Academia.eduAcademia.edu
VNH3.TB18.93 T CH C KHÔNG GIAN LÃNH TH NH N TH C VÀ HÀNH ĐỘNG H KINH T - XÃ HỘI VIỆT NAM: NG T I PHÁT TRI N B N V NG 1, PGS. TS. Đặng Văn Phan; 2, TS. Vũ Nh Vân 1, Trường Đại học Cửu Long 2, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội (Kinh tế xã hội) là một trong những khái niệm cơ b n c a Địa lí học, là gạch nối giữa nhận thức lý luận và hành động thực tiễn c a khoa học này. Đây là hình nh thu nhỏ đối tượng, nhiệm v và những v n đề địa lý kinh tế xã hội Việt Nam hiện đại. Chúng ta có thể nhận thức được điều này thông qua nghiên cứu một số v n đề: (1) Tiếp cận địa lí đổi mới và phát triển bền vững; (2) Tư duy về chiến lược không gian biển; (3) Gi i pháp tổ chức lãnh thổ mềm theo hướng phát triển bền vững trong th i kì đ t nước thực hiện công nghiệp hoá, hiên đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Ti p c n địa lí đ i m i và phát tri n b n v ng Trên quan điểm địa lý đổi mới và phát triển, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động địa lý học có ch ý nhằm hướng tới sự công bằng về mặt không gian. Xét dưới khía cạnh qu n lí đ t nước, lãnh thổ - đó là bề mặt lãnh thổ thuộc quyền tài phán c a một quốc gia, bao gồm phần đ t liền, nội thuỷ, lãnh h i vùng đặc quyền kinh tế, lòng đ t, vùng tr i thuộc ch quyền. Giới hạn c a lãnh thổ là đư ng biên giới quốc gia (trên đ t liền và vùng lãnh h i). Lãnh thổ còn được quan niệm đầy đ hơn, đó là thể thống nh t, hay nói chung là một thực thể được tổ chức b i các cộng đồng xã hội. Đó là nơi sinh sống c a cộng đồng xã hội, được cộng đồng này chiếm giữ để đ m b o sự cung c p các nhu cầu thiết yếu c a nó, và sự tái sinh s n c a chính nó. Tổ chức lãnh thổ được hiểu như toàn bộ quá trình hay hành động c a con ngư i nhằm phân bố các cơ s s n xu t và dịch v , phân bố dân cư, sử d ng tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ c a chúng, các sự ph thuộc lẫn nhau c a chúng. Các hành động này được thực hiện phù hợp với các m c tiêu c a xã hội trên cơ s các quy luật kinh tế trong hình thái Kinh tế xã hội tương ứng. M c tiêu cơ b n c a tổ chức lãnh thổ là nhằm tiết kiệm lao động xã hội nh c i thiện cơ c u s n xu t - lãnh thổ c a nền kinh tế và c i thiện cơ c u tổ chức s n xu t c a đ t nước hay c a từng vùng c thể theo hướng 1 phát triển tổng hợp nhằm đạt hiệu qu tối ưu trong s n xu t, sử d ng hợp lý các nguồn tài nguyên và b o vệ môi trư ng sinh thái. Tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội còn được hiểu như sự kết hợp c a các tổ chức lãnh thổ đang hoạt động : c u trúc lãnh thổ quần cư, c u trúc không gian xã hội, c u trúc không gian sử d ng tự nhiên v.v... đây, không thể bỏ qua nội dung phân vùng và quy hoạch vùng, đó là việc xác định các tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển kinh tế xã hội giữa các ngành trong một vùng, giữa các vùng nhỏ trong vùng lớn, giữa các vùng lớn trong một quốc gia và trên mức độ nào đó có xét đến các mối liên kết khu vực và quốc tế. C u trúc này được thống nh t b i các cơ c u qu n lý quá trình tái s n xu t xã hội, làm cơ s cho việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ Kinh tế xã hội c a một vùng nh t định, bao gồm các điểm, các ‘cực’, các nút, và các d i, các tuyến lực và một không gian bề mặt. Các yếu tố đó có quan hệ, sức hút lan to và nh hư ng lẫn nhau. Để tiến hành nghiên cứu tổ chức lãnh thổ ph i có sự phân tích những phân dị địa lý nhằm xác định các c u trúc không gian (c u trúc lãnh thổ), các mối quan hệ lãnh thổ, sự tác động qua lại với các c u trúc không gian thành phần để nhận dạng một không gian tổng quát mà ta gọi là không gian chiến lược. Theo nghĩa m rộng, để làm việc này, cộng đồng và xã hội ph i quyết định hành động can thiệp nhằm tổ chức lại không gian cho phù hợp với chiến lược phát triển, điều kiện kỹ thuật và công nghệ, kể c văn hoá, tâm lý và khiếu thẩm mỹ không gian vốn có nữa. Trong điều kiện Việt Nam, các nhà địa lý ng hộ quan điểm cho rằng cần có sự can thiệp c a nhà nước vì m c đích, một mặt phân bố lại các nguồn tài nguyên, tài s n quốc gia và sửa chữa lại sự m t cân đối giữa các vùng, mặt khác, ph i có những dự báo dài hạn, ít nh t là đến năm 2050. Như vậy, một trong nguyên tắc tổ chức lãnh thổ là ph i sử d ng một cách hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và Kinh tế xã hội, trong đó m c tiêu phát triển bền vững vừa là nhiệm v , vừa là hệ qu c a tổ chức lãnh thổ. Tổ chức lãnh thổ được coi như một trong những đối tượng địa lý học quan trọng, đòi hỏi ph i vận d ng các phương pháp phù hợp để tái xác định phẩm ch t c a lãnh thổ trước thách thức c a nền kinh tế thị trư ng, chuyển động từ sự chú ý tới các điều kiện tự nhiên đơn thuần sang lĩnh vực con ngư i, các khía cạnh xã hội đứng sau các c u trúc, các cơ s hạ tầng và các chính sách phát triển. Không dừng lại khái niệm lãnh thổ, các nhà địa lý Việt Nam cần chuyển sang một quan niệm mới về tổ chức không gian phát triển. Khái niệm tổ chức không gian phát triển được tiếp nhận nhiều nước phát triển. Từ những năm đầu thế kỷ 60 Mỹ và một số nước phương Tây trào lưu "Địa lý học mới" xu t hiện và dần dần chiếm ưu thế. Khoa 2 học Địa lý mới này được hình thành nh thành tựu c a cách mạng về công nghệ thông tin, trong đó có lĩnh vực b n đồ trên máy tính, phương pháp GIS (hệ thông thông tin địa lí) và R - S (viễn thám). Khái niệm không gian được sử d ng rộng rãi, thậm chí ngư i ta còn cho rằng địa lý học cũng được gọi là khoa học về không gian. Bên cạnh nội dung có tính truyền thống, các nhà nghiên cứu cần hướng tới một khoa học địa lý về tổ chức lại hoặc tổ chức mới không gian (lãnh thổ), góp phần qu n lý nó, b o vệ môi trư ng sinh thái và phát triển bền vững. Nếu khái niệm lãnh thổ bị giới hạn các đư ng biên giới, các thực thể lãnh thổ thì khái niệm không gian giúp ta vượt qua được rào c n cứng nhắc này. Không gian bao gồm c phần đ t liền, vùng tr i và lòng đ t, được huy động vào s n xu t và dịch v vì m c đích phát triển. Đây là hệ thống m , động và đa hệ có thể tích hợp các quá trình, các hiện tượng có b n ch t khác nhau nhưng tương tác, thông qua sự trao đổi vật ch t, năng lượng và thông tin. M c đích c a tổ chức không gian phát triển là tạo ra khung sư n cho sự chuyển dịch cơ c u lãnh thổ c a nền kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Chính sự phân công lao động theo lãnh thổ dẫn tới sự hình thành và hoàn thiện các không gian kinh tế với các quy mô và chức năng xác định. Nền kinh tế hiện đại được đặc trưng bằng mạng lưới truyền dẫn thông tin, đã thúc đẩy sự quá độ từ biên giới lãnh thổ Kinh tế xã hội sang các không gian Kinh tế xã hội. Điều này làm chúng ta có cơ hội vượt qua sự ràng buộc biên giới cứng, mà sang biên giới mềm với các cực, các tuyến hành lang phát triển. Nh đó, Địa lý học sẽ có cơ hội theo đúng nghĩa c a nó là khoa học tự nhiên - xã hội - con ngư i chứ không ph i là khoa học c a các địa giới và không bị ràng buộc b i tính liền d i c a địa giới lãnh thổ. Có thể nói từ thập kỷ 90 những ý tư ng về tổ chức lãnh thổ đã được các cơ quan chức năng Nhà nước dành nhiều kinh phí và xây dựng các đề tài nghiên cứu c p Nhà nước về tổ chức lãnh thổ Việt Nam. Điều đó đã tạo cơ hội cho các nhà địa lý tham gia trong việc soạn th o chiến lược tổ chức lãnh thổ đ t nước, đồng th i cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lãnh thổ và chiến lược phát triển gần gũi hơn với phương pháp luận c a địa lý học. Điều quan tâm nh t c a các nhà địa lý là th i kỳ đến 2020, và xa hơn, đến năm 2050, ph i thiết kế một sơ đồ tổ chức lãnh thổ mới, sâu sắc, toàn diện hơn, bổ sung các b n đồ phân bố đã có sao cho các vùng chậm phát triển có điều kiện phát triển hơn, kể c các vùng biển và h i đ o, tránh tập trung hoá các vùng sắp đạt tới hạn dung lượng dân cư và công trình các loại. Sơ đồ tổ chức lãnh thổ mới cần tôn trọng một số nguyên tắc : Thứ nhất, đ m tính thống nh t toàn vẹn lãnh thổ c a c nước, tạo ra được tính gắn kết, tính không chia cắt c a quốc gia; Thứ hai, đ m b o sự gắn bó đặc biệt giữa chiều ngang giữa 3 các địa phương, các tỉnh, giữa trung ương và địa phương. Một sơ đồ lãnh thổ như vậy, theo GS Lê Bá Th o, nh t thiết ph i đề cập đến các v n đề: “ Đánh giá nguồn nội lực c a Việt Nam xét về mặt phân bố không gian. Lập các kịch b n phân bố biểu diễn khuynh hướng và các thách thức cần vượt qua. Nếu có điều kiện cần phân tích luôn các khuynh hướng chính c a các địa phương, trong đó chú ý tới sự m t cân bằng hiện nay và dự kiến sự tiến triển trong tương lai, thí d đến năm 2020. Các hành động cần thiết thực hiện trước mắt và lâu dài” [2]. Các hành động trước mắt là việc tham gia tích cực trong công tác quy hoạch vùng như là một trong những nội dung quan trọng trong tổ chức lãnh thổ. Hàng ch c năm qua công tác này đã có những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực cho việc soạn th o các các văn kiện quan trọng c a Đ ng và Nhà nước, góp phần chỉ đạo c a các c p, các ngành cho việc xây dựng kế hoạch trên phạm vi c nước. Nhiệm v có tầm quan trọng hàng đầu hiện nay là việc hoàn thiện các dự án quy hoạch nhằm m c đích khắc ph c một số thiếu sót, đặc biệt là việc xử lý liên ngành, liên vùng và luận chứng các phương án, các điều kiện thực hiện kế hoạch chưa được chỉ rõ; quy hoạch về tổ chức lãnh thổ nhiều nơi còn tình trạng chồng chéo, không ăn khớp, thậm chí có trư ng hợp gây lãng phí lớn về kinh tế (tinh thần c a chỉ thị số 32/ 1998. CT-TTg c a Th tướng Chính Ph ngày 23/9/1998 về các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội th i kỳ đến năm 2010). Về lâu dài, các hành động cần tập trung vào nghiên cứu một số v n đề có tính lý luận về tổ chức lãnh thổ trong điều kiện khó khăn, kém phát triển. Điểm xu t phát c a công việc này nằm trong bước quá độ từ lý luận tổ chức lãnh thổ truyền thống sang tổ chức không gian vì m c đích phát triển công bằng và bền vững làm cơ s để tạo dựng một mô hình hệ thống c u trúc lãnh thổ hợp thành từng cặp một trong chuỗi giá trị : Tính ổn định (chính trị / luật pháp / tiền tệ giá c ) - Tính bền vững (tăng trư ng kinh tế đều đặn / môi trư ng được b o vệ) - Tính công bằng (gi m chênh lệch giữa các địa phương / giữa giàu và nghèo). Đến đây, có thể nói về cơ b n, trên quan điểm địa lý đổi mới và phát triển chúng ta đã xem xét một số v n đề lý luận và thực tiễn c a công cuộc tổ chức lãnh thổ trong sự vận động không ngừng từ quan niệm truyền thống sang tổ chức lãnh thổ Kinh tế xã hội vì m c đích phát triển ổn định và bền vững. Trong tinh thần đó tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội được khẳng định là một trong những đối tượng và nhiệm v có tầm quan trọng hàng đầu c a địa lý kinh tế xã hội Việt Nam trong th i kỳ CNH - HĐH đ t nước. Địa lý học gắn bó với các quan niệm mới này, không nên bỏ lỡ (và khắc ph c hiện tượng vừa nêu), tư duy c a chúng ta, c a thế hệ các nhà địa lý trẻ sẽ năng động hơn, hiệu qu hơn 4 và sự nghiệp sẽ phát triển hơn. Suy rộng ra Địa lý học sẽ có chỗ đứng vững chãi hơn trong cuộc sống. 2. T duy v không gian chi n l ợc bi n Biển nước ta là Biển Đông, như ông cha ta từng khẳng định “ H i đông h i dã ” . một nước “tứ h i, tam sơn, nh t phần điền” như Việt Nam, tư duy về không gian chiến lược biển có tầm quan trọng đặc biệt về địa - chính trị và địa - kinh tế. Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước nhà đã kh i phát khá thành công từ biển. Đến năm 2020, Việt Nam ph n đ u để tr thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển ... Biển gắn bó mật thiết và nh hư ng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế xã hội, b o đ m quốc phòng, an ninh, b o vệ môi trư ng mọi miền đ t nước. Vì vậy, trong nhận thức chúng ta ph i luôn tâm niệm rằng nước ta là nước có biển. Biển là nhân tố không gian chi phối toàn bộ hành động tổ chức lãnh thổ đ t nước. Không gian biển là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng trong th i kì CNH - HĐH và hội nhập quốc tế. Việt Nam là nước có tính biển lớn nh t so với các nước trên bán đ o Trung - n. Từ Móng Cái đến Hà Tiên, đư ng b biển nước ta dài, dáng cong lượn hình chữ S, hướng Biển Đông với nhiều đ o và quần đ o có tầm quan trọng chiến lược. Nếu l y tỉ số toán học giữa chiều dài đư ng b biển, chưa tính chiều dài đư ng b bao quanh các đ o, quần đ o và diện tích đ t nổi để làm tiêu chí so sánh tính biển thì tỉ số này c a Việt Nam là 0,01, ngang với quốc gia đ o Malaixia và g p hai lần Thái Lan. Nếu chia diện tích đ t liền cho chiều dài đư ng b biển, thì cứ kho ng 100 km2 trên đ t liền có 1 km đư ng b biển, trong khi mức chung c a thế giới là 600 km2 mới có 1 km đư ng b biển. Nếu so sánh diện tích biển với diện tích đ t liền thì 4 km2 trên biển ứng với 1 km2 đ t liền, bằng 1,7 lần mức trung bình biển / đ t liền trên hành tinh Trái đ t. Vùng lãnh h i và vùng đặc quyền kinh tế c a ta rộng, phần lớn trên thềm l c địa. Nằm theo rìa đông bán đ o Đông Dương, Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu 2 km c 3 hướng : đông, nam và tây - nam. Biển Đông được coi là con đư ng chiến lược về giao thương quốc tế. Trong tổng số 10 tuyến đư ng biển lớn nh t trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò là cây “cầu nối” cực kì quan trọng, là điều kiện r t thuận lợi để phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, đặc biệt với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vùng nội th y, vùng lãnh h i, vùng tiếp giáp lãnh h i, vùng đặc quyền kinh tế và thềm l c địa thuộc ch quyền rộng g p hơn ba lần diện tích đ t liền; 28 trong số 63 tỉnh, thành phố có biển. Biển Đông chính là nguồn cung c p lượng ẩm quanh năm cho toàn bộ lãnh thổ đ t nước. Các khối không khí lạnh khô khi qua Biển Đông đã biến tính tr nên nóng ẩm, 5 khiến cho mùa khô Việt Nam, nh t là tại các sư n đón gió được dịu đi; tính ch t ẩm là tính trội c a khí hậu Việt Nam. Mọi miền trên đ t liền c a nước ta, từ bắc đến nam đều chịu nh hư ng c a Biển Đông về mặt khí hậu, th i tiết và các điều kiện tự nhiên khác liên quan đến biển. Biển góp phần b o vệ tính ch t ẩm trong mùa khô và quyết định độ ẩm cao trong mùa mưa, khiến cho, dù chế độ mưa mùa có thể dao động xê dịch theo chu kỳ, tự nhiên Việt Nam vẫn thiên về ẩm rõ rệt. Quanh năm gió từ h i dương có thể xâm nhập sâu vào đ t liền, làm cho độ ẩm tương đối c a không khí r t cao, thư ng trên 80%; vào mùa mưa - trên 90%. Tuy nhiên, các cơn bão, áp th p nhiệt đới đi qua hoặc hình thành ngay trên Biển Đông, là nguồn nước đáng kể cho s n xu t và sinh hoạt nhưng cũng là nguyên nhân gây tai biến thiên nhiên đ loại, , khó lư ng. Vùng biển nước ta có trên 3000 đ o lớn nhỏ; nhiều đ o ven b và xa b có ý nghĩa quan trọng về kinh tế và quốc phòng. Theo chỉ tiêu nền nhiệt mùa đông, hệ thống đ o ven b có thể chia thành 4 vùng; mỗi vùng có điều kiện mùa đông tương đối đồng nh t: Vùng 1: Phía bắc vĩ tuyến qua Đèo Ngang (180 N) có mùa đông lạnh, nền nhiệt th p và phân hoá làm hai mùa nóng và lạnh rõ rệt; th i kỳ mưa phùn và ẩm ướt vào cuối đông; Vùng 2: Từ vĩ tuyến qua Đèo Ngang đến vĩ tuyến đèo H i Vân (160 N) có mùa đông lạnh vừa, nền nhiệt tương đối cao, mưa muộn từ nửa sau mùa hè kéo dài sang đầu mùa đông; Vùng 3: Từ vĩ tuyến qua đèo H i Vân đến ngang Vũng Tầu (100 22’30”N), ít bị nh hư ng c a không khí cực đới. Vùng này hầu như không bị nh hư ng hoặc bị nh hư ng r t ít c a gió mùa đông bắc. Mùa mưa muộn, từ giữa hè đến giữa đông; Vùng 4 : Vùng biển ven b Nam Bộ và vịnh Thái Lan có khí hậu nhiệt đới điển hình, có mùa mưa và mùa khô rõ rệt, không có mùa đông. Vùng này có nền nhiệt cao nh t trong toàn bộ hệ thống đ o, quanh năm nóng. Trong quá trình khai phá lãnh thổ - lãnh h i và khẳng định ch quyền, dân tộc ta tiến dần từ miền núi xuống đồng bằng, hướng ra biển lớn, ngày nay đang vươn tầm hội nhập khu vực và thế giới. Gần đây có ý kiến cho rằng chúng ta “vẫn còn đang đứng trước biển”. “Đứng trước biển” đây được hiểu theo hai nghĩa : Thứ nh t, tỉ lệ đóng góp c a kinh tế biển hiện mới bằng một nửa tỉ lệ dân số sống vùng biển so với c nước. Năng lực khai thác biển c a Việt Nam chỉ bằng 1/7 c a Hàn Quốc, 1/20 c a Trung Quốc, 1/94 c a Nhật B n và 1/260 c a thế giới. Bình quân 1 km2 biển 100 nghìn USD, còn các nước phát triển thu được nước ta chỉ thu được kho ng 20 nghìn USD, th p hơn nhiều lần các nước nhóm G8. Việc khai thác còn mang tính ch t nhặt nhạnh, ch yếu bao gồm đánh bắt h i s n, khai thác dầu khí và vận t i biển. Thực ra, chúng ta không đứng trước biển một cách th động, trái lại, về nhận thức, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, ngày nay, biển 6 có vai trò r t quan trọng đối với sự phát triển và an ninh c a các nước có biển nói riêng và c a thế giới nói chung. Thế kỉ XXI được các nhà chiến lược xem là “Thế kỉ c a đại dương”. Sự hợp tác quốc tế về biển không ngừng m rộng, bao gồm việc xây dựng khuôn khổ pháp lí mà tập trung nh t là Công ước biển năm 1982 c a Liên hợp quốc, hình thành các cơ chế, tổ chức hợp tác khu vực và toàn cầu. Trong những năm đổi mới qui mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng mạnh, cơ c u ngành nghề có thay đổi cùng với sự xu t hiện nhiều ngành kinh tế biển trọng điểm. Năm 2005, GDP c a kinh tế vùng biển và ven biển bằng hơn 48%, trong đó kinh tế biển chiếm kho ng gần 22% tổng GDP c nước. Vùng biển và ven biển có đóng góp lớn vào xu t khẩu, thu ngoại tệ. Năm 2005, ngành dầu khí đã đóng góp trên 7 tỉ USD cho xu t khẩu; h i s n xu t khẩu chính ngạch (gồm c đánh bắt h i s n và nuôi trồng) đạt hơn 2,6 tỉ USD. Các ngành vận t i biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển, du lịch biển đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung c a c nước. Trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam không dừng trước biển mà thực sự ph i tiến ra biển lớn. Nhiệm v quan trọng trong chiến lược biển c a Việt Nam, trước hết là đổi mới tư duy về biển, từ tư duy “có tính biển” sang tư duy “vươn ra biển lớn”, từ khai thác “giá trị vật ch t biển” sang khai thác “chức năng biển”, từ tư duy “kinh tế tài nguyên” sang tư duy “ kinh tế tri thức” mà công nghệ thông tin giữ vai trò chi phối; suy rộng ra, đó là sự chuyển động mạnh mẽ từ biển là "một thực thể lãnh h i' sang biển là "một không gian chiến lược". Với quan điểm hành động như vậy, công tác điều tra cơ b n về biển cần được tiến hành khẩn trương để xác định tiềm năng c về giá trị vật ch t, c về chức năng biển; xác định các tiêu chí và phương pháp lượng hoá các chỉ tiêu về kinh tế biển. M c tiêu ph n đ u đến năm 2020 đạt 53 - 55% GDP (có nghĩa là GDP c a ta lúc đó sẽ đạt kho ng 180 tỉ USD, cao g p 3 lần hiện nay). Điều quan trọng là cần có chiến lược tổng thể với các nội dung quan trọng như : tìm kiếm, b o vệ, khai thác nguồn lợi biển và ven biển; phát triển ngành nghề, quốc phòng an ninh, b o vệ và làm giàu môi trư ng biển; khoa học - công nghệ biển; đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác khu vực và quốc tế. Thực tiễn phát triển kinh tế biển cho th y vùng ven biển bao gồm d i các đơn vị hành chính lãnh thổ có biển, vùng đ o và nội thuỷ thuộc đơn vị hành chính qu n lí tương ứng và các mối liên hệ không gian như mạng giao thông, mạng thông tin liên lạc, các c ng biển, cửa sông ven biển, vùng bãi ngang, là cầu nối các vùng nội địa với biển, đồng th i là cơ s hậu cần cho qu n lí và khai thác các đ o - quần đ o xa b và ngoài khơi Biển Đông. 7 Vùng ven biển nước ta gồm hầu hết các đô thị lớn có kết c u hạ tầng khá tốt; có các vùng kinh tế trọng điểm đang được đầu tư phát triển mạnh; nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có thể tr thành mũi nhọn để phát triển; hệ thống đô thị c ng biển hết sức thuận lợi để tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm qu n lí hiện đại c a nước ngoài, từ đó lan to ra các vùng trong nội địa. Dọc b biển có một số trung tâm đô thị lớn, trên 100 địa điểm có thể xây dựng c ng, trong đó một số nơi có kh năng xây dựng c ng qui mô tương đối lớn (kể c c p trung chuyển quốc tế); nhiều đ o có giá trị kinh tế cao; 125 bãi biển lớn và nhỏ, c nh quan đẹp, trong đó có 20 bãi biển đ tiêu chuẩn quốc tế để phát triển các loại hình du lịch, thể thao, festival biển. Tiềm năng tài nguyên biển c a nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có c a thế giới nhưng cũng r t đáng kể và có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với sự phát triển đ t nước (dầu khí với trữ lượng đã thăm dò kh o sát kho ng 3 - 4 tỉ m3 dầu qui đổi; h i s n tổng trữ lượng kho ng 3 - 4 triệu t n, kh năng cho phép khai thác 1,5 - 1,8 triệu t n / năm...). Vùng ven biển Việt Nam có một số khoáng s n quan trọng ph c v phát triển công nghiệp, như than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và kho ng 50 - 60 nghìn ha ruộng muối biển. Với kho ng 25 triệu ngư i, bằng gần 31% dân số c nước và kho ng hơn 13 triệu lao động (năm 2005), vùng ven biển Việt Nam được coi là vùng dân cư tập trung đông đúc. Dự báo đến năm 2010, dân số vùng ven biển kho ng gần 27 triệu ngư i, trong đó lao động gần 18 triệu ngư i và đến năm 2020 dân số kho ng trên 30 triệu ngư i, trong đó lao động kho ng 19 triệu ngư i. Trong giai đoạn chuẩn bị ra biển lớn thì tương tác kinh tế lãnh thổ - lãnh h i diễn ra ch yếu và trực tiếp tại vùng duyên h i, gồm phần đ t liền thuộc các tỉnh - thành phố / các huyện có biển, rộng hẹp tuỳ nơi, và vùng ven biển - nội thuỷ trực thuộc nằm phía trong đư ng cơ s . Hệ qu t t yếu là sẽ dẫn tới sự hình thành các phức thể kinh tế lãnh thổ - lãnh h i được tổ chức theo hướng m trong mối tương tác với các nước trong khu vực có lợi ích chung trên Biển Đông [5]. Theo tinh thần trên, trong tầm nhìn đến năm 2020 và giai đoạn sau cho tới khi Việt Nam tr thành quốc gia mạnh về biển, mô hình không gian đ t liền - biển Việt Nam được định hướng như sau : - Vùng biển và ven biển phía Bắc gồm 23 huyện c a 5 tỉnh có biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng từ Qu ng Ninh đến hết b biển tỉnh Ninh Bình. Diện tích 9.083 km2, dân số thống kê năm 2005 là hơn 4,9 triệu ngư i. Định hướng phát triển các ngành ch yếu: xây dựng khu vực H i Phòng - Qu ng Ninh thành trung tâm kinh tế mạnh, nòng 8 cốt là c ng biển, công nghiệp và du lịch biển là đầu tàu kéo c vùng phát triển / Hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp, c m công nghiệp ven biển / Phát triển các khu kinh tế thương mại gắn với vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ trên cơ s xây dựng tuyến đư ng ven biển, c ng biển, các khu kinh tế, các thành phố, thị tr n ven biển. - Vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, duyên h i Nam Trung Bộ bao gồm 73 huyện c a 14 tỉnh có biển từ Thanh Hoá đến hết b biển tỉnh Bình Thuận, diện tích 36.078 km2, dân số thống kê năm 2005 gần 13,4 triệu ngư i. Định hướng phát triển các ngành ch yếu : Xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển c a vùng, là một trong ba trung tâm kinh tế biển lớn c a nước ta / Xây dựng hành lang kinh tế trên cơ s tuyến cao tốc Bắc - Nam, các c ng nước sâu, sân bay quốc tế, phát triển các đô thị ven biển / Xây dựng khu kinh tế tổng hợp; chú trọng phát triển kinh tế hàng h i, du lịch. - Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ bao gồm 9 huyện, thị c a 2 tỉnh có biển khu vực Đông Nam Bộ từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến hết b biển c a TP Hồ Chí Minh, diện tích 2.279,5 km2, dân số thống kê năm 2005 là hơn 1,9 triệu ngư i. Định hướng phát triển các ngành ch yếu : Phát triển thành phố Vũng Tàu thành trung tâm hướng ra biển c a vùng / Hình thành các tuyến hành lang kinh tế, các khu công nghiệp, trong đó quan trọng nh t là tuyến hành lang kinh tế dọc quốc lộ 51. - Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ là cửa ngõ c a các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 33 huyện, thị c a 7 tỉnh có biển từ Tiền Giang - Cà Mau đến Hà Tiên (Kiên Giang), diện tích gần 14.923,6 km2, dân số thống kê năm 2005 là hơn 5,6 triệu ngư i. Định hướng phát triển ngành : Xây dựng Phú Quốc thành trung tâm kinh tế lớn và bàn đạp hướng mạnh ra biển c a tiểu vùng. Đến năm 2020, cơ b n xây dựng Phú Quốc thành trung tâm giao thương quốc tế / Đẩy mạnh khai thác và nuôi trồng h i s n; phát triển công nghiệp xi măng, công nghiệp khí - điện - đạm, du lịch biển - đ o; nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; đào tạo nhân lực và phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển; xây dựng trung tâm cứu hộ cứu nạn và b o vệ môi trư ng biển, b o đ m an ninh, quốc phòng vùng biển / Hình thành và phát triển các tuyến hành lang kinh tế ven biển : tuyến hành lang ven biển phía tây (Rạch Giá - Hà Tiên) và tuyến hành lang kinh tế biển phía đông (Bạc Liệu - Ghềnh Hào - Cà Mau - Năm Căn), gắn với xây dựng khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau. 3. Gi i pháp t ch c không gian lãnh th m m Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta ph i có một tư duy mới về tổ chức lãnh thổ đ t nước để tận d ng vận hội mới nhằm sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nguy cơ t t hậu 9 ngày càng xa so với khu vực và thế giới, và khẳng định vị thế nước Việt Nam. Theo đó, tổ chức lãnh thổ đ t nước là công c để thúc đẩy các quan hệ song phương, đa phương trong s n xu t và trao đổi hàng hóa và dịch v giữa các doanh nghiệp, giữa các quốc gia, qua đó một mặt giữ vững tự ch kinh tế, mặt khác khẳng định vị thế quốc gia trên b n đồ thế giới. Chúng ta cần tư duy mới về tổ chức không gian lãnh mềm thổ trên cơ s phân tích một số khái niệm mềm về biên giới, quyền lực và chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ nhất là khái niệm về biên giới mềm. Ngày nay biên giới giữa các quốc gia không chỉ là biên giới đ t liền, biên giới biển, biên giới trên không mà còn là biên giới c a hàng hóa, dịch v và văn hóa. Các cư ng quốc sử d ng lý thuyết này để bành trướng biên giới và tầm nh hư ng c a mình bằng cách m rộng thị trư ng hàng hóa - dịch v mang đậm hàm lượng văn hóa ra các nước khác. Theo quan niệm truyền thống, các vùng Kinh tế xã hội thư ng được thiết kế trong khuôn khổ các lãnh thổ có giới hạn hành chính kinh tế, lịch sử. Trong khi m c đích s n xu t hàng hoá là để trao đổi theo nguyên tắc cung - cầu trong một không gian rộng hơn tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh c a hàng hoá và dịch; kết c c là lãnh thổ cứng, truyền thống bị phá vỡ, thay vào đó là không gian kinh tế; không gian này thay đổi, làm cho biên giới m rộng hoặc thu hẹp, nghĩa là tr nên " mềm" hơn, tuỳ thuộc vào kh năng dự báo, kh năng tiếp cận hàng hoá và dịch v trong một không gian biến động; điều này còn có nghĩa là b n thân việc tổ chức không gian s n xu t hàng hoá và dịch v đã gi định sự cần thiết ph i có một biên giới mềm. Trên đư ng đua quốc gia, khu vực và quốc tế trong điều kiện hội nhập, việc tổ chức lãnh thổ chỉ có thể là hành động có ch ý trong một không gian mà biên giới c a nó là "mềm", làm cơ s cho cách thiết kế một không gian 3D (đa kịch b n, đa tình huống, đa m c tiêu). Các nước có nền kinh tế phát triển, có với sức cạnh tranh lớn thư ng hướng biên giới mềm c a mình sang các nước nền kinh tế yếu kém hơn. Trong tình hình đó, các nước yếu kém ph i có đối sách để chống lại tham vọng biên giới mềm không ph i bằng việc thiết kế một không gian cứng, khép kín, cố th mà bằng đối sách không gian lãnh thổ mềm (a shoft spacio - territorial solution) trên cơ s phát huy các thế mạnh văn hoá, truyền thống và qu n lí thông minh (smart management). Thứ hai, chúng ta hãy cùng phân tích khái niệm chuỗi giá trị và dòng ch y giá trị gia tăng toàn cầu. Về cơ b n, chuỗi quá trình tạo giá trị toàn cầu có ba phân khúc : 1) Nghiên cứu & phát triển (R - D) - S hữu trí tuệ, 2) S n xu t, 3) Xây dựng Thương hiệu và Thương mại. Trong đó, các nước phát triển hiện nắm giữ vai trò chi phối hai phân khúc đầu và cuối tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn hẳn; còn lại cho các nước đang phát triển là phân khúc giữa đòi hỏi nhiều lao động, tài nguyên nhưng tạo ra ít giá trị, kém kh năng cạnh tranh. Bằng việc lưu chuyển vốn chóng vánh qua thị trư ng chứng khoán, qua 10 mạng interrnet toàn cầu, các nước phát triển luôn chiếm vị thế thượng phong trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với các nước đang và kém phát triển. Thực tiễn cho th y, các quốc gia hàng đầu thế giới cũng là những quốc gia s hữu những thương hiệu, những tập đoàn bán lẻ hùng mạnh và nắm giữ hầu hết các bằng phát minh sáng chế c a thế giới. Dòng ch y giá trị gia tăng toàn cầu theo đó chỉ có thể ch y một chiều từ các quốc gia nghèo về phía các quốc gia giàu chứ không theo chiều ngược lại. Trong bối c nh đó, một nước nước đang phát triển giai đoạn th p như Việt Nam không có cách nào khác là ph i ch p nhận phân khúc giữa, để rồi tìm cách nhanh chóng vươn lên cạnh tranh hai phân khúc đầu cuối với giá trị gia tăng cao, nhằm thu hẹp kho ng cách với các nước phát triển. Trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa thể ngay lập tức tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu & phát triển - s hữu trí tuệ, nhưng hoàn toàn có thể tranh đua với thế giới trong hai lĩnh vực thương hiệu và thương mại có thế mạnh về lợi thế tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cũng như nguồn lao động dồi dào. Đó là lựa chọn kh dĩ để thoát khỏi t t hậu và lệ thuộc. Đó là con đư ng duy nh t chúng ta cần chọn lựa trong hàng loạt các hướng đi mà chúng ta có thể biết. Để thực hiên m c tiêu này, chúng ta hoàn toàn cần thiết và có thể sử d ng công c lãnh thổ hữu hiệu trên cơ s tổ chức các vùng, các địa bàn có lợi thế; đó chính là nhưng vùng s n xu t qui mô lớn, mà hiện nay gọi là vùng / địa bàn trọng điểm (vùng s n xu t cái mà thế giới cần, đặc biệt là các nông s n xu t khẩu chiến lược như lúa gạo, các cây công nghiệp, thuỷ s n nuôi trồng v.v...). Thực ra nước ta cũng có cái để nói về khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu; đó là thế mạnh s n xu t lúa gạo trong điều kiện kh ng ho ng lương thực; chúng ta cũng có dầu mỏ trong khi thế giới kh ng ho ng năng lượng. V n đề là ph i nhận dạng chuỗi giá trị toàn cầu theo cách riêng c a mình. Theo chúng tôi phát huy thế mạnh vốn có c a đ t nước cũng là gi i pháp chuỗi giá trị toàn cầu (a solution on global value chain). Thứ ba là quan điểm về quyền lực mềm. Đó là những nh hư ng mạnh mẽ c a b n sắc văn hóa một đ t nước được truyền t i qua các hàng hóa - dịch v tới các nước khác, và thiên về lợi ích tinh thần. Nó khác quyền lực cứng về quân sự và lợi ích một cách đơn thuần. Nhìn chung, các nước châu Á được coi là có điều kiện để phát huy quyền lực đó hơn là các nước phương Tây. Những ví d điển hình về quyền lực mềm : hoạt hình Nhật B n, phim truyền hình Hàn Quốc, võ thuật Trung Hoa. Họ đều là các quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Ngày nay, sức trỗi dậy mạnh mẽ c a quyền lực mềm châu Á còn làm rung chuyển c nền văn hóa đại chúng c a cư ng quốc số 1 thế giới là Mỹ. 11 Một khi văn hoá là bộ phận c u thành quyền lực mềm, thì việc tổ chức Kinh tế xã hội ph i được đổi mới trên cơ s các thế mạnh văn hoá vật thể và phi vật thể. Đương nhiên chúng ta không hiểu đơn gi n thế mạnh văn hóa ch yếu là các giá trị văn hoá phi vật thể một cách trừu tượng, duy ý chí, mà ph i vật thể hoá các giá trị văn hóa đó thành thương hiệu mạnh "Made in Vietnam" trên c ba c p độ s n phẩm, doanh nghiệp và nhà nước. Đ t nước chúng ta cũng có một nội lực r t dồi dào cần được tổ chức lại theo những nguyên tắc mềm cho cuộc cạnh tranh với thế giới bên ngoài. Nước ta có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đ i; tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, có những s n phẩm nông s n chiến lược đúng lúc cần cho thị trư ng toàn cầu; cơ hội hội nhập kinh tế được m ra khi nước ta là thành viên WTO, là y viên không thư ng trực c a Hội đồng b o an Liên hợp Quốc; hơn nữa, b n sắc văn hoá c a cộng đồng 54 dân tộc, gần 90 triệu đồng bào sống trong nước và hơn 3 triệu ngư i Việt Nam nhiều nơi trên thế giới chính là nguồn lực để tạo ra các gi i pháp mềm trong một thế giới không phẳng với những biên giới mềm, quyền lực mềm và mềm c chuỗi giá trị toàn cầu. Thay vì kết luận cho những điều trình bày trên, chúng tôi cho là cần thiết ph i nh n mạnh tư tư ng c a Lê Bá Th o viết trong Tổ chức không gian lãnh thổ hợp lí cho thập kỷ đầu thế kỷ XXI : "Nói tóm lại Việt Nam nh t thiết ph i tổ chức lại lãnh thổ đ t nước với một quyết tâm và sự chỉ đạo khoa học có tính toán nhằm gi i quyết những yêu cầu bức xúc hiện nay c a đ t nước là : 1) Sử d ng một cách có hiệu qu các tài nguyên thiên nhiên và xã hội để đ m b o được một sự phát triển liên t c và bền vững, 2) Thu hẹp kho ng cách về trình độ phát triển giữa các phần khác nhau c a lãnh thổ... và 3) Dự báo được để có một sự phát triển đúng đắn hơn..." [2, tr.153]. Những tư tư ng lớn đó sẽ được kiến gi i bằng các gi i pháp tổ chức không gian lãnh thổ mềm trên cơ s đổi mới tư duy trên cơ s nhận thức sâu hơn về cách tiếp cận địa lí phát triển trên phần đ t liền cũng như địa lí chiến lược biển, hướng tới phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. TÀI LIỆU THAM KH O 1. Vũ Tự Lập, Sự phát triển của khoa học Địa lý trong thế kỉ XX, NXB Giáo D c, Hà Nội, 2004, 294 tr. 2. Đặng Văn Phan, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam. NXB Giáo D c, TP Hồ Chí Minh, 2008, 283 tr. 3. Lê Bá Thảo : những công trình khoa học địa lý tiêu biểu, NXB Giáo D c, Hà Nội, 2007, 975 tr. 12 4. Lê Thu Hoa, Kinh tế vùng ở Việt Nam - Từ lý luận đến thực tiễn, NXB Lao Động, Hà Nội, 2007, 237 tr. 5. Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi, Phát triển bền vững ở Việt Nam - Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, NXB Lao Động, Hà Nội, 2007,843 tr. 6. Ngô Doãn Vịnh (ch biên), Hướng tới sự phát triển của đất nước - một số vấn đề lí thuyết và ứng dụng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, 337 tr. 7. Vũ Như Vân, Chiến lược Biển Đông - một cách nhìn từ triết lí phát triển bền vững, Hội nghị Thông tin và Định vị phát triển kinh tế biển Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr. 14 - 19. 13