Academia.eduAcademia.edu
BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH TRƯƠNG MINH TUỆ LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Mà SỐ: 62.34.02.01 HÀ NỘI - 2015 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH TRƯƠNG MINH TUỆ LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Mà SỐ: 62.34.02.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS. Lê Văn Ái 2. TS. Nguyễn Thị Lan HÀ NỘI - 2015 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án " Chính sách tài chính nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam " là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu sử dụng trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, có xuất xứ rõ ràng và được ghi trong tài liệu tham khảo. TÁC GIẢ LUẬN ÁN TRƯƠNG MINH TUỆ Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 CHƯƠNG 1. ...........................................................................................................11 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ..............................11 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ.......................... 11 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm CNHT.................................................................... 11 1.1.2. Vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng giá trị .................... 17 1.1.3. Nội dung và điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ .............................. 19 1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ......... 25 1.2.1. Tài chính công và chính sách tài chính công .......................................... 25 1.2.2. Những tác động của chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ................................................................................................... 40 1.2.3. Những tiêu chí đánh giá tác động của chính sách tài chính công đến phát triển công nghiệp hỗ trợ................................................................................... 45 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng việc sử dụng chính sách tài chính công phát triển công nghiệp hỗ trợ ........................................................................................... 49 1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM .................. 53 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới ............................................ 53 1.3.2. Bài học về sử dụng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam ............................................................................ 59 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................63 CHƯƠNG 2. ...........................................................................................................64 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY .................64 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM ................................64 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM 64 2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ............................................................................................... 75 2.2.1. Văn bản pháp luật thực thi chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ........................................................................................... 75 2.2.2. Thực tiễn áp dụng chính sách tài chính công trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở một số ngành cụ thể............................................................................ 79 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM ..................................... 86 2.3.1. Tình hình thực hiện chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam................................................................................. 86 2.3.2. Đánh giá chung.....................................................................................100 2.3.3. Những hạn chế ......................................................................................103 2.3.4. Các nguyên nhân...................................................................................105 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................................110 CHƯƠNG 3. .........................................................................................................111 GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 ...............................111 3.1. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP ............................................................................................................................111 HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020...............................................................111 3.1.1. Cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2020111 3.1.2. Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020 .......................112 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN NĂM 2020......114 3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ...................................................................118 3.3.1. Một số giải pháp chung.........................................................................118 3.3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện chính sách tài chính công phục vụ phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 .....................................................125 3.3.3. Các giải pháp có tính bổ trợ..................................................................142 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................................155 KẾT LUẬN...........................................................................................................156 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................158 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1.1 - Mô hình phân chia của các công nghiệp hỗ trợ ................................. 17 Sơ đồ 1.2: công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị của nhà lắp ráp........................ 18 Sơ đồ 1.3. Sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ......................................... 19 Sơ đồ 1.4: Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logic............ 28 Bảng 2.1. Kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2010-2014 ................................................................................................. 888 Biểu đồ 2.1: Tổng hợp kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2010-2014 .................................................................... 899 Sơ đồ 3.1. Khả năng xuất khẩu .........................................................................1533 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CNHT: Công nghiệp hỗ trợ JETRO: Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á CNĐT: Công nghiệp điện tử NCKH: Nghiên cứu khoa học NCS: Nghiên cứu sinh ĐTPT: Đầu tư phát triển CNH & HĐH: Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP: Tổng thu nhập quốc dân KTQT: Kinh tế quốc tế TCNN: Tài chính Nhà nước NSNN: Ngân sách Nhà nước FTA: Hiệp định thương mại tự do BHXH: Bảo hiểm xã hội KT-XH: Kinh tế - xã hội TNDN: Thu nhập doanh nghiệp GTGT: Giá trị gia tăng Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 TSCĐ: Tài sản cố định WTO: Tổ chức Thương mại Quốc tế USD: Đô la Mỹ TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh ODA: Đầu tư gián tiếp nước ngoài CKD: Việc lắp ráp ôtô sử dụng hoàn toàn các linh kiện đồng bộ từ nguồn nhập khẩu. IKD: Việc lắp ráp ôtô sử dụng kết hợp các linh kiện không đồng bộ từ nguồn nhập khẩu và các linh kiện nội địa hoá SKD: Việc lắp ráp ôtô sử dụng chủ yếu các linh kiện nhập khẩu, kết hợp một số ít linh kiện nội địa hoá VDB: Ngân hàng Phát triển Việt Nam EU: Liên minh châu Âu WB: Ngân hàng thế giới KCN: Khu công nghiệp KCX: Khu chế xuất KH&CN: Khoa học và công nghệ Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài nghiên cứu Hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, là một công cụ giúp cho các nền kinh tế phát huy nội lực để phát triển. Nhờ hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có thể tận dụng được nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý và những tiến bộ khoa học kỹ thuật của các chủ thể kinh tế trên thế giới để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, để thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế thì ngoài cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, chính sách đầu tư thông thoáng, các quy định, thủ tục pháp lý đơn giản, hiệu quả, đồng bộ, kịp thời có thể hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như doanh nghiệp trong nước còn yêu cầu một sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ các doanh nghiệp nội địa. Mặt khác, khi trình độ phân công lao động quốc tế và phân chia quá trình sản xuất đã đạt đến mức độ rất cao, thì không một sản phẩm công nghiệp nào còn được sản xuất tại một không gian, địa điểm hay một công ty duy nhất của một quốc gia mà được phân chia thành nhiều công đoạn ở các công ty đặt tại các vùng lãnh thổ, quốc gia, châu lục khác nhau. Thực tiễn đã chứng minh, một trong những tiền đề quan trọng để thu hút và hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp nói riêng, và nền kinh tế nói chung, chính là sự phát triển mạnh mẽ của các CNHT. Nói cách khác, một nền CNHT đồng bộ có khả năng đáp ứng những yêu cầu về số lượng và chất lượng của nền công nghiệp chế tác và lắp ráp được coi “ bà đỡ” cho việc phát triển công nghiệp chế tác lắp ráp tạo ra sản phẩm hàng hóa cuối cùng đưa vào lưu thông… Trong thời gian qua ở Việt Nam, môi trường đầu tư - kinh doanh từng bước được cải thiện, phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế. Việt Nam đang trở thành 1 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 điểm hấp dẫn đầu tư ở khu vực châu Á, trong đó có ngành công nghiệp. Song, Việt Nam còn nhiều vấn đề phải giải quyết để đón nhận có hiệu quả làn sóng đầu tư mới này, trong đó có vịêc phát triển CNHT. Ở Việt Nam, phát triển CNHT là một vấn đề mới được nhận thức và quan tâm trong những năm gần đây, cho dù sản phẩm của nó vẫn có mặt trong các doanh nghiệp nhà nước sản xuất công nghiệp. Về tổng thể CNHT ở Việt Nam vẫn chưa được định hình rõ nét và càng thiếu các cơ chế tài chính cần thiết để hỗ trợ phát triển CNHT. Mặc dù tính pháp lý ở mức thấp, nội dung còn chung chung và còn chậm trễ, song Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 và Quyết định 1483/2011/QĐ-TTg ngày 26/08/2011 của Thủ tướng Chính phủ được coi là luồng gió mới đối với vấn đề nhận thức và chính sách phát triển CNHT Việt Nam. Hơn nữa, cả trong lý thuyết và thực tế quản lý nhà nước, còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu sâu, toàn diện cần thiết về phát triển CNHT nhìn từ góc độ tài chính. Trong bối cảnh đó, đề tài “Chính sách tài chính nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam” là có tính cấp thiết cả về khoa học và thực tiễn. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” đã được nhắc đến trong “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia” [78]. Trong đó, cụm từ này đã được phân tích như là một trong năm yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia [78]. Nhưng các nghiên cứu về CNHT nhiều nhất vẫn là ở các quốc gia Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, nơi ra đời khái niệm CNHT. Tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản đã được phân tích trong “Nền kinh tế không biên giới” [79]; Trong công trình đó, nhóm tác giả Fujita, M., Krugman, P., 2 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 and Venables, A. (1999) đã chỉ ra chi nhánh các tập đoàn Nhật Bản ở châu Á, đặc biệt là Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Inđô-nê-xi-a đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản. Năm 2008, Kimura F. đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT trong cuốn “The Mechanics of Production Networks in Southeast Asia: The Fragmentations Theory Approach” [81]. Đây là tài liệu hữu ích cho các nước đang phát triển về chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các chính sách này tập trung vào một số điểm chính: thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT, quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các hỗ trợ mạnh mẽ hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho liên kết doanh nghiệp, như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT. Năm 1998, nghiên cứu của Goh Ban Lee, đại học Sains, Ma-lay-xi-a “Liên kết giữa các Tập đoàn đa quốc gia và các CNHT nội địa” (Linkage between the Multinational Corporations and Local Supporting Industries) đã đánh giá rất cao vai trò của chính sách phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết của chính phủ Ma-lay-xi-a giữa các tập đoàn Đầu tư giáo dục của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa sản xuất linh kiện cho ngành điện tử. Năm 2002, Noor, Halim, Clarke, Roger, Driffield và Nigel Năm 2002, Noor, Halim, Clarke, Roger, Driffield và Nigel chỉ ra vai trò quan trọng của hỗ trợ từ phía chính phủ cho đổi mới và sáng tạo của các doanh nghiệp nội địa trong phát triển cung ứng cho ngành điện tử, trong: “Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp điện và điện tử Ma-lay-xi-a” (Multinational cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysian Electronics and Electrical Industry). 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước: 3 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Tháng 3 năm 2004, báo cáo nghiên cứu điều tra “Xây dựng và đẩy mạnh CNHT ở Việt Nam” do JETRO thực hiện được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá về các CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNHT ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù nhận thức của các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp thời điểm đó còn rất thấp, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội. Năm 2004, Nguyễn Kế Tuấn đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, “Phát triển CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” đã đề cập đến: khái niệm, vai trò, các nhân tố tác động đến phát triển CNHT, đề xuất một số chính sách chủ yếu về phát triển CNHT, đặc biệt là quan điểm để lựa chọn xây dựng chính sách phát triển CNHT cho Việt Nam. Năm 2005, Trần Văn Thọ, “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam”, đã phân tích con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam theo hướng toàn cầu hoá, thông qua phát triển CNHT như là lĩnh vực của hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tại Hội thảo về CNHT của JETRO. Năm 2005, Phan Đăng Tuất, trong “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho Việt Nam”, trong “Kế hoạch hành động về phát triển CNHT Việt Nam” tại Diễn đàn Liên kết hội nhập cùng phát triển. Năm 2008 và trong “CNHT, vấn đề trọng đại” đăng trên Báo Công Thương số Tết 2009, đã khẳng định các vai trò quan trọng của CNHT đối với nền kinh tế, yêu cầu về DNNVV và sự hợp tác với Nhật Bản trong phát triển CNHT ở Việt Nam. Năm 2007, Bộ công nghiệp (nay là Bộ công thương) đã phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020. Trong quy hoạch này, lần đầu tiên khái niệm CNHT được chính thức hoá ở Việt Nam. Theo quy hoạch này, kế hoạch và các giải pháp phát triển CNHT: tạo dựng môi trường đầu 4 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 tư, phát triển khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, liên kết doanh nghiệp đã được đề xuất cho 5 ngành công nghiệp ưu tiên: Điện tử tin học, Dệt may, Da giày, sản xuất lắp ráp ô tô, Cơ khí. Năm 2014, Bộ trưởng Bộ công thương đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có 3 lĩnh vực ưu tiên: Linh kiện phụ tùng, Dệt may - da giày, Công nghệ cao. Cuốn “Xây dựng các CNHT ở Việt Nam”, GS. Ohno chủ biên năm 2007, đã trình bày các kết quả khảo sát về thực trạng các CNHT. Cuốn “CNHT Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản”; Nguyễn Thị Xuân Thuý đã tổng kết lịch sử ra đời của khái niệm CNHT và đề xuất khái niệm cho Việt Nam trong chương 2 “CNHT, Tổng quan về khái niệm và sự phát triển”; đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT ở chương IV “Thiết kế cơ sở dữ liệu cho CNHT”. Năm 2005, trong cuốn sách “Cải thiện hoạch định chính sách công nghiệp ở Việt Nam”, Mitarai với chương “Các vấn đề của ngành công nghiệp điện tử ở các nước ASEAN và khuyến nghị với Việt Nam” đã phân tích bài học về tận dụng lợi thế cạnh tranh quốc gia của các nước ASEAN khi phát triển CNĐT, Mori trong chương “Chiến lược mua sắm tối ưu: Các yếu tố quyết định tỷ lệ nội địa hoá trong bối cảnh cạnh tranh và liên kết khu vực” đã chỉ ra các vấn đề liên quan đến phát triển CNHT cho Việt Nam ở một số ngành, trong đó có CNĐT. Năm 2006, Bộ Bưu chính Viễn thông đã công bố “Nghiên cứu xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử tại Việt Nam giai đoạn 2006 -2010” với các kết quả phân tích đánh giá kỹ lưỡng ngành CNĐT do Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử thực hiện năm 2006 và đề xuất các định hướng phát triển đến năm 2010, trong đó có các chính sách quan trọng cho CNHT. 5 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Năm 2008, Đại học Ngoại thương có đề tài “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam” do Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, Việt Nam nên tập trung vào công đoạn sản xuất, là khâu có thể tranh thủ sự hợp tác của các tập đoàn điện tử quốc tế, chứ chưa nên tham gia vào khâu thiết kế, phân phối của chuỗi giá trị. Ngoài ra, có thể kể đến các công trình đã nghiên cứu về CNHT và tài chính thúc đẩy CNHT như sau: - Vũ Nhữ Thăng(2013) - Giải pháp tài chính phát triển CNHT, đề tài NCKH cấp Bộ, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách- Bộ Tài chính. Đây là đề tài giải quyết những vấn đề về tài chính đối với phát triển CNHT. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này còn nặng về phân tích thực tế, phần lý luận về nội hàm CNHT và công cụ Tài chính không được nhóm tác giả tập trung nghiên cứu nhiều. - Hoàng Văn Châu (2008), Chính sách phát triển CNHT của Việt Nam, Đề tài NCKH cấp nhà nước. Công trình nghiên cứu dưới góc độ chính sách, phần nghiên cứu khía cạnh lý luận về tài chính tác động đến nền CNHT chưa được nhiều. - Trương Đình Tuyển – Bộ Thương mại “ Phát triển CNHT Kiến nghị cách tiếp cận và chính sách cho Việt Nam” tại cuộc hội thảo do Viện Chiến lược và chính sách – Bộ tài chính phối hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp đồng tổ chức tháng 12 năm 2011 tại Hà nội. Đây là bài tham luận có nhiều ý tưởng độc đáo xét trên góc độ lý luận cũng như thực tiễn. - Trương Thị Chí Bình (2011),“Chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở Việt Nam” Hội thảo khoa học Viện Chiến lược và chính sách - Bộ tài chính phối hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp.Bài tham luận nêu bật những bất cập của chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở Việt Nam và đề 6 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 cập đến kinh nghiệm sử dụng chính sách tài chính thúc đẩy phát triển CNHT ở một số nước. Đặc biệt bài tham luận phân tích làm rõ những bất cập về chính sách chung và chính sách tài chính đối với vấn đề phát triển CNHT thể hiện trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ, từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện. - Trần Đình Thiên và Lê Văn Hưng (2011)- CNHT: khái niệm, kinh nghiệm phát triển và gợi ý- Hội thảo Viện Chiến lược và chính sách - Bộ Tài chính phối hợp với Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp. Những quan niệm về CNHT ở các nước và trình bày chứng kiến của hai tác giả về CNHT dưới góc độ nhận thức về khái niệm, đặc biệt bài tham luận đã đưa ra những gợi ý về phát triển CNHT của Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước. - Vũ Nguyên Thức (2014) “Phát triển CNHT – Gỡ từ cơ chế, chính sách”Tạp chí Kinh tế- dự báo. Bài báo phân tích vị trí tầm quan trọng của cơ chế chính sách đối với CNHT, phân tích những bất cập trong cơ chế, chính sách đối CNHT ở Việt Nam và định hướng các giải pháp. 2.3 Khoảng trống trong nghiên cứu Các nghiên cứu kể trên đã phản ánh được nhiều mặt về CNHT và phát triển CNHT ở Việt Nam, trong đó có công nghiệp điện tử. Chính sách tài chính công tác động đến phát triển CNHT. Đây đều là các tài liệu có giá trị tham khảo cao. Tuy nhiên, ở tầm vĩ mô, các nghiên cứu chưa đề cập đến bản chất của CNHT, chưa phân tích thấu đáo các yếu tố tác động đến phát triển CNHT, chưa đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ tác động của chính sách tài chính công phát triển CNHT. Từ đó chưa chỉ ra các căn cứ để xác định cách thức phát triển CNHT cho quốc gia đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là trước tác động ngày càng gia tăng của toàn cầu hoá. Ở quy mô ngành, các nghiên cứu mới chỉ phân tích CNHT trong nội vi ngành công nghiệp hạ nguồn như CNĐT, mà chưa đặt trong tổng thể các ngành 7 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 cung ứng khác. Vì vậy, các đề xuất chính sách và giải pháp phát triển CNHT ở Việt Nam vẫn chưa thuyết phục và thiếu tính khả thi. Về tổng thể, các nghiên cứu trên chưa tập trung sâu và toàn diện vào nghiên cứu các chính sách tài chính phát triển CNHT trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam, nhất là chưa làm rõ những bất cập và định hướng khắc phục để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hỗ trợ phát triển CNHT của những chính sách này. 3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhằm phát triển CNHT thông qua tác động của các công cụ tài chính công. - Phân tích một số lý luận cơ bản về CNHT; vai trò và tác động của cơ chế, chính sách tài chính trong phát triển CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Đánh giá thực tế xây dựng và thực thi chính sách tài chính hỗ trợ phát triển CNHT để luận giải và minh chứng cho những tồn tại và bài học thực tiễn CNHT ở Việt Nam. - Đề xuất quan điểm, mục tiêu và những giải pháp tài chính chung chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của CNHT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT và các giải pháp tài chính nhằm phát triển CNHT; - Phạm vi nghiên cứu 8 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 + Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các giải pháp về Tài chính công như: Thuế, chi NSNN, tín dụng và các quỹ tài chính Nhà nước ngoài NSNN nhằm phát triển CNHT; Nói đến chính sách tài chính công bao giờ cũng gắn liền với nhà nước. Đối với Việt Nam nền công nghiệp hỗ trợ đang trong bước đi ban đầu. Chính vì vậy, để có thể phát triển được nhất thiết phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước. Với cách đặt vấn đề như vậy, mặc dù là tên đề tài luận án là chính sách tài chính, song nghiên cứu sinh giới hạn phạm vi nghiên cứu là chinh sách tài chính công + Phạm vi không gian và thời gian, luận án nghiên cứu ở Việt Nam với thực trạng trong giai đoạn 2009 - 2014 và các đề xuất về giải pháp tài chính công nhằm phát triển CNHT được nghiên cứu áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp được luận án sử dụng trong qúa trình nghiên cứu: Phương pháp kế thừa: Luận án sử dụng kết quả nghiên cứu và số liệu thứ cấp từ các công trình khoa học có liên quan đến CNHT và một số ngành công nghiệp cụ thể. Phương pháp thống kê so sánh và phân tích đánh giá tổng hợp: Luận án phân tích hệ thống số liệu theo chuỗi thời gian về CNHT, công nghiệp điện tử và công nghiệp ô tô, công nghiệp chế tạo…và những tác động của Việt Nam trong các giai đoạn, có so sánh với các quốc gia khác. 9 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa những nhận thức cơ bản về lý luận CNHT, nguồn lực tài chính và tài chính công, phương thức tác động của các chính sách tài chính công đối với nền kinh tế nói chung và CNHT nói riêng. Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích và đánh gía thực tiễn phát triển CNHT và tác động của mốt số chính sách tài chính công đến phát triển CNHT của Việt Nam 5 năm qua. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản về chính sách tài chính công để thúc đẩy phát triển CNHT của Việt Nam trong thời điểm mà CNHT vẫn còn non trẻ như hiện nay. 7. Bố cục của luận án Ngoài lời mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về CNHT và chính sách tài chính công phát triển CNHT Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính công nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp về chính sách tài chính công nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam đến năm 2020. 10 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Chương 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm CNHT 1.1.1.1. Khái niệm CNHT Khái niệm công nghiệp hỗ trợ bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 thế kỷ 20, phổ biến ở Nhật Bản và lan dần sang các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới ở châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan. Đến nay, cách hiểu về thuật ngữ này vẫn chưa thống nhất. CNHT là một khái niệm của công nghiệp hiện đại, được kế thừa từ những khái niệm có liên quan và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố trung gian đầu vào cũng như các yếu tố hỗ trợ cho các ngành công nghiệp then chốt, có giá trị kinh tế cao và quá trình sản xuất phức tạp. CNHT không được xem xét trong hệ thống phân loại ngành kinh tế theo quan điểm truyền thống (phân biệt theo lĩnh vực sản xuất) mà chỉ được xem xét như một ngành công nghiệp với sự tái định nghĩa các ngành công nghiệp theo cấu trúc dọc (phân biệt theo hoạt động sản xuất) dưới áp lực của chuyên môn hóa quy trình và tái cấu trúc doanh nghiệp công nghiệp. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, có hai cách quan niệm về CNHT. Ở góc độ hẹp, CNHT là các ngành sản xuất phụ tùng linh kiện phục vụ cho công đoạn lắp ráp ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ở góc độ rộng hơn, CNHT được hiểu như toàn bộ các ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo ra các máy móc, thiết bị hay những yếu tố vật chất nào khác góp phần tạo thành sản phẩm. Khái niệm CNHT trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự 11 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 kết nối của nhiều chi tiết phức tạp, đòi hỏi tính chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn rộng hơn, CNHT phải được hiểu một cách tổng quát như toàn bộ quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác nhau về yếu tố hỗ trợ. Xét về quy mô thì CNHT là một khu vực công nghiệp rộng lớn, bao gồm nhiều ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp và chiếm phần chủ yếu của giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp. CNHT được ví như chân núi cho một nền công nghiệp bền vững, còn công nghiệp hoàn thiện, công nghiệp lắp ráp được coi là phần ngọn. Tùy vào chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tùy vào năng lực nội tại và bối cảnh phát triển mà khu vực CNHT được chú trọng ưu tiên phát triển, kéo theo khu vực công nghiệp lắp ráp phát triển tương ứng. Từ những công đoạn của quá trình sản xuất: Chế tạo vật liệu; Sản xuất gia công phụ tùng, linh kiện; Lắp ráp hoàn chỉnh, CNHT được hiểu như sau: - Theo định nghĩa của Cục phát triển CNHT Thái Lan: CNHT là ngành công nghiệp cung cấp các linh kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng gói cho các ngành công nghiệp cơ bản và nhấn mạnh rằng các bộ phận kim loại và công nghiệp chế tạo, sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng điện, điện tử là những CNHT quan trọng. Cục phát triển CNHT Thái Lan chia các ngành sản xuất thành 3 cấp độ khác nhau: (1) cấp độ lắp ráp, (2) cấp độ sản xuất linh phụ kiện, (3) cấp độ các ngành hỗ trợ. [77] - Khái niệm có tính chất chung nhất đó là CNHT không phải là một ngành cụ thể mà bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian (linh kiện, bộ phận) cung cấp cho ngành lắp ráp. [2] Khái niệm này hoàn toàn khác với cách phân loại các ngành công nghiệp như hiện nay thành các ngành công 12 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp cơ khí, công nghiệp điện - điện tử, công nghiệp dệt may - da giầy.v.v…. Dựa trên mức độ phức tạp của ba công đoạn sản xuất chính là: (1) chế tạo vật liệu, (2) sản xuất gia công phụ tùng, linh kiện, (3) lắp ráp hoàn chỉnh. CNHT thuộc về công đoạn (2) là sản xuất gia công phụ tùng, linh kiện. - Một số khái niệm khác cho rằng CNHT là ngành công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. CNHT rất đa dạng bao gồm cả ngành đúc nhựa và chế tạo khuôn đúc, gia công cơ khí, đúc, rèn, hàn, nhiệt luyện, xử lý bề mặt. Sản xuất những linh kiện, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm… bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế công đoạn 1 và 2. Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. [29] Hiện nay các CNHT còn được hiểu là các ngành sản xuất nền tảng của ngành công nghiệp chính yếu. Bắt đầu từ việc sản xuất nguyên vật liệu công đoạn 1 đến gia công chế tạo các sản phẩm phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ liệu bằng các công nghệ chuyên môn hóa sâu công đoạn 2, đáp ứng cho ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp các sản phẩm thuộc công cụ, tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng công đoạn 3. CNHT có tính chất đan chéo nhau, nghĩa là có thể gia công, cung cấp sản phẩm đồng thời cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Thông thường ở các nước phát triển, CNHT phát triển trước làm cơ sở để ngành công nghiệp chính như: ngành công nghiệp ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, da giầy, viễn thông phát triển. Trên thực tế cũng có quốc gia mà hai CNHT và chính yếu phát triển song song: CNHT phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chính yếu phát triển đồng thời kích thích CNHT phát triển theo. Tóm lại, cho đến nay ít nhất có hai quan niệm tương đối khác nhau về CNHT: - Quan niệm thứ nhất cho rằng: CNHT bao gồm những ngành sản xuất sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng 13 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nhất định. Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung gian có thể bao gồm nguyên, vật liệu, linh kịên phụ tùng, các bộ phận (chi tiết) lẻ, phụ liệu, bao bì, nhãn mác... Đây là quan niệm gắn với yêu cầu của sản phẩm cuối cùng để xác định sản phẩm trung gian cần có - Sản phẩm CNHT. - Quan niệm thứ hai cho rằng: CNHT là toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất tạo ra các thành phẩm chính. Chúng bao gồm những linh kiện, phụ kiện, nguyên liệu, sơ chế, phụ liệu phụ tùng, bao bì, sản phẩm trung gian... Như vậy, các quan niệm trên vừa đề cập đến nhiều loại sản phẩm vừa đề cập tới một loại sản phẩm. Do dó, có thể nói "CNHT” là một thuật ngữ khá mơ hồ, nếu không có một khái niệm cụ thể thì khó có thể xác định được ngành công nghiệp nào là CNHT và hỗ trợ cái gì và cho ai?. Do có sự tương đối trong khái niệm của CNHT nên việc phân biệt phạm vi của CNHT cũng chưa được thống nhất. Như vậy, CNHT không phải là một ngành cụ thể mà chúng bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất từ nguyên vật liệu đến gia công chế tạo các sản phẩm, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm… để cung cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp các sản phẩm cuối cùng là tư liệu, công cụ sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Đây là quan niệm của NCS về CNHT và sẽ được sử dụng xuyên suốt trong qúa trình nghiên cứu luận án. Có thể nói thêm, CNHT cần được coi là một cơ sở công nghiệp hoạt động với nhiều chức năng để phục vụ số lượng lớn các ngành lắp ráp, chứ không nên coi chúng đơn giản chỉ là ngành “thu thập” ngẫu nhiên những linh kiện sản xuất không liên quan. CNHT không chỉ sản xuất linh kiện mà quan trọng hơn là thực hiện quá trình sản xuất hỗ trợ việc sản xuất các bộ phận nhựa và kim loại, chẳng hạn như cán, ép dập khuôn. 14 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Hơn nữa, không nên quan niệm một cách đơn giản CNHT chỉ gồm những sản phẩm trung gian được sản xuất một cách rời rạc ở những doanh nghiệp đơn độc mà nên quan niệm CNHT là một ngành cho dù sản phẩm của nó rất đa dạng nhiều chủng loại. Nhận thức CNHT là một ngành công nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược đầu tư của Nhà nước và trong sự liên kết tạo ra sức mạnh cạnh tranh. Trên thực tế, khái niệm CNHT thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp sản xuất những sản phẩm có sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp, đòi hỏi tính chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. 1.1.1.2. Đặc điểm của CNHT Một là, CNHT phát triển gắn kết với ngành/phân ngành công nghiệp hoặc sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó (đối tượng hỗ trợ) và tích hợp theo cả chiều dọc và chiều ngang. Đồng thời, sự phát triển của CNHT có tác dụng thúc đẩy những ngành công nghiệp (sản phẩm) phát triển và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất hỗ trợ cấp dưới. Hai là, sử dụng nhiều vốn và mức độ lành nghề của công nhân có yêu cầu cao hay không cao còn tùy thuộc vào mỗi ngành là đối tượng hỗ trợ. CNHT cần thiết cho cả công nghiệp lắp ráp (ô tô, xe máy, điện tử…) và công nghiệp chế biến (dệt may, giầy da…). Tuy nhiên, đối với mỗi ngành thì CNHT lại có những đặc điểm và yêu cầu chính sách khác nhau: CNHT cho công nghiệp lắp ráp đòi hỏi nguồn lao động có kỹ năng cao hơn, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện kim loại, nhựa, cao su và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm; trong khi đó, CNHT cho công nghiệp chế biến lại không đòi hỏi nguồn nhân lực có kỹ năng cao, sản xuất ít loại linh phụ kiện và không tác động lớn đến chất lượng của sản phẩm. 15 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Ba là, CNHT xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Bốn là, đối với một ngành/phân ngành và nhất là các sản phẩm cụ thể nào đó, các tổ chức hoạt động trong CNHT thường có quy mô vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hoá sâu, dải sản phẩm hẹp, dễ thay đổi mẫu mã, có sức sống và sức cạnh tranh cao. Năm là, sản phẩm của CNHT có thể được cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu ra thị trường thế giới. Sáu là, giá trị của sản phẩm CNHT chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm cuối cùng đưa ra thị trường, thậm chí có lên tới 80-90%. Trong việc hoạch định chính sách phát triển CNHT của Nhà nước, cần tùy theo phân ngành của CNHT để có thể xác lập chính sách thích hợp, nhất là chính sách tài chính. 1.1.1.3. Phân loại CNHT Tùy theo mục đích nghiên cứu, quản lý hay đầu tư mà người ta dựa vào những tiêu thức khác nhau để phân loại CNHT. Thông thường, nếu dựa vào đặc tính sử dụng của các sản phẩm CNHT đối với các ngành công nghiệp chính yếu, có thể chia CNHT thành hai loại cơ bản: CNHT cơ bản và CNHT đặc thù. CNHT cơ bản là các ngành cung cấp các sản phẩm có thể sử dụng chung cho nhiều ngành công nghiệp, chủ yếu là các ngành sản xuất lắp ráp. Thuộc nhóm ngành này là các cơ sở sản xuất các thiết bị, linh kiện bằng nhựa, kim khí phục vụ chung cho các ngành xe máy, điện - điện tử... 16 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 CNHT đặc thù là các ngành cung cấp các sản phẩm công nghiệp đặc thù, chỉ sử dụng được trong một hoặc một số ngành. Công nghiệp chủ yếu như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến. Xe máy Điện tử Nghe nhìn ô tô Công nghiệp hỗ trợ cơ bản: chế biến nhựa và kim loại (cắt , nén, rèn ,đúc…) Dệt may và giầy dép Chế biến thực phẩm Quần áo, da, phụ kiện… nông, lâm, ngư nghiệp Nguồn: [5] Sơ đồ 1.1 - Mô hình phân chia của các công nghiệp hỗ trợ Việc phân loại nền CNHT là để xác định chiến lược đầu tư và quản lý thích hợp, cả vi mô, cũng như vĩ mô. 1.1.2. Vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng giá trị Việc xác định chính xác vị trí của CNHT trong chuổi cung ứng giá trị có ý nghĩa quan trọng việc xác định phương hướng đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế. CNHT là một thuật ngữ đề cập tới một nhóm các hoạt động công nghiệp là trung gian cung cấp các đầu vào cho sản xuất (không bao gồm nguyên liệu và sản phẩm cuối cùng) ở các ngành công nghiệp hạ nguồn [2]. Nói cách khác, CNHT ở vị trí giữa trong dây chuyền sản xuất theo chiều dọc từ thượng nguồn đến hạ nguồn. K.Ohno(2005) cho rằng: mặc dù CNHT được gọi là một ngành công nghiệp nhưng không được phân loại như các ngành công nghiệp điện tử, dệt may [45]. 17 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Phạm vi, ví trí của CNHT theo mô hình sau: Nguồn: [4] Sơ đồ 1.2: Công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị của nhà lắp ráp Như vậy, theo sơ đồ trên, vị trí của CNHT nằm trong chuỗi giá trị lắp ráp. Nói cách khác để tạo ra được chuỗi giá trị lắp ráp cần thiết phải có CNHT.Thiếu CNHT không thể tạo ra được chuỗi giá trị lắp ráp.Với cách xem xét vị trí của CNHT như vậy, cho thấy cần phải đầu tư phát triển CNHT. Tùy theo năng lực công nghệ, tài chính mà các chủ thể trong nền kinh tế tham gia vào vị trí của CNHT khác nhau. Một nghiên cứu khác chỉ ra các doanh nghiệp của Việt Nam chỉ tham gia được theo mức sản xuất chi tiết đơn giản. 18 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Tính ph c Sản xuất một số chi tiết có độ phức tạp cao hơn nữa và lắp ráp các chi tiết này với các chi tiết nhóm 3 thành bộ phận Chủ yếu là các doanh nghiệp FDI Kh ản xuất và chiều cung ứng (khoảng 5 ản s ăng Sản xuất một số chi tiết (thường là bí quyết công nghệ) và lắp ráp các cụm nhóm thành sản phẩm cuối cùng Chủ yếu là các doanh nghiệp FDI Các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI Sản xuất phần lớn các chi tiết có độ phức tạp không cao (bao gồm các chi tiết tiêu chuẩn) Chủ yếu các doanh nghiệp SME của Việt Nam Số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ -10 năm) Sản xuất một số chi tiết có độ phức tạp cao và lắp ráp các chi tiết này với các chi tiết từ nhóm 4 thành cụm chi tiết Nguồn: [5] Sơ đồ 1.3. Sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ 1.1.3. Nội dung và điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ Hiểu một cách đơn giản ngắn gọn nhất, song không kém phần chuẩn xác, phát triển CNHT là làm thay đổi hiện trạng về quy mô, cơ cấu, chất lượng của CNHT theo hướng gia tăng, đảm bảo yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp hạ nguồn (lắp rắp, chế tác, chế biến… tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng phục vụ sản xuất và tiêu dùng). 1.1.3.1. Phát triển quy mô công nghiệp hỗ trợ 19 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Quy mô của CNHT thường được xác định dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau đây: Thứ nhất, số doanh nghiệp tham gia vào sản xuất sản phẩm thuộc CNHT. Số doanh nghiệp tham gia vào sản xuất sản phẩm thuộc CNHT phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: (i) nhu cầu phát triển CNHT và (ii) khả năng sinh lời của CNHT. Như chúng ta biết để phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn (lắp ráp, chế tác, chế biến…) tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, tất yếu cần thiết phải phát triển CNHT. Đó là nhu cầu tất yếu, tuy nhiên, nhu cầu này có được doanh nghiệp đáp ứng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong số các yếu tố đó, yếu tố khả năng sinh lời của sản xuất sản phẩm CNHT có ý nghĩa quyết định bởi lẽ mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng vào mục tiêu tối thượng là lợi nhuận. Do đó, để có thể gia tăng được số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực CNHT đòi hỏi về phía Nhà nước phải có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT. Thứ hai, quy mô nguồn vốn đầu tư của xã hội cho phát triển CNHT Nguồn vốn đầu tư của xã hội cho phát triển CNHT bao gồm nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, nguồn tài trợ của các tầng lớp dân cư của các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước. Quy mô nguồn vốn đầu tư xã hội càng lớn chứng tỏ sự quan tâm của xã hội đối với phát triển CNHT càng nhiều. Thứ ba, giá trị của sản phẩm CNHT so với giá trị tổng sản phẩm xã hội hoặc so với giá trị sản phẩm sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng này càng lớn cho thấy quy mô phát triển CNHT càng lớn. Đương nhiên, yêu cầu phát triển quy mô CNHT phải hợp lý, nghĩa là vừa phải đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp hạ nguồn, vừa phải phù hợp với nguồn lực hiện có để phát triển CNHT. 20 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Phát triển cơ cấu CNHT, cơ cấu CNHT được hiểu là số lượng nhóm ngành và tỷ trọng của từng nhóm ngành trong lĩnh vực CNHT. Phát triển cơ cấu CNHT là sự thay đổi hiện trạng về cơ cấu CNHT hướng tới một cơ cấu CNHT hợp lý và tích cực. Tính hợp lý và tích cực của cơ cấu CNHT liên quan mật thiết với tính hợp lý, tích cực cơ cấu ngành công nghiệp hạ nguồn (công nghiệp lắp ráp, chế tác, chế biến). Khi có sự thay đổi cơ cấu các ngành công nghiệp hạ nguồn bắt buộc phải thay đổi cơ cấu CNHT một cách thích hợp. 1.1.3.2. Nâng cao chất lượng công nghiệp hỗ trợ Chất lượng CNHT được thể hiện qua chất lượng chủng loại sản phẩm của nó. Chất lượng chủng loại sản phẩm của CNHT phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng các yếu tố đầu vào như nguồn nhân lực, máy móc thiết bị, quy trình công nghệ, nguyên nhiên vật liệu tạo ra sản phẩm CNHT. Do đó, phát triển chất lượng CNHT chính là nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào tạo ra sản phẩm CNHT. Phát triển chất lượng CNHT là nội dung quan trọng có tính chất quyết định đến sự hiện diện của CNHT và tạo ra khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hạ nguồn. Tóm lại, phát triển quy mô, cơ cấu, chất lượng CNHT là ba nội dung quan trọng của sự phát triển CNHT. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được ba nội dung trên cần phải có những điều kiện nhất định. 1.1.3.3. Điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ Thứ nhất, điều kiện về thị trường Đề cập đến điều kiện về thị trường cho sự phát triển bền vững CNHT là đề cập các yếu tố chủ yếu sau đây: - Nhu cầu thị trường linh phụ kiện Qui mô thị trường này phải đủ lớn và ổn định để lôi kéo các doanh nghiệp công nghiệp tham gia vào lĩnh vực cung ứng. Ở Việt Nam, hiện nay dung lượng thị 21 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 trường một số ngành đã đủ lớn để tập trung phát triển ngành cung ứng linh kiện và phụ tùng, đặc biệt là ngành Điện tử. - Khả năng liên kết Đặc điểm của các thị trường các nước đang phát triển là sự chênh lệch về khả năng công nghệ và quản lý giữa các doanh nghiệp hạ nguồn và các doanh nghiệp nhỏ, sự hạn chế về thông tin, pháp luật và các rào cản đến từ văn hóa và tập quán kinh doanh sẽ là những trở ngại cho việc thiết lập các quan hệ liên kết công nghiệp lâu dài. Nếu việc liên kết không được bảo đảm bền vững lâu dài giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ nhằm đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm CNHT thì khả năng lôi kéo các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào lĩnh vực CNHT sẽ rất khó khăn. Mặt khác, sự chênh lệch khá lớn cũng hạn chế đến việc lựa chọn đối tác, tìm nhà cung ứng của các doanh nghiệp lớn. Ở đây các cơ quan Chính phủ phải đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là cầu nối giữa các doanh nghiệp CNHT và khách hàng. - Điều kiện về lợi thế so sánh Điều kiện cuối cùng trong các điều kiện thị trường là việc tạo dựng các động cơ để các doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp thực hiện các chiến lược nội địa hoá và mua ngoài. Động cơ cơ bản nhất để các công ty nước ngoài lựa chọn chiến lược là lợi thế so sánh mà chiến lược sử dụng nội địa hoá và thuê ngoài mang lại, bao gồm lợi thế về chi phí như các khoản thuế và lợi thế về công nghệ và tính chủ động của qui trình sản xuất. Thứ hai, điều kiện hạ tầng công nghiệp Các hoạt động CNHT được hình thành trên cơ sở phát triển chung của các ngành cơ bản này, như ngành vật liệu và các công nghệ công nghiệp cơ bản. Sự cân đối khu vực thượng nguồn bao gồm các ngành cung ứng và sản xuất nguyên vật liệu chủ chốt (sắt, thép, nhựa, hóa chất, cao su....) và nhu cầu hạ nguồn 22 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 bao gồm các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp và chế tạo (điện tử, ô tô, xe máy, ...) sẽ là điều kiện cần thiết để phát triển khu vực trung gian-CNHT. Trong lợi thế so sánh về qui mô kinh tế, việc phải nhập khẩu phần lớn các vật liệu cơ bản đã làm các sản phẩm CNHT nội địa giảm tính cạnh tranh. Các công nghệ cơ bản công nghiệp như công nghệ đúc, hàn, ép, xử lý bề mặt, xử lý nhiệt và chế tạo khuôn mẫu quyết định việc hình thành CNHT. Sự sẵn sàng về nguồn lực, công nghệ, nhân lực và vốn trong khu vực này đảm bảo CNHT phát triển bền vững. Thứ ba, điều kiện về nguồn nhân lực Khi vấn đề dung lượng về thị trường đã được giải quyết, thị trường có nhu cầu thì nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển CNHT là nguồn lao động có kỹ năng cao do hàm lượng công nghệ trong sản phẩm CNHT. Chất lượng nguồn nhân lực quan trọng hơn nhiều so với máy móc. Công nhân có trình độ cao vận hành máy móc cũ thậm chí còn hiệu quả hơn công nhân có trình độ thấp vận hành máy móc mới. Thứ tư, khả năng công nghệ sản xuất Phần lớn sản phẩm CNHT đều có hàm lượng công nghệ khá cao, vì vậy, CNHT đòi hỏi phải có sự đầu tư chiều sâu về thiết bị, máy móc và công nghệ sản xuất. Các doanh nghiệp lắp ráp luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe, nghiêm ngặt về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các loại linh, phụ kiện. Vì thế nếu các doanh nghiệp không áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại trong sản xuất thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của nhà lắp ráp. Sản phẩm CNHT thường xuyên thay đổi theo yêu cầu của các Tập đoàn lắp ráp, vì vậy công nghệ và thiết kế của các doanh nghiệp CNHT cũng phải thay đổi để phù hợp với nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, đây là 23 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, loại hình chủ yếu sản xuất sản phẩm CNHT. Các Tập đoàn lắp ráp thiết kế và chế tạo các sản phẩm ở hạ nguồn đặt ra những yêu cầu cho khu vực CNHT phải triển khai nghiên cứu và sản xuất những vật liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp. Theo chiều ngược lại, việc áp dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào chế tạo các sản phẩm CNHT có tính dẫn dắt khu vực hạ nguồn nhờ tạo ra những bộ phận chi tiết hoặc vật liệu mới góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn. Thứ năm, nguồn lực tài chính Đối với lĩnh vực đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao như CNHT thì sự đầu tư nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng. Đầu tư vào lĩnh vực CNHT thời gian thu hồi vốn dài, có độ rủi ro nên khiến các nhà đầu tư e ngại khi đầu tư sản xuất các sản phẩm CNHT. Điều này cho thấy, việc cân đối nguồn lực vốn của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm CNHT phát triển có hiệu quả, bền vững. Hiện nay, năng lực của các doanh nghiệp CNHT vẫn còn rất kém một phần cũng vì không có đủ tiềm lực tài chính. Các tổ chức tín dụng Việt Nam chưa có đánh giá tín dụng tốt về CNHT cho các doanh nghiệp. Vì thế, chính sách giúp huy động tối đa nguồn lực tài chính, bao gồm các nguồn lực trong và ngoài nước có thể coi là bước đi quyết định trong quá trình hình thành và phát triển CNHT. Thứ sáu, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Đóng vai trò tích cực trong các mối liên kết khu vực và toàn cầu hiện nay chính là các Tập đoàn đa quốc gia. Với tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và đặc biệt thương hiệu mạnh, các tập đoàn này thiết lập mạng lưới sản xuất và phân phối rộng khắp trên thế giới với chiến lược và thương hiệu thống nhất toàn cầu. 24 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Mỗi chi nhánh trong mạng lưới đó sẽ được chuyên môn hóa hợp lý nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và chi phối thị trường theo khu vực. Theo đó, theo lợi thế so sánh, những bộ phận hay chi tiết nhất định được sản xuất ở 1 quốc gia để cung cấp cho chi nhánh ở các quốc gia khác. Việc sản xuất như vậy tạo điều kiện cho các chi nhánh, bộ phận phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình, bổ trợ cho nhau, tập trung nguồn lực để có thể tạo ra những sản phẩm có giá thành cạnh tranh, chất lượng đảm bảo. Ngày nay, không một Tập đoàn nào còn thực hiện sản xuất khép kín theo mô hình tích hợp dọc từ sử dụng nguyên liệu sơ chế để sản xuất các linh kiện, phụ tùng cho đến lắp ráp hoàn chỉnh. Các công đoạn khác nhau trong qui trình sản xuất được thực hiện tại các chi nhánh khác nhau của doanh nghiệp hoặc mua từ các doanh nghiệp hỗ trợ khác ngoài mạng lưới. Do quá trình toàn cầu hóa, một sản phẩm hoàn chỉnh có xuất xứ từ một nước nhưng các chi tiết, phụ tùng của nó có thể xuất phát từ nhiều nước khác nhau. Quá trình chuyên môn hóa này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp CNHT phát triển, nhưng lại tùy thuộc vào khả năng hội nhập KTQT. Như vậy, để có thị trường, theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp khi sản xuất các loại linh kiện và phụ tùng không chỉ dựa vào nhu cầu của các nhà lắp ráp nội địa mà cần phải chủ động tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của các khách hàng nước ngoài, từ đó tham gia vào mạng lưới sản xuất của họ. Để tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính, tất yếu phải sử dụng một hệ thống chính sách tài chính quốc gia nói chung, đặc biệt là chính sách tài chính công nói riêng sao cho thích hợp với yêu cầu thực tế. 1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 1.2.1. Tài chính công và chính sách tài chính công 1.2.1.1. Tài chính công 25 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Tài chính là một phạm trù kinh tế lịch sử, ra đời và tồn tại trong những điều kiện nhất định. Tài chính trước hết được hiểu là một số tiền (quỹ tiền tệ) được hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng nhằm phục vụ nhu cầu của Nhà nước, của các đơn vị kinh tế, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình. [15] Theo tác giả luận án, Tài chính là quan hệ phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về tài chính công, song nhìn chung đều cho rằng tài chính công là một bộ phận của tài chính nhà nước gắn với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Tài chính nhà nước bao gồm: - Tài chính chung của Nhà nước - Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước - Tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập - Tài chính của các doanh nghiệp nhà nước Theo các nhà nghiên cứu về tài chính cho rằng loại trừ tài chính các doanh nghiệp nhà nước, tất cả bộ phận còn lại của tài chính nhà nước thuộc phạm trù tài chính công. Cơ sở quan trọng để các nhà nghiên cứu tài chính quan niệm các bộ phận: tài chính chung của Nhà nước, tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập vào phạm trù tài chính công vì hoạt động của các bộ phận này không vì mục tiêu lợi nhuận và được điều chỉnh bởi luật công. Tài chính chung của Nhà nước là một phận quan trọng nhất của tài chính công, đó là các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước bao gồm; quỹ NSNN, một số quỹ thuộc NSTW (Quỹ dự trữ ngoại tệ; Quỹ điều hòa lưu thông tiền tệ; Quỹ dự bắt buộc đối với hệ thống NHTM nhà nước…) các quỹ tiền tệ có nguồn gốc từ NSNN gọi là các quỹ TCNN ngoài NSNN (Quỹ bình ổn giá, Quỹ dự trữ nhà nước, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu; Quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài; Quỹ quốc gia giải quyết việc 26 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 làm….). Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ kể trên là quá trình Nhà nước tham gia phân bổ các nguồn lực tài chính thông qua hoạt động , chi tài chính công gắn với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, Tài chính công được coi là phương tiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Từ đó, có thể hiểu: “Tài chính công là các hoạt động thu, chi công do Nhà nước tiến hành nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của xã hội” [15]. 1.2.1.2. Chính sách tài chính công Chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT được hiểu là tổng thể các quan điểm, các nguyên tắc, các mục tiêu, các giải pháp và các công cụ, phương tiện sử dụng phạm trù tài chính công của Nhà nước để thúc đẩy phát triển CNHT. Thực chất chính sách tài chính công phát triển CNHT là sự thể hiện, sự can thiệp của Nhà nước đối với quá trình phát triển CNHT bằng việc sử dụng các công cụ của tài chinh công (NSNN, Tín dụng nhà nước, Các quỹ TCNN ngoài NSNN). Chính sách tài chính công cũng như các chính sách khác thúc đẩy phát triển CNHT thường bao gồm các yếu tố: các yếu tố đầu vào, các hành động, đầu ra, kết quả và tác động của chính sách: - Đầu vào (Inputs): đây là các nguồn lực của chính sách, trong chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT gồm: nhân lực, tài lực, vật lực và thông tin liên quan tới hoạt động đổi mới công nghệ trong lĩnh vực CNHT. - Hoạt động (Activities): là những hành động thực hiện chính sách, đối với chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT gồm: (i) xây dựng khung thể chế thực thi chính sách như ban hành các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đổi mới công nghệ, (ii) xác định đối tượng doanh nghiệp thụ hưởng và các mức ưu đãi nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ (ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, hỗ trợ trực tiếp), và (iii) xác 27 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 định phương thức đào tạo, thông tin, tuyên truyền nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Sơ đồ 1.4: Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logic Nguồn: [15 ] Nguồn: [15] Sơ đồ 1.4. Các yếu tố của một chính sách theo cách tiếp cận khung logich Đặc điểm cơ bản của chính sách tài chính công thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau đây: 28 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền thiết lập, vận hành chính sách tài chính công, gắn liền với quyền lực chính trị. Ngoài Nhà nước ra, không một chủ thể nào trong nền kinh tế được quyền thiết lập và vận hành chính sách tài chính công trong đời sống kinh tế xã hội, bởi lẽ việc thiết lập, vận hành chính sách tài chính công đụng chạm đến lợi ích chung của quốc gia. Nhà nước là tổ chức đại diện cho lợi ích chung đó. Việc thiết lập, vận hành chính sách tài chính công không cho phép lấy lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân để chi phối. Thứ hai, chính sách tài chính công hàm chứa những quy định của Nhà nước không chỉ liên quan đến các vấn đề tài chính một cách đơn thuần mà liên quan chặt chẽ đến các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước. Mọi quy định thu, chi đối với tài chính công đều được đặt trên tầm nhìn về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập, mở cửa của đất nước, tham gia vào sân chơi theo những luật lệ chung của thế giới, các quy định trong chính sách tài chính công luôn chịu sự chi phối bởi những quy định về luật lệ của thế giới. Nhận thức rõ những đặc điểm trên đây của tài chính công, có ý nghĩa quan trọng trong cân nhắc, tính toán đến việc thiết lập vận hành chính sách tài chính công của Nhà nước. 1.2.1.3. Cấu thành chính sách tài chính công Như chúng ta đã biết, chính sách tài chính công là chính sách của Nhà nước điều chỉnh các bộ phận cấu thành tài chính công. Do đó, cấu thành của chính sách tài chính công bao gồm: chính sách NSNN. Chính sách tín dụng nhà nước, chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN. a. Chính sách NSNN ,thường được hiểu là chính sách tài khóa 29 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 NSNN là khâu quan trọng nhất đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính công; là bản dự toán hàng năm về toàn bộ nguồn lực tài chính huy động cho Nhà nước và dự trù việc sử dụng nguồn lực tài chính dự kiến huy động được nhằm bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của Nhà nước trong năm kế hoạch. Về khía cạnh hiện vật NSNN được coi là nguồn lực quan trọng để tiến hành thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Hoạt động của NSNN bao gồm: hoạt động thu, (chủ yếu thuế); hoạt động chi và cân đối NSNN. Hoạt động thu NSNN bao gồm hoạt động thu thuế, phí lệ phí và hoạt động các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động chi NSNN bao gồm quy định các khoản chi thường xuyên và chi ĐTPT. Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách của chính phủ về tài chính, thường được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài chính, nhằm tác động đến các định hướng phát triển của nền kinh tế, thông qua những thay đổi trong kế hoạch chi tiêu chính phủ và chính sách thu ngân sách (chủ yếu là các khoản thu về thuế). Chính sách tài khoá có thể tạm chia thành chính sách tài khoá cân bằng, chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tài khoá thắt chặt. Chính sách tài khoá cân bằng là chính sách tài khoá mà theo đó, tổng chi tiêu của Chính phủ cân bằng với các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các nguồn thu khác mà không phải vay nợ. Chính sách tài khoá mở rộng (hay còn gọi là chính sách tài khóa thâm hụt) là chính sách nhằm tăng cường chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách: - (i) gia tăng mức độ chi tiêu chính phủ mà không tăng nguồn thu; hoặc - (ii) giảm nguồn thu từ thuế mà không giảm chi tiêu; hoặc - (iii) vừa gia tăng mức độ chi tiêu của chính phủ đồng thời giảm nguồn thu từ thuế. 30 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Chính sách tài khoá mở rộng có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, chính sách tài khoá mở rộng thường dẫn đến việc Chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách. Chính sách tài khoá thắt chặt (hay còn gọi là chính sách tài khóa thặng dư) là chính sách hạn chế chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách: - (i) chi tiêu của chính phủ ít đi nhưng không tăng thu; hoặc - (ii) không giảm chi tiêu nhưng tăng thu từ thuế; hoặc - (iii) vừa giảm chi tiêu vừa tăng thu từ thuế. Chính sách tài khoá thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nhanh và thiếu bền vững hoặc khi nền kinh tế gặp tình trạng lạm phát cao. Việc này có thể làm thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với trước đó. b. Thuế Thuế là một hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế có những đặc điểm nổi bật cần lưu ý. Thuế là một khoản thu có tính chất bắt buộc của Nhà nước. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực của mình để huy động sự đóng góp bắt buộc . Thuế là khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Tính không bồi hoàn ở đây được hiểu là người nộp thuế phải nộp một khoản tiền vào Ngân sách Nhà nước nhưng không được nhận các đối khoản trực tiếp hữu hình, mà nhận được các “hàng hóa vô hình” như được đảm bảo về an ninh quốc phòng… và không cảm nhận được một cách trực tiếp. 31 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thuế là hình thức phân phối của cải xã hội gắn liền với các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Thông qua thuế, Nhà nước điều tiết thu nhập của các thể nhân và pháp nhân, làm ảnh hưởng đến lợi ích của các tầng lớp trong xã hội. Mặt khác nguồn thu của thuế gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ chủ yếu để huy động nguồn lực vào ngân sách, đồng thời cũng là công cụ quan trọng để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua tác động đến tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng… Khi giảm thuế sẽ có tác dụng tăng cầu, khuyến khích đầu tư mở rộng kinh doanh, ngược lại khi tăng thuế sẽ thu hẹp đầu tư; thông qua các qui định cụ thể về đối tượng, thuế suất, những ưu đãi và miễn giảm, thuế cũng thực hiện vai trò điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo ngành kinh tế và theo vùng lãnh thổ; thuế cũng nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội. Thông thường, các sắc thuế được phân loại theo một số căn cứ nhất định: - Căn cứ vào khả năng chuyển dịch gánh nặng thuế từ người phải nộp cho người khác thông qua cơ chế giá, các sắc thuế chia thành 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực thu gồm các sắc thuế như Thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản… Thuế gián thu gồm các sắc thuế như : thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, sự phân định này chỉ mang tính chất tương đối, vì khó xác định khả năng chuyển dịch gánh nặng về thuế. - Căn cứ vào cơ sở tính thuế, hệ thống thuế chia thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản. - Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tác động của một số chính sách thuế có những đặc điểm riêng thể hiện trên các mặt sau: 32 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 - Đối với thuế Nhập khẩu: Thuế Nhập khẩu thể hiện rõ nét nhất về mức độ hội nhập kinh tế quốc tế thông qua cắt giảm thuế quan. Để đối phó với tình trạng này, các nước lựa chọn các cách sau đây:  Tập trung vào lĩnh vực mà mình có lợi thế so sánh, khi đó tất cả mọi người đều có lợi;  Mỗi vùng có thể có được những khối lượng hàng hóa lớn hơn với thời gian lao động như cũ, vì họ chuyên môn hóa vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh;  Làm gia tăng nhanh chóng thương mại quốc tế cả về quy mô và cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu, thương mại quốc tế được mở rộng và thu nhập quốc dân của mỗi nước đều tăng. Nhờ vậy, làm thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng phát triển những ngành nghề có lợi thế, hạn chế và thu hẹp những ngành nghề không có khả năng cạnh tranh. Theo lộ trình cắt giảm thuế quan, vai trò bảo hộ sản xuất của thuế suy giảm nhưng không hoàn toàn mất đi, mà vẫn tiếp tục phát huy trong một chừng mực nhất định cả về mặt thời gian cũng như về phạm vi cần bảo hộ; nhưng vai trò kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu của thuế ngày càng trở nên quan trọng. Thuế sẽ tác động đến thu ngân sách theo hai hướng. Một mặt, do thuế suất giảm làm giảm thu về xuất nhập khẩu (bao gồm thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng hàng nhập khẩu và chênh lệch giá hàng nhập khẩu); mặt khác, cũng do thuế suất giảm làm tăng trưởng ngoại thương và tăng thu về xuất nhập khẩu. Nên trong quá trình chưa loại bỏ hoàn toàn thuế quan, nguồn thu về xuất nhập khẩu vẫn có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối nhưng giảm về tỷ trọng trong cơ cấu thu của ngân sách. 33 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Chính sách thuế Nhập khẩu có tác động khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với toàn bộ khu vực cũng như đối với từng quốc gia trong khối liên kết vì một số lý do sau: Thứ nhất, Đa số các quốc gia thực hiện chính sách miễn giảm thuế khi nhập khẩu máy móc thiết bị chuyên dùng, vật tư để tạo tài sản cố định mà trong nước chưa sản xuất được. Thứ hai, Khi Chính phủ ký kết hiệp ước tránh đánh thuế hai lần để đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư; Thứ ba, thuế Nhập khẩu được cấu tạo phù hợp với thông lệ quốc tế (gồm 3 cột: thông thường, ưu đãi theo nguyên tắc MNF và ưu đãi đặc biệt trong FTA), nhờ đó mà thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng đến tất cả các nước trong khối liên kết. - Đối với thuế Xuất khẩu, chính sách thuế Xuất khẩu chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Theo đó, không thu thuế (hoặc thuế suất 0%) đối với hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước, chỉ thu thuế đối với các mặt hàng cần hạn chế xuất khẩu, nhằm đảm bảo nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước như các loại nguyên liệu thô, khoáng sản thô… Tuy nhiên, việc đánh thuế Xuất khẩu cao cũng có hai mặt: một mặt là đảm bảo nguyên liệu sản xuất lâu dài trong nước, nhưng mặt khác khi thuế suất cao gây ra hiệu ứng tăng giá thành sản phẩm dẫn đến hạn chế khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Do đó, thuế Xuất khẩu cần được áp dụng linh hoạt và điều tiết kịp thời giữa mục tiêu đảm bảo sản xuất trong nước và cạnh tranh trên thị trường. - Đối với thuế nội địa, Chính sách thuế nội địa tạo ra môi trường bình đẳng và hấp dẫn đối với cá nhà đầu tư thông qua nguyên tắc không phân biệt đối xử 34 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 về thuế đối với nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các ưu đãi về thuế (chẳng hạn như ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn đầu tư) có vai trò quan trọng để khuyến khích, thu hút đầu tư các nhà đầu tư. c. Chi ngân sách nhà nước Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng Quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ gốc và lãi các khoản vay của chính phủ, viện trợ của Chính phủ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính… và nhiều khoản chi khác. Có thể hiểu chi ĐTPT là quá trình phân phối và sử dụng một phần vốn tiền tệ từ Quỹ ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất, dự trữ vật tư hàng hóa của Nhà nước nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Về nội dung, chi ĐTPT gồm: chi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đây là khoản chi có tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong cơ cấu chi ĐTPT; chi đầu tư cho các DNNN nhà nước, góp vốn cổ phần vào doanh nghiệp khác khi cần có sự tham gia của Nhà nước; chi cho dự trữ nhà nước. Chi ĐTPT của ngân sách có những đặc điểm cơ bản: - Chi ĐTPT là khoản chi lớn vì chúng tạo ra tài sản cố định, năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế, đòi hỏi một lượng vốn lớn nhưng không mang tính ổn định, vì nhu cầu đầu tư lớn nhưng phụ thuộc vào khả năng có thể đáp ứng của ngân sách; - Chi ĐTPT mang tính tích lũy, bởi chúng tạo ra những tài sản làm cơ sở cho phát triển kinh tế, tăng tích lũy cho ngân sách; 35 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 - Phạm vi và mức độ chi ĐTPT luôn gắn với mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng năm hoặc từng thời kỳ. Chi thường xuyên của ngân sách là quá trình phân phối, sử dụng vốn ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước và các dịch vụ công mà Nhà nước phải cung ứng. Về nội dung, chi thường xuyên bao gồm: chi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội; chi sự nghiệp kinh tế để phục vụ cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế; chi cho các hoạt động quản lý nhà nước; chi cho hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội; chi cho quốc phòng an ninh và các khoản chi khác. Chi thường xuyên có đặc điểm sau: - Là khoản chi mang tính ổn định; - Đại bộ phận chi thường xuyên mang tính tiêu dùng xã hội; - Phạm vi và mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn các hàng hóa công cộng mà Nhà nước cung ứng. Chi ngân sách nhà nước làm một công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Chính sách chi ngân sách nhà nước có xu hướng thay đổi từ chỗ ngân sách đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế Ngân sách không trực tiếp đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, mà tập trung cho đầu tư kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công. Ngân sách còn là điều kiện đảm bảo thực hiện các cam kết về cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Xu hướng thay đổi của chi ngân sách cũng làm giảm gánh nặng cho ngân sách và vai trò đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh được chuyển giao cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Từ đó, ngân sách có điều kiện tập trung đầu tư kết 36 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 cấu hạ tầng để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, kinh doanh và giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói giảm nghèo. d. Tín dụng nhà nước Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. Tín dụng nhà nước có đặc điểm: (1)Chủ thể là nhà nước;(2) Hình thức đa dạng, phong phú; (3)Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian. Công cụ để thực hiện tín dụng nhà nước, khi nhà nước là người đi vay bao gồm: - Tín phiếu kho bạc; - Trái phiếu kho bạc; - Trái phiếu đầu tư: - Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình; - Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển; - Công trái; - Trái phiếu chính phủ quốc tế. Tín dụng nhà nước bao gồm: - Cho vay đầu tư; - Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; - Bảo lãnh tín dụng. 37 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Sử dụng tín dụng nhà nước nói chung có nhiều ưu điểm, song cũng chứa đựng những rủi ro nhất định trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Ưu điểm của tín dụng nhà nước là: - Phạm vi hoạt động vốn rộng lớn vừa trong nước vừa ngoài nước - Hình thức huy động phong phú, đa dạng có thể là tiền, vàng, hiện vật - Các hình thức huy động linh hoạt về thời gian cũng như loại hình. Nhược điểm của tín dụng nhà nước có thể là rủi ro vỡ nợ của nhà nước, do không tính toán kỹ nhu cầu vay và sử dụng vốn vay không hiệu quả; Như vậy, tín dụng nhà nước là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính công, không những có tác dụng bù đắp bội chi NSNN mà còn là công cụ quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế góp phần điều chỉnh lạm phát, điều hòa lưu thông tiền tệ, thực hiện chính sách xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nếu mức độ huy động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng chèn ép đầu tư của khu vực tư nhân do chính phủ huy động vốn qua phát hành trái phiếu, gây sức ép tăng lãi suất khiến cho đầu tư của khu vực tư nhân giảm xuống. Chính lẽ đó nhà nước phải có chính sách đối với tín dụng nhà nước một cách thích hợp. Chính sách tín dụng nhà nước là chính sách của nhà nước điều chỉnh quá trình hình thành và hoạt động của tín dụng nhà nước thông qua việc quy định mức độ hình thức và công cụ huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong xã hội, thông qua việc quy định cách thức, nội dung, các nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính huy động được từ hoạt động tín dụng nhà nước. e. Các quỹ Tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước Các quỹ TCNN ngoài NSNN là các quỹ tiền tệ tập trung do Nhà nước thành lập, quản lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý các biến 38 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 động bất thường trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và để hỗ trợ thêm cho NSNN trong trường hợp khó khăn về vốn. So với các loại quỹ khác trong nền kinh tế, các quỹ TCNN ngoài NSNN có đặc điểm: (1) Nhà nước là người quyết định thành lập, huy động nguồn lực tài chính, sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN; (2) Nguồn tài chính của các quỹ TCNN ngoài NSNN bao gồm: Được trích từ NSNN theo quy định của pháp luật, một huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong nền kinh tế (3) Sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN chủ yếu dùng để đối phó những biến động bất thường, không dự báo trước được trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, các khoản chi không có trong dự toán NSNN nhưng bắt buộc nhà nước phải chi để xử lý những biến động bất thường .(3) Việc sử dụng có tính linh hoạt hơn so với quỹ NSNN, hoạt động của các quỹ TCNN ngoài NSNN thường được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản dưới luật. (4) thời gian tồn tại của một số quỹ TCNN ngoài NSNN tùy thuộc vào kết quả xử lý các trường hợp bất thường. Các quỹ TCNN ngoài NSNN, có rất nhiều loại. Để nghiên cứu, quản lý người ta phân loại thành các nhóm chủ yếu sau đây: - Nhóm quỹ TCNN thực hiện chức năng dự trữ, dự phòng phục vụ cho việc đối phó những rủi ro bất trắc. Loại nhóm này không ổn định, tùy thuộc vào kết quả xử lý những rủi ro bất trắc. Các quỹ thuộc nhóm này như Quỹ dự trữ quốc gia; Quỹ quỹ dự trữ tài chính,Quỹ dự trữ ngoại tệ… - Nhóm Quỹ TCNN ngoài NSNN có tính chất hỗ trợ từ phía Nhà nước chủ yếu phục cho vấn đề an sinh xã hội. Tính chất đặc biệt của nhóm quỹ này là việc chi ra không có khả năng thu hồi. Các quỹ TCNN ngoài NSNN thuộc nhóm này bao gồm: Quỹ BHXH, Quỹ xóa đói giảm ngheo, Quỹ xóa mù chữ, Quỹ phòng chống ma túy…Cơ chế quản lý của nhóm quỹ này chủ yếu là bảo đảm thu chi đúng chế độ, chính sách của nhà nước, đúng mục tiêu của quỹ và cân đối giữa thu và chi. 39 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 - Nhóm quỹ TCNN ngoài NSNN có tính chất thu hồi vốn khi chi ra: Các Quỹ thuộc nhóm này bao gồm: Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng chính sách; Quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, Quỹ tín dụng đào tạo… Đặc điểm quan trọng của các quỹ thuộc nhóm này là thực hiện cơ chế tín dụng có vay có trả cả gốc lẫn lãi song bảo đảm được tính chất ưu đãi. Chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN là chính sách của Nhà nước điều tiết, điều chỉnh sự vận hành của các quỹ TCNN ngoài NSNN thông qua việc quy định, hình thành, nội dung sử dụng cũng như quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức nhà nước quản lý và sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN. Chính sách tài chính công của Nhà nước có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực phát triển CNHT. Khi áp dụng vào quá trình phát triển CNHT, Chính sách tài chính công có những tác dụng quan trọng đối với quá trình phát triển CNHT của quốc gia. 1.2.2. Những tác động của chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Có thể phân tích tác động của chính sách tài chính công đến quá trình phát triển CNHT trên ba phương diện: (1) Tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy động sử dụng nguồn lực tài chính của xã hội nói chung, nguồn lực tài chính nhà nước nói riêng; (2) Điều chỉnh, điều tiết thu nhập và hoạt động CNHT; (3) tạo ra môi trường kinh tế ổn định cho sự phát triển CNHT. Một trong những yếu tố có tính quyết định đối với phát triển CNHT là nguồn lực tài chính. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển CNHT, sự hỗ trợ và sử dụng một phần nguồn vốn từ NSNN và các quỹ TCNN ngoài NSNN, cũng như huy động nguồn vốn qua quỹ tín dụng nhà nước là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT không thể tự động huy động 40 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 được mà phải căn cứ vào cơ chế chính sách của nhà nước mới có thể tiến hành các giải pháp huy động. Những quy định trong chính sách NSNN, chính sách tín dụng nhà nước, chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN chính là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tài chính từ NSNN, từ các quỹ tài chính nhà nước, từ kết quả hoạt động tín dụng nhà nước. Không những thế, chính sách tài chính công cũng tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc phân bổ, bố trí sử dụng nguồn vốn huy động được để phát triển CNHT, bảo đảm việc sử dụng tập trung tránh dàn trải và sử dụng có hiệu quả. Mặt khác, chính sách tài chính công là công cụ quan trọng để nhà nước điều chỉnh, điều tiết thu nhập và hoạt động của CNHT, tạo điều kiện hướng hoạt động của CNHT theo đúng quy họach của Nhà nước đề ra. Nhà nước sử dụng chính sách thuế với những ưu tiên ưu đãi có trọng tâm, trọng điểm có thể thúc đẩy tăng quy mô và chuyển dịch cơ cấu của CNHT, phục vụ tốt cho sự phát triển của ngành công nghiệp hạ nguồn. Đặc biệt với chính sách tài khóa, được điều chỉnh theo sự biến động của chu kỳ kinh tế đã góp phần quan trọng tạo ra môi trường kinh tế ổn định cho sự phát triển CNHT. Do đặc điểm, tính chất có sự khác nhau, nên mỗi loại chính sách trong hệ thống chính sách tài chính công có mức độ tác động khác nhau đến sự phát CNHT: Thứ nhất, tác động của chính sách thuế đối với phát triển CNHT Chính sách thuế là một nội dung của chính sách tài chính công, là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng đề ra quyết định về thu nhập và huy động nguồn thu để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của mình. Chính sách thuế là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính sách tài chính công, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng trong 41 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 việc thực hiện đường lối phát triển KT-XH của đất nước. Tác động của chính sách thuế đối với phát triển CNHT thể hiện qua chức năng cơ bản tự thân của nó: - Chức năng định hướng: Chính sách thuế góp phần định hướng cho nhà quản lý thu và nộp thuế một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và hợp lý. Đồng thời, chính sách thuế còn giúp các nhà sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực CNHT định hướng, xác định ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh để mang lại hiệu quả phù hợp với khả năng và năng lực của mình. - Chức năng điều tiết: Chính sách thuế giúp phân phối, điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nhằm thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng trong xã hội, thúc đẩy phát triển CNHT theo định hướng của Nhà nước. Như vậy, tác động của chính sách thuế đối với phát triển CNHT thường diễn ra ở hai trạng thái khuyến kích hoặc kiềm chế phát triển CNHT tùy thuộc vào quan điểm của Nhà nước đối CNHT. Sự tác động của chính sách thuế đối với CNHT được thực hiện thông qua việc áp dụng các sắc thuế cụ thể và chế độ ưu đãi, miễn giảm của từng sắc thuế đó.Trong số hệ thống các sắc thuế có thể nói việc thực hiện những ưu đãi, miễn, giảm của ba sắc thuế: thuế TNDN và thuế GTGT, thuế XNK có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hoạt động của CNHT. Với những ưu đãi và chế độ miễn giảm của thuế TNDN sẽ ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và phân bổ thu nhập của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Với những ưu đãi, miễn, giảm của thuế GTGT chủ yếu liên quan đến đầu ra của sản phẩm CNHT, liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm CNHT, thúc đẩy công tác hạch toán kế toán trong hoạt động của các doanh nghiệp CNHT. Với những ưu đãi, miễn, giảm của thuế XNK sẽ có tác động đến các yếu tố đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất CNHT, đồng thời góp phần khuyến khích mở 42 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 rộng thị trường xuất khẩu của sản phẩm CNHT. Đối với những quốc gia khi CNHT còn non yếu, Nhà nước chủ trương sử dụng chính sách thuế đối với CNHT theo hướng khuyến khích ưu tiên, ưu đãi, thực hiện chế độ miễn, giảm là chủ yếu. Thứ hai, tác động của chính sách tín dụng ưu đãi đối với CNHT Tác động chủ yếu của chính sách tín dụng đầu tư của nhà nước đối với phát triển CNHT chính là ở chỗ tín dụng đầu tư của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát trực tiếp của NSNN sang hình thức tín dụng đặc biệt có ưu đãi về lãi suất song vẫn thực hiện nguyên tắc tín dụng có vay có trả cả gốc lẫn lãi. Chính việc thực hiện nguyên tắc tín dụng, tín dụng đầu tư của Nhà nước có tác dụng đối với phát triển CNHT không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn mà còn tăng cường công tác hạch toán đối với các doanh doanh nghiệp hoạt động trong ngành lĩnh vực CNHT. Các doanh nghiệp muốn sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước trước hết phải chú trọng nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể hoàn trả được vốn và lãi. Như vậy, để có thể nâng cao được tác dụng tích cực của tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với phát triển CNHT trước hết phải chú trọng hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước theo hướng: - Nghiên cứu, xây dựng danh mục dự án đầu tư ưu đãi sử dụng tín dụng đầu tư của Nhà nước. - Nghiên cứu xây dựng lãi suất, thời gian sử dụng vốn vay một cách hợp lý gắn với đặc thù của hoạt động CNHT ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. - Thực hiện cải tiến quy trình tín dụng đầu tư của nhà nước theo yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của tín dụng đầu tư của Nhà nước. Thứ ba, tác động của chính sách trực tiếp sử dụng nguồn tài chính từ NSNN hỗ trợ phát triển CNHT 43 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Hầu hết ở các nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển CNHT, Nhà nước đều sử dụng một phần nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho hoạt động phát triển CNHT. Nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho hoạt động của CNHT có tác động như là một “ cú huých” ban đầu nhằm kích thích các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT. Đương nhiên, yêu cầu đặt ra đối với “cú huých” đó phải đủ lớn mới có thể khuyến kích được các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính từ NSNN tài trợ trực tiếp cho phát triển CNHT bị ràng buộc bởi các quy định trong Luật NSNN. Do đó, để có thể sử dụng được nguồn lực tài chính từ NSNN, đòi hỏi trước hết trong Luật NSNN phải những điều khoản chi cho phát triển CNHT, đồng thời trong dự toán NSNN hàng năm phải có khoản dự toán chi NSNN cho hoạt động CNHT. Mặt khác, kết quả thực hiện các khoản chi NSNN cho phát triển CNHT phải được quyết toán theo quy định của Luật NSNN. Thứ tư, tác động của chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối với phát triển CNHT. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, cũng như thực tế ở Việt Nam cho thấy, chưa có một tài liệu nào đề cập đến chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối với phát triển CNHT. Tuy nhiên, trên phương diện lý luận, chức năng quan trọng của các quỹ TCNN ngoài NSNN là bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định trước những rủi ro bất khả kháng, không dự báo trước trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Với chức năng này, chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối với phát triển CNHT có tác dụng gián tiếp tạo ra môi trường kinh tế ổn định cho phát triển CNHT. Mặc dù, chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN có tác dụng gián tiếp đối với phát triển CNHT, song hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp nói chung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nói riêng không thể hoạt động một cách độc lập diễn ra trong nội bộ mà trái lại mọi 44 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 hoạt động sản xuất, kinh doanh của nó đều có liên hệ chặt chẽ với môi trường kinh tế, xã hội. Khi môi trường bên ngoài mất ổn định tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ.Từ đó, cho thấy việc hoàn thiện chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN góp phần bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định, bền vững là yếu tố quan trọng đối với phát triển CNHT. Tóm lại, mỗi một loại chính sách trong chính sách tài chính công có mức độ, cách thức tác động đối với phát triển CNHT khác nhau, song nhìn chung việc sử dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT có thể diễn ra hai trạng thái khuyến khích, hoặc kìm chế sự phát triển CNHT tùy thuộc vào quan điểm, chủ trương của Nhà nước đối với CNHT. 1.2.3. Những tiêu chí đánh giá tác động của chính sách tài chính công đến phát triển công nghiệp hỗ trợ Trên phương diện lý thuyết để đánh giá tác động của một chính sách đến một đối tượng điều chỉnh của một chính sách nói chung của tác động chính sách tài chính công đến CNHT nói riêng người ta thường dựa vào các tiêu chí chủ yếu sau đây: a. Nhận biết của doanh nghiệp về các chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT của Nhà nước. Để có thể tiếp cận được với chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, trước tiên doanh nghiệp phải nhận biết được về mặt nội dung các chính sách do Trung ương/địa phương ban hành liên quan tới phát triển CNHT, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. Cho nên, đây là tiêu chí đầu tiên để đánh giá sự quan tâm tới chính sách của doanh nghiệp cho hoạt động đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT. 45 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Để đo lường mức độ nhận biết chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, luận án sử dụng thang đo Likert 5: Mức 1- doanh nghiệp không nhận biết có chính sách liên quan; Mức 2 -doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan nhưng không biết nội dung; Mức 3 -doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan nhưng còn lờ mờ về nội dung; Mức 4 - doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan và nắm tương đối rõ nội dung; Mức 5- doanh nghiệp nhận biết được là có chính sách liên quan và nắm rõ nội dung chính sách. b. Khả năng tiếp cận và sử dụng chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT của doanh nghiệp Sau khi đã nhận biết được các chính sách do Trung ương/địa phương ban hành, doanh nghiệp tiếp cận chính sách thông qua kênh thông tin nào (chính thức, phi chính thức?), thời gian tiếp cận ra sao (nhanh, trung bình, chậm) và chi phí để tiếp cận như thế nào (đắt, trung bình, rẻ). Sau khi đã tiếp cận được chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, doanh nghiệp có sử dụng được chính sách hay không? Để đo lường tiêu chí này, người ta đưa ra 5 mức khi nghiên cứu khảo sát ý kiến của doanh nghiệp Mức 1 - doanh nghiệp không sử dụng được chính sách liên quan; Mức 2 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan nhưng ít; 46 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Mức 3 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức độ trung bình; Mức 4 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức tương đối thường xuyên; Mức 5 - doanh nghiệp sử dụng được chính sách liên quan ở mức thường xuyên. c. Đánh giá của doanh nghiệp về mức độ thuận lợi và khó khăn khi sử dụng chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT của Nhà nước Sau khi sử dụng chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT, doanh nghiệp đánh giá được mức độ thuận lợi/khó khăn trong quá trình sử dụng chính sách về thủ tục, qui trình, thời gian và độ trễ chính sách. Để đo lường tiêu chí này, đề tài sử dụng thang đo likert 5. Cụ thể: Về thủ tục, qui trình để được hưởng ưu đãi: Mức 1- rườm rà, Mức 2 - tương đối rườm rà, Mức 3 - bình thường, Mức 4- tương đối đơn giản; Mức 5 - đơn giản; Về thời gian và độ trễ chính sách: Mức 1- độ trễ chính sách lớn; Mức 2- độ trễ chính sách tương đối lớn; Mức 3- độ trễ chính sách trung bình; Mức 4- độ trễ chính sách tương đối nhỏ; 47 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Mức 5- độ trễ chính sách không đáng kể (nhỏ). d. Số lượng doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT trong 3 năm vừa qua và mức đầu tư/doanh thu cho các hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. - Về tiêu chí số lượng doanh nghiệp đổi mới công nghệ trong 3 năm vừa qua, tiêu chí này đánh giá xem có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm hỗ trợ trong 3 năm qua mà không biết, hoặc không hưởng bất cứ ưu đãi nào từ chính sách và bao nhiêu % doanh nghiệp đã được hưởng ưu đãi từ chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT. Từ đó, kết hợp phỏng vấn sâu các chuyên gia, các doanh nghiệp để có thể kết luận được tác động của chính sách Nhà nước đến đối tượng thụ hưởng chính sách. - Về tiêu chí mức đầu tư/doanh thu cho đổi mới công nghệ, tiêu chí này cho biết hiện nay các doanh nghiệp CNHT đầu tư bao nhiêu/doanh thu cho các hoạt động đổi mới công nghệ như: (1) Mức đầu tư/doanh thu cải tiến dây chuyền công nghệ; (2) Mức đầu tư nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới/qui trình mới; (3) Mức đầu tư nâng cao năng lực nguồn nhân lực công nghệ phục vụ cho đổi mới công nghệ; (4) Mức đầu tư hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho hoạt động đổi mới công nghệ; (5) Mức đầu tư cập nhật thông tin liên quan tới đổi mới công nghệ và bản quyền công nghệ. e. Đánh giá chung của doanh nghiệp, chuyên gia về chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Đây là tiêu chí đo lường sự hài lòng của doanh nghiệp (đối tượng thụ hưởng chính sách) đối với các cơ quan ban hành chính sách (chủ thể chính sách – Nhà nước) về các vấn đề liên quan tới chính sách phát triển CNHT, chính sách đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT như mức được hưởng ưu đãi, thời gian được 48 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 hưởng ưu đãi, các thủ tục, qui trình, thái độ phục vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan. Để đo lường tiêu chí này, ta sử dụng thang đo likert 5, kết hợp với phỏng vấn sâu có chọn lọc một số chuyên gia trong lĩnh vực đổi mới công nghệ, CNHT ở cả Trung ương và địa phương, phỏng vấn sâu có chọn lọc một số các lãnh đạo doanh nghiệp CNHT. Như vậy, các tiêu chí đánh giá ở trên là cơ sở để có thể tiến hành các hoạt động như thiết kế câu hỏi trong phiếu điều tra các doanh nghiệp CNHT, cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia về đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT. Từ đó, kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng trên cơ sở sử dụng các dữ liệu sơ cấp (điều tra, khảo sát, phỏng vấn sâu doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, các chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước về đổi mới công nghệ) và dữ liệu thứ cấp (các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới chính sách phát triển CNHT, đổi mới công nghệ) để đánh giá, hoàn thiện hay ban hành chính sách mới nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng việc sử dụng chính sách tài chính công phát triển công nghiệp hỗ trợ Suy cho cùng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT là sản phẩm chủ quan của Nhà nước. Mọi quy định sử dụng TCC đối với phát triển CNHT của Nhà nước đều chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. 1.2.4.1. Những nhân tố khách quan a. Nhu cầu và khả năng nguồn lực tài chính ĐTPT CNHT Bất cứ một chính sách nào khi ban hành đều phải tính toán đến nhu cầu nguồn lực tài chính của đối tượng mà chính sách muốn tác động tới và khả năng nguồn lực tài chính cần có để thi hành chính sách đó trong thực tiễn. Khi hoạch định và thực thi chính sách mà không tính đến nhu cầu và khả năng nguồn lực tài chính coi 49 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 như chính sách đó không có tính khả thi. Việc hoạch định và thực thi chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT cũng vậy. Nhân tố quan trọng phải tính đến khi hoạch định và thực thi chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT phải tính toán, cân nhắc đến nhu cầu nguồn lực tài chính và khả năng nguồn lực tài chính có thể đáp ứng yêu cầu của phát triển CNHT. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn phát triển ban đầu CNHT nhu cầu nguồn lực tài chính rất lớn, song trong bối cảnh quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất hiệu quả còn thấp nên khả năng tài chính trong xã hội còn hạn chế không thể đáp ứng một lúc nhu cầu tài chính đối với CNHT. Thực tế này đặt ra cho việc xác định những ưu tiên của chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT phải có sự chọn lọc, không thể thực hiện những ưu tiên mang tính đại trà, thiếu trọng tâm, trọng điểm. b. Yếu tố toàn cầu hóa, hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực Toàn cầu hóa, hội nhập, mở của nền kinh tế, đồng nghĩa với việc chấp nhận những quy định chung có tính thông lệ của quốc tế về mặt chính sách. Chính vì vậy, khi hoạch định và thực thi hệ thống chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT của nước nhà phải tính những cam kết của nhà nước thể hiện trong các hiệp định thương mại, hiệp định về thuế mà nhà nước đã ký với các nước. Chẳng hạn chúng ta không thể sử dụng khía cạnh ưu đãi của chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT vượt quá những quy định liên quan đến ưu đãi chính sách đối với các nước mà Việt Nam đã ký kết trong các hiệp định thương mại, bởi lẽ nếu ưu đãi vượt trội những ưu đãi chung của các nước dẫn đến sự bất bình đẳng diễn ra trong cùng một sân chơi được quy định bởi những luật lệ chung. Do đó, trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát triển CNHT nội địa phải tính toán cân nhắc đến những cam kết mà các quốc gia đã ký kết trong các Hiệp định thương mại, hiệp định thuế quan… 50 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 1.2.4.2. Nhân tố chủ quan a. quan điểm định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nhà Lãnh đạo Chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT là cụ thể hóa quan điểm, định hướng phát triển CNHT của Nhà nước về mặt tài chính. Do đó, những quy định về chính sách tài chính công phát triển CNHT không thể thoát ly những quan điểm định hướng của Nhà nước đối với phát triển CNHT. Quan điểm định hướng chung phát triển CNHT của nhiều quốc gia là ưu tiên phát triển CNHT nội địa bảo đảm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp, khuyến kích gia tăng số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT, đổi mới khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT…Những quan điểm định hướng như vậy, đã được cụ thể hóa trong các chính sách thuế, chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Từ thực tế này cho thấy chính sách tài chính công là sự cụ thể hóa quan điểm định hướng của Nhà nước đối với CNHT. Nếu quan điểm định hướng phát triển CNHT của Nhà nước không phù hợp, không gắn với tính đặc thù của CNHT, tất yếu việc hoạch định và thực thi chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT cũng sẽ đi lệch hướng. b. Năng lực hoạch định và tổ chức thực thi chính sách Suy cho cùng cho dù các nhân tố khách quan và chủ quan kể trên là tạo điều kiện cho việc hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát triển CNHT, nhưng thiếu đội ngũ hoạch định và tổ chức thực hiện có năng lực, có trình độ chuyên môn sâu thì cũng khó có được một hệ thống chính sách tài chính công tốt, chuẩn mực, phát huy được hiệu quả trong thực tế. Do đó, để có được hệ thống chính sách tài chính công tốt bảo đảm phát huy hiệu quả trong thực tiễn, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ hoạch định, thẩm định chính sách cũng như tổ chức triển khai thực hiện chính sách trong thực tiễn. 51 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 c. Xây dựng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT phải quán triệt những yêu cầu cơ bản Những tác động tích cực của chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT chỉ có thể phát huy khi và chỉ khi việc thiết lập và sử dụng nó đạt được các yêu cầu cơ bản sau đây: Một là, bảo đảm yêu cầu phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách trong hệ thống chính sách tài chính quốc gia, đặc biệt phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa có tính độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ điều hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách trầm trọng, thậm chí còn làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai loại chính sách này không chỉ có lợi cho nền kinh tế nói chung mà còn có lợi cho quá trình phát triển CNHT. Hai là, bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng Bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch, bình đẳng, công bằng trong thiết lập và thực thi chính sách là động lực quan trọng khuyến khích thức các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu phát triển CNHT. Nói đến công khai minh bạch trong chính sách trước hết là nói đến công khai về quan điểm thiết lập và thực thi chính sách, sau nữa là thực hiện công khai những thông tin liên quan đến chính sách. Bình đẳng công bằng trong chính sách nghĩa là chính sách không có phân biệt đối xử đối 52 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 với các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT, nhất là trong việc sử dụng chính sách thuế, chính sách chi của NSNN, chính sách tín dụng. Ba là, Trong bối cảnh hội nhập KTQT, việc thiết lập, thực thi chính sách phải bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập, mở cửa nền kinh tế thường được thực hiện trên hai trụ cột: (i) đưa nền kinh tế và thị trường hội nhập vào nền kinh tế và thị trường của thế giới; (ii) giảm bớt tính đặc thù về thể chế tạo ra tính tương đồng về chính sách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Có như vậy, mới có thể đưa nền kinh tế hoạt động trong một sân chơi chung của khu vực và thế giới. Chính sách tài chính quốc gia đối với phát triển CNHT, trong bối cảnh hội nhập, mở của khi thiết lập và thực thi không thể thoát ly được những quy định chung mang tính thông lệ quốc tế, mà phải nghiên cứu vận dụng các quy định chung mang tính thông lệ quốc tế. Có như vậy, mới tận dụng được lợi thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý phục vụ tốt cho phát triển CNHT. 1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới Đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở khu vực Châu Á nói riêng thành công trong việc phát triển CNHT. Một số quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc…đã rất thành công trong việc phát triển CNHT. Tuy nhiên, có một số quốc gia khác như Hàn Quốc, Đài Loan … trước đây đã rất thành công với chính sách nội địa hóa nhưng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì việc áp dụng những quy tắc về nội địa hóa nói riêng và các biện pháp phi thuế quan nói chung đã không còn thích hợp nữa. Như vậy, Chính sách phát triển CNHT của các nước tùy theo hoàn cảnh cụ thể có thành công và có thất bại. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển CNHT kể cả thành 53 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 công cũng như thất bại đều cho chúng ta những bài học cần thiết. Nhìn chung, qua nghiên cứu thực tế phát triển CNHT của các nước cho thấy người ta rất chú trọng đến việc áp dụng các chính sách tài chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển CNHT và tập trung vào hai loại chính sách chủ yếu: (i) chính sách tài khóa; (ii) Chính sách tiền tệ. Cụ thể: 1.3.1.1. Miễn, giảm, thuế, thúc đẩy đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ Ấn Độ, bắt đầu quan tâm CNHT trong những năm 1985. Khi công nghiệp phần mềm bắt đầu phát triển Chính phủ đã nhận thấy đây là cơ hội phát triển kinh tế đất nước và đã áp dụng nhiều giải pháp phát triển nền công nghiệp này, đặc biệt là bãi bỏ các giấy phép liên quan đến công nghiệp phần mềm, cho phép nhập khẩu miễn thuế các sản phẩm phục vụ phát triển công nghệ phần mềm, doanh nghiệp mới thành lập được miễn các loại thuế 5 năm hoạt động đầu tiên. Đối với sản phẩm phần mềm xuất khẩu được khấu trừ 50% trên thu nhập xuất khẩu. Ở Trung Quốc, theo chính sách mới đối với công nghệ phần mềm hoạt động trên 15 năm được miễn thuế TNDN trong 5 năm (kể từ khi có thu nhập), giảm 50% thuế trong 5 năm tiếp theo. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và phân tích phần mềm, thuế GTGT sản phẩm phần mềm được giảm 6% so với thuế suất các ngành sản xuất khác. Ở khu công nghệ phần mềm miễn thuế GTGT khi bán các phần mềm máy tính tự sản xuất, miễn thuế thu nhập công ty về hoạt động chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ và tư vấn các dịch vụ liên quan. Chính phủ đề ra các chính sách thuận lợi cho các doanh nghiệp bán phần mềm, tăng lương thực tế cho các công nhân hoạt động trong các doanh nghiệp sản xuất phần mềm bằng cách khấu trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế. Đối với phần mềm xuất khẩu thì được miễn thuế. Khi nhập công nghệ, thiết bị tiên tiến mà trong nước không thể sản xuất thì được hưởng chính sách ưu đãi thuế. 54 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Ở Nga, Luật thuế mới được phê chuẩn tháng 8/2001 và có hiệu lực thi hành 1/1/năm 2002 áp dụng chế độ miễn trừ thuế dựa theo thực tế đối với các nhà đầu tư đổi mới. Việc chuyển giao tài sản vô hình như phần mềm cho các tổ chức khác được coi là bán sản phẩm và do vậy không chịu thuế nếu sự chuyển giao này mang tính chất đầu tư. Đối với doanh nghiệp đạt 90% lợi nhuận từ việc bán sản phẩm phần mềm và sử dụng ít nhất 50 công nhân sẽ được áp dụng mức đóng bảo hiểm cho người lao động là 14% thay cho mức trước đây là 34%. Ở Thái Lan, Ủy ban đầu tư (BOI) là cơ quan chịu trách nhiệm phê duyệt và cấp ưu đãi đầu tư đã đưa ra hai loại ưu đãi: ưu đãi thuế và ưu đãi phi thuế dựa trên hệ thống phân vùng. Việc ưu đãi thuế bao gồm: miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu máy móc nguyên liệu thô cũng như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể miễn thuế thu nhập trong 8 năm đầu và giảm thuế thu nhập 50% cho 5 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc; miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất sản phẩm CNHT để xuất khẩu trong 5 năm đầu; miễn thuế nhập khẩu 75% đối với nguyên liệu sản xuất sản phẩm CNHT tiêu thụ trong nước trong 5 năm đầu. Ưu đãi phí, thuế bao gồm: cho phép thuê công nhân nước ngoài, sở hữu đất, mang hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Kinh nghiệm phát triển CNHT của Thái Lan cho thấy, nước này đã lập mô hình Ban phát triển CNHT (BSID) thuộc Bộ Công nghiệp Thái Lan (MOI) nhằm xây dựng các dự án hữu ích, tập trung vào 3 khía cạnh là con người, công nghệ và liên kết, cũng như thúc đẩy, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, đào tạo và tư vấn kỹ thuật. BSID định hướng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà khởi nghiệp CNHT, các cơ quan quản lý, ngân hàng và tổ chức tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp. Đây cũng là cơ quan điều phối chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài vào CNHT của Thái Lan từ Trung ương đến địa phương nhằm bảo đảm không xảy ra tình trạng ưu đãi quá mức và dàn trải. 55 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Tại Nhật, việc phát triển CNHT là một trong 4 lĩnh vực được Chính phủ thực hiện chính sách ưu tiên. Từ năm 1999, Chính phủ bắt đầu thực hiện các biện pháp khuyến khích cải tiến thuế theo “ Chương trình giảm thuế cho các chi phí gia tăng với nghiên cứu và thử nghiệm” Chương trình khuyến khích để các hãng tư nhân đầu tư vào CNHT theo đó chi phí nghiên cứu hỗ trợ trong năm tài khóa áp dụng nhiều hơn so với chi phí nghiên cứu hỗ trợ trung bình của 3 năm có chi phí cao nhất trong 5 năm gần nhất thì được miễn thuế 15% cho chi phí của năm đó. Theo Cục thuế Quốc gia năm 2000 toàn bộ thuế được giảm là 38 tỷ Yên, năm 2001 là 41 tỷ Yên Nhật. 1.3.1.2. Thực hiện hoàn thuế thông qua việc cho phép khấu hao nhanh Nhằm giúp cho các doanh nghiệp tăng khả năng tài chính và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi nhanh TSCĐ, nhiều nước đã cho phép các doanh nghiệp thực hiện khấu hao nhanh TSCĐ. Ở Mỹ, theo cải cách thuế năm 1996 các hãng được phép khấu hao nhanh TSCĐ hơn so với khấu hao trực tiếp. Ở EU, các doanh nghiệp ở các nước thành viên đều được các Chính phủ cho phép khấu hao nhanh khi tính thuế. Chẳng hạn ở Ba Lan trong Luật thuế doanh nghiệp sửa đổi ngày 20/11/1999 quy định tăng tỷ lệ khấu hao nhanh TSCĐ vô hình vào quy định trong Luật thuế TNDN. Ở Hàn Quốc, Chính phủ sử dụng các chương trình khấu hao ưu tiên đối với các loại đầu tư và các loại doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới, đầu tư R&D trong có CNPM. 1.3.1.3. Nhà nước đầu tư tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa 56 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Nói chung ở các nước có nền CNHT phát triển người ta vẫn chú trọng đến vấn đề tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp NVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT từ phía Chính phủ. Ở Canada, đã thành lập Quỹ đối tác công nghệ Canada (TPC) để phát triển cơ sở công nghệ và năng lực công nghệ, phát triển cạnh tranh về ứng dụng công nghệ, đặc biệt đối với doanh nghiệp NVV với ngân sách ban đầu năm 1996 là 150 triệu USD/ năm, năm 2001 là 300 triệu USD/ năm. Ở Mexhicô từ năm 1998 hàng năm đều có kế hoạch tài chính trình Quốc hội cấp cho CNHT, cấp 20% số chi phí cho R&D đối với doanh nghiệp lớn và đối với doanh nghiệp NVV là 35%. Ở Thụy Điển (NUTEK) cũng thực hiện chương trình tài trợ cho CNHT đối với các doanh nghiệp NVV. Bắt đầu từ tháng 4 năm 2001 tăng khả năng sử dụng chiến lược công nghệ trong các doanh nghiệp NVV với tổng số kinh phí là 3,2 triệu EUR trong 2 năm. Ở Bỉ, Chính phủ tài trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở những hoạt động nghiên cứu kinh tế kỹ thuật, chuyển giao công nghệ …trong đó tài trợ trên 80% chi phí nghiên cứu khả thi để phát triển phần mềm mới. Ở Hà Lan, năm 2001 khoản ngân sách dành cho khuyến khích hoạt động CNHT của các doanh nghiệp lên tới con số 505 triệu EUR trong đó dành cho doanh nghiệp NVV chiếm tới 65% số kinh phí trên. Ba Lan chú trọng hơn về yêu cầu bình đẳng khi khu vực tư nhân tiếp cận đến nguồn tài trợ từ ngân sách nghiên cứu khoa học, đặc biệt phần hỗ trợ lớn hơn từ ngân sách nghiên cứu khoa học cho doanh nghiệp NVV, đơn giản hóa thủ tục xin cấp và xét tài trợ. Vì vậy số doanh nghiệp hoạt động trong CNHT ngày một tăng năm 1996 là 296 doanh nghiệp năm 1999 là 498 doanh nghiệp. 57 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 1.3.1.4. Thực hiện tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ Biện pháp cung ứng tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp CNHT cũng được Chính phủ các nước trên thế giới sử dụng khá phổ biến. Ở Mêhicô nhiều chương trình do Hội đồng KH&CN Quốc gia (CONACYT) quản lý như hỗ trợ hiện đại hóa công nghệ bao gồm cho vay với lãi suất thấp. Ở Ba Lan, Luật Ban hành ngày 3 tháng 5/1997 bảo lãnh tín dụng kho bạc Nhà nước thì các doanh nghiệp có thể được bảo lãnh tín dụng với điều kiện số tín dụng được bảo lãnh dùng để đầu tư vào các biện pháp công nghệ hoặc kỹ thuật mới. Người bảo lãnh sẽ được thanh toán 60% số tín dụng và 60% lãi suất của số tín dụng. Trung Quốc các tổ chức tài chính trung gian đẩy mạnh các dịch vụ tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, mở rộng các loại hình tín dụng, các hình thức thế chấp cho tín dụng CNHT. Đối với các dự án của doanh nghiệp đem lại nhiều lợi ích kinh tế và thay thế nhập khẩu thì được tăng khoản vay, Nhà nước giúp đỡ bằng cách giảm lãi suất cho các khoản vay đó. Ở Hàn Quốc Chính phủ cho vay dài hạn với lãi suất thấp đối với CNHT ở những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT mới … 1.3.1.5. Hình thành phát triển và tăng cường khả năng tiếp cận sử dụng nguồn vốn đầu tư mạo hiểm đối với công nghiệp hỗ trợ Ở Canada, Ngân hàng phát triển kinh doanh (BDC) đã thiết lập quỹ vốn mạo hiểm trên cả nước đối với các đối tác khác nhau để tập trung vào tài trợ cho doanh nghiệp NVV phát triển công nghệ, mới thành lập, rủi ro cao và tăng trưởng nhanh, có khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn truyền thống. Giai đoạn 20002001, NH đã cam kết đầu tư vốn mạo hiểm lên tới 296 triệu USD so với 44 triệu USD giai đoạn 1994-1995. Kể từ khi bắt đầu áp dụng vốn mạo hiểm, BDC đã cung cấp khoảng 400 triệu USD vốn mạo hiểm cho hơn 300 doanh nghiệp. 58 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Ở Thụy Sĩ, để khuyến khích phát triển qũy đầu tư mạo hiểm, Chính phủ đã thực hiện giảm thuế cho các tổ chức đầu tư vốn mạo hiểm cho các doanh nghiệp nghiên cứu sản xuất sản phẩm CNHT. Ở Nga, bắt đầu từ năm 2000 Chính phủ thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư cho quỹ phát triển công nghệ của Nga. Ở Trung Quốc, Hội nghị về đổi mới công nghệ quốc gia năm 1999 được coi là bước ngoặt về chính sách tăng cường đối với công nghệ, phát triển công nghệ cao, một trong những chính sách mà hội nghị đưa ra là ưu tiên phát triển thị trường vốn, từng bước thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, phát triển các công ty đầu tư mạo hiểm, thiết lập hệ thống rút khỏi vốn vốn mạo hiểm, tiêu chuẩn hóa hoạt động của thị trường của đầu tư vốn mạo hiểm. 1.3.1.6. Hỗ trợ tài chính đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ Ở Nga, để hỗ trợ cho việc xuất khẩu, chuyển giao công nghệ hàng năm đều tiến hành các hội nghị, hội thảo về chủ đề xuất khẩu sản phẩm của CNHT và chuyển giao công nghệ. Kinh phí cho các hội nghị, hội thảo do Nhà nước tài trợ. Ở Ba Lan, các hợp đồng xuất khẩu kết quả nghiên cứu sản phẩm CNHT được bảo lãnh bởi Kho bạc nhà nước với điều kiện tỷ lệ % tối thiểu của các thành phần nội địa trong hàng hóa và dịch vụ là đối tượng xuất khẩu phải bằng 50% giá trị thành phẩm chuyển giao xuất khẩu. Tại Malaysia, Chính phủ áp dụng biện pháp tài chính để thúc đẩy xuất khẩu như tính gấp đôi các chi phí có liên quan đến việc tìm cơ hội xuất khẩu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đồng thời thực hiện giảm thuế xuất khẩu, thực hiện chương trình tài trợ với phát triển công nghệ cao nhằm tạo điều kiện cạnh tranh trên trường quốc tế. 1.3.2. Bài học về sử dụng chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam 59 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thứ nhất, xây dựng chính sách tài chính công theo hướng linh hoạt tạo lợi thế so sánh cao cho CNHT Chính phủ cần tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư cả trong nước và nước ngoài vào phát triển CNHT. Đặc biệt, chính phủ cần hợp tác với các nhà đầu tư, lắng nghe ý kiến của họ, thỏa thuận với họ những mục tiêu về chuyển giao công nghệ và mua hàng trong nước, hợp tác chặt chẽ với các địa phương để hoạch định được các chính sách công nghiệp phù hợp, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp, nhất là thiết lập các biện pháp hỗ trợ tài chính thống nhất trong đa dạng và linh hoạt; tạo ra lợi thế so sánh cao hơn và giảm chi phí về hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp CNHT. Đặc biệt, cần phải quan tâm đến hỗ trợ tài chính cả về chi NSNN, thuế, tín dụng và khấu hao…để phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các CNHT. Các biện pháp khuyến khích cần hướng đến giảm thuế cho máy móc và nguyên liệu thô mà Việt Nam chưa sản xuất được và phải nhập khẩu. Đồng thời, có những ưu đãi như cấp vốn vay với lãi suất tín dụng thấp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng biểu thuế ưu đãi đối như miễn, giảm thuế TNDN, thuế môn bài…(bài học từ Malaysia); hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; khai thác thị trường… Thứ hai, coi trọng việc sử dụng chính sách tài chính thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong CNHT theo xu thế và phân công lao động quốc tế chung hiện nay của các MNC. Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy thành công trong việc thúc đẩy liên kết công nghiệp là nhờ sự phản ứng kịp thời của chính phủ với những thay đổi trong môi trường kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến thất bại hoặc chỉ đạt được thành công ở mức vừa phải trong việc thúc đẩy liên kết công nghiệp là do thiếu sự phối hợp giữa các bộ (Thái Lan); doanh nghiệp thiếu hiểu biết về các chính sách 60 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 của Chính phủ (Thái Lan); chính sách của chính phủ không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (Thái Lan); có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp (Hàn Quốc) và thiếu sự nhiệt tình của doanh nghiệp (Hàn Quốc). Chính phủ nên tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin để thu hẹp khoảng cách thông tin và hiểu biết giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Một cơ sở dữ liệu về công nghiệp hoàn chỉnh sẽ là chất xúc tác giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian để tìm được nhà cung cấp hay khách hàng cho mình. Đặc biệt, hàng năm nên xuất bản Sách trắng về công nghiệp, trong đó có CNHT. Lý do vì sao chính phủ Nhật Bản có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp là vì họ có Sách trắng toàn diện phân tích, dự báo các điều kiện và xu thế phát triển thương mại, công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các vấn đề liên quan khác… Sách trắng cũng như cơ sở dữ liệu công nghiệp và hệ thống thống kê công nghiệp là tối cần thiết cho hoạt động nghiên cứu, phân tích và hoạch định chính sách về công nghiệp. Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu hiện nay và đuổi kịp các nước đi trước, các chính sách công nghiệp cần phải chú trọng xây dựng đồng thời xã hội công nghiệp và xã hội tri thức. Điều này có nghĩa là chính sách không chỉ tập trung vào việc giảm chi phí và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng công nghiệp mà còn phải duy trì được môi trường thuận lợi cho việc cải cách, đổi mới trên cơ sở liên kết giữa doanh nghiệp, trường đại học và cơ quan nghiên cứu. Thứ ba, hiÖn nay yªu cÇu hµm l­îng néi ®Þa kh«ng cßn cã thÓ ®­îc ¸p dông, nh­ng mua hµng trong n­íc vÉn cã thÓ t¨ng nÕu cã c¸c biÖn ph¸p khuyÕn khÝch nh­ gi¶m thuÕ cho m¸y mãc vµ nguyªn liÖu th« mµ ViÖt Nam ch­a s¶n xuÊt ®­îc vµ ph¶i nhËp khÈu. Đèi víi nh÷ng ngµnh c«ng nghiÖp hỗ trî ®­îc ChÝnh phñ ­u tiªn ph¸t triÓn th× cÇn ph¶i cã nh÷ng ­u ®·i hơn nh­ cÊp vèn vay víi l·i suÊt tÝn dông thÊp, ®Æc biÖt lµ nh÷ng doanh nghiÖp võa vµ nhá; x©y dùng biÓu thuÕ ­u ®·i ®èi nh­ miÔn, gi¶m thuÕ thu nhËp doanh nghiÖp, thuÕ m«n bµi…(bµi häc tõ Trung 61 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Quốc); hç trî vèn cho c¸c doanh nghiÖp trong viÖc nghiªn cøu, ph¸t triÓn vµ øng dông khoa häc c«ng nghÖ; khai th¸c thÞ tr­êng… Tóm lại, kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong mỗi giai đoạn phát triển CNHT và trong điều kiện mỗi quốc gia, tác động của các chính sách tài chính đến sự phát triển CNHT là khác nhau. Trong điều kiện nguồn lực tài chính là có hạn, việc xác định chính sách nào có tác động quan trọng và phù hợp cho CNHT ở trình độ phát triển của Việt Nam, từ đó định hướng nguồn lực tài chính cho chính sách đó là đặc biệt quan trọng. 62 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 CNHT ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền công nghiệp đất nước. Trong bước đi ban đầu của quá trình phát triển CNHT của một quốc gia, Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” nuôi dưỡng cho quá trình trưởng thành của CNHT của nước nhà. Để thực hiện vai trò “bà đỡ” nuôi dưỡng cho sự trưởng thành của CNHT Nhà nước cần phối hợp thực hiện nhiều chính sách. Một trong những chính sách đó là chính sách tài chính quốc gia nhằm một mặt tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy động nguồn lực tài chính phục vụ ĐTPT CNHT và tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thúc đẩy CNHT phát triển một cách thuận lợi, mặt khác thực hiện việc điều tiết thu nhập và điều tiết hoạt động của CNHT đi đúng hướng. Điều quan trọng là phải nhận rõ về mặt lý thuyết cơ chế tác động của chính sách tài chính quốc gia phát triển CNHT với vai trò là “bà đỡ”. Đó là vấn đề được chương 1 của luận án đi sâu nghiên cứu. Ngoài những nghiên cứu về phạm trù CNHT, phát triển CNHT, nội hàm và vị trí của CNHT đối với nền kinh tế, điểm nhấn quan trọng mà chương 1 của luận án đã đề cập là: làm sáng tỏ các vấn đề có tính lý luận về tài chính, tài chính công và chính sách tài chính công đối với vấn đề phát triển CNHT như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc của chính sách tài chính công. Các tiêu chí được sử dụng để đánh giá mức độ phát triển của CNHT được luận án nghiên cứu. Đặc biệt là phân tích rõ nội dung các bộ phận cấu thành chính sách tài chính công và cơ chế tác động của chính sách tài chính công đối với quá trình phát triển CNHT. Những kinh nghiệm thực tiễn của một số nước đi trước được luận án nghiên cứu và rút ra nhiều bài học cho Việt Nam. 63 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Chương 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM 2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA VIỆT NAM Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng để đầu tư, phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngành công nghiệp. Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển những CNHT, kể cả những ngành hóa dầu, chế biến nông sản xuất khẩu, kinh tế biển, công nghệ thông tin, ôtô…do dân số đông, lực lượng lao động trẻ, người lao động chịu khó làm việc... Tuy vậy, CNHT mới được quan tâm phát triển ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây và đã thu được một số kết quả nhất định, như góp phần nâng dần tỷ lệ nội địa hóa của một ngành công nghiệp lắp ráp, giảm bớt tỷ lệ linh kiện, phụ tùng phải nhập khẩu từ nước ngoài. Một số tập đoàn điện tử, viễn thông nước ngoài đã quyết định chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới. Khởi đầu cho xu hướng này là các tập đoàn điện tử Nhật Bản, như Nidec, Canon và Sanyo. Tiếp đến là các tập đoàn đến từ Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan, trong đó đáng kể nhất là dự án của Intel, Hon Hai Foxconn, mỗi dự án có vốn 1 tỉ đô la Mỹ, và Samsung Electronics. Sự thay đổi chiến lược đầu tư của các tập đoàn trên gần như ngay lập tức đã có tác động tích cực đến lĩnh vực CNHT. Trong vài năm qua, hàng loạt dự án đầu tư sản xuất linh kiện của nước ngoài đã ra đời với mức đầu tư từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đô la Mỹ. Đáng kể nhất là các dự án 300 triệu đô la Mỹ của Meiko (Nhật Bản), chuyên sản xuất mạch in điện tử và các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh. Dự án của Hoya cũng đến từ Nhật Bản, đầu tư 100 triệu đô la Mỹ để sản xuất đĩa quang, linh kiện để chế tạo ổ đĩa cứng máy vi 64 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 tính và máy nghe nhạc. Bên cạnh đó, còn hàng chục dự án khác, sản xuất các loại linh kiện như máy biến dòng, biến thế, linh kiện chống nhiễm từ, linh kiện cộng hưởng âm thanh, thẻ cảm ứng, bộ nối cáp quang, chíp điện tử và các loại linh kiện hàng điện tử gia dụng khác...Đáng chú ý là các cứ điểm sản xuất của những tập đoàn điện tử không dàn trải, mà chủ yếu tập trung ở hai cụm. Khu vực phía Bắc là các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội. Còn phía Nam hầu hết các cơ sở đều đặt tại TPHCM, Bình Dương và Đồng Nai. Đây là điều kiện rất thuận lợi để các địa phương nêu trên thu hút các doanh nghiệp vệ tinh, đồng thời cũng là cơ hội cho các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh phát triển, chẳng hạn như logistics, tài chính và ngân hàng. Ngoài ra, những trung tâm sản xuất lớn ra đời còn giúp cho một số CNHT trong nước phát triển mạnh. Mặc dù có những kết quả bước đầu, song nhìn chung CNHT của Việt Nam trong thời gian qua còn có rất nhiều hạn chế, yếu kém, thể hiện qua các mặt sau: Một là, CNHT nội địa của Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ khai và tỷ lệ nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng phục cho ngành công nghiệp lắp rắp, chế tác còn rất cao, chưa đạt mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô tô, xe máy; công nghiệp dệt may, dày da. Được coi là lĩnh vực xương sống đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tuy nhiên việc phát triển CNHT thời gian qua tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp, phần lớn sản phẩm CNHT đang phải nhập khẩu. Việt Nam hiện có khoảng 30 ngành kinh tế - kỹ thuật cần đến CNHT, trong đó có nhiều ngành sản xuất hàng xuất khẩu, nhưng hầu hết các ngành công nghiệp lớn ở Việt Nam đều phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện ở nước ngoài để sản xuất. Chẳng hạn như ngành dệt may hàng năm xuất khẩu mang về cho nước ta hàng tỷ đô la Mỹ, nhưng phần lớn số ngoại tệ đó lại được sử dụng để nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện phục vụ cho 65 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 sản xuất. Đây chỉ là một trong số nhiều ngành của Việt Nam điển hình trong việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu và linh kiện từ bên ngoài. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, CNHT trong ngành dệt may của Việt Nam đã có những chuyển biến bước đầu. Tuy nhiên, nhìn chung quy mô nhỏ bé, kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu và cũng chỉ làm nhiệm vụ gia công cho nước ngoài, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, sản phẩm CNHT cung cấp cho ngành xe máy được coi là thành công nhất với việc hình thành một hệ thống các nhà cung ứng ngay trong nội địa nhờ đặc thù phát triển với quy định nội địa hoá của Chính phủ và dung lượng thị trường xe máy đủ lớn. Ngành cơ khí và nhựa cung cấp linh kiện cho xe máy đã có những bước phát triển về trình độ kỹ thuật, quản lý và tay nghề lao động. Mặc dù vậy, nhiều linh kiện chi tiết quan trọng với giá trị cao vẫn do các nhà cung ứng FDI thực hiện, nhìn chung CNHT ở Việt Nam còn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các ngành công nghiệp hạ nguồn, CNHT cho các ngành công nghiệp quan trọng khác như điện tử, ô tô, chế tạo máy móc,… còn rất yếu. Cơ bản nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đa phần là nhập từ nước ngoài; Đối với lắp ráp ô tô mặc dù đã có nhiều năm phát triển, nhưng CNHT cho ngành ngày được đánh giá là kém phát triển nhất hiện nay với tỷ lệ nội địa hóa chỉ chiếm từ 20 - 30%. Doanh nghiệp mới cung cấp được vài sản phẩm đơn giản, giá trị thấp như bộ dây điện, ghế ngồi, một số chi tiết kim loại, nhựa trong xe,… Cho dù trong những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu và sản xuất thử linh kiện điện tử, đồng thời có một số cơ sở đã mạnh dạn đầu tư lớn và đi vào hoạt động sản xuất như nhà máy sản xuất đèn hình Orion - Hanel Hà Nội đầu tư 178 triệu USD và đã đi vào hoạt động có hiệu quả với công suất 1,6 triệu sản phẩm năm, doanh thu hàng năm lên 100 triệu USD, song nhìn chung tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn thấp, chỉ đạt mức từ 20-40% (với sản phẩm ti vi màu). 66 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Theo báo cáo của Viện Chiến lược Công nghiệp, tỷ lệ linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước hiện mới chỉ đạt 27,8%, trong khi đó tại Thái Lan đã đạt 60% và Trung Quốc cũng đạt tỷ lệ nội địa hóa 50%. Nhiều lĩnh vực không đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể ngành công nghiệp ôtô đặt mục tiêu 2010-2020 nội địa hóa 60%, nhưng hiện chỉ đạt 7% - 8%. Ngành dệt may có kế hoạch nâng tỉ lệ nội địa hóa lên 60% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. Tuy nhiên, đến năm 2013, ngành này vẫn phải nhập khẩu 99% bông, 60% sợi, 70% vải. Ngành cơ khí dự kiến 2020 nội địa hóa 75% nhưng công nghệ chế tạo cơ khí nội địa về tổng thể vẫn là công nghệ chế tạo đơn giản. Ngành điện tử nội địa hóa gần 20% nhưng thực chất chưa có công nghiệp điện tử mà chỉ mới có ngành lắp ráp điện tử. Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, tính đến nay, Việt Nam có khoảng 210 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp cho 50 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe ô tô. Nhưng các linh kiện, phụ tùng đó chủ yếu là các sản phẩm đơn giản, hàm lượng công nghệ thấp như: các chi tiết cấu thành khung gầm xe, thùng xe, Săm lốp, bộ tản nhiệt... Mục tiêu quy hoạch đặt ra đến năm 2010 là các chi tiết, linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số, cụm truyền động phải sản xuất được 100.000 bộ sản phẩm/năm đã không đạt được. Mỗi năm, ngành sản xuất ô tô trong nước phải nhập khẩu gần 2 tỉ USD linh kiện, phụ tùng. Mặc dù đã có nhiều năm phát triển, nhưng các sản phẩm phụ trợ của ngành này được đánh giá là kém phát triển nhất hiện nay, với tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 5-10%. Hiện tại ở Việt Nam CNHT cho ngành sản xuất xe gắn máy là thành công nhất. Do thị trường tiêu thụ tốt, doanh nghiệp lắp ráp như Honda khi đầu tư vào Việt Nam đã kéo theo nhiều nhà cung ứng linh kiện hỗ trợ đầu tư theo mà chẳng cần phải đợi một chính sách hỗ trợ nào, CNHT cho ngành xe máy thậm chí còn phát triển trước khi các quy hoạch, quyết định, chính sách hỗ trợ của nhà nước ra đời. 67 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Ngành dệt may - da giày là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng có tới 80 - 85% tỷ lệ nguyên phụ liệu phải nhập khẩu, bao gồm: vải, da, chỉ khâu cao cấp, nút áo, khoá kim loại... Hiện nay 70-80% sản phẩm phụ trợ của các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp vẫn phải nhập khẩu.CNHT Việt Nam đang bị rỗng, vừa thiếu vừa yếu về nhiều mặt. Kim ngạch nhập khẩu mỗi năm của nước ta ước tính khoảng 100 tỷ đô la Mỹ, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng 23%, tương đương trên 20 tỷ đô la Mỹ. Hai là, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở nước ta còn ít về số lượng, nhỏ về quy mô và công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp. Dù gần đây, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã có sự gia tăng, nhưng đa số là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hơn nữa, CNHT chưa được phân loại và thống kê theo các phân ngành kinh tế trong danh mục thống kê, vì vậy chưa có số liệu chính thức về số lượng doanh nghiệp sản xuất CNHT. Theo các số liệu khảo sát thực tế về hiện trạng cung ứng của các tập đoàn lắp ráp tại Việt Nam của Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách công nghiệp (Bộ Công thương, năm 2012), Việt Nam hiện có gần 350 doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng, nguyên vật liệu, hiện đang cung ứng cho các tập đoàn lắp ráp trong các lĩnh vực: xe máy, điện tử, ô tô, chế tạo máy móc; Trong đó, có 252 doanh nghiệp ở quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm khoảng 73% và khoảng 27% doanh nghiệp có quy mô lớn đang sản xuất linh phụ kiện phục vụ các nhà lắp ráp (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 56 doanh nghiệp). Ngoài ra, chưa tính đến các doanh nghiệp CNHT hoạt động trong các lĩnh vực khác theo Quyết định số 12/QĐ-TTg như dệt may, da giày,…Tuy nhiên, do đặc thù của các CNHT, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nội địa khó có khả năng trở thành các nhà cung cấp cho các tập đoàn lớn. CNHT còn thiếu các cơ sở sản xuất nguyên, vật liệu hỗ trợ cơ 68 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 bản như sắt, thép, nguyên liệu nhựa, cao su kỹ thuật, hóa chất cơ bản, linh kiện điện tử… Một số doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động đầu tư vào công nghệ để sản xuất sản phẩm CNHT. Nhờ đó, trình độ công nghệ được cải thiện. Một số sản phẩm CNHT có khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu. Mặc dù vậy, công nghệ gia công còn lạc hậu, công suất thấp, giá thành cao, chất lượng không ổn định như các khâu đúc tạo phôi, rèn ép, mài, gia công, xử lý bề mặt, sản xuất khuôn mẫu…Khu vực đầu tư nước ngoài có công nghệ gia công tiên tiến hơn, cũng chỉ đủ phục vụ cho nhu cầu nội bộ công ty mẹ. Các sản phẩm CNHT bắt đầu được hình thành, mặc dù quy mô chưa đáng kể. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đã chú ý đến việc tìm kiếm nhà cung cấp và đặt hàng đối với sản phẩm CNHT. Tuy nhiên, sản phẩm CNHT hiện chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa (đáp ứng khoảng 10% nhu cầu), xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn do chưa có kênh tiếp cận thị trường hoặc chưa đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế. Năng lực cạnh tranh của các cơ sở sản xuất CNHT còn thấp. Cạnh tranh còn thiếu lành mạnh, tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp kém. Thiếu sự phối kết hợp, phân giao chuyên môn hóa giữa các cơ sở sản xuất hỗ trợ và hầu như thiếu hẳn sự phối hợp, phân giao sản xuất, liên kết giữa nhà sản xuất chính với các nhà thầu phụ, giữa các nhà thầu phụ với nhau, giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Vấn đề sản xuất các sản phẩm hỗ trợ để xuất khẩu (cho dù xuất khẩu tại chỗ) hầu như đều do các doanh nghiệp FDI nói riêng và các tập đoàn đa quốc gia nói chung khống chế và điều tiết. Các doanh nghiệp CNHT Việt Nam chưa chủ động tham gia vào mạng sản xuất công nghiệp thế giới. Trên cả nước đã có gần 500 doanh nghiệp sản xuất xe máy cả nội địa và FDI cung cấp được linh kiện phụ tùng cho các nhà lắp ráp xe gắn máy Nhật Bản; tỷ lệ nội địa hóa hiện đã đạt trên 95%. Trong đó, khoảng 200 doanh nghiệp trong nước tham gia được sản 69 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 xuất cho nước ngoài nhưng mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xe máy và điện tử, trong khi nhiều ngành khác như dệt may, da giày, cơ khí, ôtô... lại bỏ ngỏ. Toyota Việt Nam đang có 13 nhà sản xuất, cung ứng linh kiện cho lắp ráp xe trong nước, nhưng đến nay chỉ có vẻn vẹn 2 doanh nghiệp nội địa sản xuất bộ phụ tùng sửa xe đi kèm theo. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cả nước hiện có khoảng 3.100 doanh nghiệp cơ khí trên tổng số 53 nghìn cơ sở sản xuất cơ khí, trong đó có gần 450 doanh nghiệp quốc doanh, 1.250 cơ sở sản xuất tập thể và 156 xí nghiệp tư doanh. Khoảng 50% cơ sở sản xuất cơ khí chuyên chế tạo, lắp ráp, còn lại hầu hết là các cơ sở sửa chữa. Công nghệ chế tạo cơ khí nội địa về tổng thể vẫn là công nghệ chế tạo đơn giản, lạc hậu, trình độ tụt hậu khoảng hai đến ba thế hệ so với khu vực. Đồng Nai là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng doanh nghiệp CNHT với 588 doanh nghiệp, nhưng theo Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai, các sản phẩm của các doanh nghiệp này cung cấp được chủ yếu là sản phẩm thô cho dệt may, bao bì giấy, gỗ, văn phòng phẩm, nguyên liệu thô… Còn các linh kiện, phụ tùng, vật liệu cao cấp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Qua khảo sát của các chuyên gia ở Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và Công nghệ thì trình độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở nước ta mới chỉ đạt ở mức trung bình so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Chỉ có sản phẩm của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực này là có trình độ tiến tiến. Ba là, các sản phẩm hỗ trợ của nước ta còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Thực tế hiện nay, phần lớn các sản phẩm của CNHT ở nước ta vẫn do các doanh nghiệp nhà nước sản xuất và cung cấp, chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh 70 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 hạn chế nên chủ yếu chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước. Vẫn còn tình trạng thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Chính điều này đã dẫn đến không ít trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nhập khẩu những linh kiện, chi tiết sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước sản xuất được với giá rẻ hơn giá nhập khẩu. Trong khi đó, các sản phẩm hỗ trợ của Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia... nhất là của Trung Quốc tuy chất lượng cũng không phải là cao hơn sản phẩm cùng loại của Việt Nam, nhưng hàng của họ giá rất rẻ, nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng; thêm vào đó, các quốc gia này còn có rất nhiều chính sách ưu ái với những khách hàng mới, khách hàng lớn, nhất là chính sách ưu đãi về giá, cho thanh toán chậm và có phong cách phục vụ tận tình nên được nhiều doanh nghiệp trong nước thuộc các lĩnh vực dệt may, dày da, lắp ráp xe máy, sản xuất sản phẩm điện tử đặt hàng. Hiện nay công nghiệp sản xuất các loại linh kiện, phụ tùng của Việt Nam còn kém phát triển, sản phẩm linh kiện trong nước chỉ đáp ứng được từ 23 đến 37% nhu cầu của các nhà lắp ráp. Hiện CNHT của Việt Nam nói chung mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước, (trong khi các nước trong khu vực đạt từ 40% đến 60%) dẫn đến nhập siêu quá lớn, tác động tiêu cực lên tỉ giá. CNHT kém phát triển đã biến nền công nghiệp trong nước thành nền công nghiệp lắp ráp phụ thuộc với lợi nhuận rất thấp và không bền vững. CNHT của nước ta hiện đang ở giai đoạn chủ yếu là phục vụ cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Tỉ lệ doanh nghiêp CNHT trên doanh nghiệp công nghiệp chính là 2,07 lần, trong khi Thái Lan là 50 lần. Trong đó, thấp nhất là ngành cơ khí (1,7 lần) và cao nhất là ngành ô tô (5 lần). CNHT nước ta dù đã hình thành khá lâu nhưng chưa tạo ra được bước đột phá nào đáng kể. Các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu phần lớn còn phụ thuộc vào nguyên vật liệu, linh kiện nhập khẩu. Theo ước tính của Bộ Công Thương, hiện 71 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 CNHT phụ thuộc vào 80% nguyên liệu nhập khẩu.Theo ông Hirotaka Yasuzumi Giám đốc điều hành Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại TP.HCM, hiện tỉ lệ cung ứng nội địa của các doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt Nam đã tăng lên 32,2% (năm 2012 là 27,9%). Trong đó tỉ lệ cung ứng từ các doanh nghiệp nội địa tại phía Nam mới đạt 14,8%, phía Bắc đạt 11,7%. Đây là tỉ lệ thấp so với tỉ lệ cung ứng của các doanh nghiệp Indonesia, Thái Lan. Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin thị trường và hỗ trợ sản xuất giữa các doanh nghiệp khác chủ sở hữu với nhau rất hạn chế. Các nhà đầu tư FDI trên thực tế ít quan tâm đến phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa. Ngược lại, các doanh nghiệp nội địa vì nhiều lý do khác nhau, trong điều kiện sản xuất kinh doanh của mình, khó tiếp cận với các doanh nghiệp FDI. Vai trò dẫn dắt của các Hiệp hội nghề nghiệp trong vấn đề này chưa thực sự nổi rõ. Bốn là, nhân lực phục vụ CNHT chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Các CNHT Việt Nam gặp nhiều bất lợi do thiếu đội ngũ nhân lực có trình độ, đặc biệt là các kỹ sư và kỹ thuật viên có tay nghề cao đã qua đào tạo. Các công ty nước ngoài thường không thể thu hút đủ nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nhu cầu của họ tại Việt Nam. Việc thiếu hụt này làm nảy sinh những vấn đề khác như năng suất thấp, khả năng sản xuất thấp, không có khả năng tiếp nhận các công nghệ hoặc thiết bị mới. Đây là một đặc điểm rất dễ thấy ở hầu hết các công ty gặp phải vấn đề về năng lực quản lý. Họ không có đủ năng lực trong quản trị tài chính, marketing và phân tích chi phí - lợi nhuận. Khả năng tiến hành các nghiên cứu thị trường và xây dựng chiến lược kinh doanh cũng bị giới hạn. Hơn thế nữa, hiện tại, họ vẫn còn phải đối phó với việc thiếu hụt các nhân viên có trình độ, đặc biệt là các kỹ sư và kỹ thuật viên. Hiện nay, nguồn nhân lực giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút FDI của Việt Nam, khi mà các thỏa thuận về miễn giảm thuế nhập khẩu chính 72 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 thức được thực hiện. Vấn đề cần phải quan tâm là làm thế nào để sản xuất được các mặt hàng vừa có chất lượng tốt, vừa có giá thành rẻ. Bởi sản phẩm rẻ nhưng chất lượng kém hay sản phẩm tốt nhưng giá thành cao về lâu dài đều rất khó có thể cạnh tranh được trước các sản phẩm nhập khẩu. Vì thế, điều cốt yếu hiện nay là cần phải đào tạo được nguồn nhân lực có khả năng quản lý, khả năng ứng dụng và có tính sáng tạo để sản xuất ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, CNHT sẽ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, 25% giá trị sản xuất công nghiệp. Tỉ trọng giá trị sản xuất của CNHT chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến, chế tạo...xây dựng và phát triển CNHT bảo đảm thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...Bức tranh toàn cảnh này càng được thể hiện rõ nét khi đi sâu nghiên cứu hiện trạng CNHT phục vụ một số ngành công công nghiệp chính. Thực trạng CNHT nội địa kể trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Một là, sự yếu kém của bản thân các doanh nghiệp Nguyên nhân của những yếu kém kể trên trước hết xuất phát từ sự kém năng động và nhạy bén của các nhà cung cấp Việt Nam trong việc tiếp cận khách hàng, chưa tự tin và chưa có khái niệm “xây dựng quan hệ” trong kinh doanh. Nhiều trường hợp khách hàng lại là người tìm đến doanh nghiệp để đề nghị cung cấp sản phẩm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho CNHT. Hai là, do thiếu vốn và công nghệ của các Doanh nghiệp Các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gặp khó khăn về vốn và kỹ thuật cũng như đầu ra trong điều kiện quy mô thị trường quá nhỏ.Thực tế là, luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như 73 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 thời hạn giao hàng của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam. Không phải các doanh nghiệp Việt Nam không hiểu được thực trạng trên mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ đặc điểm của CNHT, yêu cầu vốn đầu tư lớn, sản lượng phải nhiều để có thể giảm giá thành và đảm bảo chất lượng. Đây có lẽ là khó khăn lớn nhất của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Khó khăn này càng tăng lên khi không có những hỗ trợ cần thiết về kỹ thuật, công nghệ cho các công ty linh kiện phụ tùng Việt Nam từ phía các cơ quan chức năng. Bản thân hệ thống các trung tâm kiểm soát và kiểm định chất lượng linh kiện phụ tùng cũng gần như không có ở nhiều địa phương hoặc nếu có thì cũng hoạt động cực kỳ kém hiệu quả. Ba là, các khó khăn về quy mô cầu Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp đặc biệt là các nhà sản xuất ô tô còn khá nhỏ. Hơn nữa, mức độ tăng trưởng của thị trường nội địa thấp. Với quy mô thị trường quá nhỏ, nhiều doanh nghiệp lớn trong nước đã tỏ ra e ngại khi được đề nghị trở thành vệ tinh của các tập đoàn lớn. Nguyên do là họ phải bỏ vốn lớn ra đầu tư nâng cấp thiết bị dây chuyền cho phù hợp với yêu cầu chất lượng, trong khi chưa thấy hiệu quả trước mắt. Thêm vào đó, với quy mô thị trường trong nước nhỏ bé, các nhà đầu tư nước ngoài cũng ít quan tâm đầu tư vào CNHT. Bốn là, thiếu thông tin Một nguyên nhân nữa bắt nguồn từ tình trạng thiếu các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp và các công ty nội địa có khả năng và các tập đoàn lớn bên ngoài đặc biệt là các tập đoàn của Nhật Bản. Bên cạnh đó là việc thiếu cơ sở dữ liệu phù hợp và đầy đủ về các công ty nội địa, các công ty FDI, các nhà lắp ráp và thiếu thông tin về các liên kết khác nhau giữa các nhà lắp ráp và các công ty cung cấp linh kiện trong nước. Chính vì vậy các nhà sản xuất phải rất khó 74 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 khăn trong việc tìm kiếm đơn vị cung cấp linh kiện và dịch vụ hỗ trợ cho mình cũng như doanh nghiệp phải vất vả trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm. Năm là, hệ thống chính sách phát triển CNHT của Chính phủ chưa thực rõ ràng cụ thể gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, trong đó có chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT 2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 2.2.1. Văn bản pháp luật thực thi chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã ban hành Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN nhằm phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Tuy nhiên, trên cơ sở rà soát các mục tiêu đã đề ra và thực tiễn triển khai quy hoạch đó, Bộ Công Thương cùng với các ngành có liên quan đã tiến hành xây dựng, hoàn thiện và ban hành Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 thay thế Quy hoạch năm 2007 đã bị lạc hậu, đặt mục tiêu các sản phẩm CNHT cơ bản đáp ứng 45% nhu cầu trong nước và nâng lên 60% vào năm 2025. Để đảm bảo việc thực hiện được quy hoạch này, Nhà nước đã tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch phát triển CNHT; từng bước đầu tư có trọng điểm về mặt tài chính, công nghệ, nhân lực để tạo điều kiện từng bước hiện đại hóa các ngành như cơ khí chế tạo, điện tử, nhựa, cao su....Theo định kỳ, bộ phận này sẽ họp với đại diện các ngành để nắm chắc được tình hình thực hiện, qua đó, góp phần giải quyết những vướng mắc cho các doanh nghiệp trong quá thực hiện; đồng thời, tham mưu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp cho lãnh đạo Bộ và Chính phủ để việc tổ chức thực hiện theo đúng lộ trình mà các quy hoạch, kế hoạch phát triển CNHT đã đề ra. 75 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ kể cả những doanh nghiệp được thành lập mới hay những doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất) được thuê lâu dài và ổn định theo luật định. Các doanh nghiệp này được thuê đất với mức giá ưu đãi để các chủ doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Thực tế cho đến nay, Việt Nam chưa có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật riêng đề cập đến chính sách tài chính công dành cho phát triển CNHT. Các nội dung về chính sách tài chính công phát triển CNHT thường được lồng ghép trong các văn pháp luật chung về phát triển CNHT. Đó là các văn bản như: a. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số CNHT. Theo đó, các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được ưu tiên hỗ trợ và dành quỹ đất thích hợp cho dự án về diện tích, vị trí, tiền thuê đất. Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT sử dụng đất trong khu cụm công nghiệp được sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng, các dịch vụ công cộng và các dịch vụ khác trong khu, cụm công nghiệp; được hỗ trợ và tạo điều kiện trong việc tuyển dụng, đào tạo lao động; được hưởng các chính sách hỗ trợ khác theo quy định tại Quyết định số 105/2009/QĐTTg ngày 19 tháng 8 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý cụm công nghiệp. Chủ đầu tư dự án sản xuất sản phẩm CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách khuyến khích về mặt bằng sản xuất theo quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao được áp dụng chính sách khuyến khích về đất đai theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Dự án sản xuất sản phẩm CNHT được xem xét cho vay một phần tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo quy định hiện hành. Chủ đầu tư dự án sản xuất CNHT là doanh nghiệp 76 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nhỏ và vừa được hưởng chính sách trợ giúp tài chính theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ. Dự án sản xuất sản phẩm CNHT nhằm phát triển công nghệ cao được hướng chính sách thuế theo quy định của pháp luật công nghệ cao. Như vậy, trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ- Quyết định được coi là tuyên bố chính thức của Chính phủ về phát triển CNHT, vấn đề chính sách tài chính công phát triển CNHT cũng chưa đề cập đậm nét, thiếu tính cụ thể. Vì vậy khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc b. Quyết định 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển. Quyết định nêu rõ các danh mục sản phẩm CNHT được chính phủ ưu tiên phát triển. Cụ thể: “Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được xem xét áp dụng cơ chế ưu đãi thích hợp. Chủ đầu tư xây dựng dự án theo quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các cơ chế ưu đãi thích hợp, trình Hội đồng thẩm định dự án phát triển CNHT xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định” c. Quyết định số 9028/QĐ-BCT ngày 08/10/2014 của Bộ Công thương Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Vấn đề áp dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT cũng chưa được đề cập một cách cụ thể mà chỉ nêu việc áp dụng các khuyến khích về tài chính theo tinh thần của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg. Quyết định 1483/QĐ/TTg, Quyết định 1556/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ d. Thông tư số 96/2011/TT- BTC ngày 7 tháng 7 năm 2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số chính sách tài chính cho phát triển một số CNHT. 77 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Nội dung Thông tư đưa những quy định ưu đãi về thuế, tín dụng đầu tư và trợ cấp tài chính của Nhà nước theo tinh thần của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. e. Quyết định số 10/2009/QĐ–TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm đến năm 2015; Để phát triển cơ khí trọng điểm thì thực hiện các chính sách ưu tiên như: ưu tiên tín dụng đầu tư; kích cầu; đầu tư nghiên cứu và phát triển; thuế phí; f. Thông tư 214/2010/TT-BTC ngày 28/12/2010 của Bộ Tài Chính về Hướng dẫn chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm; g. Thông tư 157/2011/TT-BTC ngày 14/11/2011 ban hành biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế. h. Nghị định 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu; i. Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; quản lý thuế đối với hàng hóa XK,NK. k. Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ban hành ngày 12-2- 2015 nhưng được áp dụng từ ngày 1-1- 2015, cùng thời điểm Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 có hiệu lực, được kỳ vọng sẽ tạo ra những tác động tích cực để hỗ trợ đối tượng nộp thuế, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Theo đó, doanh nghiệp có dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển sẽ được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (“TNDN”) ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, tính liên tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ dự án đầu tư mới đó. Tuy nhiên, để được 78 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 hưởng ưu đãi thuế TNDN trên đây, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm của ngành công nghiệp hỗ trợ phải đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Thứ nhất, sản phẩm phải là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao; Thứ hai, là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất sản phẩm các ngành: dệt may; da - giày; điện tử - tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà các sản phẩm này tính đến ngày 1-1-2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên hiệp châu Âu (EU) hoặc tương đương. Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế quy định tại khoản này được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Đây được xem là một chính sách mới thể hiện sự quan tâm của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho sự đầu tư và phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh (ví dụ như ngành công nghiệp xe hơi) với mục tiêu là doanh nghiệp trong nước có thể sản xuất được các nguyên vật liệu dùng cho ngành công nghiệp chính thay vì phải nhập khẩu từ nước ngoài. Với điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế TNDN như trong Nghị định 12 (doanh nghiệp phải sản xuất các nguyên vật liệu, phụ tùng linh kiện để sản xuất thành phẩm mà tính đến đầu năm nay, trong nước chưa sản xuất được), có lẽ ít doanh nghiệp trong nước có thể đáp ứng được. Hiện tại thì mới chỉ có danh mục các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được ban hành kèm theo Quyết định 1483 mà chưa có danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế do Chính phủ ban hành theo quy định tại Nghị định 12. 2.2.2. Thực tiễn áp dụng chính sách tài chính công trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở một số ngành cụ thể 2.2.2.1. Ngành Dệt May 79 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Đối với ngành Dệt May, Chính phủ đã ban hành Quyết định 36/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến 2015, định hướng đến năm 2020;Theo đó, khuyến khích ngành Dệt May huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài và thông qua thị trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ. Ngoài các chính sách ưu đãi chính chung theo Luật hiện hành, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May theo nguyên tắc phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Nhà nước cho doanh nghiệp Dệt May được vay vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi trường để thực hiện các dự án xử lý môi trường. Về vấn đề nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng trong tương lai nếu ngành dệt may tận dụng được những ưu đãi về thuế và kim ngạch xuất khẩu từ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP) thì có nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển bền vững. Theo đó, nếu đàm phán thành công TPP sẽ có hiệu lực vào năm 2015, khi đó, xuất khẩu dệt may sử dụng nguyên phụ liệu trong nước sẽ được hưởng thuế suất 0% đối với thị trường các nước thành viên TPP trong đó lớn nhất là Mỹ, thay vì thuế suất 17-35% (tùy chủng loại) như hiện nay. Và đây là một trong những lý do các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm cơ hội liên kết đầu tư các nhà máy dệt, nhuộm, sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam trong thời gian tới. 80 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.2.2.2. Ngành da giày Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước có chính sách thuế đối với sản phẩm giày dép xuất khẩu (thuế xuất 0%) và nguyên liệu nhập cho hàng gia công. Nguyên liệu nhập cho sản xuất theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì được hoàn thuế khi xuất khẩu hàng hoá. Qui định thủ tục cấp xuất xứ hàng hóa (C/O form A) tạo điều kiện để ngành được hưởng ưu đãi thuế quan ở một số thị trường. Việc kéo dài thời gian hoàn thuế từ 90 ngày lên 270 ngày đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm tốt việc thanh toán quyết toán. Trong năm 2014, ngành da giày được hưởng lợi nhiều từ các Hiệp định ưu đãi thuế quan từ phía các thị trường nhập khẩu chính của ngành như Mỹ, EU và các nước ASEAN. Được đưa ra khỏi danh mục trưởng thành của EU và được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) trong thời gian 3 năm kể từ ngày 1-1-2014 đến ngày 31-12-2016. Theo đó, trong 3 năm tới, mức thuế áp dụng cho sản phẩm giày dép có xuất xứ từ Việt Nam sẽ được giảm xuống còn từ 3,5-4% thay vì 7,69% như trước đây. Với việc EU tiếp tục dành ưu đãi thuế quan theo GSP cho các sản phẩm giày dép của Việt Nam là tin vui cho ngành xuất khẩu da giày bởi nhiều năm qua EU là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của ngành da giày Việt Nam. Thời gian qua, các nước EU gặp khó khăn về kinh tế, nên lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này cũng bị thu hẹp. Việc được hưởng ưu đãi thuế sẽ giúp cho sản phẩm da giày của Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các sản phẩm cùng loại ở những quốc gia khác xuất khẩu vào EU. Bên cạnh chế độ GSP, việc ký kết FTA Việt Nam-EU trong thời gian tới cũng được kì vọng là sẽ mang lại nhiều lợi ích cho hàng hóa XK của Việt Nam và cho ngành da giày nói riêng. Theo đó sẽ có ít nhất 90% dòng thuế hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ được miễn thuế nhập khẩu vào thị trường này.Việc ký kết một FTA với EU sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho doanh 81 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp để tiếp cận sâu hơn vào thị trường EU.Tuy nhiên cũng buộc các doanh nghiệp phải tiến gần hơn đến các tiêu chuẩn quốc tế và các vấn đề pháp lý. Theo Hiệp định thương mại tự do ASEAN mà Việt Nam đã kí kết, hầu hết cam kết thuế quan của các nước thuộc khối ASEAN năm 2014 là từ 1% -3% đến 2015 là 0% đối với giày dép các loại. Với hiệp định này ngành da giày Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là nguyên phụ liệu. Đồng thời thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng được mở rộng qua việc tiếp cận với thị trường ASEAN và các thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây cũng là cơ hội để ngành da giày tham gia sâu vào chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu. 2.2.2.3. Ngành Ô tô Chính sách nội địa hóa nhằm phát triển ngành ô tô có các quy định liên quan đến tỷ lệ nội địa hóa, cụ thể mức ưu đãi thuế nhập khẩu tài chính cho dự án được dựa trên mức độ cam kết nâng tỷ lệ nội địa của công ty sau một thời gian hoạt động, và dựa trên dạng thức lắp ráp. Trong giấy phép đầu tư, các công ty lắp ráp ô tô nhận được một số ưu đãi về đầu tư, như miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, không tính thuế giá trị gia tăng đối với ô tô lắp ráp trong nước. Đổi lại các công ty cam kết nâng dần tỷ lệ nội địa hóa trong khoảng một thời gian nhất định. Thông thường các công ty cam kết đạt mức 30% nội địa hóa sau 10 năm hoạt động. Trong biểu thuế ưu đãi đối với ngành ô tô ban đầu, chia xe lắp ráp trong nước thành các loại CKD, CKD1, CKD2, IKD, theo tỷ lệ nội địa tăng dần và được hưởng các ưu đãi về thuế nhập khẩu theo sự khác nhau về tỷ lệ nội địa. Thuế nhập khẩu thấp nhất là đối với loại IKD, chỉ từ 3-5%, CKD2 trung bình khoảng 15%, CKD1 từ 25% đến 30%, cao nhất là nguyên chiếc 50% đến 60%, thấp hơn dạng SKD từ 40%-50%. Các công ty sản xuất ô tô ban đầu sản xuất xe dạng SKD, sau đó khi hoàn thành nhà xưởng họ chuyển dần sang sản xuất dạng CKD2. Rất ít doanh nghiệp sử dụng hình 82 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 thức IKD để sử dụng linh kiện trong nước do sự khan hiếm cũng như tính hiệu quả về chi phí khi mua linh kiện trong nước so với mức thuế ưu đãi nhận được của dạng CKD và IKD. Thời kỳ này việc phát triển CNHT vẫn chủ yếu sử dụng linh hoạt chính sách thuế ưu đãi giữa dạng CKD và IKD công nghiệp ô tô Việt Nam giai đoạn này vẫn chỉ là lắp ráp đơn thuần. Theo nghiên cứu, hiện nay thuế nhập khẩu phụ tùng ô tô còn bất hợp lý và thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc đang phải đối diện với việc công bố lộ trình điều chỉnh giảm trong các cam kết quốc tế từ năm 2015. Cùng với đó, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe sản xuất trong nước và xe nhập khẩu chưa hợp lý. Do tính theo giá bán, nên thuế tiêu thụ đặc biệt cho xe sản xuất trong nước đang bị tính cao hơn 15% do phải chịu giá tính thuế bao gồm chi phí vận chuyển, kho bãi, chi phí bán hàng và lợi nhuận. Nếu ngành công nghiệp ô tô trong nước đáp ứng được 70% nhu cầu thị trường, đặc biệt là với các loại xe đến 9 chỗ, thì năm 2025 có thể giảm được 3-7 tỉ đô la Mỹ kim ngạch nhập khẩu. Đến năm 2030 giảm khoảng 5-12 tỉ đô la Mỹ. Ngành ô tô có thể đóng góp trên 15 tỉ đô la Mỹ, tương đương 5% GDP. Tiềm năng thị trường Việt Nam đối với ngành công nghiệp ô tô là rất lớn tuy nhiên thách thức lại không nhỏ. Đến năm 2018, thuế suất trong Hiệp định thương mại hàng hóa trong ASEAN đối với mặt hàng ô tô sẽ về 0%. Ngoài ra, còn có một số chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào công nghiệp hỗ trợ ô tô. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn còn chung chung chưa tạo ra động lực khuyến khích đầu tư vào ngành này. 2.2.2.4. Ngành Cơ khí - chế tạo Quyết định 186/2002/QĐ -TTg ngày 26 tháng 12 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó có nhấn mạnh các giải pháp phát triển ngành Cơ khí - chế tạo: 83 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Chính sách thị trường: Nhà nước ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm cơ khí trọng điểm làm căn cứ để kiểm tra chất lượng sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu. Thực hiện bảo hộ có điều kiện và có thời hạn đối với một số sản phẩm cơ khí trong nước và ban hành các chính sách nhằm khuyến khích, tăng khả năng tiêu thụ các sản phẩm cơ khí trong nước. Chính sách tạo vốn: Nhà nước có cơ chế hỗ trợ về vay vốn lưu động cho các nhà sản xuất thiết bị cơ khí, các công trình chế tạo thiết bị toàn bộ cần vốn lớn, chu kỳ sản xuất dài. Các dự án sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 của Chính phủ với mức lãi suất tín dụng 3%/năm, thời hạn vay 12 năm, 02 năm đầu không phải trả lãi và bắt đầu trả nợ vào năm thứ năm hoặc được bù chênh lệch lãi suất nếu các doanh nghiệp vay vốn thương mại. Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp cơ khí, kể cả bán cổ phần cho người nước ngoài, để tạo vốn đầu tư mới và đa dạng hóa nguồn vốn. Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện theo hướng nâng cao khả năng chuyên môn hóa, hợp tác hóa trong toàn ngành cơ khí. Chính sách thuế: Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện, bộ phận của sản phẩm cơ khí trọng điểm để phục vụ sản xuất trong nước. Miễn hoặc giảm thuế có thời hạn cho các sản phẩm cơ khí mới lần đầu sản xuất ở Việt Nam. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển: Đối với các sản phẩm cơ khí trọng điểm, Nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ vốn cho các dịch vụ kỹ thuật, như thuê 84 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 chuyên gia, mua thiết kế, mua công nghệ, chuyển giao công nghệ vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất cơ khí được trích tối đa đến 2% doanh số bán ra cho nghiên cứu và phát triển. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực: Nhà nước ưu tiên đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo ngành cơ khí và hỗ trợ kinh phí cử cán bộ, công nhân giỏi đi đào tạo và thực tập tại nước ngoài theo các chương trình, dự án được phê duyệt. Ngoài ra, ngành cũng được các chính sách ưu đãi chính chung theo Luật hiện hành. 2.2.2.5. Ngành Công nghệ cao Quyết định 53/2008/QĐ-BCT ngày 30/12/2008 của Bộ Công Thương phê duyệt phát triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao đến 2020, trong đó quy định các chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển ngành công nghệ cao như chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc, trang thiết bị phục vụ đầu tư áp dụng công nghệ cao trong các dây chuyền sản xuất hiện có của doanh nghiệp; Hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh vay vốn đầu tư vào các dự án áp dụng công nghệ cao; các doanh nghiệp đầu tư áp dụng công nghệ cao được phép khấu hao máy móc và thiết bị nhanh hơn như một khoản chiết khấu khi xác định thuế lợi tức. Ngoài ra, còn có một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ cao; chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ cao tại Việt Nam. Qua nghiên cứu việc vận dụng chính sách tài chính công phát triển CNHT phục vụ một số ngành công nghiệp chính kể trên cho thấy, bước đầu Nhà nước đã có sự quan tâm sử dụng chính sách tài chính công ( chính sách tài khóa, chính sách tín dụng nhà nước, chính sách các quỹ TCNN ) thúc đẩy phát triển CNHT. 85 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM 2.3.1. Tình hình thực hiện chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam Việc xây dựng các chính sách ưu đãi tài chính công để phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn là cần thiết, tạo môi trường tích cực cho phát triển CNHT. Chính sách tài chính công áp dụng cho mỗi ngành công nghiệp hạ nguồn cũng sẽ có những nét đặc thù, phụ thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi ngành để đạt được mục tiêu hỗ trợ hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp. Trong đa số các trường hợp phát triển CNHT, chỉ cần dung lượng thị trường lớn, dù không có chính sách hỗ trợ nào, CNHT vẫn sẽ phát triển một cách tự nhiên. Dung lượng thị trường nội địa đủ lớn để đảm bảo hiệu quả sản xuất và thúc đẩy phát triển CNHT. Thời gian qua, một số chính sách của Chính phủ chưa nhất quán, có tác động không tốt, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành công nghiệp hạ nguồn, điển hình là ngành sản xuất, lắp ráp ô tô. Dung lượng thị trường trong nước nhỏ hẹp, chính sách phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn không mạnh mẽ và nhất quán, chiến lược phát triển trong dài hạn không rõ ràng, thiếu các chính sách ưu đãi mạnh mẽ để phát triển CNHT đã làm doanh nghiệp nản lòng khi đầu tư vào lĩnh vực CNHT. Chính vì vậy rất cần đánh giá chi tiết những mặt được và chưa được về từng bộ phận của Chính sách tài chính công cho CNHT. 2.3.1.1. Đối với chính sách Thuế Có thể nói trong hệ thống chính sách tài chính công, chính sách tài khóa có ảnh hưởng lớn đến bước đi ban đầu của CNHT ở Việt Nam được Nhà nước quan tâm áp dụng nhiều nhất. Cụ thể: 86 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thời gian qua, chính sách thuế là một trong những công cụ được Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm chú ý sử dụng nhằm thúc khuyến khích, phát triển CNHT theo hướng ưu đãi, miễn, giảm cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực phát triển CNHT. Tinh thần đó, được quy định tại Thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính. Cụ thể: Thông tư quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT với những nội dung cụ thể sau đây: - Ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Ưu đãi thuế xuất nhập khẩu đối với CNHT được thể hiện rõ nét trong các văn quy phạm pháp luật như: Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Theo Nghị định này, hoạt động CNHT được ưu đãi thuế xuất nhập khẩu với các quy định cụ thể như miễn thuế nhập khẩu đối với: Thủ tục miễn thuế nhập khẩu, không thu thuế xuất khẩu và hoàn thuế thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 194/2010/TT-BTC ngày 6/12/2010, Thông tư 128/2013/TT-BTC ngày 10/09/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Thông tư số 194/2010/TT-BTC, Thông tư số 128/2013/TT-BTC). 87 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Bảng 2.1. Kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số ngành CNHT giai đoạn 2010-2014 Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm 2010 Kim ngạch Năm 2011 Thuế NK Kim ngạch Năm 2012 Thuế NK Năm 2014 Thuế NK Kim ngạch Thuế NK Kim ngạch 1,050 169,298 1,693 179,380 1,794 22,348 2,235 28,441 2,844 31,657 3,166 3,582 15,184 3,796 18,996 4,749 20,906 5,227 6,367 30,430 4,564 35,319 5,298 44,170 6,626 285,610 14,280 323,521 16,176 334,019 16,701 393,058 19,653 467,348 23,367 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 120,114 - 372,611 - 391,118 - Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 52,166 7,898 79,495 9,539 99,601 11,952 547,692 28,583 671,974 35,069 845,888 36,244 1,097,217 43,776 1,234,180 52,131 STT Ngành 1 Điện thoại các loại và linh kiện 37,576 376 56,673 2 Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 6,551 655 10,060 1,006 3 Hàng điện gia dụng và linh kiện 12,603 3,150 14,330 4 Linh kiện, phụ tùng ô tô 40,708 6,106 42,447 5 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 6 7 Tổng cộng - 163,521 6,260 61,422 Kim ngạch Năm 2013 567 105,015 - 273,076 7,371 65,816 Thuế NK Nguồn: [59] 88sĩ, luận án tiến sĩ Viết thuê luận văn thạc Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Bảng trên cho thấy kể từ năm 2010 đến năm 2014 thuế nhập khẩu đối với các các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất trong nước liên tục giảm làm cho kim ngạch nhập khẩu các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên vật liệu càng gia tăng.Trong giai đoạn đầu khi CNHT nội địa chưa phát triển thì việc giảm thuế nhập khẩu để gia tăng kim ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng trên là cần thiết nhằm một mặt đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp của các doamh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, nếu kéo dài chính sách giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng trên, khi mà CNHT nội địa có bước trưởng thành nhất định sẽ là lực cản hạn chế sự phát triển của CNHT nội địa. Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: [59] Biểu đồ 2.1: Tổng hợp kim ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu một số sản phẩm CNHT giai đoạn 2010-2014 - Ưu đãi về thuế TNDN Thông tư 96/2011/ TT- BTC của Bộ Tài chính quy định: 89 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Trường hợp dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao thuộc doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm phần mềm, hoặc doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn được ưu đãi về thuế suất (áp dụng thuế suất 10%), miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định về chế độ miễn giảm của Luật thuế TNDN. Thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ tài chính là Thông tư cụ thể hóa và hướng dẫn thực thi chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế của luật thuế TNDN đối với CNHT. Như vậy, việc ưu đãi về thuế suất và miễn, giảm thuế thu nhập doanh đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT không phải thực hiện đại trà cho tất cả doanh nghiệp hoạt động trong CNHT mà chỉ những doanh nghiệp mới thành lập sản xuất những sản phẩm cho lĩnh vực công nghệ cao, doanh nghiệp có thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, sản xuất phầm mềm, hoặc những doanh nghiệp mới thành lập ở những địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn. Khi mà CNHT đã phát triển tương đối thì việc lựa chọn ưu đãi về thuế TNDN như vậy là hợp lý, song trong điều kiện CNHT đang trong giai đoạn phát triển sơ khai đòi hỏi phải có sự hỗ trợ nhiều từ phía nhà nước, việc thu hẹp phạm vi ưu đãi về thuế TNDN đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT như vậy có phần chưa thật hợp lý. Mặc dù đối tượng được ưu đãi về thuế TNDN có phần thu hẹp, song theo đánh giá của các chuyên giá kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT vẫn khó tiếp cận được những ưu đãi về thuế TNDN, phần vì những quy định ưu đãi về thuế TNDN chưa thực rõ ràng, cụ thể, phần vì trong thực tế những ưu đãi đó do nhiều nguyên nhân chưa được thực hiện một cách quyết liệt. Cho đến nay, số doanh nghiệp được thừa hưởng những ưu đãi về thuế TNDN còn ở mức khá khiêm tốn, theo Bộ Công thương chưa quá 30% 90 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 số doanh nghiệp thuộc diện được hưởng ưu đãi thừa hưởng được ưu đãi về thuế TNDN theo quy định tại thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính. - Ưu đãi thuế GTGT Việc ưu đãi Thuế GTGT đối với CNHT thể hiện trong Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (nay là Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ, Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính). Theo các văn bản trên, hoạt động CNHT được ưu đãi thuế GTGT với các nội dung chủ yếu như:  Các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT thực hiện nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng.  Các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT được áp dụng thủ tục gia hạn nộp thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại Thông tư số 92/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục gia hạn nộp thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp. - Ưu đãi tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp Những ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với CNHT được quy định trong các văn bản quy 91 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 phạm pháp luật của Nhà nước với những nội dung như: Các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư hoặc đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng các ưu đãi như sau:  Miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Nghị định số 198/2004/NĐCP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất; Nghị định số 44/2008/NĐ-CP ngày 9/4/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất; Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 198/2004/NĐCP và các văn bản hướng dẫn thực hiện (nay là Nghị định 45/2014/NĐCP ngày 15/5/2014 của Chính phủ).  Miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định tại Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Nghị định số 121/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện (nay là Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ).  Miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định tại Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặc dù việc sử dụng công cụ thuế theo hướng ưu đãi, miễn, giảm cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã được quy định khá rõ ràng, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật, song việc vận dụng trong thực tế ở các địa phương vẫn còn nhiều vướng mắc. Thực ra, các ưu đãi, miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được quy định trong Quyết định 92 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 96/2011/TT-BTC của Bộ tài chính không vượt được các quy định các văn bản pháp luật về thuế (Luật, Nghị định,Thông tư) có trước đó. Nói cách khác, những ưu đãi miễn, giảm về thuế đối với CNHT hai văn bản trên bị khống chế bởi các quy định trước đó. Hiện nay, một số quy định về thuế thuộc các văn bản trước đã hết hiệu lực, chẳng hạn như đối với thuế TNDN quy định ưu đãi miễn giảm thuế đều có thời hạn. Do đó, việc vận dụng chính sách thuế trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, để tiếp cận được Chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế theo Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC phải trải qua nhiều thủ tục hành chính thuế. Đó là những bất cập trong quá trình thực hiện chính sách thuế đối với phát triển CNHT được quy định trong hai văn bản trên. Trên thực tế, cho đến nay, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động CNHT được hưởng chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế chưa nhiều. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về cơ chế, chính sách thuế của chúng ta. Như vậy, có thể nói chính sách thuế là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước trong thời gian qua đối với phát triển CNHT của nước nhà. Quan điểm sử dụng chính sách thuế của Nhà nước đối với CNHT là ưu tiên, ưu đãi, coi trọng chế độ miễn, giảm của hầu hết sác sắc thuế đối với hoạt động CNHT. Tuy nhiên, để hưởng được những ưu đãi, miễn, giảm đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT phải đáp ứng được các điều kiện do các văn bản quy phạm pháp luật về thuế đề ra. Những điều kiện được hưởng ưu đãi do các văn bản quy phạm pháp luật về thuế quy định là sự thể hiện quan điểm, định hướng của Nhà nước đối với lĩnh vực CNHT. Tuy nhiên, qua khảo sát ý kiến của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT cho rằng những điều kiện đó chưa thực thích hợp với hoạt động CNHT đang giai đoạn phát triển sơ khai. 93 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.3.1.2. Chính sách hỗ trợ trực tiếp từ nguồn NSNN Điều 6 khoản c trong Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chỉ rõ: Chủ đầu tư các dự án sản xuất sản phẩm CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng các chính sách trợ giúp tài chính theo quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì việc trợ giúp tài chính từ NSNN thông qua việc thành lập Quỹ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguồn hình thành quỹ này được NSNN tài trợ một phần. Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập theo Quyết định 601/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng chính phủ, Vốn điều lệ của Quỹ do NSNN cấp 2000 tỷ với thời hạn 3 năm, 2 năm đầu mỗi năm cấp 500 tỷ đồng năm thứ 3 cấp 1000 tỷ đồng. Như vậy, qua tình hình thành lập và hỗ trợ của NSNN cho Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy, quyết định hỗ trợ nguồn NSNN cho phát triển CNHT được Chính phủ đề ra từ năm 2011 (Quyết định 12/2011/QĐ-TTg) nhưng đến năm 2013 mới thực hiện. Hơn nữa, NSNN hỗ trợ 2000 tỷ cho quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT mà còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nữa. Điều này cho thấy, mức độ hỗ trợ từ nguồn NSNN cho phát triển CNHT mang tính tượng trưng, có tính chất là vốn “mồi” nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn ĐTPT CNHT. Vẫn biết, trong bối cảnh NSNN còn eo hẹp, phải chi dùng cho nhiều mục tiêu khác song thiết nghĩ với vai trò vị trí, tầm quan trọng của CNHT đối với phát triển nền công nghiệp chính nước nhà trong bối cảnh đẩy mạnh CNH&HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, và CNHT đang trong thời kỳ thai nghén, sự đầu tư trực tiếp của NSNN như vậy là chưa tương xứng. 94 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.3.1.3. Chính sách tín dụng nhà nước đối với CNHT Việc áp dụng chính sách tín dụng nhà nước thúc đẩy phát triển CNHT, đặc biệt là chính sách tín dụng đầu tư của Chính phủ, tín dụng xuất khẩu trong những năm qua cũng được Nhà nước quan tâm áp dụng. Nghị định 75/2011/NĐ-CP ngày 30/08/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước nhằm: cho vay đầu tư; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và cho vay xuất khẩu. Cụ thể: Một là, đối với cho vay đầu tư - Đối tượng cho vay đầu tư  Chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc Danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư như: Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; Nông nghiệp nông thôn; Dự án thuộc danh mục các CNHT theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ...).  Danh mục các dự án, chương trình được chi tiết theo từng đối tượng, thời hạn áp dụng ưu đãi và do Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan trình Chính phủ quyết định. - Điều kiện cho vay đầu tư  Thuộc đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định này;  Đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật;  Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, đảm bảo trả được nợ, được ngân hàng phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay.  Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20%; 95 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399  Chủ đầu tư thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật;  Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;  Chủ đầu tư phải thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật, báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập.  Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định giữa hai Chính phủ và dự án đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ thì thực hiện theo quy định tại Điều 11 Nghị định này. - Mức vốn cho vay đầu tư  Mức vốn cho vay đối với từng dự án do Ngân hàng phát triển quyết định, tối đa bằng 70% tổng số vốn đầu tư của dự án. Số vốn còn lại, chủ đầu tư phải xác định được nguồn và các điều kiện tài chính cụ thể, bảo đảm tính khả thi của dự án. Đồng thời mức vốn cho vay đối với mỗi dự án không vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng phát triển Việt Nam.  Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng phát triển báo cáo Bộ Tài chính trình Thủ tướng xem xét, quyết định. - Thời hạn cho vay đầu tư  Thời hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư nhưng tối đa không quá 12 năm.  Ngân hàng phát triển Việt Nam quyết định thời hạn cho vay đối với từng dự án theo quy định tại khoản 1 Điều này. 96 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 - Lãi suất cho vay đầu tư  Lãi suất cho vay đầu tư không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với chi phí hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam.  Ngân hàng phát triển Việt Nam tính toán mức lãi suất bình quân các nguồn vốn và chi phí hoạt động báo cáo Chủ tịch hội đồng quản lý trình Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay tín dụng đầu tư. Trường hợp lãi suất huy động bình quân có biến động lớn, Chủ tịch hội đồng quản lý báo cáo Bộ tài chính điều chỉnh cho phù hợp.  Lãi suất cho vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cho vay được điều chỉnh theo từng lần giải ngân theo lãi suất cho vay được công bố.  Lãi suất nợ quá hạn đối với mỗi khoản giải ngân bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với từng khoản giải ngân. Hai là, đối với hỗ trợ lãi suất sau đầu tư - Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư  Các chủ đầu tư có dự án thuộc Danh mục đối tượng vay vốn đầu tư theo quy định của Nghị định này, trừ các dự án cho vay theo Hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ.  Các dự án được xác định được hỗ trợ sau đầu tư tại thời điểm có Quyết định phê duyệt dự án đầu tư lần đầu của cơ quan có thẩm quyền. - Điều kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư  Dự án thuộc đối tượng hỗ trợ sau đầu tư quy định tại Điều 12 Nghị định này. 97 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399  Được Ngân hàng phát triển Việt Nam thẩm định và ký kết hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư.  Dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, có quyết định phê duyệt quyết toán đầu tư của cơ quan có thẩm quyền và đã hoàn trả được vốn vay. - Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư  Bộ Tài chính quyết định mức hỗ trợ sau đầu tư trên cơ sở chênh lệch lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý ngân hàng phát triển Việt Nam.  Ngân hàng phát triển Việt Nam xem xét quyết định cấp hỗ trợ sau đầu tư theo kết quả trả nợ của chủ đầu tư. Ba là, đối với Tín dụng xuất khẩu - Đối tượng cho vay Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu và nhà nhập khẩu nước ngoài có hợp đồng nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu được ban hành kèm theo Nghị định này. - Điều kiện cho vay  Thuộc đối tượng cho vay vốn theo quy định tại Điều 16 Nghị định này.  Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu, nhà nhập khẩu có hợp đồng nhập khẩu đã ký kết.  Có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả được Ngân hàng phát triển thẩm định và chấp thuận cho vay. 98 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399  Nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu nước ngoài có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự đầy đủ.  Ngoài các điều kiện quy định trên, nhà xuất khẩu phải thực hiện theo quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Nghị định này, nhà nhập khẩu nước ngoài phải được Chính phủ hoặc ngân hàng của nước bên nhập khẩu bảo lãnh vay vốn.  Nhà xuất khẩu phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán đầy đủ, báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập. - Thời hạn cho vay Được xác định phù hợp với khả năng thu hồi vốn của từng hợp đồng xuất khẩu nhưng không quá 12 tháng; đối với tàu biển xuất khẩu tối đa không quá 24 tháng. - Mức cho vay Mức cho vay đối với một dự án không vượt quá 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu và không vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng phát triển. Nhằm hỗ trợ một phần nguồn lực tài chính cho phát triển CNHT, Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TT-BTC đều có quy định cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được vay, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng đầu tư để giải quyết khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, việc quy định sử dụng tín dụng đầu tư của Nhà nước trong hai văn bản kể trên còn chung chung không mang tính đặc thù của CNHT; trong khi đó, những quy định về vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh đầu tư ở Nghị định 106/2004/NĐ-CP với những điều kiện quá ngặt nghèo đối với các doanh nghiệp, nếu áp dụng Nghị định vào lĩnh vực CNHT thì khó triển khai. 99 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thực tế, kể từ khi Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Thông tư 96/2011/TTBTC được triển khai vào thực tiễn, thì rất ít các doanh nghiệp được tiếp cận những ưu đãi đối với tín dụng đầu tư của Nhà nước. Cụ thể kể từ năm 2011 đến nay số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT được tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chưa nhiều. Tuy nhiên, theo nhận định của tác giả, mặc dù có các cơ chế ưu đãi về vay vốn cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, nhưng thực tế doanh nghiệp phải vay VDB đến 10% và các ngân hàng thương mại là 12%, trong khi các doanh nghiệp này chỉ vay 3% mới có thể thu hồi vốn. 2.3.1.4. Chính sách các quỹ TCNN ngoài NSNN phát triển công nghiệp hỗ trợ Thực ra cho đến nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định việc sử dụng các Quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN để hỗ trợ phát triển CNHT.Tuy nhiên, với vai trò, vị trí của Quỹ TCNN ngoài NSNN nếu quản lý tốt sẽ tạo môi trường, điều kiện gián tiếp thúc đẩy phát triển CNHT, bởi lẽ việc sử dụng các quỹ này có ảnh hưởng đến việc quản lý vĩ mô của Nhà nước. Theo nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, thời gian qua việc quản lý các Quỹ TCNN ngoài NSNN chưa được quan tâm đúng mức, vai trò giám sát của Quốc hội không được coi trọng đối hoạt động thu chi các Quỹ. 2.3.2. Đánh giá chung Một là, nhìn chung chính sách tài chính công thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về phát triển CNHT đã thể hiện rõ quan điểm, định hướng phát triển CNHT của Đảng và Nhà nước nhất là chính sách thuế. Hai là, trong điều kiện nguồn lực tài chính của Nhà nước, của xã hội có hạn nên mặc dù chính sách tài chính công thể hiện rõ quan điểm định hướng ưu tiên phát triển CNHT, song để thực hiện được ưu tiên, ưu đãi trong hệ thống chính sách 100 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 tài chính công phải thỏa mãn những điều kiện nhất định do hệ thống tài chính công quy định. Đứng trên quan điểm vĩ mô, những điều kiện được ưu tiên, ưu đãi theo quy định của các chính sách tài chính công là hợp lý thể hiện được vai trò hướng dẫn, điều tiết của chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT. Ba là, việc ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách tài chính công thời gian vừa qua bước đầu đã ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, thúc đẩy phát triển CNHT, tạo ra sự chuyển biến nhất định đối với CNHT của nước nhà. Qua nghiên cứu thực tiễn, những ưu đãi của chính sách tài chính công được khái quát thông qua các hình thức ưu đãi tài chính chủ yếu bao gồm các lĩnh vực sau: Các ưu đãi thuế Chính phủ quy định áp dụng cho các CNHT (như: miễn, giãn, giảm, khấu trừ) đối với một hoặc nhiều sắc thuế, tùy thuộc các mục tiêu của chính sách ưu đãi tài chính. Một số sắc thuế cơ bản có thể áp dụng ưu đãi như sau: Miễn giảm, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp CNHT ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành. Khấu trừ thuế cho các khoản chi tại nước ngoài. Miễn, giảm thuế nhập khẩu, xuất khẩu đối với hàng hóa; thuế nhập khẩu đối với các trang thiết bị công nghệ hoặc nguyên liệu thô, phụ tùng và các yếu tố đầu vào cho quy trình sản xuất cho các doanh nghiệp CNHT ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành. Gia hạn nộp thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, nguyên nhiên liệu đầu vào…theo quy định và theo từng điều kiện cụ thể. Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho lao động trong nước đối với các ngành nghề cụ thể ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành.. 101 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Các ưu đãi liên quan đến chi phí sản xuất Các ưu đãi liên quan đến chi phí sản xuất cơ sở hạ tầng cho sản xuất là các biện pháp của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi đầu tư sản xuất kinh doanh vào địa điểm đó. Bao gồm một số lĩnh vực: - Mức giá ưu đãi dành riêng cho kết cấu hạ tầng cơ sở của CNHT như điện, nước, viễn thông, giao thông vận tải. - Giảm tiền thuê và sử dụng đất; tiền thuê mặt nước, mặt bằng sản xuất; hỗ trợ chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng; giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp…. ở mức ưu đãi cao nhất trong quy định hiện hành. Các ưu đãi liên quan đến vốn tài chính (áp dụng cho các doanh nghiệp CNHT trong nước). Về cơ bản, các ưu đãi liên quan đến vốn tài chính được hiểu là hoạt động của Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể duy trì số vốn cần thiết để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, bằng một số biện pháp: - Hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi: cung cấp các khoản vay với các ưu đãi kèm theo, như lãi suất thấp, hình thức trả lãi linh hoạt …; hỗ trợ tín dụng xuất khẩu; cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Chính phủ bảo lãnh cho Doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, đối với một số loại rủi ro nhất định như biến động tỷ giá, đồng tiền mất giá hoặc các rủi ro phi thương mại như bất ổn chính trị (thường được thông báo từ một cơ quan quốc tế). Các hình thức ưu đãi tài chính kể trên, bao gồm ưu đãi về vốn, về các sắc thuế hay cơ sở hạ tầng đều có tầm ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động và phát triển của mỗi ngành nghề, mỗi doanh nghiệp.Vì vậy, để ưu đãi tài chính đạt hiệu quả toàn diện khi áp dụng, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn và hài hòa các hình thức ưu đãi tài chính này. 102 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.3.3. Những hạn chế Một là, cho đến nay Việt Nam thực sự chưa có một hệ thống chính sách tài chính công riêng dành cho phát triển CNHT Hầu hết nội dung quy định về chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật chung về phát triển CNHT. Trên thực tế, các chính sách ưu đãi này chỉ đơn thuần là sự vận dụng các chính sách ưu đãi chung hiện hành, mà chưa có sự ưu đãi về phát triển CNHT khác biệt so với các lĩnh vực khác, ít có gì mới so với chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa . Nhà nước chưa quy định rõ danh mục sản phẩm nào được ưu tiên, mà chủ yếu đây chỉ là cơ chế xin-cho, doanh nghiệp thiếu gì thì đề xuất và chỉ duy nhất một doanh nghiệp (Công ty Kyocera Vietnam) được hưởng ưu đãi khi thực hiện văn bản hiện hành : “Chủ đầu tư xây dựng dự án theo các quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi hội đồng thẩm định dự án CNHT xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”. Hai là,chính sách ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi tài chính công đối với CNHT, chưa đủ để khuyến khích phát triển CNHT. Mặt khác, các chính sách còn bị ràng buộc bởi các Luật có liên quan. Với khung chính sách thuế như hiện nay, ưu đãi thuế TNDN được thực hiện theo địa bàn và theo lĩnh vực. Ưu đãi thuế TNDN cho các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn chưa thể hiện được tính ưu đãi đối với các doanh nghiệp CNHT. Trong khi đó, ưu đãi theo lĩnh vực chỉ mới tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao. Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách ưu đãi CNHT là không đáng kể. Ba là, các quy định về chính sách tài chính công trong các văn bản quy phạm pháp luật về thúc đẩy phát triển CNHT chủ yếu là vận dụng các quy định đã có về chính sách ưu tiên, ưu đãi về tài chính chung cho các ngành chưa mang tính đặc thù của CNHT, nhất là chưa có tầm chiến lược gắn với vấn đề hội nhập kinh tế 103 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 quốc tế. Khi Việt Nam tham gia đầy đủ các cam kết hội nhập quốc tế thì các luồng sản phẩm của các nước tràn vào có thể phá hủy nền tảng công nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ mất cơ sở chế tạo và chỉ giữ lại các đại lý bán hàng… vừa tạo ra lợi thế mới cho các ngành thâm dụng nhiều lao động đang ngày một mất đi lợi thế về chi phí nhân công rẻ. Chính sách nói chung, chính sách tài chính công thúc đẩy phát CNHT nội địa nói riêng, hiện chưa lường trước được những thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, chưa thể hiện rõ quan điểm, giải pháp của chính sách trong những thách thức đó. Bốn là, qua khảo sát ý kiến các chuyên gia, các nhà quản lý cho thấy: các chính sách nói chung và chính sách tài chính công nói riêng hiện chưa có tác dụng nhiều đến các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT. Cụ thể, Mặc dù Chính phủ đã có chủ trương và có chính sách cụ thể (Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số CNHT), trên thực tế, các chính sách này hoàn toàn không có gì mới so với các chính sách ưu đãi hiện hành. -Chính sách ưu đãi riêng biệt cho phát triển CNHT là điều 4 trong QĐ12: Chủ đầu tư dự án CNHT xây dựng dự án theo các quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi Hội đồng thẩm định dự án CNHT xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Điều này có thể thực hiện được đối với các doanh nghiệp lớn, dự án lớn, nhưng lại là trở ngại lớn đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, là đối tượng chính sản xuất CNHT. -Các chính sách khác liên quan đến phát triển CNHT như chính sách cho các ngành công nghiệp hạ nguồn (ô tô, cơ khí trọng điểm, DNNVV) không có tác động nhiều đến việc phát triển CNHT, do không khuyến khích phát triển tạo ra thị trường tiêu thụ cho CNHT. Doanh nghiệp sản xuất CNHT được khuyến khích ưu đãi ngang bằng với các DNNVV kinh doanh thương mại, dịch vụ sẽ không tạo động lực và không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất vào lĩnh vực này. 104 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 2.3.4. Các nguyên nhân Qua nghiên cứu những hạn chế của hệ thống chính sách tài chính công phát triển CNHT thời gian qua, có thể thấy những hạn chế đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Một là, nhận thức tầm quan trọng và ảnh hưởng của CNHT đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước của các cơ quan quản lý nhà nước còn chậm. Chính phủ đã có các văn bản chỉ đạo phát triển về CNHT, tuy nhiên, một số kế hoạch hành động và các biện pháp để thúc đẩy phát triển vẫn còn chưa đồng bộ, chưa thống nhất và chưa cụ thể. Bên cạnh đó, nhận thức về CNHT vẫn chưa được cụ thể hóa trong lãnh đạo, công chức hay cộng đồng doanh nghiệp. Vai trò hỗ trợ của các tổ chức, hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước còn yếu, kể cả ở khâu hoạch định chính sách đến thực thi các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp. Có thể nói so với các nước, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam chậm nhận thức ra tác động ảnh hưởng của CNHT. Mãi đến năm 2011 khi có Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, chúng ta mới có một định nghĩa chính thức mang tính pháp lý về CNHT và cũng từ đó Nhà nước đặt ra các chính sách ưu đãi phát triển CNHT. Quyết định 12/2011/QĐ-TTg được coi là một công bố chính thức của Nhà nước từ trước đến nay về quan điểm phát triển CNHT của Việt Nam. Chính sự nhận thức chậm đó, cho nên văn bản pháp luật đối với phát triển CNHT mới chỉ có tính pháp lý ở tầm thấp, thiếu tính đồng bộ. Hơn nữa, do chậm nhận biết về CNHT, nên cũng chưa nhận thức hết tính đặc thù của hoạt động CNHT. Vì vậy, việc ban hành hệ thống chính sách chưa phản ánh được tính đặc thù của CNHT, nhất là giai đoạn đầu phát triển của CNHT. Hai là, chưa hoàn thiện khung pháp luật quản lý nhà nước về CNHT 105 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Hiện nay, trong hệ thống luật pháp, vẫn chưa có các văn bản pháp quy ở dạng các luật để có chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển CNHT. Trong khi CNHT của các nước đều phát triển dựa trên khung pháp lý (các luật). Trong chính sách phát triển CNHT và chính sách thu hút đầu tư còn một số bất cập. Nhiều năm qua, chúng ta tập trung thu hút đa số các tập đoàn lớn nhưng chủ yếu là doanh nghiệp lắp ráp, tạo ra giá trị gia tăng thấp trong sản phẩm, không có tác động lan tỏa cho doanh nghiệp nội địa. Ngoài ra, nguồn vốn tập trung để đầu tư cho CNHT còn hạn chế, nói chung mọi chính sách được ban hành đều phải cân nhắc tính toán đến nguồn lực tài chính để thực hiện chính sách. Việc ban hành hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT cũng vậy, trước hết phải cân nhắc tính toán đến nguồn lực tài chính của Nhà nước thực hiện chính sách. Nguồn lực tài chính của Nhà nước trước hết trông cậy và nguồn từ NSNN, nguồn huy động vào các quỹ của Nhà nước. Trong bối cảnh quy mô NSNN còn nhỏ, lại phải gánh vác nhiều nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước, việc huy động các nguồn lực tài chính của xã hội các quỹ còn gặp nhiều khó khăn do nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội còn eo hẹp. Trong bối cảnh đó, Nhà nước không thể tài trợ nguồn lực tài chính của mình cho toàn bộ nhu cầu phát triển của CNHT, mặc dù vẫn biết CNHT có vị trí đặc biệt đối với quá trình CNH&HĐH đất nước. Chính vì vậy, chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT không hoàn toàn thỏa mãn những nhu cầu về mặt tài chính đối với phát triển CNHT. Ba là, chính sách tài chính công chưa đồng bộ và còn mâu thuẫn, chồng chéo với nhau gây ra kém hiệu lực trong thực thi Qua khảo sát nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT thấy rằng việc tiếp cận những ưu đãi trong hệ thống chính sách tài chính công gặp nhiều khó khăn. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, có lý do từ hệ thống chính sách CNHT 106 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 chưa đủ rộng và đủ sâu; thực tế cũng cho thấy, chính sách khuyến khích phát triển CNHT không nên tập trung chỉ vào đòn bẩy tài chính, mà cần có nhiều biện pháp hỗ trợ phi tài chính, như chuyển giao công nghệ, phí môi trường và những biện pháp khuyến khích đào tạo và học tập cho CNHT, như chính sách khen thưởng, chứng chỉ cho các cá nhân có quá trình học tập tốt, có tay nghề cao, giúp công nhân, kỹ sư được nâng lương hoặc nâng cao vị trí trong công ty. Mặt khác, chính sách còn chưa đồng bộ về cơ cấu, còn thiếu các văn bản quy định về phẩm cấp kỹ thuật, đăng ký ngành nghề, cũng như các hỗ trợ tài chính và chính sách khuyến khích thành lập các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT; xây dựng các quỹ đặc thù riêng đảm bảo cho việc phát triển CNHT đã được chỉ định; hình thành tổ chức đầu mối để thực hiện sự quản lý Nhà nước dẫn dắt và liên kết các doanh nghiệp CNHT, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung ứng, xây dựng ban hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về CNHT, khuyến khích và hỗ trợ chuyển giao công nghệ và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp cơ khí trong nước trong công tác nội địa hóa còn chưa cao, dẫn đến sự thiếu thông tin kịp thời và cụ thể cho việc cung cấp sản phẩm. Với một ngành đòi hỏi vốn lớn như cơ khí, nếu không liên kết, doanh nghiệp không thể sản xuất được các sản phẩm chất lượng và có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, để mở rộng dung lượng thị trường, tạo thêm cơ hội kinh doanh, việc tham gia chuỗi cung ứng quốc tế là yêu cầu bắt buộc. Thực tế, mặc dù một số sản phẩm tuy đã được khẳng định chất lượng lâu dài trong nước, nhưng vẫn không thể cung cấp được do không có đủ hồ sơ, chứng chỉ chất lượng và các yêu cầu liên quan phù hợp. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan kiểm định, đăng kiểm quốc tế. Vướng mắc này không quá phức tạp, nhưng lại khá khó khăn cho việc khắc phục bởi hầu hết các nhà sản xuất trong nước đều đang làm 107 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 theo thói quen lâu nay là ít quan tâm đến việc chuẩn hóa thực hiện theo các tiêu chuẩn quản lý quốc tế. Đặc biệt, chính sách hỗ trợ CNHT còn nhiều mâu thuẫn với các chính sách khác, khiến các ưu đãi bị vô hiệu hoặc thậm chí phản tác dụng. Đơn cử như với chương trình cơ khí trọng điểm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 734/CT/TTg nhằm thúc đẩy nội địa hóa sản phẩm trong nước, ưu tiên các sản phẩm nội địa cho các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước hoặc các dự án công công. Tuy nhiên, Chỉ thị này không có những điều khoản cưỡng chế hoặc ràng buộc triệt để mà mới chỉ dừng lại ở mức “khuyến khích sử dụng” hoặc “ưu tiên sử dụng” nên các nhà đầu tư cũng không mặn mà sử dụng các sản phẩm cơ khí trong nước. Đối với vấn đề thuế, phí, các thiết bị cơ khí trọng điểm dù nhận được ưu đãi khi hưởng mức thuế bằng 0, nhưng các linh kiện để sản xuất, lắp ráp nên thiết bị đó vẫn phải chịu mức thuế khá cao. Vì vậy, nếu doanh nghiệp muốn nhập khẩu một con tàu thì thuế nhập khẩu là 0%, tuy nhiên, nếu nhập linh kiện để lắp ráp con tàu đó thì thuế cho mỗi loại linh kiện có thể lên đến 15%, 30%, thậm chí 40%. Điều này hạn chế nhiều đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp cơ khí trong nước. Bốn là, chưa phân công cụ thể trách nhiệm chỉ đạo điều hành, lộ trình thực hiện của các Bộ, ngành, địa phương để phát triển CNHT. Về năng lực công nghệ kỹ thuật, ngoại trừ một số ít doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI được trang bị công nghệ, máy móc hiện đại và hoàn chỉnh, đa số doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ, máy móc cũ, lạc hậu, chưa đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. Liên kết giữa các doanh nghiệp CNHT còn kém, khiến cho lĩnh vực sản xuất linh kiện, thiết bị khó phát triển. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu tự sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, ít đặt mua các loại linh kiện của các doanh nghiệp khác trong nước. 108 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có chất lượng còn thiếu, không đáp ứng được yêu cầu của CNHT. Một số CNHT năng lực công nghệ còn quá yếu (như, một số ngành mới hình thành khiến thị trường sản xuất sản phẩm CNHT chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Do dung lượng thị trường nhỏ và hệ thống doanh nghiệp ngoài nhà nước còn non yếu, CNHT ở Việt Nam phát triển chậm, năng lực hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành công nghiệp. Chính sách khuyến khích ưu đãi cho phát triển CNHT chưa hiệu quả, nên các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này. Chưa có tổ chức đứng ra làm đầu mối để xúc tiến sản xuất CNHT, tổ chức sản xuất linh kiện phụ tùng.Chưa có tổ chức nào là đầu mối thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu cho CNHT. Công tác tuyên truyền, tư vấn chính sách hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT đối với các doanh nghiệp nói chung doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. 109 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Qua nghiên cứu thực trạng phát triển CNHT nội địa của Việt Nam thời gian qua cho thấy: nhìn chung CNHT nội địa của Việt Nam đang trong quá trình phát triển còn rất sơ khai. Số doanh nghiệp tham gia vào hoạt động trong CNHT còn ở mức khiêm tốn; sản phẩm tạo ra trong các CNHT vừa nghèo nàn về chủng loại,vừa chất lượng thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp chế tác, lắp rắp tạo ra sản phẩm cuối cùng. Hầu hết các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam đều phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu từ bên ngoài. Với hiện trạng CNHT nội địa như vậy tất yếu sự phát triển các ngành công nghiệp chính gặp nhiều khó khăn, sự thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam sẽ gặp nhiều trở ngại, sự chuyển dịch của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang các nước khác có CNHT phát triển là khó tránh khỏi. Xuất phát từ thực tiễn đó, thời gian qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra hàng loạt chủ trương chính sách thúc đẩy phát triển nền CNHT của nước nhà. Trong số đó có hệ thống các chính sách tài chính công. Tuy không có những văn bản quy phạm pháp luật riêng về tài chính công dành cho phát triển CNHT, song những quy định về chính sách tài chính công trong các các văn bản phát triển CNHT chung cũng đã có những tác động nhất định đối với vấn đề phát triển CNHT thời gian qua của Việt Nam. Tuy vậy, qua nghiên cứu, cho thấy các quy định về chính sách tài chính công phát triển CNHT trong các văn bản chung của nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, chưa có tác dụng nhiều đối với phát triển CNHT trong thời gian qua ở Việt Nam. Để khắc phục những những hạn chế của chính sách tài chính công thời gian qua đối với phát triển CNHT, cần thiết phải có những nghiên cứu hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chinh công sao cho phù hợp, đảm bảo phát huy được hiệu quả, tác động tích cực đến phát triển CNHT thời gian. 110 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 3.1. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 3.1.1. Cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2020 Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp lan sang một số nước ở châu Âu, các nhà đầu tư lớn đang có xu hướng rút nguồn vốn đầu tư từ Mỹ, EU và thúc đẩy quá trình tái cơ cấu công nghiệp sang các nước Đông Á và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và các nước trong khu vực. Mặt khác, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, hiện nay đang hình thành một làn sóng mới về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp từ Nhật Bản và Hàn Quốc kể cả đầu tư vào lĩnh vực CNHT. Ngoài ra, theo dự báo của WB, nhìn chung dòng vốn FDI có giảm so với giai đoạn trước, song dòng vốn FDI đổ vào khu vực các ASEAN vẫn tiếp tục tăng nhẹ. Bối cảnh trên đang và sẽ là một trong cơ hội cho phát triển CNHT của Việt Nam. Vấn đề là Việt Nam có nắm bắt được cơ hội hay không để phát triển CNHT của nước nhà. Bởi lẽ khi nguồn FDI đổ vào và tạo ra nhu cầu và thị trường cho phát triển CNHT. Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp tương đối hiện đại. Mục tiêu này vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra cơ hội mới cho phát triển nền CNHT của nước nhà. Đứng trên góc độ toàn cục cho thấy hiện nay xu hướng cạnh tranh mạnh thu hút nguồn FDI đang diễn ra giữa các nước trong khu vực. Một trong những yếu tố 111 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 để thu hút nguồn FDI vào Việt Nam là vấn đề phát triển CNHT, chứ không phải là giá nhân công rẻ. Đây là một thách thức lớn đối với CNHT của Việt Nam đang có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, chất lượng, hiệu quả sản xuất sản phẩm CNHT của Việt Nam thấp, quy mô nhỏ bé, cơ cấu sản phẩm nghèo nàn. 3.1.2. Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020 Ngày 8 tháng 10 năm 2014, Bộ Công thương đã có Quyết định số 9028/QĐBCT phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu chung của Quy hoạch nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Sản phẩm CNHT đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%) tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp.Thực hiện mục tiêu chung, từ nay đến năm 2020, Việt Nam tập trung phát triển CNHT thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu và theo các định hướng sau: -Lĩnh vực linh kiện phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử, đến năm 2020 đáp ứng 60% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp của Việt Nam. Năm 2030, đáp ứng 80% nhu cầu này. Các ngành công nghiệp cơ khí, ô tô, máy nông nghiệp, điện tử… được ưu tiên phát triển. Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng tham gia thị trường khu vực và quốc tế. -Lĩnh vực CNHT ngành dệt may - da giày: đạt tỷ lệ cung cấp trong nước 65% ngành dệt may, 75%-80% ngành da giày. -Ưu tiên thu hút vào lĩnh vực nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày, hình thành các cụm liên kết ngành trong sản xuất CNHT ngành dệt may, da giày tại các vùng kinh tế trọng điểm. 112 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 -Lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao, đồng thời phát triển hệ thống doanh nghiệp cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dùng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này; hình thành các doanh nghiệp bảo trì, sửa chữa máy móc đạt tiêu chuẩn quốc tế làm tiền đề phát triển doanh nghiệp sản xuất thiết bị, phần mềm phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao. -Ưu tiên thu hút đầu tư vào sản xuất vật liệu chế tạo như thép chế tạo, nhựa, cao su, composit, gốm phục vụ công nghiệp công nghệ cao, hóa chất cơ bản, hóa chất chuyên dụng trong công nghiệp công nghệ sinh học, vật liệu điện tử… Một trong những yếu tố có tính quyết định để thực hiện những định hướng, chính sách, giải pháp kể trên là vấn đề nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực hiện quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2020 phụ thuộc vào hai yếu tố: Một là, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế có hiệu quả, tạo ra nhiều doanh lợi, là nền tảng, cơ sở cho việc thu hút nguồn lực tài chính của xã hội phục vụ ĐTPT CNHT theo quy hoạch. Hai là, chính sách của Nhà nước thu hút và sử dụng nguồn lực tài chính phục vụ phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Trong số cơ chế, chính sách đó, chính sách tài chính công có ảnh hưởng to lớn đến phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020. Chính vì lẽ đó, nghiên cứu hoàn thiện, đổi hệ thống chính sách tài chính công thực hiện quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2020 được coi là vấn đề có tính quyết định hiện thực hóa quy hoạch. 113 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 3.2. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN NĂM 2020 CNHT có vị trí cực kỳ quan trọng trong tiến trình CNH & HĐH đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay, CNHT của Việt Nam còn non trẻ, mới chập chững bước đi ban đầu lại phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng cả chiều rộng và chiều sâu. Đứng trước thực tế đó, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công phải dựa trên những quan điểm, giải pháp phù hợp với yêu cầu phát triển CNHT nội địa trong bối cảnh hội nhập với tình trạng cạnh tranh gay gắt trong vực CNHT. Cụ thể: Thứ nhất, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công phải dựa trên quan điểm chủ đạo là khuyến khích thúc đẩy phát triển CNHT còn non trẻ. Quan điểm này xuất phát từ luận điểm cho rằng trong bước đi ban đầu của CNHT, sự quan tâm hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước là yếu tố có tính quyết định. Không có sự hỗ trợ của Nhà nước trong bước đi ban đầu thì không thể phát triển CNHT nội địa trước sức ép cạnh tranh như hiện nay. Chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT là thể hiện sự can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ tài chính của mình đối với phát triển CNHT. Có hai xu hướng thường gặp trong hoạch định và thực thi chính sách tài chính công là xu hướng thắt chặt, gây sức ép đối với vấn đề phát triển CNHT. Xu hướng này thường nặng về lợi ích của nhà quản lý, song cũng có tác dụng tích cực nhất định khi mà CNHT đã có bước phát triển mạnh. Xu hướng thứ hai khi hoạch định và thực thi chính sách tài chính công phát triển là tìm cách tháo gỡ khó khăn vướng mắc, ưu tiên phát triển CNHT. Trong bối cảnh hiện nay, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT phải lấy quan điểm khuyến kích tạo động lực phát triển cho CNHT làm quan điểm chủ đạo. Chính sách tài chính công vừa phải có tác dụng hỗ trợ trực tiếp từ nguồn tài chính của Nhà nước, vừa phải lá chắn trước cơn bão cạnh tranh khốc 114 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 liệt, vừa là công cụ giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Để thực hiện được định hướng này trước hết cần phải có sự rà soát, đánh giá lại các chính sách về NSNN, chính sách tín dụng nhà nước, chính sách sử dung các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN, xem xét những quy định nào trong hệ thống chính sách đó không theo quan điểm “cởi trói” cần được loại bỏ, đồng thời bổ sung những quy định mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển CNHT theo quy hoạch. Thứ hai, việc hoàn thiện chính sách tài chính công phải dựa trên kết quả phân tích đánh giá hiện trạng những quy định và thực thi các chính sách tài chính công hiện hành đưa ra những quy định riêng về ưu tiên, ưu đãi mang tính chất đặc thù riêng có của CNHT, bảo đảm cho những quy định đó sát với đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển CNHT, có tính khả thi trong thực tiễn. Quán triệt quan điểm này trong hoàn thiện và đổi mới các chính sách tài tài chính công sẽ khắc phục được những nhược điểm, ưu tiên phát triển CNHT trong chính sách tài chính công nhưng không gắn với tính đặc thù của nó, nên có vướng mắc trong quá trình thực thi. Để có thể quán triệt được quan điểm này, cần phải có những nghiên cứu, bổ sung các điều khoản liên quan đến vấn đề phát phát triển CNHT trong các Luật Thuế, Luật NSNN, các Luật về chi tiêu công… Thứ ba, đổi mới chính sách tài khóa thúc đẩy CNHT phát triển phải gắn chặt với vấn đề hoàn thiện, đổi mới chính sách tín dụng, tiền tệ tạo ra một hợp lực nhằm tác động toàn diện đến các chỉ tiêu của kinh tế vĩ mô, tạo môi trường kinh tế ổn định, bền vững cho phát triển CNHT. Việc phát triển CNHT không thể thực hiện được nếu như môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát cao, doanh lợi trong nền kinh tế giảm sút, thu nhập của xã hội bấp bênh. Nếu hiện trạng này xuất hiện tất yếu các doanh nghiệp hoạt động 115 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 trong lĩnh vực công nghiệp sẽ thoái lui đầu tư vì không có thị trường đầu ra, các yếu tố đầu vào trở nên đắt đỏ, doanh lợi thu được không đáng kể hoặc không có. Thứ tư, việc hoàn thiện, đổi mới các chính sách tài chính công phục vụ phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 phải đặt trong bối cảnh hội nhập với kinh tế thế giới. Đối với phát triển một CNHT còn non trẻ như ở Việt Nam, hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới vừa mở ra nhiều cơ hội, song cũng đứng trước nhiều thách thức. Cơ hội đố có thể là: - Các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT nội địa có thể trở thành những doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp FDI, tận dụng được vốn, công nghệ kinh nghiệm hoạt động. - Mở rộng được thị trường đầu ra cho sản phẩm của CNHT nội địa nếu chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu của các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, hội nhập kinh tế cũng có những thách thức đối với phát triển CNHT nội địa.Thách thức lớn nhất là ở khía cạnh cạnh tranh. Nói chung các doanh nghiệp nội địa do năng lực tài chính hạn chế, trình độ tay nghề thấp, công nghệ lạc hậu, nên không có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực CNHT trên đất nước Việt Nam buộc phải đình đốn, phá sản. Từ thực tế này, việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính công giai đoạn tới cần bảo đảm cho các doanh nghiệp CNHT nội địa tận dụng được cơ hội, khắc phục được thách thức do hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính cũng phải phù hợp với những quy định về chính sách tài chính công mang tính thông lệ của các nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước. 116 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Thứ năm, cụ thể hóa và linh hoạt hóa các công cụ chính sách tài chính công, kiểm soát các lạm dụng ưu đãi cho phát triển CNHT có trọng tâm, trọng điểm theo mục tiêu lựa chọn phù hợp. Thực tế khả năng nguồn lực tài chính công là hữu hạn, nhu cầu nguồn lực tài chính công cho phát triển CNHT là vô hạn. Vì vậy, khuyến khích tài chính của Nhà nước đối với phát triển CNHT phải có sự chọn lọc, ưu tiên những CNHT phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển nền công nghiệp nước nhà, có tiềm năng mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo động lực thu hút nguồn FDI và phát triển CNHT. Chính sách tài chính công phát triển CNHT cần đảm bảo tính nhất quán, xuyên suốt, thể hiện quyết tâm và ổn định trong phát triển CNHT; đồng thời, cần đảm bảo các giải pháp không cố định, cứng nhắc, mà linh hoạt theo từng thời kỳ, nhưng ổn định, có kế hoạch cụ thể. Các cam kết thực thi trong giai đoạn dài liên tục thể hiện sự nhất quán của chính phủ giữa hoạch định giải pháp và điều hành thực hiện giải pháp. Các giải pháp sử dụng chính sách tài chính công phải hướng vào việc tăng tích tụ tài chính ở các đơn vị cơ sở, nhất là các doanh nghiệp nội địa vừa và nhỏ. Đương nhiên, việc sử dụng các giải pháp theo hướng này trước mắt có thể giảm mức huy động của NSNN, song phải có quan điểm nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài, bởi lẽ sự gia tăng nguồn thu của NSNN chỉ có thể thực hiện được khi và chỉ khi có sự tăng trưởng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần sử dụng chính sách tài chính công để phát triển CNHT theo hướng cụ thể hóa, tối đa hóa và chặt chẽ, kiểm soát các kẽ hở và tác động mặt trái, phát huy năng lực đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và các thành phần kinh tế, đặc biệt là các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia. 117 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CÔNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 3.3.1. Một số giải pháp chung 3.3.1.1. Hướng việc hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công phục vụ tốt nhất cho chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT Trong xu thế hội nhập quốc tế, khái niệm nền công nghiệp quốc gia đang bị mờ dần. Thay vào đó là nền công nghiệp mang tính khu vực và thế giới. Các Tập đoàn đa quốc gia với nguồn lực vô cùng lớn, thương hiệu mạnh đã và đang chi phối hoạt động công nghiệp thế giới theo khu vực. Hoạt động sản xuất công nghiệp trong hiện tại và tương lai sẽ theo hướng toàn cầu hóa. Để tham gia vào các chuỗi sản xuất công nghiệp toàn cầu, cần đẩy mạnh khâu hợp tác quốc tế. Khoảng cách giữa trình độ sản xuất của các doanh nghiệp nội địa và yêu cầu về chất lượng và công nghệ sản phẩm CNHT của các Tập đoàn lắp ráp khá lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể thu hẹp và san bằng được khoảng cách này. Vì vậy, việc các doanh nghiệp nội địa đóng vai trò nhà cung cấp lớp số 1 là hết sức khó khăn. Để đáp ứng nhu cầu hiện tại của các Tập đoàn đa quốc gia đang sản xuất ở Việt Nam, cần phải có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn thu hút đầu tư các nhà cung cấp lớn số 1 vào Việt Nam để giảm bớt nhập siêu, tạo thêm việc làm cho người lao động trong nước. Đồng thời khi các doanh nghiệp này đầu tư vào Việt Nam, các doanh nghiệp nội địa có thể làm “thầu phụ” cho họ. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp nội địa từng bước nâng cao trình độ, dần tiếp cận với yêu cầu của các Tập đoàn đa quốc gia. Để thu hút các dự án FDI vào sản xuất CNHT, cần có các ưu đãi thích hợp đủ sức hấp dẫn, trong đó đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia có vị thế là nhà cung cấp toàn cầu linh kiện và vật liệu. Đối với các doanh nghiệp FDI có qui mô vừa trở lên, thường có nguồn lực tương đối mạnh, vì vậy, một trong những ưu đãi mà họ quan 118 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 tâm nhất khi đầu tư vào Việt Nam là ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp CNHT nhỏ và vừa của Nhật Bản và Hàn Quốc có trình độ công nghệ và sản xuất rất cao cũng là đối tượng cần phải hướng tới để thu hút. Các doanh nghiệp này có qui mô vừa và nhỏ, họ cần có sự hỗ trợ và sẵn sàng về mặt hạ tầng như mặt bằng, hệ thống nhà xưởng, thủ tục hành chính...trong các cụm CNHT. 3.3.1.2. Xây dựng hệ thống chính sách tài chính công, tạo nguồn lực hình thành Quỹ đầu tư CNHT Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có qui mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để sản xuất sản phẩm tương đối nhỏ nên các ngân hàng thường không mặn mà với việc thẩm định và cho các doanh nghiệp này vay. Đây chính là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp CNHT nội địa phát triển sản xuất. Vì vậy để thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ phát triển, cần có chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp này có thể vay vốn dễ dàng thông qua Quĩ đầu tư CNHT với các hoạt động như ủy thác cho vay thông qua ngân hàng thương mại, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay....Vốn điều lệ của Quỹ đầu tư CNHT do NSNN cấp theo đề nghị của Bộ Công thương là khoảng 2000 tỷ đồng và được cấp trong 3 năm, hai năm đầu mỗi năm cấp 500 tỷ đồng, năm thứ ba cấp 1000 tỷ đồng nhằm cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ CNHT. Quỹ đầu tư CNHT quốc gia trực thuộc Bộ Công Thương là tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ CNHT. Quỹ đầu tư CNHT với các hoạt động như ủy thác cho vay thông qua ngân hàng thương mại, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay... Nguồn vốn của Quỹ ngoài vốn điều lệ do NSNN cấp, sẽ có vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ; vốn từ các nguồn: Đóng góp tự nguyện và ủy thác của các tổ 119 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho lĩnh vực CNHT; các nguồn vốn huy động khác theo quy định của pháp luật. 3.3.1.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công nhằm xây dựng các Cụm CNHT Việc phát triển CNHT theo cụm nhóm để đạt tới sự đồng bộ tối đa nhằm tối ưu hóa qui trình sản xuất, cung ứng cho sản phẩm cuối cùng, tạo điều kiện cho việc phân công lao động và chuyên môn hóa trong ngành cao hơn. Việc sản xuất theo cụm nhóm tạo điều kiện tổ chức thông tin giữa các doanh nghiệp sản xuất CNHT, giữa các nhà lắp ráp và doanh nghiệp CNHT. Cụm CNHT đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong khâu kiểm tra chất lượng của các doanh nghiệp lắp ráp đối với các sản phẩm linh kiện và vật liệu. Việc thiết lập cụm CNHT nhằm hội tụ các cơ sở lắp ráp và chế tạo theo ngành. Có chế độ ưu đãi thích hợp cho phép các công ty đứng đầu mạng lưới sản xuất toàn cầu thiết lập cụm CNHT tập trung các nhà cung ứng của riêng họ. Các doanh nghiệp trong cụm CNHT có thể tạo nên chuỗi giá trị của một sản phẩm hoặc một cụm chi tiết từ khâu cung cấp nguyên liệu cho đến việc lắp ráp thành cụm chi tiết giao cho Tập đoàn lắp ráp. Một cụm công nghiệp như vậy, ngoài các nhà sản xuất có thể bao gồm các nhà cung cấp vật liệu, các nhà thầu phụ và các nhà cung cấp, cho thuê tài chính máy móc thiết bị... Để tránh lãng phí tài nguyên đất đai và lạm dụng chính sách đầu tư dàn trải, tận dụng các khu cụm công nghiệp hiện tại hoặc đất đã được qui hoạch cho phát triển công nghiệp để qui hoạch và xây dựng đầu tư cụm CNHT. Trong giai đoạn đầu, khuyến khích thành lập cụm CNHT tập trung thu hút ở 3 lĩnh vực chính trong cung ứng CNHT gồm sản xuất linh kiện kim loại, sản xuất linh kiện nhựa và cao su, sản xuất linh kiện điện-điện tử. Với những ưu thế của Cụm công nghiệp như vậy, là chính sách điều tiết vĩ mô, hệ thống chính sách không thể không quan tâm 120 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 đến vấn đề hình thành Cụm CNHT. Sự quan tâm đó, có thể thực hiện thông qua việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách thuế, chính sách tín dụng nhà nước theo hướng tập trung nghiên cứu xây dựng cơ chế ưu tiên ưu đãi thích hợp. 3.3.1.4. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính công dựa trên những lựa chọn ưu tiên công nghiệp hỗ trợ Mặc dù chính sách tài chính công có vị trí cực kỳ quan trọng đối với quá trình phát triển CNHT, song dù sao nguồn lực tài chính công do Nhà nước sở hữu, sử dụng để hỗ trợ cho CNHT cũng có hạn, mặt khác, qua phân tích, đánh giá thực trạng CNHT của nước nhà cho thấy vẫn còn nhiều yếu kém, đặc biệt là công nghệ lạc hậu, trình độ, tay nghề nguồn nhân lực thấp, dung lượng thị trường cho tiêu thụ sản phẩm của CNHT nội địa còn hạn hẹp. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện đổi mới hệ thống chính sách tài chính công phải có những cân nhắc, lựa chọn những ưu tiên thích hợp. Những lựa chọn ưu tiên đó có thể là: a. Ưu tiên hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT Công nghệ là chìa khóa để các doanh nghiệp sản xuất linh kiện và vật liệu. Để nâng cao trình độ công nghệ cho doanh nghiệp, cần có hợp phần hỗ trợ công nghệ trong chương trình quốc gia, thực hiện các nội dung cụ thể sau: - Hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp mua, chuyển giao và ứng dụng, làm chủ công nghệ, sản xuất thử nghiệm các sản phẩm mục tiêu thuộc Danh mục ưu tiên phát triển và đã xác định được thị trường....Hỗ trợ các doanh nghiệp thiết kế, kiểm định chất lượng sản phẩm.... - Thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các Tập đoàn Đa quốc gia đến các doanh nghiệp nội địa... - Tăng cường hợp tác công nghệ với nước ngoài. 121 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 b. Ưu tiên hỗ trợ cho xúc tiến thương mại, tạo dựng thị trường, tạo liên kết doanh nghiệp CNHT với các doanh nghiệp khách hàng trong và ngoài nước. c. Ưu tiên hỗ trợ cho hoạt động đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có của các doanh nghiệp. Trên cơ sở chính sách tài chính công việc ưu tiên, hỗ trợ cho hoạt động có thể là cung cấp nguồn kinh phí cho việc mở lớp, biên soạn tài liệu, trả thù lao cho người đào tạo... d. Ưu tiên hỗ trợ hình thành hệ thống Trung tâm phát triển CNHT Xây dựng hệ thống Trung tâm phát triển CNHT nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, trong đó nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ về mặt công nghệ và quản trị doanh nghiệp. Trung tâm này bao gồm tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, trung tâm thiết kế mẫu, trung tâm kiểm định chất lượng, sàn giao dịch nguyên vật liệu, chi tiết linh kiện....Trung tâm này sẽ là nơi các doanh nghiệp có liên quan có thể sử dụng các dịch vụ và thông tin, có thể coi là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu trong sản xuất linh kiện cụ thể như sau: - Sản xuất CNHT có đặc thù thâm dụng công nghệ kỹ thuật với trình độ nguồn nhân lực cao, có thể khẳng định đây là ngành khó khởi sự kinh doanh so với ngành thương mại dịch vụ. Mặt khác các sản phẩm cũng thường xuyên thay đổi thiết kế, mẫu mã để phù hợp với sự thay đổi của thị trường sản phẩm chính. Do phần lớn các doanh nghiệp CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên các doanh nghiệp này không có khả năng nghiên cứu và phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của ngành sản xuất CNHT, cần có biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước về công nghệ sản xuất thông qua Trung tâm phát triển CNHT. Đồng thời Trung tâm sẽ hỗ trợ chuyên gia, thiết kế, sản xuất thử nghiệm sản phẩm, kết hợp kiểm nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn nhằm đáp ứng yêu cầu các Tập đoàn. 122 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 - Hỗ trợ tư vấn về quản trị doanh nghiệp và các dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực. - Hỗ trợ, thúc đẩy kết nối mạng lưới tiêu thụ, kết nối với nhu cầu của các nhà cung ứng lớp cao hơn và các tập đoàn lắp ráp đa quốc gia trong và ngoài nước. 3.3.1.5. Phối kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tạo môi trường kinh tế ổn định cho phát triển công nghiệp hỗ trợ Tạo môi trường kinh tế ổn định là điều kiện cần cho sự phát triển của CNHT. CNHT cũng như các ngành kinh tế khác không thể phát triển trong một môi trường kinh tế bất ổn, lạm phát ở mức cao, tăng trưởng kinh tế và thu nhập của người dân giảm sút giảm sút, thị trường bị co hẹp, giá cả đầu vào có nhiều biến động bất thường. Vì vậy tạo cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định, tăng trưởng cao, lạm phát ở múc có thể kiểm soát được là điều kiện cần cho sự phát triển của lĩnh vực CNHT. Để có thể bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định bền vững, vai trò can thiệp của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế là hết sức cần thiết. Trong thực tế để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển một cách ổn định và bền vững Nhà nước sử dụng hàng loạt các cơ, chế chính sách về kinh tế, tài chính, trong số các chính sách đó là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, tùy theo diễn biến của chu kỳ kinh tế mà Nhà nước sử dụng Chính sách tài khóa thắt chặt hay chính sách tài khóa nới lỏng. Song việc sử dụng chính sách tài khóa theo hướng nào thì cũng phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ mới bảo đảm được tính hiệu quả của Chính sách tài khóa. Thực tế, ở Việt Nam cũng đã có giai đoạn, Nhà nước chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nên hiệu quả sử dụng chính sách sách tài khóa còn hạn chế gây khó khăn trong việc thúc đẩy CNHT và các ngành công nghiệp khác. 123 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 3.3.1.6. Nghiên cứu bổ sung các quy định trong các bộ luật liên quan nhằm hỗ trợ tốt cho CNHT Như phần phần tích thực trạng, hiện nay việc thực thi các văn bản quy phạm phát luật dưới dạng Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị về ưu tiên tài chính phát triển CNHT còn nhiều vướng mắc về tính pháp lý. Cho đến nay, trong các Luật như Luật thuế, Luật quản lý thuế, Luật NSNN, Luật đất đai và một số luật khác liên quan chưa có điều khoản nào đề cập đến vấn đề tài chính đối với phát triển CNHT. Chính điều đó phần nào những ưu tiên về mặt tài chính trong các văn bản dưới luật hiện hành không có những quy định đột phá mang tính đặc thù của CNHT. Từ thực tế này thiết nghĩ với vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của CNHT của nước nhà, trong giai đoạn tới nên nghiên cứu bổ sung các điều khoản về CNHT trong các bộ luật kể trên, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống các văn bản nói chung, hệ thống các văn về chính sách tài chính công nói riêng nhằm thúc đẩy CNHT phát triển hơn trong những năm tới. 3.3.1.7. Tăng cường nhận thức và tạo điều kiện tiếp cận hệ thống chính sách tài chính công đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT Một trong những nguyên nhân làm cho hệ thống các chính sách nói chung, hệ thống chính sách tài chính công nói riêng không phát huy được hiệu quả là sự nhận biết, tiếp cận chính sách của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT nội địa còn hạn chế, bởi lẽ đa phần các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí là các hộ gia đình, vì vậy ít có điều kiện kỹ thuật, cơ sở hạ tầng để tiếp nhận thông tin. Chính vì lẽ đó, cùng với việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính sách tài chính, cần hết sức chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến, tư vấn chính sách tài chính đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT. Biện pháp tiến hành có thể là: tận dụng tối đa những ưu thế của công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách tài chính 124 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 công, tổ chức các cuộc hội thảo, đối thoại chính sách tài chính ở các sở tài chính, cục thuế địa phương có sự tham gia của các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT, có chế độ, khuyến khích các bài viết về chính sách tài chính công đối với CNHT đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, trên các phương tiện thông tin đại chúng… 3.3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện chính sách tài chính công phục vụ phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020 3.3.2.1. Đối với chính sách thuế Chính sách thuế đối với CNHT có hai tác dụng quan trọng: (i) điều tiết thu nhập do hoạt động trong CNHT tạo ra; (ii) điều thiết hoạt động của CNHT. Trong giai đoạn tới tinh thần chung của việc hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế đối với phát triển CNHT vẫn là thực hiện những ưu đãi, miễn, giảm các sắc thuế hiện có nhưng phải có những lựa chọn ưu đãi, miễn giảm thuế một cách hợp lý. Cụ thể trong những năm tới việc hoàn thiện và đổi mới chính sách thuế với việc thực hiện các ưu đãi, miễn, giảm các sắc thuế hướng tới: (i) Khuyến khích các doanh nghiệp có đề án đổi mới kỹ thuật, dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của CNHT phục vụ tốt yêu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp lắp ráp, chế tác tạo ra sản phẩm cuối cùng (không đặt vấn đề phân biệt các doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ. (ii) Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT có đề án nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề cho đội ngũ kỹ sư, công nhân; (iii) Ưu đãi đối với doanh nghiệp hoạt động trong CNHT có tỷ lệ nội địa hóa cao; (iv) ưu đãi các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT phục vụ cho các ngành lắp rắp, chế tác theo quy hoạch của Nhà nước đến năm 2020 như: dệt may, da-giày,ô tô, cơ khí, công nghệ cao; (v) hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm CNHT. Trên cơ sở những định hướng chung đó, cần nghiên cứu hoàn thiện đổi mới một số sắc thuế quan trọng có tác động trực tiếp đến phát triển CNHT. Cụ thể: 125 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 a. Hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế TNDN Có thể nói thuế TNDN là một sắc thuế, có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đối với vấn đề phát triển CNHT thông qua việc quy định thuế suất, chế độ ưu đãi, miễn giảm. Tuy nhiên, hiện nay trong Luật thuế TNDN năm 2008, cũng như Luật thuế TNDN sửa đổi năm 2013, chưa có điều khoản nào quy định rõ về chế độ ưu đãi miễn giảm mang tính đặc thù của hoạt động CNHT, nhất là trong bối cảnh CNHT nội địa đang ở trong giai đoạn phát triển ban đầu còn sơ khai. Vì vậy, trong Luật thuế TNDN cần nghiên cứu đề cập đến những ưu tiên, ưu đãi đối với phát triển CNHT nội địa. Cụ thể: Trên cơ sở Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển lựa chọn một số sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế trong ĐTPT để áp dụng ưu đãi như: Bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp- “Ưu đãi cho doanh nghiệp CNHT thông qua khuyến khích đầu tư hoặc lĩnh vực công nghệ cao theo quyết định của Chính phủ trong từng thời kỳ”. Khi đó, các doanh nghiệp CNHT sẽ được hưởng ưu đãi đầu tư mở rộng như các doanh nghiệp khác. Đây là giải pháp để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT, đồng thời tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, phương án này có hạn chế là dễ dẫn đến tình trạng mở rộng quá mạnh sản phẩm CNHT được hưởng ưu đãi. Trong những năm tới, hướng ưu tiên, ưu đãi, thực hiện chế độ miễn, giảm của thuế TNDN là: Ưu tiên, ưu đãi, miển, giảm thuế TNDN đối với doanh nghiệp CNHT nội địa có chương trình và thực thi chương trình đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. b. Hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế xuất nhập khẩu 126 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Mục tiêu việc ưu đãi, miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với CNHT là nhằm khuyến khích việc nhập những nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, các linh kiện, phụ kiện phục vụ cho ngành công nghiệp lắp ráp, chế biến, chế tác mà các CNHT trong nước không hoặc chưa cung cấp được theo yêu cầu về số lượng và chất lượng của những mặt hàng kể trên đối với các ngành công nghiệp chế tác, lắp ráp, chế biến tạo ra sản phẩm cuối cùng. Đồng thời, việc ưu đãi, miễn, giảm thuế xuất khẩu là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp CNHT mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm CNHT khi các sản phẩm đó đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặt khác, mục tiêu sử dụng những ưu đãi, miễn, giảm thuế XNK tạo ra lá chắn trước áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa bên ngoài góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa CNHT nội địa. Theo đánh giá của các cơ quan hải quan Luật thuế XNK hiện hành còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể: Qua quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động hải quan cũng như đối chiếu với các chuẩn mực hải quan quốc tế và các cam kết, theo phản ánh của Tổng cục Hải quan, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu hiện hành có những điểm chưa nội luật hoặc nội luật chưa đầy đủ theo quy định của Công ước Kyoto, của các hiệp định song phương và đa phương đã, đang và sẽ ký kết. Cụ thể, theo phản ánh của Hải quan một số tỉnh, thành phố, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu thiếu quy định miễn thuế đối với hàng hóa có trị giá tối thiểu hoặc có số tiền thuế phải nộp dưới mức quy định, thiếu quy định về miễn thuế đối với ấn phẩm quảng cáo có trị giá thấp và hàng mẫu theo đơn hàng để phục vụ sản xuất, ảnh, phim, mô hình hoặc bất kỳ hàng hóa tương tự nào khác thay thế cho hàng mẫu đó, ấn phẩm quảng cáo... đã gây khó khăn vướng mắc cho cơ quan Hải quan trong thực hiện. Bên cạnh đó, Luật cũng thiếu quy định về thuế hỗn hợp (gồm cả thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế suất tuyệt đối), hạn ngạch thuế quan; thiếu quy định 127 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 điều kiện hoàn thuế; thiếu quy định về miễn thuế đối với máy móc, thiết bị, linh kiện, phụ tùng tạm nhập để phục vụ thay thế, sữa chữa tàu biển, tàu bay nước ngoài, tạm xuất để phục vụ thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu bay Việt Nam ở nước ngoài, máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ thử nghiệm nghiên cứu phát triển sản phẩm, hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập để bảo hành, sửa chữa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, phương tiện chứa hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập theo phương thức quay vòng không phải thanh toán. Thực tế cho thấy, một số nội dung của Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung để thực hiện mục tiêu cải cách hành chính, giảm vướng mắc cho thực hiện, nâng cao tính pháp lý của các quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Chính phủ quy định chi tiết thi hành các Luật có liên quan và triển khai có hiệu quả trên thực tế, như: Luật chưa quy định đại lý hải quan, người bảo lãnh, người sử dụng hàng hóa nhập khẩu nhưng chưa nộp thuế, người thu gom hàng hóa của cư dân biên giới là đối tượng nộp thuế nên thực tế nhiều trường hợp không thu được thuế của các đối tượng này. Hoặc Luật quy định về thời điểm tính thuế là ngày đăng ký tờ khai hải quan chưa phù hợp với trường hợp chuyển đổi đối tượng sử dụng; quy định tách riêng miễn thuế và xét miễn thuế thành 2 điều (1điều miễn thuế, 1 điều xét miễn thuế) là không cần thiết, gây hiểu lầm là phải “xin cho” mới được miễn thuế. Việc quy định phải nộp thuế trước khi thông quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu để kinh doanh chưa phân biệt mức độ chấp hành tốt pháp luật của doanh nghiệp như Luật Quản lý thuế là chưa khuyến khích doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật... Qua nghiên cứu, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu hiện hành chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần được cải cách, đổi mới hơn nữa, như: Quy định mức khung thuế suất, bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa như hiện nay không có ý nghĩa, vì thực chất mức thuế suất trần 128 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 tối đa đã được cam kết cho toàn bộ biểu thuế với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tại thời điểm gia nhập. Cục Thuế XNK phân tích, quy định về các nguyên tắc ban hành Biểu thuế, thuế suất đã được nêu trong Luật chưa thật sự phù hợp trong điều kiện thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu của một số Hiệp định thương mại quốc tế, vai trò bảo hộ và thu cho NSNN của thuế xuất khẩu sẽ không như giai đoạn trước đây. Các nguyên tắc này cũng chưa đủ để xử lý các vấn đề đặt ra nhằm đảm bảo tính hợp lý giữa thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào nguyên liệu, vật tư, linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm và sản phẩm nguyên chiếc... Cùng với đó, quy định các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử tuy đã được quy định trong Luật nhưng chưa đầy đủ và chưa bao quát được hết các vấn đề cần thiết để áp dụng các loại thuế này, nên thực tế việc áp dụng được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp, Pháp lệnh Chống phân biệt đối xử. Đặc biệt, với quy định miễn thuế nhập khẩu 5 năm cho nguyên liệu, vật tư, linh kiện phục vụ sản xuất những dự án ưu đãi đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư chưa phân biệt các dự án chỉ đáp ứng một đối tượng hưởng ưu đãi với các dự án đáp ứng nhiều đối tượng hưởng ưu đãi, nên chưa khuyến khích các dự án đầu tư có quy mô lớn, công nghệ cao, đầu tư vào những địa bàn đặc biệt cần khuyến khích đầu tư. Hay như quy định miễn thuế nhập khẩu tạo tài sản cố định cho dự án ưu đãi đầu tư bằng vốn ODA cho doanh nghiệp vay lại chưa bình đẳng với các nguồn vốn khác. Các loại hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học, bao gồm cả mặt hàng trong nước đã sản xuất được là chưa khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước, hạn chế tiêu dùng ngoại tệ. 129 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Bên cạnh đó, Luật Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu cũng chưa quy định miễn thuế đối với một số trường hợp đặc thù cần được ưu đãi như hàng hóa nhập khẩu để phục vụ cho biển đảo có điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng đặc biệt khó khăn; máy móc, thiết bị, dụng cụ chuyên dùng phục vụ cho đánh bắt thủy hải sản xa bờ là chưa phù hợp với thực tế và chủ trương chính sách của Nhà nước. Từ thực tế kể trên, trong thời gian tới, việc hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế XNK thúc đẩy phát triển CNHT cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây: Một là, bổ sung thêm những quy định trong luật thuế XNK về chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế XNK theo các yêu cầu mà Việt Nam đã ký kết trong các Hiệp định thương mại với các tổ chức quốc tế (WTO) và theo những yêu cầu của những hoạt động kinh tế, xã hội mang tính đặc thù. Hai là, thống nhất hóa thẩm quyền quy định thuế suất và ổn định tương đối thuế xuất thuế XNK trong một thời gian nhất định nhằm bảo đảm tính chủ động trong việc hoạch định, thực thi chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực CNHT nói riêng. Cụ thể: Nên nghiên cứu đề xuất mức thuế suất cụ thể đối từng mặt hàng nhóm hàng gắn với đặc thù của sản phẩm CNHT và yêu cầu thực hiện các cam kết đã ký trong các hiệp định thương mại và thuế quan, cùng với thẩm quyền quy định mức thuế suất, Chính phủ cũng cần công bố khoảng thời gian áp dụng mức thuế bảo đảm tính ổn định tương đối, đồng thời nên nghiên cứu đề ra tiêu chí điều chỉnh mức thuế suất. c. Hoàn thiện chính sách thuế GTGT nhằm thúc đẩy trong các bộ luật liên quan Tác động chính của chính sách thuế GTGT đối với phát triển CNHT là ở chỗ chính sách thuế GTGT điều tiết hoạt động tiêu dùng của xã hội và thông qua đó liên quan đến thị trường tiêu dùng sản phẩm của CNHT. Để có thể phát triển được 130 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 thị trường tiêu dùng sản phẩm CNHT, việc hoàn thiện, đổi mới chính sách thuế GTGT cần tập trung nghiên cứu các vấn đề:  Mức thuế suất đối với sản phẩm CNHT giao dịch trên thị trường nên áp dụng chỉ một mức thuế suất 5% và ổn định mức đó trong 5 năm phù hợp với kế hoạch trung hạn do các doanh nghiệp đề ra.  Nhằm bảo đảm tính liên hoàn của thuế GTGT nên đưa sản phẩm CNHT giao dịch trên thị trường vào diện chịu thuế GTGT để được hưởng khấu trừ có lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT khi tính thuế. d. Hoàn thiện chính sách thuế đối với khu công nghiệp chuyên sâu Hiện nay, ở nước ta số lượng các khu công nghiệp và khu kinh tế tương đối lớn. Tính đến hết năm 2012, Việt Nam có 289 khu công nhiệp, khu chế xuất với diện tích hơn 80 ngàn ha. Các KCN, KCX này đã thu hút trên 4,3 ngàn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký lên tới 65 tỷ USD. Ngoài ra, cả nước hiện có gần 900 cụm công nghiệp, thu hút trên 7 ngàn dự án với tổng vốn đầu tư trên 112 ngàn tỷ đồng, tạo việc làm cho gần nửa triệu lao động… Đối với các KCN, do chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn, địa bàn thuận lợi, do đó hiện nay các chính sách ưu đãi cho KCN đã chấm dứt. Trong khi, chính sách ưu đãi tài chính cho các khu kinh tế hiện nay là cao nhất, bao gồm: (i) Thuế TNDN: hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% áp dụng trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh; Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo; (ii) Thuế TNCN: Người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Khu kinh tế được giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập; (iii) Một số ưu đãi về thuế xuất - nhập khẩu; (iv) Miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước. Dựa vào cơ chế ưu đãi trên, nên có phương án thực hiện cơ chế một cách cụ thể. Theo đó, có thể cân nhắc một số phương án như sau: 131 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Phương án 1: Trước mắt chưa nên thành lập mới các khu CNHT, khu công nghiệp chuyên sâu, mà giải pháp đối với CNHT trong giai đoạn này, bao gồm:  Cho phép các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục CNHT nằm trong KCN tiếp tục được hưởng các ưu đãi như các doanh nghiệp trong khu kinh tế đang được hưởng.  Đối với các doanh nghiệp CNHT tại các khu kinh tế thì được hưởng chính sách ưu đãi “2+”. Nghĩa là ngoài các chính sách được hưởng các ưu đãi của khu kinh tế thì được cộng thêm. Cụ thể: (1)Áp dụng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn. (2)Áp dụng chính sách thuế thu nhập cá nhân ưu đãi vượt khung (thuế suất thấp nhất hoặc thấp hơn mức thấp nhất của luật thuế) đối với dự án CNHT trọng điểm từng giai đoạn.  Xây dựng cơ chế đảm bảo thực thi chính sách ưu đãi cho các dự án CNHT cho phát triển công nghệ cao (gắn với các hướng dẫn triển khai luật về công nghệ cao). Phương án 2 Do hiện nay đã có định hướng phát triển 02 khu Công nghiệp chuyên sâu tại Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Việc thực hiện thí điểm các khu CNHT, khu công nghiệp chuyên sâu nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc,..để góp phần phát triển CNHT thì cần có các chính sách ưu đãi tương đương mức mà các khu kinh tế đang được hưởng. Vì vậy, có thể sửa đổi Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 để bổ sung huyện An Hải (Hải Phòng) và huyện Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu), hoặc có thể chỉ bổ sung đến cấp xã (xã Tràng Cát và xã Đá Bạc) vào địa bàn đặc biệt khó khăn. Khi đó, các doanh 132 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp CNHT hoạt động trong khu CNHT, khu công nghiệp chuyên sâu được hưởng các ưu đãi theo các địa bàn đặc biệt khó khăn. Phương án này có thuận lợi là thuộc thẩm quyền của Chính phủ, tuy nhiên các doanh nghiệp khác trong địa bàn cũng được hưởng các chính sách ưu đãi chung. Như vậy, phương án này cũng chưa có sự phân biệt đối với doanh nghiệp CNHT. 3.3.2.2. Đối với chính sách chi trực tiếp từ nguồn ngân sách nhà nước Đây là một trong những giải pháp quan trọng, thể hiện Nhà nước là “bà đỡ” trực tiếp cho việc ra đời, tồn tại và phát triển CNHT còn non trẻ ở nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện quy mô NSNN còn nhỏ bé, lại phải gánh vác nhiều nhiệm vụ cho phát triển kinh tế xã hội, nhất là lĩnh vực xã hội đang cần nguồn tài chính lớn từ NSNN. Vì vậy, việc hỗ trợ trực tiếp từ nguồn NSNN cho phát triển CNHT trong giai đoạn tới cần phải thực hiện yêu cầu phân bổ NSNN có trọng tâm, trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải. Cụ thể trong thời gian tới, chính sách hỗ trợ trực tiếp từ nguồn NSNN cho ĐTPT CNHT tập trung vào một số vấn đề quan trọng sau đây: Đầu tư hỗ trợ tài chính từ NSNN cho phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực CNHT Nhà nước hỗ trợ từ NSTW cho các doanh nghiệp, địa phương thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao tay nghề, chất lượng lao động; thông qua các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (mức thuế suất thấp hơn trong thời gian thực hiện đào tạo) hoặc hỗ trợ ngân sách cho địa phương trong thực hiện đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Việc xác định danh sách hỗ trợ tài chính này phải thực hiện hàng năm và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để một mặt tăng cường tính minh mạch thông tin, mặt khác đảm bảo việc tiếp cận cho các doanh 133 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp CNHT vì phần lớn các doanh nghiệp trong lĩnh vực này là DNNVV, khả năng tiếp cận nguồn thông tin hạn chế. Bên cạnh đó, cần công bố danh mục tiêu chí các doanh nghiệp, địa phương được hưởng nguồn tài chính này, nhằm hạn chế tình trạng áp dụng tuỳ tiện, lợi dụng hoặc cơ chế “xin - cho”. Về dài hạn, nghiên cứu thành lập Quỹ Đào tạo, bồi dưỡng lao động CNHT (vốn từ NSNN) giao cho Bộ Công thương quản lý, sử dụng để hỗ trợ các chương trình đạo tạo lao động, nâng cao tay nghề đối với lao động trong CNHT. Đầu tư giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một thực tế hiện nay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hoạt động trong lĩnh vực CNHT là sản phẩm làm ra tồn kho ứ đọng không nơi tiêu thụ. Phần vì chất lượng sản phẩm kém, phần công tác quảng bá sản phẩm còn nhiều hạn chế do thiếu nguồn kinh phí. Do đó, việc Nhà nước trực tiếp đầu tư cho quảng bá mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực CNHT là hết sức cần thiết. Giải pháp này vừa có tác dụng giải quyết tình trạng ứ đọng vốn do ứ đọng sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa phù hợp với nguồn vốn đầu tư của Nhà nước không lớn lắm. Đầu tư vào một số sản phẩm CNHT do các doanh nghiệp trong nước đảm nhận nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm CNHT đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam Ở Việt Nam, lợi thế giá nhân công rẻ đang mất dần, nếu không quan tâm đến vấn đề cung cấp những sản phẩm CNHT có chất lượng tại chỗ thì không những không thu hút được nguồn FDI mới đầu tư vào Việt Nam mà có thể không giữ chân được các doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam làm ăn lâu dài với 134 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 chúng ta. Do việc đầu tư để nâng cao chất lượng một số sản phẩm CNHT phục vụ yêu cầu của các doanh nghiệp FDI là cần thiết. Hướng đầu tư này của Nhà nước cho các doanh nghiệp nội địa nên tập trung vào hỗ trợ một phần của NSNN cho việc cải tiến công nghệ, tăng cường công tác quản lý, cải tiến phương thức cung cấp sản phẩm đối với các doanh nghiệp lựa chọn. 3.3.2.3. Đối với chính sách tín dụng ưu đãi Tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước là một trong các chính sách tài chính công của nhà nước không chỉ cung cấp vốn dưới hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất đầu tư và bảo lãnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực hiện các dự án đầu tư thuộc danh mục dự án đầu tư được Nhà nước khuyến khích, mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước, nó là hình thức quá độ chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế cho vay. Trong điều kiện hiện nay, ngoài chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu của Nhà nước, phía NHNN cũng có nhiều văn bản quy định về chính sách tín dụng ưu đãi, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT cũng có thể xem xét, tiếp cận để tạo thêm nguồn vốn phát triển doanh nghiệp. Theo Điều 1, Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012 quy định “lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế quy định: Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tối đa bằng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cộng (+) 3%/năm”.Theo Thông tư 20/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 14/2012/TT-NHNN thì Khoản 1, Điều 1 được sửa thành “Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tối đa là 13%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tối đa là 135 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 14%/năm”. Như vậy, ưu đãi cho vay ngắn hạn trong Thông tư 20 cũng đã quy định cụ thể hơn. Tuy nhiên, đa phần các doanh nghiệp trong CNHT là những doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; Theo Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN sửa đổi thì các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực CNHT sẽ không được hưởng ưu đãi hơn so với các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực khác. Do đó, trên cơ sở ưu đãi trong Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN sửa đổi, mức ưu đãi có thể được chia theo các trường hợp: - Đối với DNNVV hoạt động trong CNHT: tăng mức ưu đãi cho các DNNVV trong CNHT với mức lãi suất tối đa nhỏ hơn mức tối đa 13% (ví dụ tối đa 10%/11%) đối với các NHTM và nhỏ hơn 14% (11%/12%) đối với các Quỹ tín dụng nhân dân. - Đối với các doanh nghiệp lớn hoạt động trong CNHT: áp dụng mức ưu đãi như trong Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN. - Đối với các doanh nghiệp trong CNHT trong các khu kinh tế, áp dụng mức ưu đãi theo quy định đối với khu kinh tế và các ưu đãi theo Thông tư 14/2012/TT-NHNN và Thông tư 20/2012/TT-NHNN, cần xây dựng thêm cơ chế hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay tín dụng ngắn hạn một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, chính sách lãi suất này có sự bị động theo từng thời kỳ bởi sự thay đổi của lãi suất. Do đó, về lâu dài cần có chính sách lãi suất mang tính ổn định đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực CNHT. Ngoài ưu đãi về lãi suất vay ngắn hạn, cần có các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp trong CNHT tiếp cận được các khoản vay ưu đãi trung hạn và dài hạn. Vốn vay trung và dài hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phát triển CNHT do đây là lĩnh vực thâm dụng vốn và công nghệ, đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. 136 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Những dự án vay vốn chứng minh được tính hiệu quả, có khả năng đánh giá được khả năng sinh lợi của dự án và nguồn trả nợ cũng như các hình thức đảm bảo tín dụng sẽ được hỗ trợ tiếp cận vay vốn trung và dài hạn tại những ngân hàng được chỉ định thực hiện. Mức cho vay được hỗ trợ lãi suất do doanh nghiệp và ngân hàng cho vay thỏa thuận. Lãi suất cho vay: được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp nhất trong khung lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng áp dụng cho các khoản vay vốn phục vụ cho từng lĩnh vực cụ thể trong cùng thời kỳ. Mức hỗ trợ lãi suất: khoản vay được hỗ trợ 50% hoặc 100% lãi suất vay trong khoảng thời gian đầu (1hoặc 2 năm đầu), được áp dụng theo thời gian vay thực tế của doanh nghiệp và chỉ áp dụng đối với các khoản vay trả nợ trước hạn hoặc đúng hạn tại thời điểm hỗ trợ lãi suất. Đối với những khoản vay quá hạn sẽ không được hỗ trợ lãi suất và phải chuyển sang nợ quá hạn. Các chính sách tín dụng ưu đãi nhà nước phát triển CNHT cần phải quy định rõ các nội dung sau: Điều kiện cho vay  Chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc Danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư;  Thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật;  Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, có hiệu quả, bảo đảm trả được nợ; được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay;  Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự án tối thiểu 20% và phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư ngoài phần vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà nước; 137 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399  Chủ đầu tư thực hiện bảo đảm tiền vay theo các quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật;  Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời hạn vay vốn;  Chủ đầu tư phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập. Mức vốn cho vay: Tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động), đồng thời phải đảm bảo mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi chủ đầu tư không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của NHPT Việt Nam. Thời hạn cho vay: không quá 12 năm. Lãi suất cho vay: không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với phí hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Điều kiện hỗ trợ sau đầu tư  Dự án trong Danh mục dự án được vay vốn tín dụng đầu tư, trừ các dự án cho vay theo hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.  Dự án được xác định thuộc đối tượng được hỗ trợ sau đầu tư tại thời điểm có Quyết định phê duyệt dự án lần đầu của cơ quan có thẩm quyền.  Được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định và ký kết hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư. 138 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399  Dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng, có quyết định phê duyệt quyết toán đầu tư của cơ quan có thẩm quyền và đã trả được nợ vay. - Mức hỗ trợ đầu tư: Bộ Tài chính quyết định mức hỗ trợ sau đầu tư trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất vay vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước và đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Thời điểm công bố mức hỗ trợ sau đầu tư cùng với thời điểm công bố lãi suất tín dụng đầu tư. Ngân hàng Phát triển Việt Nam xem xét quyết định cấp hỗ trợ sau đầu tư theo kết quả trả nợ của chủ đầu tư. 3.3.2.4. Bổ sung cơ sở pháp lý vào các bộ luật liên quan để thành lập quỹ hỗ trợ phát triển Với những quy định hiện hành về chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và ưu đãi xuất nhập khẩu của Nhà nước thì các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT cũng thuộc đối tượng được thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu của Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay, trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu của Nhà nước vẫn chưa có những quy định riêng mang tính đặc thù đối với các danh nghiệp hoạt động trong CNHT. Điều này gây khó khăn cho việc vận dụng chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và hoạt động xuất nhập khẩu đối với CNHT của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển CNHT. Hơn nữa, trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu có phần khắt khe khó vận dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT. Trước mắt, trong thời gian tới, chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước cần có những điều khoản quy định riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT và giảm những điều kiện quy định quá khắt khe về vay, về hỗ trợ sau đầu đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, song về lâu dài nên nghiên cứu sớm hình thành quỹ hỗ trợ phát triển CNHT. 139 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Cơ sở cho việc đề xuất này là xuất phát từ vai trò quan trọng và tính đặc thù của CNHT. Như chúng ta biết, đối với Việt Nam, nếu không đẩy mạnh phát triển CNHT, không thể thực hiện được chiến lược CNH&HĐH đất nước, không thu hút được nguồn vốn đầu tư FDI. Mặt khác, việc nhìn nhận hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong CNHT không đơn thuần nhìn nhận hiệu quả mang lại cho chính bản thân của nó mà quan trọng hơn là hiệu quả này phải xem xét một cách toàn diện đến các mặt hiệu quả xã hội khác. Chính cách đặt vấn đề như vậy, nên luận án đề xuất trong chính sách tín dụng ưu đãi đầu tư và xuất nhập khẩu nên đề cập riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT với việc giảm bớt những điều kiện quy định khắt khe. Riêng vấn đề đề xuất sớm nghiên cứu cho ra đời quỹ hỗ trợ phát triển CNHT quốc gia, luận án cho rằng là hết sức cần thiết. Hiện nay, theo ý kiến của Bộ Công Thương trình Chính phủ Quỹ hỗ trợ phát triển CNHT quốc gia trực thuộc Bộ Công Thương, với vốn điều lệ là 2000 tỷ do NSNN cấp trong vòng 3 năm hai năm đầu mỗi năm cấp 500 tỷ, năm thứ 3 cấp 1000 tỷ, đồng thời Quỹ được phép huy động nguồn tài chính trong và ngoài nước được trích từ kết quả hoạt động của quỹ. Tuy nhiên, với những khó khăn về nguồn tài chính như hiện nay để phát triển CNHT, chúng tôi cho rằng quy mô vốn điều lệ như vậy là thấp, cần nghiên cứu tăng thêm vốn điều lệ, đồng thời việc quy định mức cấp vốn điều lệ như vậy là chưa hợp lý. Dù sao để có thế tạo ra niềm tin đối với việc huy động vốn bên ngoài NSNN thì quy mô vốn điều lệ ban đầu của Quỹ cũng cần cân nhắc trong việc cấp vốn của NSNN. Mặt khác, cũng cần nghiên cứu cơ chế sử dụng Quỹ hỗ trợ phát triển một cách rõ ràng minh bạch, công bằng, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn đến các cộng động doanh nghiệp nắm và hiểu rõ tôn chỉ, mục đích, cơ chế hoạt động của Quỹ. 140 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 3.3.2.5. Hoàn thiện chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN phục vụ phát triển CNHT Tác động chủ yếu của Chính sách sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN đối với phát triển CNHT chủ yếu là tạo môi trường kinh tế ổn định để các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT yên tâm bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó, giải pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách sử dụng các Quỹ TCNN ngoài NSNN là: - Nghiên cứu hình thành hệ thống các quỹ TCNN ngoài NSNN một cách hợp lý, gắn với tình huống rủi ro trong nền kinh tế - Đảm bảo sử dụng các quỹ một cách hiệu quả, công khai, minh bạch, tăng cường công tác, thanh tra, quản lý nhà nước về hoạt động của quỹ, chống sử dụng lãng phí, thất thoát, tham nhũng. - Xây dưng quy chế sử dụng các quỹ một cách thích hợp gắn với đặc thù của từng loại quỹ - Xác định rõ mục đích sử dụng các quỹ, bảo đảm sử dụng quỹ một cách tiết kiệm theo đúng mục đích thành lập quỹ, tránh sử dụng sai mục đích, tham ô, lãng phí. - Xây dựng và kiện toàn chế độ tạo lập, sử dụng, phương thức quản lý quỹ phù hợp cho từng thời kỳ. Thực hiện công khai hóa các thành viên góp vốn có điều kiện giám sát hoạt động của Quỹ. Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ với các hoạt động của Quỹ nhằm tránh tư tưởng hình thành “vương quốc độc lập”sử dụng Quỹ một cách tùy tiện. - Áp dụng phương pháp quản lý khác nhau tùy theo từng loại Quỹ. Nhìn chung các quỹ TCNN ngoài NSNN đều do nhiều cơ quan tham gia, vì vậy việc 141 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 xác định chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong việc quản lý quỹ phải rõ ràng, cụ thể, vừa tránh chồng chéo, vừa tránh sơ hở gây thất thoát tiền quỹ. - Phải tổ chức công tác kế toán, theo dõi cấp phát và quản lý quỹ phải tuân theo các nguyên tắc hiện hành của Nhà nước và pháp luật kế toán, thống kê. Hàng năm phải thực hiện báo cáo quyết toán quỹ để các cấp có thẩm quyền phê duyệt - Tóm lại, cùng với việc phát triển các quỹ TCNN ngoài NSNN cần bảo đảm tính chủ động, sáng tạo, xã hội hóa các hoạt động của Nhà nước. Việc nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chính sách quản lý, sử dụng các quỹ TCNN ngoài NSNN theo những định hướng kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy tác dụng tích cực của Quỹ nhàm ổn định tình kinh kinh tế tài chính của đất nước góp phân quan trong cho việc thúc đẩy phát triển CNHT. 3.3.3. Các giải pháp có tính bổ trợ Việc hoàn thiện, đổi mới chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy phát triển CNHT chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi một số chính, biện pháp liên quan được hoàn thiện và đổi mới. Liên quan trực tiếp đến chính sách tài chính thúc đẩy phát triển CNHT đó là chính sách về đất đai, chính sách về nguồn nhân lực, chính sách về khoa học công nghệ của Nhà nước… 3.3.3.1. Chính sách về đất đai Ở một góc độ nào đó tuy không phải là một bộ phận trực tiếp của hệ thống chính sách tài chính, song chính sách đất đai, chính sách về tiền thuê đất, về tiền sử dụng đất liên quan mật thiết đến chính sách tài chính. Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện đổi mới chính sách đất đai, chính sách về tiền thuê đất, về tiền sử dụng cần được nghiên cứu trong phạm trù tài chính. 142 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Bên cạnh việc thu hút các dự án, doanh nghiệp vào các khu công nghiệp và khu kinh tế đối với các dự án, doanh nghiệp mới, thì việc hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT hiện đang hoạt động cũng rất cần thiết. Theo đó, ưu tiên bố trí quỹ đất đai, sử dụng hạ tầng cho các dự án CNHT (xây dựng các khu công nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với diện tích phù hợp, Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng thông qua miễn tiền thuê đất có thời hạn; hoặc khuyến khích các doanh nghiệp vào khu kinh tế để hưởng các ưu đãi của khu kinh tế); Nghiên cứu cơ chế tạo quỹ đất giao cho các dự án làm CNHT theo nhu cầu và chỉ thu tiền thuê đất khi doanh nghiệp có lãi. 3.3.3.2. Chính sách nguồn nhân lực Trên góc độ lý thuyết như thực tiễn chính sách nguồn nhân lực là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mọi ngành trong xã hội. Đối với phát triển CNHT cũng vậy. Nói đến chính sách nguồn nhân lực là nói đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, chính sách đãi ngộ về tinh thần và vật chất. Thực tế, trong những năm qua,chính sách đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chính sách đãi ngộ về tinh thần cho đội ngũ công nhân kỷ sư hoạt động trong CNHT chưa có sự quan tâm thích đáng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của quá trình phát triển CNHT của Việt Nam. Trong giai đoạn tới cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách về nguồn nhân lực cho CNHT theo hướng: (i) tập trung nguồn lực đẩy mạnh công tác đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ sản xuất, quản lý cho đội ngũ kỹ sư, công nhân hoạt động trong CNHT, (ii) nghiên cứu xây dựng chính sách đãi ngộ về tinh thần, vật chất cho đội ngũ kỹ sư công nhận hoạt động trong CNHT. Để thục hiện được những định hướng đó cần phải thực hiện các giải pháp sau đây: - Đẩy mạnh triển khai Quyết định số 1201/2012/QĐ-TTg ngày 31/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Việc 143 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 làm và Dạy nghề giai đoạn 2011- 2015 nhằm nâng cao tay nghề, chất lượng lao động cho các doanh nghiệp và địa phương. - Khuyến khích các đối tác đầu tư nước ngoài phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNHT nhằm tận dụng lợi thế về chuyên môn và trình độ năng lực. Trên thực tế, nâng cao năng lực công nghệ có thành công hay không ngoài việc phụ thuộc vào chiến lược nhận chuyển giao, thu hút công nghệ trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực tiếp thu công nghệ, cụ thể là yếu tố con người. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu bức xúc hiện nay mà chúng ta cần phải tập trung giải quyết bởi càng ngày, nguồn nhân lực giá rẻ sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam. Việt Nam phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng hợp lý, mang tính dài hạn. Các doanh nghiệp FDI hiện đang diễn ra tình trạng thiếu lao động, đặc biệt là lao động quản lý và có kỹ năng, nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục. Theo nhiều doanh nghiệp FDI, khi tuyển dụng lao động, họ phải mất rất nhiều công sức để đào tạo lại nguồn lao động này. Bên cạnh đó, họ cũng phải chấp nhận những rủi ro về tài chính nếu các nhân viên được cử đi đào tạo không trở lại làm việc hoặc nghỉ việc không lâu sau khi được đào tạo. Do đó, để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong nước, cần: - Đưa vào chương trình đào tạo hàng năm nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT. Tăng cường kỹ năng thực hành nhờ liên kết giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất mà một cách khá có hiệu quả là cho học viên tham gia các khóa đào tạo thông qua học việc (OJT – On the Job Training). Chính phủ cần khuyến khích sự liên kết đào tạo giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đào tạo với các doanh nghiệp tiếp nhận lao động. Tăng cường thời gian thực hành nghề tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh 144 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp FDI. Gắn chương trình đào tạo với nhu cầu thực tiễn. Đặc biệt, chú trọng thu hút các chuyên gia nước ngoài của các nước công nghệ cao đến giảng dạy tại các trường đào tạo của Việt Nam, nhất là đối với các ngành nghề yêu cầu kỹ thuật cao, kỹ thuật mới như điện tử tin học, tự động hoá, cơ khí chính xác, các công nghệ hỗ trợ, sản xuất vật liệu mới ... - Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nguồn nhân lực cho các cụm công nghiệp chuyên ngành. Các địa phương cần liên kết với các KCN để giải tỏa sự khập khiễng trong cung cầu lao động. - Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề, phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài đào tạo nghề cho người lao động ngay tại doanh nghiệp nước ngoài của họ. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, những ưu đãi cho doanh nghiệp nước ngoài tổ chức các trường đào tạo dạy nghề trình độ cao tại Việt Nam, giảm miễn thuế chi phí đào tạo lao động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tranh thủ đào tạo người lao động theo các chương trình hỗ trợ kỹ thuật có thể bằng vốn nhà nước hoặc được sự tài trợ của nước ngoài. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhất là việc đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia bậc cao, những chuyên viên kỹ thuật giỏi, đảm bảo mặt bằng quốc tế về năng lực trình độ. 3.3.3.3. Chính sách khoa học và công nghệ phát triển CNHT Cùng với yếu tố chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố phát triển khoa học, công nghệ trong CNHT là những yếu tố quyết định đến chất lượng sản phẩm của CNHT. Không phát triển được hoạt động khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT, không thể đưa CNHT phát triển xa hơn, rộng hơn, sâu hơn đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của sản phẩm của các ngành công 145 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghiệp chế tác, chế biến, lắp ráp tạo ra sản phẩm cuối cùng. Phát triển KH&CN là yêu cầu tự thân của các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT muốn tồn tại và phát triển.Tuy nhiên, tạo ra môi trường để khuyến khích các doanh nghiệp ĐTPT KH&CN cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong bối cảnh hiện nay ở nước ta. Chính sách phát triển khoa học và công chính là yếu tố tạo ra môi trường đó. Nhằm tạo ra môi trường kích thích phát triển KH&CN trong các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT, việc hoàn thiện chính sách phát triển KH&CN của Nhà nước cần nghiên cứu tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ nguồn tài chính từ các quỹ phát triển KH&CN quốc gia, các quỹ KH&CN ở địa phương tài trợ cho các doanh nghiệp tổ chức nghiên cứu KH&CN phát triển sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng, đổi mới dây chuyền sản xuất, liên kết với các doanh nghiệp FDI trong hoạt động khoa học và công nghệ. - Nghiên cứu phát triển thị trường KH&CN, thương mại hóa sản phẩm trí tuệ - Hình thành thêm các vườn ươm KH&CN - Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam, hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các DNNVV phát triển CNHT. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp thông qua chuyên giao công nghệ từ các công ty FDI. Khuyến khích chuyển giao công nghệ hiện đại hỗ trợ phục vụ sản xuất linh kiện, phụ tùng. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. 146 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 Hỗ trợ ngân sách để đào tạo lực lượng quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về quản lý chất lượng. Ưu đãi cao cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số các doanh nghiệp nội địa phát triển CNHT… Từng bước phát triển các cơ sở công nghiệp chế tạo linh kiện, phụ tùng, phụ kiện chi tiết máy, vật tư kỹ thuật mà các ngành công nghiệp có nhu cầu; có chính sách ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định như: miễn giảm thuế thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sử dụng từ các bằng sáng chế....để khai thác có hiệu quả công nghệ đã đăng ký ở nước ngoài. - Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, đa dạng hóa các loại hình hợp tác để tranh thủ tối đa sự chuyển giao công nghệ hiện đại từ các đối tác nước ngoài. Trong các dự án ĐTPT và trong hợp tác sản xuất kinh doanh cần đặc biệt coi trọng yếu tố chuyển giao công nghệ mới, coi đây là một trong những yếu tố để quyết định dự án đầu tư. - Đồng thời, Việt Nam cũng thiết lập các kênh trao đổi thông tin giữa các nhà lắp ráp nước ngoài với các nhà cung cấp trong nước để giảm khoảng cách về thông tin và hiểu biết lẫn nhau. Những biện pháp này phải được áp dụng đồng bộ với các doanh nghiệp, không phân biệt quốc tịch. Đó chính là những giải pháp kích thích sự phát triển KH&CN của bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong các CNHT hiện nay ở Việt Nam. 3.3.3.4. Đơn giản hóa quy trình, thủ tục xét duyệt CNHT Theo quy định của Quyết định 12/2011/QĐ-TTg và Quyết định 1483/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ thì các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển phải tiến hành thủ tục hành chính và quy trình quá phức tạp. Để có thể chứng nhận dự án sản xuất sản phẩm CNHT, các 147 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 doanh nghiệp phải chuyển dự án về Bộ Công thương để Hội đồng thẩm định thẩm định dự án. Cách làm này vừa tốn kém chí phí và thời gian cho doanh nghiệp làm giảm ý chí đầu tư của các doanh nghiệp. Nhằm khắc phục những hạn chế về quy trình và thủ tục hành chính phê duyệt dự án phát triển CNHT, thời gian tới cần thiết một mặt cần phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong việc xét duyệt dự án nhằm giảm chi phí, thời gian cho doanh nghiệp có dự án ĐTPT CNHT bằng cách nghiên cứu phân cấp công tác xét duyệt hoặc nghiên cứu thành lập các chi nhánh xét duyệt của một vùng có nhiều dự án ĐTPT CNHT, đồng thời nghiên giảm chi phí và thời gian xét duyệt dự án. 3.3.3.5. Hỗ trợ xúc tiến thị trường và hỗ trợ kết cấu hạ tầng a. Về hỗ trợ xúc tiến thị trường Hiện nay, các doanh nghiệp CNHT được miễn phí quảng cáo trên các trang web của các sở Công thương. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng doanh nghiệp sử dụng kênh quảng cáo qua các Sở là không đáng kể do các đối tượng tiếp cận thông tin từ Sở Công thương là không nhiều. Mặt khác, một số sở Công thương không có trang web bằng tiếng Anh hoặc tiếng nước ngoài nên không hỗ trợ được các doanh nghiệp trong quảng bá sản phẩm ra nước ngoài, là thị trường cần thiết cho phát triển CNHT. Vì vậy, đối với vấn đề xúc tiến thị trường đem lại hiệu quả cao thì trong thời gian tới cần (i) Xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp FDI; (ii) Tăng cường các trang thông tin (website) về tình hình, chính sách đầu tư và xúc tiến đầu tư bằng các thứ tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng của những nước là các nhà đầu tư chiến lược như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc các nhà đầu tư có tiềm năng; (iii) Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc quan tâm đối với những doanh nghiệp, nhà đầu tư đang hoạt động tốt tại Việt Nam, có kim ngạch xuất khẩu lớn (thông qua các buổi tiếp xúc, trao đổi, hỗ trợ,…) nhằm tạo hình ảnh tốt để thu hút các nhà đầu tư mới trong linh vực CNHT nói riêng và ngành công nghiệp nói chung. 148 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 b. Hỗ trợ về kết cấu hạ tầng Hiện nay kết cấu hạ tầng trong các khu kinh tế chủ yếu có diện tích lớn, không phù hợp với quy mô vừa và nhỏ của các doanh nghiệp trong CNHT. Đây là một trong những khó khăn đối với các địa phương trong việc tạo mặt bằng sạch trong khu công nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư (diện tích nhà xưởng 300m2), đồng thời khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng hạ tầng nhà xưởng. Vì vậy, trong thời gian tới để kịp thời đón dòng vốn đầu tư vào CNHT của Nhật Bản, và Hàn Quốc, cần hỗ trợ cho các địa phương trong việc quy hoạch phát triển CNHT cũng như hỗ trợ cho các chủ đầu tư cơ sở hạ tầng để kịp thời quy hoạch lại các khu kinh tế, khu công nghiệp với quy mô phù hợp theo yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. 3.3.3.6. Nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống tài chính quốc gia nhất là thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian tạo nhiều kênh cung cấp nguồn tài chính cho CNHT a. Đối với thị trường tài chính Thị trường tài chính Việt Nam hiện có cấu trúc thị trường mất cân bằng, chưa mang tính chất đầu tư dài hạn và chuyên nghiệp cao. Thông thường các nước có thị trường tài chính tương đối phát triển thì tỷ trọng dự nợ trên GDP của trái phiếu doanh nghiệp tương tương với tỷ trọng dư nợ trên GDP của trái phiếu chính phủ.Tuy nhiên, ở Việt Nam thì tỷ trọng dư nợ trên GDP của trái phiếu chính phủ lớn hơn nhiều lần so với tỷ trọng trên GDP của trái phiếu doanh nghiệp. Chẳng hạn năm 2012 tỷ trọng dư nợ trên GDP của TPCP là 14,78 %GDP còn TPDN chỉ là 1,9%, trong khi đó ở Singapore dư nợ trên GDP của TPCP là 50%GDP và TPDN là 31,6%. Có nhiều nguyên nhân. Cụ thể: (i) do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh; (ii) Sản phẩm và nhà đầu tư trên thị trường chưa đa dạng; (iii) Chưa có tổ 149 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp. Nói chung, dung lượng thị trường tài chính Việt Nam còn bé. Nhằm khắc phục những hạn chế trên, làm cho thị trường vốn thực sự là một kênh huy động vốn đối với nhà ĐTPT CNHT, cần coi trọng hoàn thiện cấu trúc thị trường vốn đảm bảo nâng cao tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp; tăng cường đầu tư dài hạn vào thị trường chứng khoán và đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm và nhà đầu tư trên thị trường tài chính b. Đối với các tổ chức tài chính trung gian (hệ thống NH, hệ thống phi NH) Hoạt động của các tổ chúc tài chính trung gian là hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, có nhiệm vụ thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội, tổ chức cung ứng vốn cho nền kinh tế trong đó có CNHT. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian là một đòi hỏi khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung và phát triển CNHT nói riêng. Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian đổi mới phương thức cung ứng vốn cho nền kinh tế, bảo đảm khả năng thanh khoản cao, hạn chế rủi ro tín dụng. Trong toàn bộ các tổ chức tài chính trung gian, với đặc thù của Việt Nam, việc cung cấp vốn cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung và cho CNHT nói riêng chủ yếu là hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn, nhất là tình trạng nợ xấu, khả năng thanh khoản thấp. Điều này nếu không sớm giải quyết thì sự đổ vỡ của hệ thống NH khó tránh khỏi. Chính vì vậy cấu trúc lại hệ thống NH giải quyết vấn đề nợ xấu, nâng cao khả năng thanh khoản là một yều khách quan của nền kinh tế. Từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh thị trường thế giới khó khăn, giá lương thực, thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản biến động phức tạp… tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp. Sau những khó khăn về 150 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 kinh tế năm 2008, 2009, bước sang năm 2010, nền kinh tế có dấu hiệu ổn định hơn, nhưng từ đầu năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại nổi lên: tỷ lệ lạm phát gia tăng rồi lại chuyển sang bắt đầu có dấu hiệu giảm so với mục tiêu điều hành, thị trường trong nước thu hẹp, sức mua giảm mạnh, hàng tồn kho lớn, lãi suất ngân hàng dù giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao; số doanh nghiệp bị giải thể, đình đốn sản xuất tăng cao (đặc biệt là khối doanh nghiệp liên quan đến xây dựng, bất động sản), nhiều lao động mất việc làm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài, thị trường chứng khoán ảm đạm...Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn chứa đựng những bất ổn, ảnh hưởng đến nền kinh tế nội địa. 3.3.3.7. Lựa chọn sản phẩm CNHT phù hợp với Việt Nam để thu hút FDI phát triển CNHT Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa quá trình sản xuất ngày càng sâu sắc, hàng rào bảo hộ bị giảm thiểu, cạnh tranh rất gay gắt, không một quốc gia nào có thể sản xuất tất cả các chi tiết, bộ phận cho một sản phẩm hoàn chỉnh. Mỗi nước chỉ có thể sản xuất một số chi tiết bộ phận mà mình có lợi thế để tập trung và chuyên môn hoá nhằm tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, việc phát triển CNHT của Việt Nam không thể thực hiện theo cách dàn trải cho tất cả các ngành, mà cần phải phân chia thành các nhóm ngành để xác định bước đi thích hợp với những trọng tâm trong từng giai đoạn phát triển. Để lựa chọn thu hút FDI cho CNHT, Việt Nam cần xác định rõ việc sản xuất sản phẩm hỗ trợ nào, ở công đoạn nào cần ưu tiên tập trung thu hút vốn. Việc xác định dựa trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn nhân lực về những điểm yếu hiện nay của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt về mặt kỹ thuật và công 151 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 nghệ, về tầm quan trọng của sản phẩm hỗ trợ đó đối với ngành công nghiệp chính ở trong nước. 3.3.3.8. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia ĐTPT CNHT Doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò khá quan trọng trong phát triển CNHT đây là kinh nghiệm cho thấy từ các nước có nền CNHT phát triển trên thế giới. Các doanh nghiệp tư nhân này cần được ưu đãi hơn về thuế với các khoản tái đầu tư để giúp họ tái sản xuất mở rộng. Nhưng áp lực về vốn là khá nan giản đối với họ vì thế chính phủ cần có những động thái để hỗ trợ khuyến khích phát triển. Nước ta có khoảng gần 90% các doanh nghiệp nhỏ và vừa , doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp này là nòng cốt trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong việc đón nhận chuyển giao công nghệ, tài chính, kỹ thuật, nhân lực, quản lý từ các doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc phát triển liên kết. Tạo dựng môi trường kinh doanh rõ ràng, bình đẳng thống nhất và ổn định, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách của Nhà nước Xây dựng và tiến tới bỏ kinh doanh độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước, giảm tối đa cơ chế xin cho trong việc bố trí các dự án đầu tư, ưu đãi vay vốn và ký kết hợp đồng cung ứng theo quan hệ quen biết hiện vẫn đang diễn ra ở một số doanh nghiệp Nhà nước 3.3.3.9. Mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa và thúc đẩy xuất khẩu để kích thích sản xuất sản phẩm CNHT Để CNHT phát triển mạnh, đúng hướng, cần quan tâm tới việc mở rộng dung lượng thị trường. Nếu khu vực thị trường của CNHT có quy mô nhỏ, sản xuất những sản phẩm không có chủng loại đa dạng với sản lượng không lớn thì lượng 152 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 sản xuất của các ngành hỗ trợ sẽ nhỏ lại. Giá thành chế tạo tăng cao vấp phải sự từ chối của chính khu vực sản xuất công nghiệp trong nước và gặp khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm hỗ trợ ra nước ngoài. Do CNHT chưa phát triển nên quy mô thị trường linh phụ kiện của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Một trong những phương cách để vượt qua sự hạn hẹp của thị trường trong nước là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Đối với các nhà cung cấp linh kiện điều này có thể tiến hành trực tiếp thông qua việc xuất khẩu linh kiện hoặc tiến hành gián tiếp thông qua việc cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp nội địa có khả năng xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng. Sơ đồ 3.1. Khả năng xuất khẩu Nguồn: Tổng hợp và nghiên cứu của NCS Việc chính phủ tăng cường hợp tác, liên kết quốc tế, mở rộng quan hệ đối tác, xây dựng và ký kết các hiệp định liên kết kinh tế với các quốc gia, khu vực để phối hợp tận dụng năng lực sản xuất và phát triển CNHT của nhau... sẽ giúp phát triển thị trường đầu ra cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT; tăng cường tiếp xúc với các công ty - tập đoàn đa quốc gia ở cấp cao, tạo điều kiện cho một số ngành công nghiệp có thể trở thành những mắt xích trong dây chuyền sản xuất toàn cầu, 153 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 làm điểm tựa để phát triển CNHT. Hội nhập kinh tế sẽ không chỉ tạo thuận lợi để Việt Nam thu hút đầu tư của các công ty hàng đầu thế giới mà còn cả các công ty bình thường. Những công ty bình thường có quan hệ với các công ty hàng đầu sẽ đi theo các công ty đó vào Việt Nam và tham gia vào mạng lưới của các công ty đó tại Việt Nam. Thêm vào đó, việc những công ty hàng đầu đầu tư vào Việt Nam chính là một dấu hiệu bảo đảm cho những thuận lợi đối với đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ giúp Việt Nam thu hút được cả các công ty nào không tham gia mạng lưới của các công ty hàng đầu. Khi có nhiều công ty nước ngoài đầu tư hơn vào Việt Nam, đặc biệt là có nhiều công ty hàng đầu thế giới, thì Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với FDI mang theo công nghệ cao. Nếu Việt Nam được lựa chọn làm nơi tập trung sản xuất một ngành nào đó trong quá trình tái cơ cấu các cơ sở sản xuất và bố trí lại các tổng hành dinh khu vực, thì Việt Nam còn có nhiều cơ hội thu hút FDI mang theo công nghệ cao hơn nữa trong đó có thể có những công nghệ nguồn. Để có thể xuất khẩu trực tiếp các linh kiện thì các sản phẩm của Việt Nam cần đạt được tính cạnh tranh về chi phí bằng cách khai thác triệt để các lợi thế cạnh tranh như nhân công rẻ và cần cù. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của nhà nước trong việc giảm hoặc bãi bỏ các loại thuế đánh vào các linh phụ kiện nhập khẩu để giảm giá thành sản phẩm lắp ráp, giúp các sản phẩm này có thể cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác và xuất khẩu. Nên có chính sách hỗ trợ đối với các linh kiện sản xuất trong nước để tạo mặt bằng cạnh tranh lành mạnh. 154 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Trong mô hình kinh tế hỗn hợp có sự kết hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình, bất cứ một hoạt động kinh tế, đều phải có sự can thiệp của Nhà nước dưới các hình thức, mức độ khác nhau. Đối với CNHT của Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển sơ khai với những bước đi ban đầu không thể phát triển một cách tự phát hoàn toàn theo sự điều chỉnh của các quy luật của kinh tế thị trường mà cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước đối với phát triển CNHT trong nền kinh tế hỗn hợp là sự can thiệp bằng các biện pháp kinh tế, bằng kế hoạch định hướng, bằng hệ thống chính sách. Một trong những hệ thống chính sách đó là hệ thống chính sách tài chính công. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam Nhà nước đã sử dụng hệ thống chính sách tài chính công can thiệp vào quá trình phát triển CNHT theo hướng khuyến khích thúc đẩy với những ưu tiên trong sách thuế, chính sách chi tiêu của Chính phủ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, song theo nhiều nhận định của các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý cũng như doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNH, việc thực thi hệ thống các chính sách tài chính đối với phát triển CNHT chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Điều này có nghĩa là trong giai đoạn tới cần có những nghiên cứu đề xuất hoàn thiện, đổi mới các giải pháp về thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT đạt được hiệu quả tốt hơn. Việc triển khai thực hiện chương 3 của luận án là hướng tới mục tiêu đó. Để đạt được hiệu quả sử dụng hệ thống chính sách tài chính công đối với phát triển CNHT theo quy hoạch phát triển đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, chương 3 đã nghiên cứu đưa ra các giải pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách tài khóa, chính sách tín dụng đầu tư của nhà nước, chính sách sử dụng hệ thống các quỹ TCNN ngoài NSNN, cùng với đó chương 3 cũng đã nghiên cứu đề xuất các chính sách nhằm bổ trợ cho việc thực hiện một cách tốt nhất của hệ thống chính sách tài chính công. 155 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 KẾT LUẬN CNHT có vai trò quan trọng, là nền tảng cơ sở để phát triển ngành công nghiệp của mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, cho đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý, CNHT của Việt Nam đang ở giai đoạn sơ khai. Số lượng các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực CNHT còn hạn chế, các sản phẩm của CNHT chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành công nghiệp chế tác, chế biến lắp ráp tạo ra sản phẩm cuối cùng phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Đa phần các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm của CNHT đều phải nhập ngoại, giá gia tăng của CNHT nội địa thấp, chưa có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thực trạng này nếu không được giải quyết một cách bài bản sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến chủ trương CNH, HĐH của Đảng và Nhà nước để đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp, có nền công nghiệp tương đối hiện đại. Hơn nữa, nếu không thúc đẩy mạnh mẽ CNHT của nước nhà cũng không thể thực hiện được chính sách hút nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài khi mà lợi thế giá rẻ về nhân công không còn, yêu cầu cung cấp sản phẩm CNHT với chất lượng cao ngày càng gia tăng. Nhận thức được hiện trạng và hệ lụy của hiện trạng CNHT của nước nhà, ngay từ những năm thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra và thực thi nhiều chính sách nói chung và chính sách tài chính công nói riêng nhằm thúc đẩy phát triển CNHT, song nhìn chung hệ thống chính sách đó chưa đến ngưỡng có khả năng thúc đẩy mạnh mẽ CNHT của nước nhà, trong đó có hệ thống chính sách tài chính công. Có thể nói việc thi hành hệ thống chính sách tài chính công trong những năm qua phản ánh sự quan tâm nhất định của Nhà nước đối với phát triển CNHT. Tuy nhiên, qua phân tích, đánh giá thực trạng thực thi hệ thống chính sách tài chính công phát triển CNHT ở nước ta thời gian qua cũng còn nhiều 156 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Nghiên cứu hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020, luận án đã tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây: Phân tích các vấn đề lý thuyết và thực tiển về CNHT và phát triển CNHT. Phân tích lý thuyết và thực tiễn áp dụng hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT. Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp hoàn thiện và đổi mới hệ thống tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT theo quy hoạch đến năm 2020. Nhìn chung với cách tiếp cận có tính khoa học và thực tiễn, luận án đã đề cập các vấn đề trên tương đối cụ thể và gắn chặt với diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng hệ thống chính sách tài chính công thúc đẩy phát triển CNHT là vấn đề rộng, phức tạp và đang có nhiều thay đổi. Do đó, các vấn đề mà luận án tập nghiên cứu giải quyết khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giải của bản luận án mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của hội đồng chấm luận án, cũng như những ai quan tâm đến bản luận án này. 157 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tiếng Việt 1. Bùi Thị Lan Anh (2006), CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Đề án Môn Kinh tế và quản lý công nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2. Nguyễn Hoàng Ánh (2008), Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Ngoại thương Hà Nội. 3. Trương Chí Bình (2006), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển CNHT Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của liên kết kinh doanh giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Công nghiệp. 4. Trương Chí Bình (2007), Kết nối công nghiệp thương mại trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí Công nghiệp số 9. 5. Trương Chí Bình (2007), Nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình Cụm liên kết công nghiệp (industrial cluster) để phát triển CNHT Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Công Thương. 6. Trương Thị Chí Bình (2011), Chính sách tài chính cho phát triển CNHT ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Chính sách tài chính phát triển CNHT, Viện chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính; 7. Bộ Công Thương (2009), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009; 8. Bộ Công Thương (2010), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2009 và kế hoạch năm 2010; 158 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 9. Bộ Công Thương (2008), Báo cáo tóm tắt chiến lược Công nghiệp Việt Nam đến 2020. 10. Bộ Công thương (2013), Quyết định số 5540/QĐ-BCT về việc phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Công Thương giai đoạn 2011 - 2020. 11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( 2014),xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực CNHT 12. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN trong giai đoạn 2008-2013. 13. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 214/2010/TT-BTC về hướng dẫn chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và để đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm. 14. Bộ Tài chính (2011), Quyết đinh số 0391/QĐ-BCT về việc Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp cơ điện tử Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, có xét đến năm 2025. 15. PGS. TS. Dương Đăng Chinh, TS Phạm Văn Khoan (2014), Giáo trình quản lý tài chính công, NXB Tài chính; 16. Chính phủ (2014), Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 17. Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg Về chính sách phát triển một số CNHT của Thủ tướng Chính phủ; 159 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 18. Chính phủ (2011), Quyết định số 1483/QĐ-TTg về ban hành danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển. 19. Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số CNHT; 20. Chính phủ (2011), Quyết định 1483/QĐ- TTg ngày 26/8/2011 của thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển; 21. Chính phủ (2012), Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 18/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020. 22. Chính phủ (2012), Quyết định số 12/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số CNHT. 23. Hoàng Văn Châu (2008), Chính sách phát triển CNHT của Việt Nam” Đề tài cấp nhà nước 2008. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia. 25. Dương Đình Giám (2007), Liên kết kinh tế một nhu cầu cấp bách đối với phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Tạp chí Công nghiệp số 1/2007; 26. Hiệp hội các doanh nghiệp điện tử Việt Nam (2007), Chiến lược phát triển ngành điện tử - tin học ứng dụng công nghệ cao của Việt Nam. 27. Kenichi K. (2005), Mô hình hỗ trợ liên kết cho doanh nghiệp của Nhật Bản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 28. Kyoshiro Ichikawa (2005), Xây dựng và tăng cường CNHT tại Việt Nam, Báo cáo điều tra, Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà Nội. 160 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 29. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007), Phát triển CNHT Vịêt Nam làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 21-22; 30. Ngân hàng Nhà nước (2014), Báo cáo tình hình cho vay của các tổ chức tín dụng từ năm 2010; 31. Nông Thùy Linh (2006), Giải pháp phát triển CNHT cho ngành xe máy của Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp , Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 32. Mitarai H. (2005), Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện điện tử của các nước Asean và bài học rút ra cho Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 33. Mori J. (2005), Chiến lược mua sắm tối ưu: Các yếu tố quyết định tỷ lệ nội địa hoá trong bối cảnh cạnh tranh và liên kết khu vực, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 34. Mori J. (2005), Hiểu cụm từ “CNHT” phải xuất phát từ lý thuyết kinh tế vĩ mô và thực tiễn sản xuất, kinh doanh, Hà Nội 35. Mori J. (2007), Thiết kế cơ sở dữ liệu cho CNHT, NXB Lý luận chính trị, Hà nội 36. FTU (2010), Công nghiệp hỗ trợ: kinh nghiệm từ các nước và giải pháp cho Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông 37. Ketels C., Nguyen Dinh Cung, Nguyen Thi Tue Anh, Do Hong Hanh (2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, Hà Nội 38. Mori J. và Nguyễn Thị Xuân Thuý (2008), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá định hướng FDI ở Việt Nam”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 161 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 39. Ngân hàng phát triển châu Á - ADB (2007), Triển vọng phát triển Châu Á: Việt Nam, kỷ yếu hội thảo Khoa học. 40. Nguyễn Duy Nghĩa (2005), Đôi điều về CNHT, http://www.ven.vn. 41. Hồ Lê Nghĩa (2007), Liên kết sản xuất trong ngành công nghiệp điện tử Việt Nam – Một số vấn đề đặt ra, Tham luận Hội thảo Đánh giá tác động hội nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam, Hà Nội; 42. Hồ Lê Nghĩa (2007), Liên kết sản xuất quốc tế trong phát triển ngành điện tử Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Công Thương, HN; 43. OECD (2008), Tăng cường vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong chuỗi giá trị toàn cầu, Hội thảo toàn cầu của OECD về chuỗi giá trị. 44. Ohno K. (2006), Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thailand, Malaysia và Nhật bản, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội 45. Ohno K. và Nguyễn Văn Thường chủ biên (2005), Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 46. Tuấn Quang (2006), CNHT đứa con suy dinh dưỡng, http://www.tcvn.net. 47. Schelling T. (2007), Chiến lược xung đột, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 48. Sở Công Thương Đồng Nai (2007), Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp năm 2007, phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ năm 2008. 49. Stiglitz J. E. (2008), Toàn cầu hoá và những mặt trái, NXB Trẻ, TP HCM. 50. Vũ Nhữ Thăng (2013) - Giải pháp tài chính phát triển CNHT, đề tài NCKH cấp Bộ - Bộ Tài chính 51. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường Công nghiệp hoá ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 162 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 52. Trần Văn Thọ (2006), Công nghiệp hoá Việt Nam trong trào lưu khu vực ở Đông Á, Thời báo kinh tế Sài gòn số 34. 53. Trần Văn Thọ (2006), CNHT mũi đột phá chiến lược, http://www.vietbao.vn. 54. Nguyễn Thị Xuân Thuý (2007), CNHT, tổng quan về các khái niệm, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội; 55. Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2007), Kinh tế Việt Nam năm 2007 - Năm đầu tiên trở thành thành viên tổ chức Thương mại Thế giới, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội; 56. Duy Tiến (2012), Để ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam khởi sắc, Báo VOV; 57. Ketels C., Nguyen Dinh Cung, Nguyen Thi Tue Anh, Do Hong Hanh (2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, Hà Nội 58. Tổng Công ty Điện tử tin học Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết năm 2005. Hà Nội; 59. Tổng cục Hải quan, Báo cáo thường niên các năm từ 2010 – 2014; 60. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tổng điều tra doanh nghiệp các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014; 61. Tổng cục Thống kê (2010, 2011, 2012, 2013,2014), Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội; 62. Tổng cục Thống kê (2006), Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, Hà Nội; 63. Nguyễn Kế Tuấn (2008), Kinh tế Việt Nam năm 2008 - Một số vấn đề về điều hành kinh tế vĩ mô. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 163 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 64. Phan Đăng Tuất, (2009), Chiến lược điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp Việt Nam, Báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng. 65. Phan Đăng Tuất (2005), Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho các DN Việt Nam. Bài trình bày tại Hội thảo về CNHT do JETRO tổ chức 25/11/2005, Hà Nội; 66. Phan Đăng Tuất (2007), Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Bộ Công nghiệp, Hà Nội; 67. Phan Đăng Tuất (2008), Kế hoạch hành động về phát triển CNHT. Bài trình bày tại diễn đàn Liên kết Hội nhập cùng phát triển, VCCI, 18/11/2008, HN; 68. Phan Đăng Tuất (2009), CNHT-Vấn đề trọng đại, Báo Công Thương số 6/2014. 69. Phan Đăng Tuất, (2009), Phát triển Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội, Đề tài cấp thành phố, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, Hà Nội; 70. Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo Thống Kê kinh tế-xã hội Hà Nội và cả nước năm 2013 và 11 tháng 2014; 71. VDF (2007), CNHT Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất, Thành phố Hồ Chí Minh; 72. Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp (2007), Tài liệu hội thảo Chính sách Công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Hà Nội. B. Tiếng Anh 73. Abonyi G. (2007), Linking greater Mekong subregion Enterprises to international Market - The role of global value chains, International production networks, New York. 164 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 74. Acemoglu, D., Antras, P., and Helpman, E. (2007), Contracts and Technology Adoption, American Economic Review, 97(3), 916-943. 75. Aghion, P., Burgess, R., Redding, S. J., and Zilibotti, F. (2008), The Unequal Effects of Liberalization: Evidence from Dismantling the License Raj in India, American Economic Review, 98(4), 1397–1412. 76. Truong Chi Binh (2008), Factors of Agglomeration in Vietnam and Recommendations, in Analyses of Industrial Agglomeration, Production networks and FDI Promotion, edited by Ariff M., ERIA Research project report 2007, Vol. 3, 155-190. 77. Bureau of Supporting Industries Development (2009), Future Prospects of supporting industries in Thailand, Ministry of Industry, Thailand 78. Costinot, A. (2009), On the Origin of Comparative Advantage, Journal of International Economics, Vol. 77, 255-264. 79. Fujita, M., Krugman, P., and Venables, A. (1999), The Spatial Economy, MIT Press Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications”, Asian Economic Policy Review, Vol. 1, 326-344. 80. Kimura F. (2009), The Spatial Structure of Production/Distribution Networks and Its Implication for Technology Transfers and Spillovers, ERIA Discussion Paper, No. 2009-02. 81. Kimura F. (2008), The Mechanics of Production Networks in Southeast Asia: The Fragmentations Theory Approach,in Ikuo Kuroiwa and Toh Mun Heng (eds.) Production Networks and Industrial Clusters: Integrating Economies in Southeast Asia, IDE-JETRO and ISEAS, 33-53. 165 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Trương Minh Tuệ (2013), Đổi mới chính sách vĩ mô nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán 2. Trương Minh Tuệ (2014), Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam – Cần được ưu đãi tài chính hơn nữa, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán 3. Trương Minh Tuệ (2012), Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá trong điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, tham gia đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài Chính. 166 Viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Mail : luanvanaz@gmail.com Phone: 0972.162.399