đất nước, việc huy động các nguồn lực tài chính của xã hội các quỹ còn
gặp nhiều khó khăn do nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội còn eo hẹp. Trong bối
cảnh đó, Nhà nước không thể tài trợ nguồn lực tài chính của mình cho toàn bộ nhu
cầu phát triển của CNHT, mặc dù vẫn biết CNHT có vị trí đặc biệt đối với quá
trình CNH&HĐH đất nước. Chính vì vậy, chính sách tài chính công đối với phát
triển CNHT không hoàn toàn thỏa mãn những nhu cầu về mặt tài chính đối với
phát triển CNHT.
Ba là, chính sách tài chính công chưa đồng bộ và còn mâu thuẫn, chồng chéo
với nhau gây ra kém hiệu lực trong thực thi
Qua khảo sát nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT thấy rằng
việc tiếp cận những ưu đãi trong hệ thống chính sách tài chính công gặp nhiều khó
khăn. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, có lý do từ hệ thống chính sách CNHT
106
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
chưa đủ rộng và đủ sâu; thực tế cũng cho thấy, chính sách khuyến khích phát triển
CNHT không nên tập trung chỉ vào đòn bẩy tài chính, mà cần có nhiều biện pháp
hỗ trợ phi tài chính, như chuyển giao công nghệ, phí môi trường và những biện
pháp khuyến khích đào tạo và học tập cho CNHT, như chính sách khen thưởng,
chứng chỉ cho các cá nhân có quá trình học tập tốt, có tay nghề cao, giúp công
nhân, kỹ sư được nâng lương hoặc nâng cao vị trí trong công ty.
Mặt khác, chính sách còn chưa đồng bộ về cơ cấu, còn thiếu các văn bản quy
định về phẩm cấp kỹ thuật, đăng ký ngành nghề, cũng như các hỗ trợ tài chính và
chính sách khuyến khích thành lập các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
CNHT; xây dựng các quỹ đặc thù riêng đảm bảo cho việc phát triển CNHT đã
được chỉ định; hình thành tổ chức đầu mối để thực hiện sự quản lý Nhà nước dẫn
dắt và liên kết các doanh nghiệp CNHT, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung
ứng, xây dựng ban hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về CNHT, khuyến khích và hỗ trợ
chuyển giao công nghệ và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế. Sự liên kết giữa các
doanh nghiệp cơ khí trong nước trong công tác nội địa hóa còn chưa cao, dẫn đến
sự thiếu thông tin kịp thời và cụ thể cho việc cung cấp sản phẩm. Với một ngành
đòi hỏi vốn lớn như cơ khí, nếu không liên kết, doanh nghiệp không thể sản xuất
được các sản phẩm chất lượng và có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài. Bên cạnh đó, để mở rộng dung lượng thị trường, tạo thêm cơ hội kinh
doanh, việc tham gia chuỗi cung ứng quốc tế là yêu cầu bắt buộc. Thực tế, mặc dù
một số sản phẩm tuy đã được khẳng định chất lượng lâu dài trong nước, nhưng vẫn
không thể cung cấp được do không có đủ hồ sơ, chứng chỉ chất lượng và các yêu
cầu liên quan phù hợp. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan kiểm
định, đăng kiểm quốc tế. Vướng mắc này không quá phức tạp, nhưng lại khá khó
khăn cho việc khắc phục bởi hầu hết các nhà sản xuất trong nước đều đang làm
107
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
theo thói quen lâu nay là ít quan tâm đến việc chuẩn hóa thực hiện theo các tiêu
chuẩn quản lý quốc tế.
Đặc biệt, chính sách hỗ trợ CNHT còn nhiều mâu thuẫn với các chính sách khác,
khiến các ưu đãi bị vô hiệu hoặc thậm chí phản tác dụng. Đơn cử như với chương
trình cơ khí trọng điểm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 734/CT/TTg
nhằm thúc đẩy nội địa hóa sản phẩm trong nước, ưu tiên các sản phẩm nội địa cho
các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước hoặc các dự án công công. Tuy nhiên,
Chỉ thị này không có những điều khoản cưỡng chế hoặc ràng buộc triệt để mà mới
chỉ dừng lại ở mức “khuyến khích sử dụng” hoặc “ưu tiên sử dụng” nên các nhà
đầu tư cũng không mặn mà sử dụng các sản phẩm cơ khí trong nước.
Đối với vấn đề thuế, phí, các thiết bị cơ khí trọng điểm dù nhận được ưu đãi
khi hưởng mức thuế bằng 0, nhưng các linh kiện để sản xuất, lắp ráp nên thiết bị đó
vẫn phải chịu mức thuế khá cao. Vì vậy, nếu doanh nghiệp muốn nhập khẩu một
con tàu thì thuế nhập khẩu là 0%, tuy nhiên, nếu nhập linh kiện để lắp ráp con tàu
đó thì thuế cho mỗi loại linh kiện có thể lên đến 15%, 30%, thậm chí 40%. Điều
này hạn chế nhiều đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp cơ khí trong nước.
Bốn là, chưa phân công cụ thể trách nhiệm chỉ đạo điều hành, lộ trình thực
hiện của các Bộ, ngành, địa phương để phát triển CNHT.
Về năng lực công nghệ kỹ thuật, ngoại trừ một số ít doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp FDI được trang bị công nghệ, máy móc hiện đại và hoàn chỉnh, đa số
doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ, máy móc cũ, lạc hậu, chưa đáp ứng được
các yêu cầu của thị trường.
Liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT còn kém, khiến cho lĩnh vực sản xuất
linh kiện, thiết bị khó phát triển. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu tự sản xuất các sản
phẩm hỗ trợ, ít đặt mua các loại linh kiện của các doanh nghiệp khác trong nước.
108
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có chất lượng còn thiếu, không đáp
ứng được yêu cầu của CNHT. Một số CNHT năng lực công nghệ còn quá yếu
(như, một số ngành mới hình thành khiến thị trường sản xuất sản phẩm CNHT
chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Do dung lượng thị trường nhỏ và hệ thống doanh nghiệp ngoài nhà nước còn
non yếu, CNHT ở Việt Nam phát triển chậm, năng lực hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu của các ngành công nghiệp. Chính sách khuyến khích ưu đãi cho phát triển
CNHT chưa hiệu quả, nên các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này.
Chưa có tổ chức đứng ra làm đầu mối để xúc tiến sản xuất CNHT, tổ chức sản
xuất linh kiện phụ tùng.Chưa có tổ chức nào là đầu mối thiết lập hệ thống cơ sở dữ
liệu cho CNHT.
Công tác tuyên truyền, tư vấn chính sách hệ thống chính sách tài chính công
thúc đẩy phát triển CNHT đối với các doanh nghiệp nói chung doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực CNHT nói riêng chưa được quan tâm đúng mức.
109
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua nghiên cứu thực trạng phát triển CNHT nội địa của Việt Nam thời gian
qua cho thấy: nhìn chung CNHT nội địa của Việt Nam đang trong quá trình phát
triển còn rất sơ khai. Số doanh nghiệp tham gia vào hoạt động trong CNHT còn ở
mức khiêm tốn; sản phẩm tạo ra trong các CNHT vừa nghèo nàn về chủng loại,vừa
chất lượng thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp
chế tác, lắp rắp tạo ra sản phẩm cuối cùng. Hầu hết các doanh nghiệp FDI đang
hoạt động tại Việt Nam đều phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu từ
bên ngoài. Với hiện trạng CNHT nội địa như vậy tất yếu sự phát triển các ngành
công nghiệp chính gặp nhiều khó khăn, sự thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam sẽ gặp nhiều trở ngại, sự chuyển dịch của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sang các nước khác có CNHT phát triển là khó tránh khỏi.
Xuất phát từ thực tiễn đó, thời gian qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra hàng
loạt chủ trương chính sách thúc đẩy phát triển nền CNHT của nước nhà. Trong số
đó có hệ thống các chính sách tài chính công. Tuy không có những văn bản quy
phạm pháp luật riêng về tài chính công dành cho phát triển CNHT, song những quy
định về chính sách tài chính công trong các các văn bản phát triển CNHT chung
cũng đã có những tác động nhất định đối với vấn đề phát triển CNHT thời gian qua
của Việt Nam. Tuy vậy, qua nghiên cứu, cho thấy các quy định về chính sách tài
chính công phát triển CNHT trong các văn bản chung của nhà nước vẫn còn nhiều
hạn chế, chưa có tác dụng nhiều đối với phát triển CNHT trong thời gian qua ở
Việt Nam. Để khắc phục những những hạn chế của chính sách tài chính công thời
gian qua đối với phát triển CNHT, cần thiết phải có những nghiên cứu hoàn thiện,
đổi mới hệ thống chính sách tài chinh công sao cho phù hợp, đảm bảo phát huy
được hiệu quả, tác động tích cực đến phát triển CNHT thời gian.
110
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
CHƯƠNG 3.
GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG NHẰM PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1.1. Cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2020
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 và cuộc khủng hoảng nợ
công ở Hy Lạp lan sang một số nước ở châu Âu, các nhà đầu tư lớn đang có xu
hướng rút nguồn vốn đầu tư từ Mỹ, EU và thúc đẩy quá trình tái cơ cấu công
nghiệp sang các nước Đông Á và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và các nước
trong khu vực.
Mặt khác, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, hiện nay đang hình
thành một làn sóng mới về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp từ Nhật Bản
và Hàn Quốc kể cả đầu tư vào lĩnh vực CNHT.
Ngoài ra, theo dự báo của WB, nhìn chung dòng vốn FDI có giảm so với giai
đoạn trước, song dòng vốn FDI đổ vào khu vực các ASEAN vẫn tiếp tục tăng nhẹ.
Bối cảnh trên đang và sẽ là một trong cơ hội cho phát triển CNHT của Việt Nam.
Vấn đề là Việt Nam có nắm bắt được cơ hội hay không để phát triển CNHT của
nước nhà. Bởi lẽ khi nguồn FDI đổ vào và tạo ra nhu cầu và thị trường cho phát
triển CNHT.
Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp tương đối hiện đại. Mục tiêu này vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra cơ hội mới
cho phát triển nền CNHT của nước nhà.
Đứng trên góc độ toàn cục cho thấy hiện nay xu hướng cạnh tranh mạnh thu
hút nguồn FDI đang diễn ra giữa các nước trong khu vực. Một trong những yếu tố
111
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
để thu hút nguồn FDI vào Việt Nam là vấn đề phát triển CNHT, chứ không phải là
giá nhân công rẻ. Đây là một thách thức lớn đối với CNHT của Việt Nam đang có
nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, chất lượng, hiệu quả sản xuất sản
phẩm CNHT của Việt Nam thấp, quy mô nhỏ bé, cơ cấu sản phẩm nghèo nàn.
3.1.2. Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020
Ngày 8 tháng 10 năm 2014, Bộ Công thương đã có Quyết định số 9028/QĐBCT phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030. Mục tiêu chung của Quy hoạch nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt
Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Sản phẩm CNHT đáp ứng được 45% nhu
cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%) tiêu dùng nội địa, xuất
khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp.Thực hiện mục tiêu chung, từ nay đến năm
2020, Việt Nam tập trung phát triển CNHT thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu và theo các
định hướng sau:
-Lĩnh vực linh kiện phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử, đến
năm 2020 đáp ứng 60% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công
nghiệp của Việt Nam. Năm 2030, đáp ứng 80% nhu cầu này. Các ngành công
nghiệp cơ khí, ô tô, máy nông nghiệp, điện tử… được ưu tiên phát triển. Hỗ trợ
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng tham gia thị trường khu vực và
quốc tế.
-Lĩnh vực CNHT ngành dệt may - da giày: đạt tỷ lệ cung cấp trong nước
65% ngành dệt may, 75%-80% ngành da giày.
-Ưu tiên thu hút vào lĩnh vực nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt
may, da giày, hình thành các cụm liên kết ngành trong sản xuất CNHT ngành dệt
may, da giày tại các vùng kinh tế trọng điểm.
112
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
-Lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao, đồng thời phát triển hệ
thống doanh nghiệp cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dùng, hỗ trợ chuyển giao công
nghệ trong lĩnh vực này; hình thành các doanh nghiệp bảo trì, sửa chữa máy móc
đạt tiêu chuẩn quốc tế làm tiền đề phát triển doanh nghiệp sản xuất thiết bị, phần
mềm phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao.
-Ưu tiên thu hút đầu tư vào sản xuất vật liệu chế tạo như thép chế tạo, nhựa,
cao su, composit, gốm phục vụ công nghiệp công nghệ cao, hóa chất cơ bản, hóa
chất chuyên dụng trong công nghiệp công nghệ sinh học, vật liệu điện tử…
Một trong những yếu tố có tính quyết định để thực hiện những định hướng,
chính sách, giải pháp kể trên là vấn đề nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính
phục vụ cho việc thực hiện quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2020 phụ thuộc
vào hai yếu tố:
Một là, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền
kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế có hiệu
quả, tạo ra nhiều doanh lợi, là nền tảng, cơ sở cho việc thu hút nguồn lực tài chính
của xã hội phục vụ ĐTPT CNHT theo quy hoạch.
Hai là, chính sách của Nhà nước thu hút và sử dụng nguồn lực tài chính phục
vụ phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Trong số cơ chế, chính sách đó, chính sách tài chính công có ảnh hưởng to lớn đến
phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020. Chính vì lẽ đó, nghiên cứu hoàn
thiện, đổi hệ thống chính sách tài chính công thực hiện quy hoạch phát triển CNHT
đến năm 2020 được coi là vấn đề có tính quyết định hiện thực hóa quy hoạch.
113
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN NĂM 2020
CNHT có vị trí cực kỳ quan trọng trong tiến trình CNH & HĐH đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay, CNHT của Việt Nam còn non trẻ, mới chập chững bước
đi ban đầu lại phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt khi hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng gia tăng cả chiều rộng và chiều sâu. Đứng trước thực tế đó, việc hoàn
thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công phải dựa trên những quan điểm,
giải pháp phù hợp với yêu cầu phát triển CNHT nội địa trong bối cảnh hội nhập
với tình trạng cạnh tranh gay gắt trong vực CNHT. Cụ thể:
Thứ nhất, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công phải dựa
trên quan điểm chủ đạo là khuyến khích thúc đẩy phát triển CNHT còn non trẻ.
Quan điểm này xuất phát từ luận điểm cho rằng trong bước đi ban đầu của
CNHT, sự quan tâm hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước là yếu tố có tính quyết định.
Không có sự hỗ trợ của Nhà nước trong bước đi ban đầu thì không thể phát triển
CNHT nội địa trước sức ép cạnh tranh như hiện nay. Chính sách tài chính công đối
với phát triển CNHT là thể hiện sự can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ tài
chính của mình đối với phát triển CNHT. Có hai xu hướng thường gặp trong hoạch
định và thực thi chính sách tài chính công là xu hướng thắt chặt, gây sức ép đối với
vấn đề phát triển CNHT. Xu hướng này thường nặng về lợi ích của nhà quản lý,
song cũng có tác dụng tích cực nhất định khi mà CNHT đã có bước phát triển
mạnh. Xu hướng thứ hai khi hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát
triển là tìm cách tháo gỡ khó khăn vướng mắc, ưu tiên phát triển CNHT. Trong bối
cảnh hiện nay, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống tài chính công thúc đẩy phát triển
CNHT phải lấy quan điểm khuyến kích tạo động lực phát triển cho CNHT làm
quan điểm chủ đạo. Chính sách tài chính công vừa phải có tác dụng hỗ trợ trực tiếp
từ nguồn tài chính của Nhà nước, vừa phải lá chắn trước cơn bão cạnh tranh khốc
114
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
liệt, vừa là công cụ giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Để thực hiện được định hướng này trước hết cần
phải có sự rà soát, đánh giá lại các chính sách về NSNN, chính sách tín dụng nhà
nước, chính sách sử dung các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN, xem xét những
quy định nào trong hệ thống chính sách đó không theo quan điểm “cởi trói” cần
được loại bỏ, đồng thời bổ sung những quy định mới theo hướng tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển CNHT theo quy hoạch.
Thứ hai, việc hoàn thiện chính sách tài chính công phải dựa trên kết quả phân
tích đánh giá hiện trạng những quy định và thực thi các chính sách tài chính công
hiện hành đưa ra những quy định riêng về ưu tiên, ưu đãi mang tính chất đặc thù
riêng có của CNHT, bảo đảm cho những quy định đó sát với đòi hỏi khách quan
của quá trình phát triển CNHT, có tính khả thi trong thực tiễn. Quán triệt quan
điểm này trong hoàn thiện và đổi mới các chính sách tài tài chính công sẽ khắc
phục được những nhược điểm, ưu tiên phát triển CNHT trong chính sách tài chính
công nhưng không gắn với tính đặc thù của nó, nên có vướng mắc trong quá trình
thực thi. Để có thể quán triệt được quan điểm này, cần phải có những nghiên cứu,
bổ sung các điều khoản liên quan đến vấn đề phát phát triển CNHT trong các Luật
Thuế, Luật NSNN, các Luật về chi tiêu công…
Thứ ba, đổi mới chính sách tài khóa thúc đẩy CNHT phát triển phải gắn chặt
với vấn đề hoàn thiện, đổi mới chính sách tín dụng, tiền tệ tạo ra một hợp lực nhằm
tác động toàn diện đến các chỉ tiêu của kinh tế vĩ mô, tạo môi trường kinh tế ổn
định, bền vững cho phát triển CNHT.
Việc phát triển CNHT không thể thực hiện được nếu như môi trường kinh tế vĩ mô
không ổn định, lạm phát cao, doanh lợi trong nền kinh tế giảm sút, thu nhập của xã
hội bấp bênh. Nếu hiện trạng này xuất hiện tất yếu các doanh nghiệp hoạt động
115
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
trong lĩnh vực công nghiệp sẽ thoái lui đầu tư vì không có thị trường đầu ra, các
yếu tố đầu vào trở nên đắt đỏ, doanh lợi thu được không đáng kể hoặc không có.
Thứ tư, việc hoàn thiện, đổi mới các chính sách tài chính công phục vụ phát
triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 phải đặt trong bối cảnh hội nhập với
kinh tế thế giới.
Đối với phát triển một CNHT còn non trẻ như ở Việt Nam, hội nhập sâu rộng
với nền kinh tế khu vực và thế giới vừa mở ra nhiều cơ hội, song cũng đứng trước
nhiều thách thức. Cơ hội đố có thể là:
- Các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT nội địa có thể trở thành những
doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp FDI, tận dụng được vốn, công nghệ
kinh nghiệm hoạt động.
- Mở rộng được thị trường đầu ra cho sản phẩm của CNHT nội địa nếu chất
lượng sản phẩm đạt yêu cầu của các doanh nghiệp FDI.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, hội nhập kinh tế cũng có những thách thức
đối với phát triển CNHT nội địa.Thách thức lớn nhất là ở khía cạnh cạnh tranh.
Nói chung các doanh nghiệp nội địa do năng lực tài chính hạn chế, trình độ tay
nghề thấp, công nghệ lạc hậu, nên không có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp
FDI hoạt động trong lĩnh vực CNHT trên đất nước Việt Nam buộc phải đình đốn,
phá sản.
Từ thực tế này, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công
giai đoạn tới cần bảo đảm cho các doanh nghiệp CNHT nội địa tận dụng được cơ
hội, khắc phục được thách thức do hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới,
đồng thời việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính cũng phải phù
hợp với những quy định về chính sách tài chính công mang tính thông lệ của các
nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước.
116
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Thứ năm, cụ thể hóa và linh hoạt hóa các công cụ chính sách tài chính công,
kiểm soát các lạm dụng ưu đãi cho phát triển CNHT có trọng tâm, trọng điểm theo
mục tiêu lựa chọn phù hợp.
Thực tế khả năng nguồn lực tài chính công là hữu hạn, nhu cầu nguồn lực tài
chính công cho phát triển CNHT là vô hạn. Vì vậy, khuyến khích tài chính của
Nhà nước đối với phát triển CNHT phải có sự chọn lọc, ưu tiên những CNHT phục
vụ đắc lực cho chiến lược phát triển nền công nghiệp nước nhà, có tiềm năng mở
rộng thị trường xuất khẩu, tạo động lực thu hút nguồn FDI và phát triển CNHT.
Chính sách tài chính công phát triển CNHT cần đảm bảo tính nhất quán,
xuyên suốt, thể hiện quyết tâm và ổn định trong phát triển CNHT; đồng thời, cần
đảm bảo các giải pháp không cố định, cứng nhắc, mà linh hoạt theo từng thời kỳ,
nhưng ổn định, có kế hoạch cụ thể. Các cam kết thực thi trong giai đoạn dài liên
tục thể hiện sự nhất quán của chính phủ giữa hoạch định giải pháp và điều hành
thực hiện giải pháp. Các giải pháp sử dụng chính sách tài chính công phải hướng
vào việc tăng tích tụ tài chính ở các đơn vị cơ sở, nhất là các doanh nghiệp nội địa
vừa và nhỏ. Đương nhiên, việc sử dụng các giải pháp theo hướng này trước mắt có
thể giảm mức huy động của NSNN, song phải có quan điểm nuôi dưỡng nguồn thu
lâu dài, bởi lẽ sự gia tăng nguồn thu của NSNN chỉ có thể thực hiện được khi và
chỉ khi có sự tăng trưởng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cần sử dụng chính sách tài chính công để phát triển CNHT theo hướng cụ thể
hóa, tối đa hóa và chặt chẽ, kiểm soát các kẽ hở và tác động mặt trái, phát huy năng
lực đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và các thành phần kinh tế, đặc biệt là
các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia.
117
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
3.3.1. Một số giải pháp chung
3.3.1.1. Hướng việc hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công phục vụ tốt
nhất cho chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT
Trong xu thế hội nhập quốc tế, khái niệm nền công nghiệp quốc gia đang bị
mờ dần. Thay vào đó là nền công nghiệp mang tính khu vực và thế giới. Các Tập
đoàn đa quốc gia với nguồn lực vô cùng lớn, thương hiệu mạnh đã và đang chi
phối hoạt động công nghiệp thế giới theo khu vực. Hoạt động sản xuất công nghiệp
trong hiện tại và tương lai sẽ theo hướng toàn cầu hóa. Để tham gia vào các chuỗi
sản xuất công nghiệp toàn cầu, cần đẩy mạnh khâu hợp tác quốc tế. Khoảng cách
giữa trình độ sản xuất của các doanh nghiệp nội địa và yêu cầu về chất lượng và
công nghệ sản phẩm CNHT của các Tập đoàn lắp ráp khá lớn. Các doanh nghiệp
Việt Nam chưa thể thu hẹp và san bằng được khoảng cách này. Vì vậy, việc các
doanh nghiệp nội địa đóng vai trò nhà cung cấp lớp số 1 là hết sức khó khăn. Để
đáp ứng nhu cầu hiện tại của các Tập đoàn đa quốc gia đang sản xuất ở Việt Nam,
cần phải có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn thu hút đầu tư các nhà cung cấp lớn
số 1 vào Việt Nam để giảm bớt nhập siêu, tạo thêm việc làm cho người lao động
trong nước. Đồng thời khi các doanh nghiệp này đầu tư vào Việt Nam, các doanh
nghiệp nội địa có thể làm “thầu phụ” cho họ. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp nội
địa từng bước nâng cao trình độ, dần tiếp cận với yêu cầu của các Tập đoàn đa
quốc gia.
Để thu hút các dự án FDI vào sản xuất CNHT, cần có các ưu đãi thích hợp đủ
sức hấp dẫn, trong đó đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia có vị thế là nhà cung cấp
toàn cầu linh kiện và vật liệu. Đối với các doanh nghiệp FDI có qui mô vừa trở lên,
thường có nguồn lực tương đối mạnh, vì vậy, một trong những ưu đãi mà họ quan
118
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
tâm nhất khi đầu tư vào Việt Nam là ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp CNHT nhỏ và vừa của Nhật Bản và Hàn Quốc có trình độ
công nghệ và sản xuất rất cao cũng là đối tượng cần phải hướng tới để thu hút. Các
doanh nghiệp này có qui mô vừa và nhỏ, họ cần có sự hỗ trợ và sẵn sàng về mặt hạ
tầng như mặt bằng, hệ thống nhà xưởng, thủ tục hành chính...trong các cụm
CNHT.
3.3.1.2. Xây dựng hệ thống chính sách tài chính công, tạo nguồn lực hình thành
Quỹ đầu tư CNHT
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có qui mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Nhu
cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để sản xuất sản phẩm tương đối nhỏ
nên các ngân hàng thường không mặn mà với việc thẩm định và cho các doanh
nghiệp này vay. Đây chính là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp CNHT nội địa
phát triển sản xuất. Vì vậy để thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ phát triển, cần có
chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp này có thể vay vốn dễ dàng thông qua Quĩ
đầu tư CNHT với các hoạt động như ủy thác cho vay thông qua ngân hàng thương
mại, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay....Vốn điều lệ của Quỹ đầu tư CNHT do
NSNN cấp theo đề nghị của Bộ Công thương là khoảng 2000 tỷ đồng và được cấp
trong 3 năm, hai năm đầu mỗi năm cấp 500 tỷ đồng, năm thứ ba cấp 1000 tỷ đồng
nhằm cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung
ứng dịch vụ CNHT. Quỹ đầu tư CNHT quốc gia trực thuộc Bộ Công Thương là tổ
chức tài chính cung cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm, cung ứng dịch vụ CNHT. Quỹ đầu tư CNHT với các hoạt động như ủy thác
cho vay thông qua ngân hàng thương mại, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay...
Nguồn vốn của Quỹ ngoài vốn điều lệ do NSNN cấp, sẽ có vốn bổ sung từ kết quả
hoạt động của Quỹ; vốn từ các nguồn: Đóng góp tự nguyện và ủy thác của các tổ
119
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho lĩnh vực CNHT; các nguồn vốn huy
động khác theo quy định của pháp luật.
3.3.1.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công nhằm xây dựng các
Cụm CNHT
Việc phát triển CNHT theo cụm nhóm để đạt tới sự đồng bộ tối đa nhằm tối
ưu hóa qui trình sản xuất, cung ứng cho sản phẩm cuối cùng, tạo điều kiện cho việc
phân công lao động và chuyên môn hóa trong ngành cao hơn. Việc sản xuất theo
cụm nhóm tạo điều kiện tổ chức thông tin giữa các doanh nghiệp sản xuất CNHT,
giữa các nhà lắp ráp và doanh nghiệp CNHT. Cụm CNHT đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi trong khâu kiểm tra chất lượng của các doanh nghiệp lắp ráp đối với các
sản phẩm linh kiện và vật liệu. Việc thiết lập cụm CNHT nhằm hội tụ các cơ sở lắp
ráp và chế tạo theo ngành. Có chế độ ưu đãi thích hợp cho phép các công ty đứng
đầu mạng lưới sản xuất toàn cầu thiết lập cụm CNHT tập trung các nhà cung ứng
của riêng họ.
Các doanh nghiệp trong cụm CNHT có thể tạo nên chuỗi giá trị của một sản
phẩm hoặc một cụm chi tiết từ khâu cung cấp nguyên liệu cho đến việc lắp ráp
thành cụm chi tiết giao cho Tập đoàn lắp ráp. Một cụm công nghiệp như vậy, ngoài
các nhà sản xuất có thể bao gồm các nhà cung cấp vật liệu, các nhà thầu phụ và các
nhà cung cấp, cho thuê tài chính máy móc thiết bị...
Để tránh lãng phí tài nguyên đất đai và lạm dụng chính sách đầu tư dàn trải,
tận dụng các khu cụm công nghiệp hiện tại hoặc đất đã được qui hoạch cho phát
triển công nghiệp để qui hoạch và xây dựng đầu tư cụm CNHT. Trong giai đoạn
đầu, khuyến khích thành lập cụm CNHT tập trung thu hút ở 3 lĩnh vực chính trong
cung ứng CNHT gồm sản xuất linh kiện kim loại, sản xuất linh kiện nhựa và cao
su, sản xuất linh kiện điện-điện tử. Với những ưu thế của Cụm công nghiệp như
vậy, là chính sách điều tiết vĩ mô, hệ thống chính sách không thể không quan tâm
120
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
đến vấn đề hình thành Cụm CNHT. Sự quan tâm đó, có thể thực hiện thông qua
việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách thuế, chính sách tín dụng nhà nước
theo hướng tập trung nghiên cứu xây dựng cơ chế ưu tiên ưu đãi thích hợp.
3.3.1.4. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công dựa trên những lựa
chọn ưu tiên công nghiệp hỗ trợ
Mặc dù chính sách tài chính công có vị trí cực kỳ quan trọng đối với quá trình
phát triển CNHT, song dù sao nguồn lực tài chính công do Nhà nước sở hữu, sử
dụng để hỗ trợ cho CNHT cũng có hạn, mặt khác, qua phân tích, đánh giá thực
trạng CNHT của nước nhà cho thấy vẫn còn nhiều yếu kém, đặc biệt là công nghệ
lạc hậu, trình độ, tay nghề nguồn nhân lực thấp, dung lượng thị trường cho tiêu thụ
sản phẩm của CNHT nội địa còn hạn hẹp. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện đổi
mới hệ thống chính sách tài chính công phải có những cân nhắc, lựa chọn những
ưu tiên thích hợp. Những lựa chọn ưu tiên đó có thể là:
a. Ưu tiên hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
CNHT
Công nghệ là chìa khóa để các doanh nghiệp sản xuất linh kiện và vật liệu. Để
nâng cao trình độ công nghệ cho doanh nghiệp, cần có hợp phần hỗ trợ công nghệ
trong chương trình quốc gia, thực hiện các nội dung cụ thể sau:
- Hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp mua, chuyển giao và ứng dụng, làm
chủ công nghệ, sản xuất thử nghiệm các sản phẩm mục tiêu thuộc Danh mục ưu
tiên phát triển và đã xác định được thị trường....Hỗ trợ các doanh nghiệp thiết
kế, kiểm định chất lượng sản phẩm....
- Thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các Tập đoàn Đa quốc gia đến các
doanh nghiệp nội địa...
- Tăng cường hợp tác công nghệ với nước ngoài.
121
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
b. Ưu tiên hỗ trợ cho xúc tiến thương mại, tạo dựng thị trường, tạo liên kết
doanh nghiệp CNHT với các doanh nghiệp khách hàng trong và ngoài nước.
c. Ưu tiên hỗ trợ cho hoạt động đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
hiện có của các doanh nghiệp.
Trên cơ sở chính sách tài chính công việc ưu tiên, hỗ trợ cho hoạt động có thể
là cung cấp nguồn kinh phí cho việc mở lớp, biên soạn tài liệu, trả thù lao cho
người đào tạo...
d. Ưu tiên hỗ trợ hình thành hệ thống Trung tâm phát triển CNHT
Xây dựng hệ thống Trung tâm phát triển CNHT nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp, trong đó nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ về mặt công nghệ và quản trị doanh
nghiệp. Trung tâm này bao gồm tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, trung tâm
thiết kế mẫu, trung tâm kiểm định chất lượng, sàn giao dịch nguyên vật liệu, chi
tiết linh kiện....Trung tâm này sẽ là nơi các doanh nghiệp có liên quan có thể sử
dụng các dịch vụ và thông tin, có thể coi là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu trong sản
xuất linh kiện cụ thể như sau:
- Sản xuất CNHT có đặc thù thâm dụng công nghệ kỹ thuật với trình độ
nguồn nhân lực cao, có thể khẳng định đây là ngành khó khởi sự kinh doanh so với
ngành thương mại dịch vụ. Mặt khác các sản phẩm cũng thường xuyên thay đổi
thiết kế, mẫu mã để phù hợp với sự thay đổi của thị trường sản phẩm chính. Do
phần lớn các doanh nghiệp CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên các doanh
nghiệp này không có khả năng nghiên cứu và phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của
ngành sản xuất CNHT, cần có biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước về công
nghệ sản xuất thông qua Trung tâm phát triển CNHT. Đồng thời Trung tâm sẽ hỗ
trợ chuyên gia, thiết kế, sản xuất thử nghiệm sản phẩm, kết hợp kiểm nghiệm và
kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn nhằm đáp ứng yêu cầu các Tập đoàn.
122
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
- Hỗ trợ tư vấn về quản trị doanh nghiệp và các dịch vụ đào tạo nguồn nhân
lực.
- Hỗ trợ, thúc đẩy kết nối mạng lưới tiêu thụ, kết nối với nhu cầu của các nhà
cung ứng lớp cao hơn và các tập đoàn lắp ráp đa quốc gia trong và ngoài nước.
3.3.1.5. Phối kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tạo
môi trường kinh tế ổn định cho phát triển công nghiệp hỗ trợ
Tạo môi trường kinh tế ổn định là điều kiện cần cho sự phát triển của CNHT.
CNHT cũng như các ngành kinh tế khác không thể phát triển trong một môi trường
kinh tế bất ổn, lạm phát ở mức cao, tăng trưởng kinh tế và thu nhập của người dân
giảm sút giảm sút, thị trường bị co hẹp, giá cả đầu vào có nhiều biến động bất
thường. Vì vậy tạo cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định, tăng trưởng cao,
lạm phát ở múc có thể kiểm soát được là điều kiện cần cho sự phát triển của lĩnh
vực CNHT. Để có thể bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định bền
vững, vai trò can thiệp của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế là hết sức
cần thiết. Trong thực tế để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định và
bền vững Nhà nước sử dụng hàng loạt các cơ, chế chính sách về kinh tế, tài chính,
trong số các chính sách đó là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, tùy theo diễn biến của chu kỳ kinh tế mà Nhà nước sử dụng Chính
sách tài khóa thắt chặt hay chính sách tài khóa nới lỏng. Song việc sử dụng chính
sách tài khóa theo hướng nào thì cũng phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách
tiền tệ mới bảo đảm được tính hiệu quả của Chính sách tài khóa. Thực tế, ở Việt
Nam cũng đã có giai đoạn, Nhà nước chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách
tài khóa và chính sách tiền tệ nên hiệu quả sử dụng chính sách sách tài khóa còn
hạn chế gây khó khăn trong việc thúc đẩy CNHT và các ngành công nghiệp khác.
123
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
3.3.1.6. Nghiên cứu bổ sung các quy định trong các bộ luật liên quan nhằm hỗ
trợ tốt cho CNHT
Như phần phần tích thực trạng, hiện nay việc thực thi các văn bản quy phạm
phát luật dưới dạng Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị về ưu tiên tài chính
phát triển CNHT còn nhiều vướng mắc về tính pháp lý. Cho đến nay, trong các
Luật như Luật thuế, Luật quản lý thuế, Luật NSNN, Luật đất đai và một số luật
khác liên quan chưa có điều khoản nào đề cập đến vấn đề tài chính đối với phát
triển CNHT. Chính điều đó phần nào những ưu tiên về mặt tài chính trong các văn
bản dưới luật hiện hành không có những quy định đột phá mang tính đặc thù của
CNHT. Từ thực tế này thiết nghĩ với vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của CNHT
của nước nhà, trong giai đoạn tới nên nghiên cứu bổ sung các điều khoản về
CNHT trong các bộ luật kể trên, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện, đổi
mới hệ thống các văn bản nói chung, hệ thống các văn về chính sách tài chính công
nói riêng nhằm thúc đẩy CNHT phát triển hơn trong những năm tới.
3.3.1.7. Tăng cường nhận thức và tạo điều kiện tiếp cận hệ thống chính sách tài
chính công đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT
Một trong những nguyên nhân làm cho hệ thống các chính sách nói chung, hệ
thống chính sách tài chính công nói riêng không phát huy được hiệu quả là sự nhận
biết, tiếp cận chính sách của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nội
địa còn hạn chế, bởi lẽ đa phần các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT là
doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí là các hộ gia đình, vì vậy ít có điều kiện kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng để tiếp nhận thông tin. Chính vì lẽ đó, cùng với việc hoàn
thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính, cần hết sức chú trọng đến công tác
tuyên truyền, phổ biến, tư vấn chính sách tài chính đến các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực CNHT. Biện pháp tiến hành có thể là: tận dụng tối đa những ưu thế
của công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách tài chính
124
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
công, tổ chức các cuộc hội thảo, đối thoại chính sách tài chính ở các sở tài chính,
cục thuế địa phương có sự tham gia của các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT,
có chế độ, khuyến khích các bài viết về chính sách tài chính công đối với CNHT
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, trên các phương tiện thông tin đại chúng…
3.3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện chính sách tài chính công phục vụ phát
triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020
3.3.2.1. Đối với chính sách thuế
Chính sách thuế đối với CNHT có hai tác dụng quan trọng: (i) điều tiết thu
nhập do hoạt động trong CNHT tạo ra; (ii) điều thiết hoạt động của CNHT. Trong
giai đoạn tới tinh thần chung của việc hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế đối với
phát triển CNHT vẫn là thực hiện những ưu đãi, miễn, giảm các sắc thuế hiện có
nhưng phải có những lựa chọn ưu đãi, miễn giảm thuế một cách hợp lý. Cụ thể
trong những năm tới việc hoàn thiện và đổi mới chính sách thuế với việc thực hiện
các ưu đãi, miễn, giảm các sắc thuế hướng tới: (i) Khuyến khích các doanh nghiệp
có đề án đổi mới kỹ thuật, dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm của CNHT phục vụ tốt yêu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp lắp ráp, chế tác tạo ra sản phẩm cuối cùng (không
đặt vấn đề phân biệt các doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ. (ii) Khuyến khích các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT có đề án nâng cao chuyên môn,
nghiệp vụ, tay nghề cho đội ngũ kỹ sư, công nhân; (iii) Ưu đãi đối với doanh
nghiệp hoạt động trong CNHT có tỷ lệ nội địa hóa cao; (iv) ưu đãi các doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT phục vụ cho các ngành lắp rắp, chế tác theo quy
hoạch của Nhà nước đến năm 2020 như: dệt may, da-giày,ô tô, cơ khí, công nghệ
cao; (v) hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm CNHT.
Trên cơ sở những định hướng chung đó, cần nghiên cứu hoàn thiện đổi mới
một số sắc thuế quan trọng có tác động trực tiếp đến phát triển CNHT. Cụ thể:
125
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
a. Hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế TNDN
Có thể nói thuế TNDN là một sắc thuế, có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ
đối với vấn đề phát triển CNHT thông qua việc quy định thuế suất, chế độ ưu đãi,
miễn giảm. Tuy nhiên, hiện nay trong Luật thuế TNDN năm 2008, cũng như Luật
thuế TNDN sửa đổi năm 2013, chưa có điều khoản nào quy định rõ về chế độ ưu
đãi miễn giảm mang tính đặc thù của hoạt động CNHT, nhất là trong bối cảnh
CNHT nội địa đang ở trong giai đoạn phát triển ban đầu còn sơ khai. Vì vậy, trong
Luật thuế TNDN cần nghiên cứu đề cập đến những ưu tiên, ưu đãi đối với phát
triển CNHT nội địa. Cụ thể:
Trên cơ sở Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển lựa chọn một số sản
phẩm mà Việt Nam có ưu thế trong ĐTPT để áp dụng ưu đãi như: Bổ sung Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp- “Ưu đãi cho doanh nghiệp CNHT thông qua khuyến
khích đầu tư hoặc lĩnh vực công nghệ cao theo quyết định của Chính phủ trong
từng thời kỳ”. Khi đó, các doanh nghiệp CNHT sẽ được hưởng ưu đãi đầu tư mở
rộng như các doanh nghiệp khác. Đây là giải pháp để thu hút đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực CNHT, đồng thời tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp nội địa với
các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, phương án này có hạn chế là dễ dẫn đến
tình trạng mở rộng quá mạnh sản phẩm CNHT được hưởng ưu đãi.
Trong những năm tới, hướng ưu tiên, ưu đãi, thực hiện chế độ miễn, giảm của
thuế TNDN là: Ưu tiên, ưu đãi, miển, giảm thuế TNDN đối với doanh nghiệp
CNHT nội địa có chương trình và thực thi chương trình đầu tư đổi mới công nghệ,
cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm.
b. Hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế xuất nhập khẩu
126
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Mục tiêu việc ưu đãi, miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với CNHT là nhằm
khuyến khích việc nhập những nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, các linh kiện,
phụ kiện phục vụ cho ngành công nghiệp lắp ráp, chế biến, chế tác mà các CNHT
trong nước không hoặc chưa cung cấp được theo yêu cầu về số lượng và chất
lượng của những mặt hàng kể trên đối với các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp,
chế biến tạo ra sản phẩm cuối cùng. Đồng thời, việc ưu đãi, miễn, giảm thuế xuất
khẩu là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp CNHT mở rộng thị trường xuất
khẩu sản phẩm CNHT khi các sản phẩm đó đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặt khác,
mục tiêu sử dụng những ưu đãi, miễn, giảm thuế XNK tạo ra lá chắn trước áp lực
cạnh tranh đối với hàng hóa bên ngoài góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa CNHT nội địa. Theo đánh giá của các cơ quan hải quan Luật thuế XNK
hiện hành còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể:
Qua quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động hải quan cũng như đối chiếu với
các chuẩn mực hải quan quốc tế và các cam kết, theo phản ánh của Tổng cục Hải
quan, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu hiện hành có những điểm chưa nội
luật hoặc nội luật chưa đầy đủ theo quy định của Công ước Kyoto, của các hiệp
định song phương và đa phương đã, đang và sẽ ký kết.
Cụ thể, theo phản ánh của Hải quan một số tỉnh, thành phố, Luật Thuế Xuất
khẩu, thuế Nhập khẩu thiếu quy định miễn thuế đối với hàng hóa có trị giá tối thiểu
hoặc có số tiền thuế phải nộp dưới mức quy định, thiếu quy định về miễn thuế đối
với ấn phẩm quảng cáo có trị giá thấp và hàng mẫu theo đơn hàng để phục vụ sản
xuất, ảnh, phim, mô hình hoặc bất kỳ hàng hóa tương tự nào khác thay thế cho
hàng mẫu đó, ấn phẩm quảng cáo... đã gây khó khăn vướng mắc cho cơ quan Hải
quan trong thực hiện.
Bên cạnh đó, Luật cũng thiếu quy định về thuế hỗn hợp (gồm cả thuế suất
theo tỷ lệ phần trăm và thuế suất tuyệt đối), hạn ngạch thuế quan; thiếu quy định
127
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
điều kiện hoàn thuế; thiếu quy định về miễn thuế đối với máy móc, thiết bị, linh
kiện, phụ tùng tạm nhập để phục vụ thay thế, sữa chữa tàu biển, tàu bay nước
ngoài, tạm xuất để phục vụ thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu bay Việt Nam ở nước
ngoài, máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ thử nghiệm nghiên cứu phát triển
sản phẩm, hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập để bảo hành, sửa chữa
theo hợp đồng mua bán hàng hóa, phương tiện chứa hàng hóa tạm nhập, tái xuất,
tạm xuất, tái nhập theo phương thức quay vòng không phải thanh toán.
Thực tế cho thấy, một số nội dung của Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu
hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung để thực hiện mục tiêu cải cách hành chính,
giảm vướng mắc cho thực hiện, nâng cao tính pháp lý của các quy định về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Chính phủ quy định chi tiết thi hành các Luật
có liên quan và triển khai có hiệu quả trên thực tế, như:
Luật chưa quy định đại lý hải quan, người bảo lãnh, người sử dụng hàng hóa
nhập khẩu nhưng chưa nộp thuế, người thu gom hàng hóa của cư dân biên giới là
đối tượng nộp thuế nên thực tế nhiều trường hợp không thu được thuế của các đối
tượng này. Hoặc Luật quy định về thời điểm tính thuế là ngày đăng ký tờ khai hải
quan chưa phù hợp với trường hợp chuyển đổi đối tượng sử dụng; quy định tách
riêng miễn thuế và xét miễn thuế thành 2 điều (1điều miễn thuế, 1 điều xét miễn
thuế) là không cần thiết, gây hiểu lầm là phải “xin cho” mới được miễn thuế. Việc
quy định phải nộp thuế trước khi thông quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu để
kinh doanh chưa phân biệt mức độ chấp hành tốt pháp luật của doanh nghiệp như
Luật Quản lý thuế là chưa khuyến khích doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật...
Qua nghiên cứu, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu hiện hành chưa đáp
ứng yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần được cải
cách, đổi mới hơn nữa, như: Quy định mức khung thuế suất, bao gồm cả mức tối
thiểu và mức tối đa như hiện nay không có ý nghĩa, vì thực chất mức thuế suất trần
128
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
tối đa đã được cam kết cho toàn bộ biểu thuế với Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) tại thời điểm gia nhập.
Cục Thuế XNK phân tích, quy định về các nguyên tắc ban hành Biểu thuế,
thuế suất đã được nêu trong Luật chưa thật sự phù hợp trong điều kiện thực hiện lộ
trình cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu của một số Hiệp định thương
mại quốc tế, vai trò bảo hộ và thu cho NSNN của thuế xuất khẩu sẽ không như giai
đoạn trước đây. Các nguyên tắc này cũng chưa đủ để xử lý các vấn đề đặt ra nhằm
đảm bảo tính hợp lý giữa thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào nguyên liệu, vật tư,
linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm và sản phẩm nguyên chiếc...
Cùng với đó, quy định các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá,
chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử tuy đã được quy định trong Luật nhưng chưa
đầy đủ và chưa bao quát được hết các vấn đề cần thiết để áp dụng các loại thuế
này, nên thực tế việc áp dụng được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh Chống
bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp, Pháp lệnh Chống phân biệt đối xử.
Đặc biệt, với quy định miễn thuế nhập khẩu 5 năm cho nguyên liệu, vật tư,
linh kiện phục vụ sản xuất những dự án ưu đãi đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt
khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư chưa phân biệt các
dự án chỉ đáp ứng một đối tượng hưởng ưu đãi với các dự án đáp ứng nhiều đối
tượng hưởng ưu đãi, nên chưa khuyến khích các dự án đầu tư có quy mô lớn, công
nghệ cao, đầu tư vào những địa bàn đặc biệt cần khuyến khích đầu tư. Hay như quy
định miễn thuế nhập khẩu tạo tài sản cố định cho dự án ưu đãi đầu tư bằng vốn
ODA cho doanh nghiệp vay lại chưa bình đẳng với các nguồn vốn khác. Các loại
hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa
học, bao gồm cả mặt hàng trong nước đã sản xuất được là chưa khuyến khích tiêu
dùng hàng trong nước, hạn chế tiêu dùng ngoại tệ.
129
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Bên cạnh đó, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu cũng chưa quy định miễn
thuế đối với một số trường hợp đặc thù cần được ưu đãi như hàng hóa nhập khẩu
để phục vụ cho biển đảo có điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng đặc
biệt khó khăn; máy móc, thiết bị, dụng cụ chuyên dùng phục vụ cho đánh bắt thủy
hải sản xa bờ là chưa phù hợp với thực tế và chủ trương chính sách của Nhà nước.
Từ thực tế kể trên, trong thời gian tới, việc hoàn thiện, đổi mới chính sách
thuế XNK thúc đẩy phát triển CNHT cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, bổ sung thêm những quy định trong luật thuế XNK về chế độ ưu
đãi, miễn giảm thuế XNK theo các yêu cầu mà Việt Nam đã ký kết trong các Hiệp
định thương mại với các tổ chức quốc tế (WTO) và theo những yêu cầu của những
hoạt động kinh tế, xã hội mang tính đặc thù.
Hai là, thống nhất hóa thẩm quyền quy định thuế suất và ổn định tương đối
thuế xuất thuế XNK trong một thời gian nhất định nhằm bảo đảm tính chủ động
trong việc hoạch định, thực thi chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực CNHT nói riêng. Cụ thể:
Nên nghiên cứu đề xuất mức thuế suất cụ thể đối từng mặt hàng nhóm hàng gắn
với đặc thù của sản phẩm CNHT và yêu cầu thực hiện các cam kết đã ký trong các
hiệp định thương mại và thuế quan, cùng với thẩm quyền quy định mức thuế suất,
Chính phủ cũng cần công bố khoảng thời gian áp dụng mức thuế bảo đảm tính ổn
định tương đối, đồng thời nên nghiên cứu đề ra tiêu chí điều chỉnh mức thuế suất.
c. Hoàn thiện chính sách thuế GTGT nhằm thúc đẩy trong các bộ luật liên quan
Tác động chính của chính sách thuế GTGT đối với phát triển CNHT là ở chỗ
chính sách thuế GTGT điều tiết hoạt động tiêu dùng của xã hội và thông qua đó
liên quan đến thị trường tiêu dùng sản phẩm của CNHT. Để có thể phát triển được
130
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
thị trường tiêu dùng sản phẩm CNHT, việc hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế
GTGT cần tập trung nghiên cứu các vấn đề:
Mức thuế suất đối với sản phẩm CNHT giao dịch trên thị trường nên áp
dụng chỉ một mức thuế suất 5% và ổn định mức đó trong 5 năm phù hợp
với kế hoạch trung hạn do các doanh nghiệp đề ra.
Nhằm bảo đảm tính liên hoàn của thuế GTGT nên đưa sản phẩm CNHT
giao dịch trên thị trường vào diện chịu thuế GTGT để được hưởng khấu
trừ có lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT khi tính thuế.
d. Hoàn thiện chính sách thuế đối với khu công nghiệp chuyên sâu
Hiện nay, ở nước ta số lượng các khu công nghiệp và khu kinh tế tương đối
lớn. Tính đến hết năm 2012, Việt Nam có 289 khu công nhiệp, khu chế xuất với
diện tích hơn 80 ngàn ha. Các KCN, KCX này đã thu hút trên 4,3 ngàn dự án FDI
với tổng số vốn đăng ký lên tới 65 tỷ USD. Ngoài ra, cả nước hiện có gần 900 cụm
công nghiệp, thu hút trên 7 ngàn dự án với tổng vốn đầu tư trên 112 ngàn tỷ đồng,
tạo việc làm cho gần nửa triệu lao động… Đối với các KCN, do chủ yếu tập trung
tại các thành phố lớn, địa bàn thuận lợi, do đó hiện nay các chính sách ưu đãi cho
KCN đã chấm dứt. Trong khi, chính sách ưu đãi tài chính cho các khu kinh tế hiện
nay là cao nhất, bao gồm: (i) Thuế TNDN: hưởng mức thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp 10% áp dụng trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản
xuất kinh doanh; Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm, kể từ khi
có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo; (ii) Thuế
TNCN: Người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Khu kinh tế được giảm
50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập; (iii)
Một số ưu đãi về thuế xuất - nhập khẩu; (iv) Miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt
nước. Dựa vào cơ chế ưu đãi trên, nên có phương án thực hiện cơ chế một cách cụ
thể. Theo đó, có thể cân nhắc một số phương án như sau:
131
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Phương án 1: Trước mắt chưa nên thành lập mới các khu CNHT, khu công nghiệp
chuyên sâu, mà giải pháp đối với CNHT trong giai đoạn này, bao gồm:
Cho phép các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục CNHT
nằm trong KCN tiếp tục được hưởng các ưu đãi như các doanh nghiệp
trong khu kinh tế đang được hưởng.
Đối với các doanh nghiệp CNHT tại các khu kinh tế thì được hưởng chính
sách ưu đãi “2+”. Nghĩa là ngoài các chính sách được hưởng các ưu đãi
của khu kinh tế thì được cộng thêm. Cụ thể: (1)Áp dụng chính sách thuế
thu nhập doanh nghiệp ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp
hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng
giai đoạn. (2)Áp dụng chính sách thuế thu nhập cá nhân ưu đãi vượt
khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối
với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn.
Xây dựng cơ chế đảm bảo thực thi chính sách ưu đãi cho các dự án CNHT
cho phát triển công nghệ cao (gắn với các hướng dẫn triển khai luật về
công nghệ cao).
Phương án 2
Do hiện nay đã có định hướng phát triển 02 khu Công nghiệp chuyên sâu tại
Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Việc thực hiện thí điểm các khu CNHT, khu
công nghiệp chuyên sâu nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng như
Nhật Bản, Hàn Quốc,..để góp phần phát triển CNHT thì cần có các chính sách ưu
đãi tương đương mức mà các khu kinh tế đang được hưởng. Vì vậy, có thể sửa đổi
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 để bổ sung huyện An Hải (Hải
Phòng) và huyện Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu), hoặc có thể chỉ bổ sung đến cấp
xã (xã Tràng Cát và xã Đá Bạc) vào địa bàn đặc biệt khó khăn. Khi đó, các doanh
132
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp CNHT hoạt động trong khu CNHT, khu công nghiệp chuyên sâu được
hưởng các ưu đãi theo các địa bàn đặc biệt khó khăn.
Phương án này có thuận lợi là thuộc thẩm quyền của Chính phủ, tuy nhiên các
doanh nghiệp khác trong địa bàn cũng được hưởng các chính sách ưu đãi chung.
Như vậy, phương án này cũng chưa có sự phân biệt đối với doanh nghiệp CNHT.
3.3.2.2. Đối với chính sách chi trực tiếp từ nguồn ngân sách nhà nước
Đây là một trong những giải pháp quan trọng, thể hiện Nhà nước là “bà đỡ”
trực tiếp cho việc ra đời, tồn tại và phát triển CNHT còn non trẻ ở nước ta. Tuy
nhiên, trong điều kiện quy mô NSNN còn nhỏ bé, lại phải gánh vác nhiều nhiệm
vụ cho phát triển kinh tế xã hội, nhất là lĩnh vực xã hội đang cần nguồn tài chính
lớn từ NSNN. Vì vậy, việc hỗ trợ trực tiếp từ nguồn NSNN cho phát triển CNHT
trong giai đoạn tới cần phải thực hiện yêu cầu phân bổ NSNN có trọng tâm, trọng
điểm, tránh đầu tư dàn trải. Cụ thể trong thời gian tới, chính sách hỗ trợ trực tiếp từ
nguồn NSNN cho ĐTPT CNHT tập trung vào một số vấn đề quan trọng sau đây:
Đầu tư hỗ trợ tài chính từ NSNN cho phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
CNHT
Nhà nước hỗ trợ từ NSTW cho các doanh nghiệp, địa phương thông qua việc
đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao tay nghề, chất lượng
lao động; thông qua các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (mức thuế suất thấp
hơn trong thời gian thực hiện đào tạo) hoặc hỗ trợ ngân sách cho địa phương trong
thực hiện đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Việc xác định danh sách hỗ trợ tài chính này phải thực hiện hàng năm và
được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để một mặt tăng
cường tính minh mạch thông tin, mặt khác đảm bảo việc tiếp cận cho các doanh
133
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp CNHT vì phần lớn các doanh nghiệp trong lĩnh vực này là DNNVV, khả
năng tiếp cận nguồn thông tin hạn chế.
Bên cạnh đó, cần công bố danh mục tiêu chí các doanh nghiệp, địa phương
được hưởng nguồn tài chính này, nhằm hạn chế tình trạng áp dụng tuỳ tiện, lợi
dụng hoặc cơ chế “xin - cho”.
Về dài hạn, nghiên cứu thành lập Quỹ Đào tạo, bồi dưỡng lao động CNHT
(vốn từ NSNN) giao cho Bộ Công thương quản lý, sử dụng để hỗ trợ các chương
trình đạo tạo lao động, nâng cao tay nghề đối với lao động trong CNHT.
Đầu tư giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa quảng bá sản phẩm, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Một thực tế hiện nay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hoạt động
trong lĩnh vực CNHT là sản phẩm làm ra tồn kho ứ đọng không nơi tiêu thụ. Phần
vì chất lượng sản phẩm kém, phần công tác quảng bá sản phẩm còn nhiều hạn chế
do thiếu nguồn kinh phí. Do đó, việc Nhà nước trực tiếp đầu tư cho quảng bá mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động
trong lĩnh vực CNHT là hết sức cần thiết. Giải pháp này vừa có tác dụng giải quyết
tình trạng ứ đọng vốn do ứ đọng sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa phù
hợp với nguồn vốn đầu tư của Nhà nước không lớn lắm.
Đầu tư vào một số sản phẩm CNHT do các doanh nghiệp trong nước đảm
nhận nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm CNHT đáp ứng yêu cầu của các doanh
nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam
Ở Việt Nam, lợi thế giá nhân công rẻ đang mất dần, nếu không quan tâm đến
vấn đề cung cấp những sản phẩm CNHT có chất lượng tại chỗ thì không những
không thu hút được nguồn FDI mới đầu tư vào Việt Nam mà có thể không giữ
chân được các doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam làm ăn lâu dài với
134
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
chúng ta. Do việc đầu tư để nâng cao chất lượng một số sản phẩm CNHT phục vụ
yêu cầu của các doanh nghiệp FDI là cần thiết. Hướng đầu tư này của Nhà nước
cho các doanh nghiệp nội địa nên tập trung vào hỗ trợ một phần của NSNN cho
việc cải tiến công nghệ, tăng cường công tác quản lý, cải tiến phương thức cung
cấp sản phẩm đối với các doanh nghiệp lựa chọn.
3.3.2.3. Đối với chính sách tín dụng ưu đãi
Tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước là một trong các chính sách tài chính
công của nhà nước không chỉ cung cấp vốn dưới hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ
lãi suất đầu tư và bảo lãnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực
hiện các dự án đầu tư thuộc danh mục dự án đầu tư được Nhà nước khuyến khích,
mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước, nó là hình thức quá độ
chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế cho vay. Trong điều kiện hiện nay, ngoài
chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu của Nhà nước, phía NHNN
cũng có nhiều văn bản quy định về chính sách tín dụng ưu đãi, các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực CNHT cũng có thể xem xét, tiếp cận để tạo thêm nguồn
vốn phát triển doanh nghiệp.
Theo Điều 1, Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012 quy định “lãi suất
cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số
lĩnh vực, ngành kinh tế quy định: Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam
tối đa bằng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn từ 1
tháng trở lên do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cộng (+) 3%/năm”.Theo
Thông tư 20/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư 14/2012/TT-NHNN thì Khoản 1, Điều 1 được sửa thành “Lãi suất cho
vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tối đa là 13%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân
dân cơ sở ấn định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tối đa là
135
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
14%/năm”. Như vậy, ưu đãi cho vay ngắn hạn trong Thông tư 20 cũng đã quy định
cụ thể hơn. Tuy nhiên, đa phần các doanh nghiệp trong CNHT là những doanh
nghiệp quy mô vừa và nhỏ; Theo Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư
20/2012/TT-NHNN sửa đổi thì các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT sẽ
không được hưởng ưu đãi hơn so với các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực
khác. Do đó, trên cơ sở ưu đãi trong Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư
20/2012/TT-NHNN sửa đổi, mức ưu đãi có thể được chia theo các trường hợp:
- Đối với DNNVV hoạt động trong CNHT: tăng mức ưu đãi cho các
DNNVV trong CNHT với mức lãi suất tối đa nhỏ hơn mức tối đa 13% (ví dụ tối
đa 10%/11%) đối với các NHTM và nhỏ hơn 14% (11%/12%) đối với các Quỹ
tín dụng nhân dân.
- Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động trong CNHT: áp dụng mức ưu đãi
như trong Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN.
- Đối với các doanh nghiệp trong CNHT trong các khu kinh tế, áp dụng mức
ưu đãi theo quy định đối với khu kinh tế và các ưu đãi theo Thông tư
14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN, cần xây dựng thêm cơ chế
hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay tín dụng ngắn hạn một
cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất này có sự bị động theo từng thời kỳ bởi sự thay
đổi của lãi suất. Do đó, về lâu dài cần có chính sách lãi suất mang tính ổn định đối
với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực CNHT.
Ngoài ưu đãi về lãi suất vay ngắn hạn, cần có các chính sách hỗ trợ cho doanh
nghiệp trong CNHT tiếp cận được các khoản vay ưu đãi trung hạn và dài hạn. Vốn
vay trung và dài hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phát triển CNHT do đây
là lĩnh vực thâm dụng vốn và công nghệ, đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu.
136
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Những dự án vay vốn chứng minh được tính hiệu quả, có khả năng đánh giá được
khả năng sinh lợi của dự án và nguồn trả nợ cũng như các hình thức đảm bảo tín
dụng sẽ được hỗ trợ tiếp cận vay vốn trung và dài hạn tại những ngân hàng được
chỉ định thực hiện. Mức cho vay được hỗ trợ lãi suất do doanh nghiệp và ngân
hàng cho vay thỏa thuận.
Lãi suất cho vay: được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp nhất trong khung
lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng áp dụng cho các khoản vay vốn
phục vụ cho từng lĩnh vực cụ thể trong cùng thời kỳ.
Mức hỗ trợ lãi suất: khoản vay được hỗ trợ 50% hoặc 100% lãi suất vay
trong khoảng thời gian đầu (1hoặc 2 năm đầu), được áp dụng theo thời gian vay
thực tế của doanh nghiệp và chỉ áp dụng đối với các khoản vay trả nợ trước hạn
hoặc đúng hạn tại thời điểm hỗ trợ lãi suất. Đối với những khoản vay quá hạn sẽ
không được hỗ trợ lãi suất và phải chuyển sang nợ quá hạn.
Các chính sách tín dụng ưu đãi nhà nước phát triển CNHT cần phải quy định
rõ các nội dung sau:
Điều kiện cho vay
Chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc Danh mục các dự án vay vốn tín dụng
đầu tư;
Thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật;
Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, có hiệu quả, bảo
đảm trả được nợ; được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định phương
án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay;
Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20% và phải bảo
đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện tài chính cụ thể của
phần vốn đầu tư ngoài phần vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà nước;
137
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Chủ đầu tư thực hiện bảo đảm tiền vay theo các quy định tại Nghị định
này và quy định của pháp luật;
Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động hợp pháp tại Việt Nam đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc
đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời hạn vay vốn;
Chủ đầu tư phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo
quy định của pháp luật; báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán
bởi cơ quan kiểm toán độc lập.
Mức vốn cho vay:
Tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu
động), đồng thời phải đảm bảo mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi chủ đầu tư
không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của NHPT Việt Nam.
Thời hạn cho vay: không quá 12 năm.
Lãi suất cho vay: không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với
phí hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Điều kiện hỗ trợ sau đầu tư
Dự án trong Danh mục dự án được vay vốn tín dụng đầu tư, trừ các dự án
cho vay theo hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Dự án được xác định thuộc đối tượng được hỗ trợ sau đầu tư tại thời điểm
có Quyết định phê duyệt dự án lần đầu của cơ quan có thẩm quyền.
Được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định và ký kết hợp đồng hỗ
trợ sau đầu tư.
138
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, có quyết định phê duyệt
quyết toán đầu tư của cơ quan có thẩm quyền và đã trả được nợ vay.
- Mức hỗ trợ đầu tư: Bộ Tài chính quyết định mức hỗ trợ sau đầu tư trên cơ
sở chênh lệch giữa lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất
vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý
Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Thời điểm công bố mức hỗ trợ sau đầu tư cùng
với thời điểm công bố lãi suất tín dụng đầu tư. Ngân hàng Phát triển Việt Nam
xem xét quyết định cấp hỗ trợ sau đầu tư theo kết quả trả nợ của chủ đầu tư.
3.3.2.4. Bổ sung cơ sở pháp lý vào các bộ luật liên quan để thành lập quỹ hỗ trợ
phát triển
Với những quy định hiện hành về chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và ưu đãi
xuất nhập khẩu của Nhà nước thì các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT cũng
thuộc đối tượng được thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập
khẩu của Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay, trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu
tư và xuất nhập khẩu của Nhà nước vẫn chưa có những quy định riêng mang tính
đặc thù đối với các danh nghiệp hoạt động trong CNHT. Điều này gây khó khăn
cho việc vận dụng chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và hoạt động xuất nhập khẩu
đối với CNHT của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển
CNHT. Hơn nữa, trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu có
phần khắt khe khó vận dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT.
Trước mắt, trong thời gian tới, chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước
cần có những điều khoản quy định riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
CNHT và giảm những điều kiện quy định quá khắt khe về vay, về hỗ trợ sau đầu
đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, song về lâu dài nên
nghiên cứu sớm hình thành quỹ hỗ trợ phát triển CNHT.
139
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Cơ sở cho việc đề xuất này là xuất phát từ vai trò quan trọng và tính đặc thù
của CNHT. Như chúng ta biết, đối với Việt Nam, nếu không đẩy mạnh phát triển
CNHT, không thể thực hiện được chiến lược CNH&HĐH đất nước, không thu hút
được nguồn vốn đầu tư FDI. Mặt khác, việc nhìn nhận hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp trong CNHT không đơn thuần nhìn nhận hiệu quả mang lại cho
chính bản thân của nó mà quan trọng hơn là hiệu quả này phải xem xét một cách
toàn diện đến các mặt hiệu quả xã hội khác. Chính cách đặt vấn đề như vậy, nên
luận án đề xuất trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu nên đề
cập riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT với việc giảm bớt
những điều kiện quy định khắt khe.
Riêng vấn đề đề xuất sớm nghiên cứu cho ra đời quỹ hỗ trợ phát triển CNHT
quốc gia, luận án cho rằng là hết sức cần thiết. Hiện nay, theo ý kiến của Bộ Công
Thương trình Chính phủ Quỹ hỗ trợ phát triển CNHT quốc gia trực thuộc Bộ Công
Thương, với vốn điều lệ là 2000 tỷ do NSNN cấp trong vòng 3 năm hai năm đầu
mỗi năm cấp 500 tỷ, năm thứ 3 cấp 1000 tỷ, đồng thời Quỹ được phép huy động
nguồn tài chính trong và ngoài nước được trích từ kết quả hoạt động của quỹ. Tuy
nhiên, với những khó khăn về nguồn tài chính như hiện nay để phát triển CNHT,
chúng tôi cho rằng quy mô vốn điều lệ như vậy là thấp, cần nghiên cứu tăng thêm
vốn điều lệ, đồng thời việc quy định mức cấp vốn điều lệ như vậy là chưa hợp lý.
Dù sao để có thế tạo ra niềm tin đối với việc huy động vốn bên ngoài NSNN thì
quy mô vốn điều lệ ban đầu của Quỹ cũng cần cân nhắc trong việc cấp vốn của
NSNN. Mặt khác, cũng cần nghiên cứu cơ chế sử dụng Quỹ hỗ trợ phát triển một
cách rõ ràng minh bạch, công bằng, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư
vấn đến các cộng động doanh nghiệp nắm và hiểu rõ tôn chỉ, mục đích, cơ chế hoạt
động của Quỹ.
140
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
3.3.2.5. Hoàn thiện chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN phục vụ
phát triển CNHT
Tác động chủ yếu của Chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối
với phát triển CNHT chủ yếu là tạo môi trường kinh tế ổn định để các doanh
nghiệp hoạt động trong CNHT yên tâm bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh. Do đó, giải pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách sử dụng các Quỹ TCNN
ngoài NSNN là:
- Nghiên cứu hình thành hệ thống các quỹ TCNN ngoài NSNN một cách hợp
lý, gắn với tình huống rủi ro trong nền kinh tế
- Đảm bảo sử dụng các quỹ một cách hiệu quả, công khai, minh bạch, tăng
cường công tác, thanh tra, quản lý nhà nước về hoạt động của quỹ, chống sử
dụng lãng phí, thất thoát, tham nhũng.
- Xây dưng quy chế sử dụng các quỹ một cách thích hợp gắn với đặc thù của
từng loại quỹ
- Xác định rõ mục đích sử dụng các quỹ, bảo đảm sử dụng quỹ một cách tiết
kiệm theo đúng mục đích thành lập quỹ, tránh sử dụng sai mục đích, tham ô,
lãng phí.
- Xây dựng và kiện toàn chế độ tạo lập, sử dụng, phương thức quản lý quỹ
phù hợp cho từng thời kỳ. Thực hiện công khai hóa các thành viên góp vốn có
điều kiện giám sát hoạt động của Quỹ. Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ với
các hoạt động của Quỹ nhằm tránh tư tưởng hình thành “vương quốc độc lập”sử
dụng Quỹ một cách tùy tiện.
- Áp dụng phương pháp quản lý khác nhau tùy theo từng loại Quỹ. Nhìn
chung các quỹ TCNN ngoài NSNN đều do nhiều cơ quan tham gia, vì vậy việc
141
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
xác định chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong việc quản lý quỹ phải
rõ ràng, cụ thể, vừa tránh chồng chéo, vừa tránh sơ hở gây thất thoát tiền quỹ.
- Phải tổ chức công tác kế toán, theo dõi cấp phát và quản lý quỹ phải tuân
theo các nguyên tắc hiện hành của Nhà nước và pháp luật kế toán, thống kê.
Hàng năm phải thực hiện báo cáo quyết toán quỹ để các cấp có thẩm quyền phê
duyệt
- Tóm lại, cùng với việc phát triển các quỹ TCNN ngoài NSNN cần bảo đảm
tính chủ động, sáng tạo, xã hội hóa các hoạt động của Nhà nước. Việc nghiên
cứu đổi mới, hoàn thiện chính sách quản lý, sử dụng các quỹ TCNN ngoài
NSNN theo những định hướng kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy
tác dụng tích cực của Quỹ nhàm ổn định tình kinh kinh tế tài chính của đất nước
góp phân quan trong cho việc thúc đẩy phát triển CNHT.
3.3.3. Các giải pháp có tính bổ trợ
Việc hoàn thiện, đổi mới chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy phát triển
CNHT chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi một số chính, biện pháp liên quan được
hoàn thiện và đổi mới. Liên quan trực tiếp đến chính sách tài chính thúc đẩy phát
triển CNHT đó là chính sách về đất đai, chính sách về nguồn nhân lực, chính sách
về khoa học công nghệ của Nhà nước…
3.3.3.1. Chính sách về đất đai
Ở một góc độ nào đó tuy không phải là một bộ phận trực tiếp của hệ thống
chính sách tài chính, song chính sách đất đai, chính sách về tiền thuê đất, về tiền sử
dụng đất liên quan mật thiết đến chính sách tài chính. Do đó, việc nghiên cứu hoàn
thiện đổi mới chính sách đất đai, chính sách về tiền thuê đất, về tiền sử dụng cần
được nghiên cứu trong phạm trù tài chính.
142
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Bên cạnh việc thu hút các dự án, doanh nghiệp vào các khu công nghiệp và
khu kinh tế đối với các dự án, doanh nghiệp mới, thì việc hỗ trợ các doanh nghiệp
CNHT hiện đang hoạt động cũng rất cần thiết. Theo đó, ưu tiên bố trí quỹ đất đai,
sử dụng hạ tầng cho các dự án CNHT (xây dựng các khu công nghiệp cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa với diện tích phù hợp, Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp
xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng thông qua miễn tiền thuê đất có thời hạn; hoặc
khuyến khích các doanh nghiệp vào khu kinh tế để hưởng các ưu đãi của khu kinh
tế); Nghiên cứu cơ chế tạo quỹ đất giao cho các dự án làm CNHT theo nhu cầu và
chỉ thu tiền thuê đất khi doanh nghiệp có lãi.
3.3.3.2. Chính sách nguồn nhân lực
Trên góc độ lý thuyết như thực tiễn chính sách nguồn nhân lực là yếu tố quyết
định cho sự tồn tại và phát triển của mọi ngành trong xã hội. Đối với phát triển
CNHT cũng vậy. Nói đến chính sách nguồn nhân lực là nói đến chính sách đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, chính sách đãi ngộ về tinh thần và vật chất.
Thực tế, trong những năm qua,chính sách đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chính
sách đãi ngộ về tinh thần cho đội ngũ công nhân kỷ sư hoạt động trong CNHT
chưa có sự quan tâm thích đáng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế của quá trình phát triển CNHT của Việt Nam. Trong giai đoạn tới
cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách về nguồn nhân lực cho CNHT theo
hướng: (i) tập trung nguồn lực đẩy mạnh công tác đào tạo về chuyên môn nghiệp
vụ sản xuất, quản lý cho đội ngũ kỹ sư, công nhân hoạt động trong CNHT, (ii)
nghiên cứu xây dựng chính sách đãi ngộ về tinh thần, vật chất cho đội ngũ kỹ sư
công nhận hoạt động trong CNHT. Để thục hiện được những định hướng đó cần
phải thực hiện các giải pháp sau đây:
- Đẩy mạnh triển khai Quyết định số 1201/2012/QĐ-TTg ngày 31/8/2012
của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Việc
143
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
làm và Dạy nghề giai đoạn 2011- 2015 nhằm nâng cao tay nghề, chất lượng lao
động cho các doanh nghiệp và địa phương.
- Khuyến khích các đối tác đầu tư nước ngoài phối hợp chặt chẽ trong công
tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNHT nhằm tận dụng lợi thế về chuyên môn và
trình độ năng lực.
Trên thực tế, nâng cao năng lực công nghệ có thành công hay không ngoài
việc phụ thuộc vào chiến lược nhận chuyển giao, thu hút công nghệ trong từng giai
đoạn phát triển của nền kinh tế còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực tiếp thu công
nghệ, cụ thể là yếu tố con người. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là
một yêu cầu bức xúc hiện nay mà chúng ta cần phải tập trung giải quyết bởi càng
ngày, nguồn nhân lực giá rẻ sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI
của Việt Nam. Việt Nam phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng
cơ sở hạ tầng hợp lý, mang tính dài hạn. Các doanh nghiệp FDI hiện đang diễn ra
tình trạng thiếu lao động, đặc biệt là lao động quản lý và có kỹ năng, nhưng cho
đến nay vẫn chưa được khắc phục. Theo nhiều doanh nghiệp FDI, khi tuyển dụng
lao động, họ phải mất rất nhiều công sức để đào tạo lại nguồn lao động này. Bên
cạnh đó, họ cũng phải chấp nhận những rủi ro về tài chính nếu các nhân viên được
cử đi đào tạo không trở lại làm việc hoặc nghỉ việc không lâu sau khi được đào tạo.
Do đó, để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong nước, cần:
- Đưa vào chương trình đào tạo hàng năm nguồn nhân lực có chất lượng cao
cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT. Tăng cường kỹ năng thực hành
nhờ liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất mà một cách khá có hiệu quả là
cho học viên tham gia các khóa đào tạo thông qua học việc (OJT – On the Job
Training). Chính phủ cần khuyến khích sự liên kết đào tạo giữa các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ đào tạo với các doanh nghiệp tiếp nhận lao động. Tăng
cường thời gian thực hành nghề tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
144
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp FDI. Gắn chương trình đào tạo với nhu cầu thực tiễn. Đặc biệt, chú trọng
thu hút các chuyên gia nước ngoài của các nước công nghệ cao đến giảng dạy tại
các trường đào tạo của Việt Nam, nhất là đối với các ngành nghề yêu cầu kỹ
thuật cao, kỹ thuật mới như điện tử tin học, tự động hoá, cơ khí chính xác, các
công nghệ hỗ trợ, sản xuất vật liệu mới ...
- Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nguồn nhân lực cho các cụm công nghiệp
chuyên ngành. Các địa phương cần liên kết với các KCN để giải tỏa sự khập
khiễng trong cung cầu lao động.
- Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư
nước ngoài đào tạo nghề cho người lao động ngay tại doanh nghiệp nước ngoài
của họ. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, những ưu đãi cho doanh nghiệp
nước ngoài tổ chức các trường đào tạo dạy nghề trình độ cao tại Việt Nam, giảm
miễn thuế chi phí đào tạo lao động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tranh thủ đào tạo
người lao động theo các chương trình hỗ trợ kỹ thuật có thể bằng vốn nhà nước
hoặc được sự tài trợ của nước ngoài.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhất là việc
đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia bậc cao, những
chuyên viên kỹ thuật giỏi, đảm bảo mặt bằng quốc tế về năng lực trình độ.
3.3.3.3. Chính sách khoa học và công nghệ phát triển CNHT
Cùng với yếu tố chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố phát triển khoa học, công
nghệ trong CNHT là những yếu tố quyết định đến chất lượng sản phẩm của CNHT.
Không phát triển được hoạt động khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm CNHT, không thể đưa CNHT phát triển xa hơn, rộng hơn, sâu
hơn đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của sản phẩm của các ngành công
145
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghiệp chế tác, chế biến, lắp ráp tạo ra sản phẩm cuối cùng. Phát triển KH&CN là
yêu cầu tự thân của các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT muốn tồn tại và phát
triển.Tuy nhiên, tạo ra môi trường để khuyến khích các doanh nghiệp ĐTPT
KH&CN cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
Chính sách phát triển khoa học và công chính là yếu tố tạo ra môi trường đó. Nhằm
tạo ra môi trường kích thích phát triển KH&CN trong các doanh nghiệp hoạt động
trong CNHT, việc hoàn thiện chính sách phát triển KH&CN của Nhà nước cần
nghiên cứu tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ nguồn tài chính từ các quỹ phát triển KH&CN
quốc gia, các quỹ KH&CN ở địa phương tài trợ cho các doanh nghiệp tổ chức
nghiên cứu KH&CN phát triển sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng, đổi mới
dây chuyền sản xuất, liên kết với các doanh nghiệp FDI trong hoạt động khoa
học và công nghệ.
- Nghiên cứu phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa sản phẩm trí tuệ
- Hình thành thêm các vườn ươm KH&CN
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế,
tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở làm căn cứ cho việc định hướng phát triển.
Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản
phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế. Tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và
khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam, hỗ trợ
chi phí mua bản quyền cho các DNNVV phát triển CNHT. Xây dựng và thực
hiện các chương trình dự án hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp thông qua
chuyên giao công nghệ từ các công ty FDI. Khuyến khích chuyển giao công nghệ
hiện đại hỗ trợ phục vụ sản xuất linh kiện, phụ tùng. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển.
146
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
Hỗ trợ ngân sách để đào tạo lực lượng quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh
nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về quản lý chất lượng. Ưu đãi cao cho các
doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển
một số các doanh nghiệp nội địa phát triển CNHT… Từng bước phát triển các cơ
sở công nghiệp chế tạo linh kiện, phụ tùng, phụ kiện chi tiết máy, vật tư kỹ thuật
mà các ngành công nghiệp có nhu cầu; có chính sách ưu đãi ở mức cao nhất theo
quy định như: miễn giảm thuế thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ,
chuyển nhượng quyền sử dụng từ các bằng sáng chế....để khai thác có hiệu quả
công nghệ đã đăng ký ở nước ngoài.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, đa dạng hóa các loại hình
hợp tác để tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ hiện đại từ các đối tác
nước ngoài. Trong các dự án ĐTPT và trong hợp tác sản xuất kinh doanh cần
đặc biệt coi trọng yếu tố chuyển giao công nghệ mới, coi đây là một trong những
yếu tố để quyết định dự án đầu tư.
- Đồng thời, Việt Nam cũng thiết lập các kênh trao đổi thông tin giữa các
nhà lắp ráp nước ngoài với các nhà cung cấp trong nước để giảm khoảng cách về
thông tin và hiểu biết lẫn nhau. Những biện pháp này phải được áp dụng đồng
bộ với các doanh nghiệp, không phân biệt quốc tịch.
Đó chính là những giải pháp kích thích sự phát triển KH&CN của bản thân
các doanh nghiệp hoạt động trong các CNHT hiện nay ở Việt Nam.
3.3.3.4. Đơn giản hóa quy trình, thủ tục xét duyệt CNHT
Theo quy định của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Quyết định 1483/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ thì các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh
mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển phải tiến hành thủ tục hành chính và quy
trình quá phức tạp. Để có thể chứng nhận dự án sản xuất sản phẩm CNHT, các
147
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
doanh nghiệp phải chuyển dự án về Bộ Công thương để Hội đồng thẩm định thẩm
định dự án. Cách làm này vừa tốn kém chí phí và thời gian cho doanh nghiệp làm
giảm ý chí đầu tư của các doanh nghiệp. Nhằm khắc phục những hạn chế về quy
trình và thủ tục hành chính phê duyệt dự án phát triển CNHT, thời gian tới cần
thiết một mặt cần phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong việc xét duyệt
dự án nhằm giảm chi phí, thời gian cho doanh nghiệp có dự án ĐTPT CNHT bằng
cách nghiên cứu phân cấp công tác xét duyệt hoặc nghiên cứu thành lập các chi
nhánh xét duyệt của một vùng có nhiều dự án ĐTPT CNHT, đồng thời nghiên
giảm chi phí và thời gian xét duyệt dự án.
3.3.3.5. Hỗ trợ xúc tiến thị trường và hỗ trợ kết cấu hạ tầng
a. Về hỗ trợ xúc tiến thị trường
Hiện nay, các doanh nghiệp CNHT được miễn phí quảng cáo trên các trang
web của các sở Công thương. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng doanh nghiệp sử
dụng kênh quảng cáo qua các Sở là không đáng kể do các đối tượng tiếp cận thông
tin từ Sở Công thương là không nhiều. Mặt khác, một số sở Công thương không có
trang web bằng tiếng Anh hoặc tiếng nước ngoài nên không hỗ trợ được các doanh
nghiệp trong quảng bá sản phẩm ra nước ngoài, là thị trường cần thiết cho phát
triển CNHT. Vì vậy, đối với vấn đề xúc tiến thị trường đem lại hiệu quả cao thì
trong thời gian tới cần (i) Xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp FDI; (ii) Tăng
cường các trang thông tin (website) về tình hình, chính sách đầu tư và xúc tiến đầu
tư bằng các thứ tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng của những nước là các nhà đầu
tư chiến lược như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc các nhà đầu tư có tiềm năng; (iii) Bên
cạnh đó, đẩy mạnh việc quan tâm đối với những doanh nghiệp, nhà đầu tư đang
hoạt động tốt tại Việt Nam, có kim ngạch xuất khẩu lớn (thông qua các buổi tiếp
xúc, trao đổi, hỗ trợ,…) nhằm tạo hình ảnh tốt để thu hút các nhà đầu tư mới trong
linh vực CNHT nói riêng và ngành công nghiệp nói chung.
148
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
b. Hỗ trợ về kết cấu hạ tầng
Hiện nay kết cấu hạ tầng trong các khu kinh tế chủ yếu có diện tích lớn,
không phù hợp với quy mô vừa và nhỏ của các doanh nghiệp trong CNHT. Đây là
một trong những khó khăn đối với các địa phương trong việc tạo mặt bằng sạch
trong khu công nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư (diện tích
nhà xưởng 300m2), đồng thời khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng hạ tầng
nhà xưởng. Vì vậy, trong thời gian tới để kịp thời đón dòng vốn đầu tư vào CNHT
của Nhật Bản, và Hàn Quốc, cần hỗ trợ cho các địa phương trong việc quy hoạch
phát triển CNHT cũng như hỗ trợ cho các chủ đầu tư cơ sở hạ tầng để kịp thời quy
hoạch lại các khu kinh tế, khu công nghiệp với quy mô phù hợp theo yêu cầu của
các nhà đầu tư nước ngoài.
3.3.3.6. Nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống tài chính quốc gia nhất là thị
trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian tạo nhiều kênh cung cấp
nguồn tài chính cho CNHT
a. Đối với thị trường tài chính
Thị trường tài chính Việt Nam hiện có cấu trúc thị trường mất cân bằng, chưa
mang tính chất đầu tư dài hạn và chuyên nghiệp cao. Thông thường các nước có thị
trường tài chính tương đối phát triển thì tỷ trọng dự nợ trên GDP của trái phiếu
doanh nghiệp tương tương với tỷ trọng dư nợ trên GDP của trái phiếu chính
phủ.Tuy nhiên, ở Việt Nam thì tỷ trọng dư nợ trên GDP của trái phiếu chính phủ
lớn hơn nhiều lần so với tỷ trọng trên GDP của trái phiếu doanh nghiệp. Chẳng hạn
năm 2012 tỷ trọng dư nợ trên GDP của TPCP là 14,78 %GDP còn TPDN chỉ là
1,9%, trong khi đó ở Singapore dư nợ trên GDP của TPCP là 50%GDP và TPDN
là 31,6%. Có nhiều nguyên nhân. Cụ thể: (i) do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn
chỉnh; (ii) Sản phẩm và nhà đầu tư trên thị trường chưa đa dạng; (iii) Chưa có tổ
149
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp. Nói chung, dung lượng thị trường tài
chính Việt Nam còn bé.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, làm cho thị trường vốn thực sự là một
kênh huy động vốn đối với nhà ĐTPT CNHT, cần coi trọng hoàn thiện cấu trúc thị
trường vốn đảm bảo nâng cao tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp; tăng cường đầu tư
dài hạn vào thị trường chứng khoán và đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm và nhà đầu
tư trên thị trường tài chính
b. Đối với các tổ chức tài chính trung gian (hệ thống NH, hệ thống phi NH)
Hoạt động của các tổ chúc tài chính trung gian là hoạt động kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ, có nhiệm vụ thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội, tổ chức
cung ứng vốn cho nền kinh tế trong đó có CNHT. Chính vì vậy, nâng cao chất
lượng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian là một đòi hỏi khách quan đối
với quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung và phát triển CNHT nói riêng.
Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian đổi
mới phương thức cung ứng vốn cho nền kinh tế, bảo đảm khả năng thanh khoản
cao, hạn chế rủi ro tín dụng. Trong toàn bộ các tổ chức tài chính trung gian, với đặc
thù của Việt Nam, việc cung cấp vốn cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói
chung và cho CNHT nói riêng chủ yếu là hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay
hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn,
nhất là tình trạng nợ xấu, khả năng thanh khoản thấp. Điều này nếu không sớm giải
quyết thì sự đổ vỡ của hệ thống NH khó tránh khỏi. Chính vì vậy cấu trúc lại hệ
thống NH giải quyết vấn đề nợ xấu, nâng cao khả năng thanh khoản là một yều
khách quan của nền kinh tế.
Từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, giá lương
thực, thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản biến động phức tạp… tình hình kinh tế
vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp. Sau những khó khăn về
150
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
kinh tế năm 2008, 2009, bước sang năm 2010, nền kinh tế có dấu hiệu ổn định hơn,
nhưng từ đầu năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại
nổi lên: tỷ lệ lạm phát gia tăng rồi lại chuyển sang bắt đầu có dấu hiệu giảm so với
mục tiêu điều hành, thị trường trong nước thu hẹp, sức mua giảm mạnh, hàng tồn
kho lớn, lãi suất ngân hàng dù giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao; số doanh
nghiệp bị giải thể, đình đốn sản xuất tăng cao (đặc biệt là khối doanh nghiệp liên
quan đến xây dựng, bất động sản), nhiều lao động mất việc làm, thị trường bất
động sản trầm lắng kéo dài, thị trường chứng khoán ảm đạm...Trong khi đó, tình
hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn chứa đựng những bất ổn, ảnh hưởng đến nền
kinh tế nội địa.
3.3.3.7. Lựa chọn sản phẩm CNHT phù hợp với Việt Nam để thu hút FDI phát
triển CNHT
Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa quá trình sản xuất ngày
càng sâu sắc, hàng rào bảo hộ bị giảm thiểu, cạnh tranh rất gay gắt, không một
quốc gia nào có thể sản xuất tất cả các chi tiết, bộ phận cho một sản phẩm hoàn
chỉnh. Mỗi nước chỉ có thể sản xuất một số chi tiết bộ phận mà mình có lợi thế để
tập trung và chuyên môn hoá nhằm tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, việc phát triển CNHT của Việt Nam không thể thực
hiện theo cách dàn trải cho tất cả các ngành, mà cần phải phân chia thành các
nhóm ngành để xác định bước đi thích hợp với những trọng tâm trong từng giai
đoạn phát triển.
Để lựa chọn thu hút FDI cho CNHT, Việt Nam cần xác định rõ việc sản xuất
sản phẩm hỗ trợ nào, ở công đoạn nào cần ưu tiên tập trung thu hút vốn. Việc xác
định dựa trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn nhân lực về những điểm
yếu hiện nay của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt về mặt kỹ thuật và công
151
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
nghệ, về tầm quan trọng của sản phẩm hỗ trợ đó đối với ngành công nghiệp chính
ở trong nước.
3.3.3.8. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia ĐTPT CNHT
Doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò khá quan trọng trong phát triển CNHT đây là
kinh nghiệm cho thấy từ các nước có nền CNHT phát triển trên thế giới. Các doanh
nghiệp tư nhân này cần được ưu đãi hơn về thuế với các khoản tái đầu tư để giúp
họ tái sản xuất mở rộng. Nhưng áp lực về vốn là khá nan giản đối với họ vì thế
chính phủ cần có những động thái để hỗ trợ khuyến khích phát triển. Nước ta có
khoảng gần 90% các doanh nghiệp nhỏ và vừa , doanh nghiệp tư nhân, các doanh
nghiệp này là nòng cốt trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia, là lực lượng
tiên phong trong việc đón nhận chuyển giao công nghệ, tài chính, kỹ thuật, nhân
lực, quản lý từ các doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc phát triển liên kết.
Tạo dựng môi trường kinh doanh rõ ràng, bình đẳng thống nhất và ổn định,
tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng không phân biệt các thành phần kinh tế với
nhau, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách của
Nhà nước
Xây dựng và tiến tới bỏ kinh doanh độc quyền của các doanh nghiệp Nhà
nước, giảm tối đa cơ chế xin cho trong việc bố trí các dự án đầu tư, ưu đãi vay vốn
và ký kết hợp đồng cung ứng theo quan hệ quen biết hiện vẫn đang diễn ra ở một
số doanh nghiệp Nhà nước
3.3.3.9. Mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa và thúc đẩy xuất khẩu để kích thích
sản xuất sản phẩm CNHT
Để CNHT phát triển mạnh, đúng hướng, cần quan tâm tới việc mở rộng dung
lượng thị trường. Nếu khu vực thị trường của CNHT có quy mô nhỏ, sản xuất
những sản phẩm không có chủng loại đa dạng với sản lượng không lớn thì lượng
152
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
sản xuất của các ngành hỗ trợ sẽ nhỏ lại. Giá thành chế tạo tăng cao vấp phải sự từ
chối của chính khu vực sản xuất công nghiệp trong nước và gặp khó khăn khi
muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra nước ngoài.
Do CNHT chưa phát triển nên quy mô thị trường linh phụ kiện của Việt Nam
còn rất nhỏ bé. Một trong những phương cách để vượt qua sự hạn hẹp của thị
trường trong nước là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Đối với các nhà cung cấp linh
kiện điều này có thể tiến hành trực tiếp thông qua việc xuất khẩu linh kiện hoặc
tiến hành gián tiếp thông qua việc cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp nội địa có
khả năng xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng.
Sơ đồ 3.1. Khả năng xuất khẩu
Nguồn: Tổng hợp và nghiên cứu của NCS
Việc chính phủ tăng cường hợp tác, liên kết quốc tế, mở rộng quan hệ đối tác,
xây dựng và ký kết các hiệp định liên kết kinh tế với các quốc gia, khu vực để phối
hợp tận dụng năng lực sản xuất và phát triển CNHT của nhau... sẽ giúp phát triển
thị trường đầu ra cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT; tăng cường tiếp xúc
với các công ty - tập đoàn đa quốc gia ở cấp cao, tạo điều kiện cho một số ngành
công nghiệp có thể trở thành những mắt xích trong dây chuyền sản xuất toàn cầu,
153
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
làm điểm tựa để phát triển CNHT. Hội nhập kinh tế sẽ không chỉ tạo thuận lợi để
Việt Nam thu hút đầu tư của các công ty hàng đầu thế giới mà còn cả các công ty
bình thường. Những công ty bình thường có quan hệ với các công ty hàng đầu sẽ
đi theo các công ty đó vào Việt Nam và tham gia vào mạng lưới của các công ty đó
tại Việt Nam. Thêm vào đó, việc những công ty hàng đầu đầu tư vào Việt Nam
chính là một dấu hiệu bảo đảm cho những thuận lợi đối với đầu tư nước ngoài.
Điều này sẽ giúp Việt Nam thu hút được cả các công ty nào không tham gia mạng
lưới của các công ty hàng đầu.
Khi có nhiều công ty nước ngoài đầu tư hơn vào Việt Nam, đặc biệt là có
nhiều công ty hàng đầu thế giới, thì Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với FDI
mang theo công nghệ cao. Nếu Việt Nam được lựa chọn làm nơi tập trung sản xuất
một ngành nào đó trong quá trình tái cơ cấu các cơ sở sản xuất và bố trí lại các
tổng hành dinh khu vực, thì Việt Nam còn có nhiều cơ hội thu hút FDI mang theo
công nghệ cao hơn nữa trong đó có thể có những công nghệ nguồn.
Để có thể xuất khẩu trực tiếp các linh kiện thì các sản phẩm của Việt Nam cần
đạt được tính cạnh tranh về chi phí bằng cách khai thác triệt để các lợi thế cạnh
tranh như nhân công rẻ và cần cù. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của nhà nước trong việc
giảm hoặc bãi bỏ các loại thuế đánh vào các linh phụ kiện nhập khẩu để giảm giá
thành sản phẩm lắp ráp, giúp các sản phẩm này có thể cạnh tranh với sản phẩm của
các nước khác và xuất khẩu. Nên có chính sách hỗ trợ đối với các linh kiện sản
xuất trong nước để tạo mặt bằng cạnh tranh lành mạnh.
154
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong mô hình kinh tế hỗn hợp có sự kết hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay
hữu hình, bất cứ một hoạt động kinh tế, đều phải có sự can thiệp của Nhà nước
dưới các hình thức, mức độ khác nhau. Đối với CNHT của Việt Nam đang trong
thời kỳ phát triển sơ khai với những bước đi ban đầu không thể phát triển một cách
tự phát hoàn toàn theo sự điều chỉnh của các quy luật của kinh tế thị trường mà cần
thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước đối
với phát triển CNHT trong nền kinh tế hỗn hợp là sự can thiệp bằng các biện pháp
kinh tế, bằng kế hoạch định hướng, bằng hệ thống chính sách. Một trong những hệ
thống chính sách đó là hệ thống chính sách tài chính công. Vào những năm 90 của
thế kỷ XX, ở Việt Nam Nhà nước đã sử dụng hệ thống chính sách tài chính công
can thiệp vào quá trình phát triển CNHT theo hướng khuyến khích thúc đẩy với
những ưu tiên trong sách thuế, chính sách chi tiêu của Chính phủ. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, song theo nhiều nhận định của các chuyên gia kinh
tế, các nhà quản lý cũng như doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNH, việc thực
thi hệ thống các chính sách tài chính đối với phát triển CNHT chưa mang lại hiệu
quả như mong muốn. Điều này có nghĩa là trong giai đoạn tới cần có những nghiên
cứu đề xuất hoàn thiện, đổi mới các giải pháp về thống chính sách tài chính công
thúc đẩy phát triển CNHT đạt được hiệu quả tốt hơn. Việc triển khai thực hiện
chương 3 của luận án là hướng tới mục tiêu đó. Để đạt được hiệu quả sử dụng hệ
thống chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT theo quy hoạch phát triển
đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, chương 3 đã nghiên cứu đưa ra các giải
pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách tài khóa, chính sách tín dụng đầu tư của nhà
nước, chính sách sử dụng hệ thống các quỹ TCNN ngoài NSNN, cùng với đó
chương 3 cũng đã nghiên cứu đề xuất các chính sách nhằm bổ trợ cho việc thực
hiện một cách tốt nhất của hệ thống chính sách tài chính công.
155
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
KẾT LUẬN
CNHT có vai trò quan trọng, là nền tảng cơ sở để phát triển ngành công
nghiệp của mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
Tuy nhiên, cho đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, các nhà
quản lý, CNHT của Việt Nam đang ở giai đoạn sơ khai. Số lượng các doanh
nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực CNHT còn hạn chế, các sản phẩm của
CNHT chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành công
nghiệp chế tác, chế biến lắp ráp tạo ra sản phẩm cuối cùng phục vụ sản xuất và
tiêu dùng. Đa phần các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm
của CNHT đều phải nhập ngoại, giá gia tăng của CNHT nội địa thấp, chưa có khả
năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thực trạng này nếu không được giải
quyết một cách bài bản sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến chủ trương CNH, HĐH
của Đảng và Nhà nước để đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công
nghiệp, có nền công nghiệp tương đối hiện đại. Hơn nữa, nếu không thúc đẩy mạnh
mẽ CNHT của nước nhà cũng không thể thực hiện được chính sách hút nguồn đầu
tư trực tiếp nước ngoài khi mà lợi thế giá rẻ về nhân công không còn, yêu cầu cung
cấp sản phẩm CNHT với chất lượng cao ngày càng gia tăng.
Nhận thức được hiện trạng và hệ lụy của hiện trạng CNHT của nước nhà,
ngay từ những năm thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề
ra và thực thi nhiều chính sách nói chung và chính sách tài chính công nói riêng
nhằm thúc đẩy phát triển CNHT, song nhìn chung hệ thống chính sách đó chưa đến
ngưỡng có khả năng thúc đẩy mạnh mẽ CNHT của nước nhà, trong đó có hệ thống
chính sách tài chính công. Có thể nói việc thi hành hệ thống chính sách tài chính
công trong những năm qua phản ánh sự quan tâm nhất định của Nhà nước đối với
phát triển CNHT. Tuy nhiên, qua phân tích, đánh giá thực trạng thực thi hệ thống
chính sách tài chính công phát triển CNHT ở nước ta thời gian qua cũng còn nhiều
156
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Nghiên cứu hệ thống chính sách tài
chính công thúc đẩy phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020, luận án đã
tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây:
Phân tích các vấn đề lý thuyết và thực tiển về CNHT và phát triển CNHT.
Phân tích lý thuyết và thực tiễn áp dụng hệ thống chính sách tài chính công
thúc đẩy phát triển CNHT.
Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp hoàn thiện và đổi mới hệ thống tài
chính công thúc đẩy phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020.
Nhìn chung với cách tiếp cận có tính khoa học và thực tiễn, luận án đã đề cập
các vấn đề trên tương đối cụ thể và gắn chặt với diễn biến của đối tượng nghiên
cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy
phát triển CNHT là vấn đề rộng, phức tạp và đang có nhiều thay đổi. Do đó, các
vấn đề mà luận án tập nghiên cứu giải quyết khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tác giải của bản luận án mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của hội đồng
chấm luận án, cũng như những ai quan tâm đến bản luận án này.
157
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1.
Bùi Thị Lan Anh (2006), CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp
Việt Nam, Đề án Môn Kinh tế và quản lý công nghiệp, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội.
2.
Nguyễn Hoàng Ánh (2008), Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng
tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam, Đề tài nghiên cứu
cấp Bộ - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
3.
Trương Chí Bình (2006), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển CNHT
Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của liên kết kinh doanh giữa doanh
nghiệp vừa và nhỏ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Công nghiệp.
4.
Trương Chí Bình (2007), Kết nối công nghiệp thương mại trong bối cảnh
toàn cầu hoá, Tạp chí Công nghiệp số 9.
5.
Trương Chí Bình (2007), Nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình Cụm liên kết
công nghiệp (industrial cluster) để phát triển CNHT Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu cấp Bộ, Bộ Công Thương.
6.
Trương Thị Chí Bình (2011), Chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở
Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Chính sách tài chính phát triển CNHT, Viện
chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính;
7.
Bộ Công Thương (2009), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009;
8.
Bộ Công Thương (2010), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch năm 2009 và kế hoạch năm 2010;
158
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
9.
Bộ Công Thương (2008), Báo cáo tóm tắt chiến lược Công nghiệp Việt Nam
đến 2020.
10. Bộ Công thương (2013), Quyết định số 5540/QĐ-BCT về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Công Thương giai đoạn
2011 - 2020.
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( 2014),xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư trong lĩnh
vực CNHT
12. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước
ASEAN trong giai đoạn 2008-2013.
13. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 214/2010/TT-BTC về hướng dẫn chính
sách thuế nhập khẩu ưu đãi đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản
phẩm cơ khí trọng điểm và để đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm.
14. Bộ Tài chính (2011), Quyết đinh số 0391/QĐ-BCT về việc Quy hoạch phát
triển ngành công nghiệp cơ điện tử Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, có
xét đến năm 2025.
15. PGS. TS. Dương Đăng Chinh, TS Phạm Văn Khoan (2014), Giáo trình quản
lý tài chính công, NXB Tài chính;
16. Chính phủ (2014), Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công
nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
17. Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg Về chính sách phát triển
một số CNHT của Thủ tướng Chính phủ;
159
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
18. Chính phủ (2011), Quyết định số 1483/QĐ-TTg về ban hành danh mục sản
phẩm CNHT ưu tiên phát triển.
19. Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển
một số CNHT;
20. Chính phủ (2011), Quyết định 1483/QĐ- TTg ngày 26/8/2011 của thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển;
21. Chính phủ (2012), Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 18/4/2012 của Thủ
tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020.
22. Chính phủ (2012), Quyết định số 12/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số CNHT.
23. Hoàng Văn Châu (2008), Chính sách phát triển CNHT của Việt Nam” Đề tài
cấp nhà nước 2008.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia.
25. Dương Đình Giám (2007), Liên kết kinh tế một nhu cầu cấp bách đối với
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Tạp chí Công nghiệp số 1/2007;
26. Hiệp hội các doanh nghiệp điện tử Việt Nam (2007), Chiến lược phát triển
ngành điện tử - tin học ứng dụng công nghệ cao của Việt Nam.
27. Kenichi K. (2005), Mô hình hỗ trợ liên kết cho doanh nghiệp của Nhật Bản,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
28. Kyoshiro Ichikawa (2005), Xây dựng và tăng cường CNHT tại Việt Nam,
Báo cáo điều tra, Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà Nội.
160
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
29. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007), Phát triển CNHT Vịêt Nam làn
sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, Tạp chí kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương số 21-22;
30. Ngân hàng Nhà nước (2014), Báo cáo tình hình cho vay của các tổ chức tín
dụng từ năm 2010;
31. Nông Thùy Linh (2006), Giải pháp phát triển CNHT cho ngành xe máy của
Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp , Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
32. Mitarai H. (2005), Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện điện tử của các
nước Asean và bài học rút ra cho Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
33. Mori J. (2005), Chiến lược mua sắm tối ưu: Các yếu tố quyết định tỷ lệ nội
địa hoá trong bối cảnh cạnh tranh và liên kết khu vực, NXB Lý luận chính
trị, Hà Nội
34. Mori J. (2005), Hiểu cụm từ “CNHT” phải xuất phát từ lý thuyết kinh tế vĩ
mô và thực tiễn sản xuất, kinh doanh, Hà Nội
35. Mori J. (2007), Thiết kế cơ sở dữ liệu cho CNHT, NXB Lý luận chính trị, Hà
nội
36. FTU (2010), Công nghiệp hỗ trợ: kinh nghiệm từ các nước và giải pháp cho
Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông
37. Ketels C., Nguyen Dinh Cung, Nguyen Thi Tue Anh, Do Hong Hanh
(2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, Hà Nội
38. Mori J. và Nguyễn Thị Xuân Thuý (2008), Phát triển nguồn nhân lực công
nghiệp phục vụ công nghiệp hoá định hướng FDI ở Việt Nam”, NXB Lý
luận chính trị, Hà Nội
161
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
39. Ngân hàng phát triển châu Á - ADB (2007), Triển vọng phát triển Châu Á:
Việt Nam, kỷ yếu hội thảo Khoa học.
40. Nguyễn Duy Nghĩa (2005), Đôi điều về CNHT, http://www.ven.vn.
41. Hồ Lê Nghĩa (2007), Liên kết sản xuất trong ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam – Một số vấn đề đặt ra, Tham luận Hội thảo Đánh giá tác động hội
nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, Hà Nội;
42. Hồ Lê Nghĩa (2007), Liên kết sản xuất quốc tế trong phát triển ngành điện
tử Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Công Thương, HN;
43. OECD (2008), Tăng cường vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
chuỗi giá trị toàn cầu, Hội thảo toàn cầu của OECD về chuỗi giá trị.
44. Ohno K. (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thailand, Malaysia
và Nhật bản, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội
45. Ohno K. và Nguyễn Văn Thường chủ biên (2005), Hoàn thiện chiến lược
phát triển công nghiệp Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
46. Tuấn Quang (2006), CNHT đứa con suy dinh dưỡng, http://www.tcvn.net.
47. Schelling T. (2007), Chiến lược xung đột, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
48. Sở Công Thương Đồng Nai (2007), Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp
năm 2007, phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ năm 2008.
49. Stiglitz J. E. (2008), Toàn cầu hoá và những mặt trái, NXB Trẻ, TP HCM.
50. Vũ Nhữ Thăng (2013) - Giải pháp tài chính phát triển CNHT, đề tài NCKH
cấp Bộ - Bộ Tài chính
51. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường Công nghiệp
hoá ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
52. Trần Văn Thọ (2006), Công nghiệp hoá Việt Nam trong trào lưu khu vực ở
Đông Á, Thời báo kinh tế Sài gòn số 34.
53. Trần
Văn
Thọ
(2006),
CNHT
mũi
đột
phá
chiến
lược,
http://www.vietbao.vn.
54. Nguyễn Thị Xuân Thuý (2007), CNHT, tổng quan về các khái niệm, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội;
55. Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2007), Kinh tế Việt
Nam năm 2007 - Năm đầu tiên trở thành thành viên tổ chức Thương mại Thế
giới, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội;
56.
Duy Tiến (2012), Để ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam khởi sắc, Báo
VOV;
57. Ketels C., Nguyen Dinh Cung, Nguyen Thi Tue Anh, Do Hong Hanh
(2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, Hà Nội
58. Tổng Công ty Điện tử tin học Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết năm 2005.
Hà Nội;
59. Tổng cục Hải quan, Báo cáo thường niên các năm từ 2010 – 2014;
60. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tổng điều tra doanh nghiệp các năm 2010,
2011, 2012, 2013, 2014;
61. Tổng cục Thống kê (2010, 2011, 2012, 2013,2014), Niên giám thống kê,
NXB Thống kê, Hà Nội;
62. Tổng cục Thống kê (2006), Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát
triển, Hà Nội;
63. Nguyễn Kế Tuấn (2008), Kinh tế Việt Nam năm 2008 - Một số vấn đề về
điều hành kinh tế vĩ mô. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
163
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
64. Phan Đăng Tuất, (2009), Chiến lược điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp
Việt Nam, Báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng.
65. Phan Đăng Tuất (2005), Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật
Bản - Con đường nào cho các DN Việt Nam. Bài trình bày tại Hội thảo về
CNHT do JETRO tổ chức 25/11/2005, Hà Nội;
66. Phan Đăng Tuất (2007), Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến
năm 2010, tầm nhìn 2020, Bộ Công nghiệp, Hà Nội;
67. Phan Đăng Tuất (2008), Kế hoạch hành động về phát triển CNHT. Bài trình
bày tại diễn đàn Liên kết Hội nhập cùng phát triển, VCCI, 18/11/2008, HN;
68. Phan Đăng Tuất (2009), CNHT-Vấn đề trọng đại, Báo Công Thương số
6/2014.
69. Phan Đăng Tuất, (2009), Phát triển Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trên
địa bàn thành phố Hà Nội, Đề tài cấp thành phố, Ủy ban Nhân dân thành
phố Hà Nội, Hà Nội;
70. Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo Thống Kê kinh tế-xã
hội Hà Nội và cả nước năm 2013 và 11 tháng 2014;
71. VDF (2007), CNHT Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất, Thành
phố Hồ Chí Minh;
72. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2007), Tài liệu hội
thảo Chính sách Công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Hà Nội.
B. Tiếng Anh
73. Abonyi G. (2007), Linking greater Mekong subregion Enterprises to
international Market - The role of global value chains, International
production networks, New York.
164
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
74. Acemoglu, D., Antras, P., and Helpman, E. (2007), Contracts and
Technology Adoption, American Economic Review, 97(3), 916-943.
75. Aghion, P., Burgess, R., Redding, S. J., and Zilibotti, F. (2008), The
Unequal Effects of Liberalization: Evidence from Dismantling the License
Raj in India, American Economic Review, 98(4), 1397–1412.
76. Truong Chi Binh (2008), Factors of Agglomeration in Vietnam and
Recommendations, in Analyses of Industrial Agglomeration, Production
networks and FDI Promotion, edited by Ariff M., ERIA Research project
report 2007, Vol. 3, 155-190.
77. Bureau of Supporting Industries Development (2009), Future Prospects of
supporting industries in Thailand, Ministry of Industry, Thailand
78. Costinot, A. (2009), On the Origin of Comparative Advantage, Journal of
International Economics, Vol. 77, 255-264.
79. Fujita, M., Krugman, P., and Venables, A. (1999), The Spatial Economy,
MIT Press Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications”,
Asian Economic Policy Review, Vol. 1, 326-344.
80. Kimura F. (2009), The Spatial Structure of Production/Distribution
Networks and Its Implication for Technology Transfers and Spillovers, ERIA
Discussion Paper, No. 2009-02.
81. Kimura F. (2008), The Mechanics of Production Networks in Southeast
Asia: The Fragmentations Theory Approach,in Ikuo Kuroiwa and Toh Mun
Heng (eds.) Production Networks and Industrial Clusters: Integrating
Economies in Southeast Asia, IDE-JETRO and ISEAS, 33-53.
165
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trương Minh Tuệ (2013), Đổi mới chính sách vĩ mô nhằm khuyến khích
các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài
chính kế toán
2. Trương Minh Tuệ (2014), Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam – Cần
được ưu đãi tài chính hơn nữa, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán
3. Trương Minh Tuệ (2012), Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá
trong điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam,
tham gia đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài Chính.
166
Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Mail : luanvanaz@gmail.com
Phone: 0972.162.399