« Home « Kết quả tìm kiếm

TỔ CHỨC KHÔNG GIAN LÃNH THỔ KINH TẾ -XÃ HỘI VIỆT NAM: NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


Tóm tắt Xem thử

- VNH3.TB18.93 TỔ CHỨC KHÔNG GIAN LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM: NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1, PGS.
- Vũ Như Vân 1, Trường Đại học Cửu Long 2, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội (Kinh tế xã hội) là một trong những khái niệm cơ bản của Địa lí học, là gạch nối giữa nhận thức lý luận và hành động thực tiễn của khoa học này.
- Đây là hình ảnh thu nhỏ đối tượng, nhiệm vụ và những vấn đề địa lý kinh tế xã hội Việt Nam hiện đại.
- Chúng ta có thể nhận thức được điều này thông qua nghiên cứu một số vấn đề: (1) Tiếp cận địa lí đổi mới và phát triển bền vững.
- (3) Giải pháp tổ chức lãnh thổ mềm theo hướng phát triển bền vững trong thời kì đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiên đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tiếp cận địa lí đổi mới và phát triển bền vững Trên quan điểm địa lý đổi mới và phát triển, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động địa lý học có chủ ý nhằm hướng tới sự công bằng về mặt không gian.
- Giới hạn của lãnh thổ là đường biên giới quốc gia (trên đất liền và vùng lãnh hải).
- Lãnh thổ còn được quan niệm đầy đủ hơn, đó là thể thống nhất, hay nói chung là một thực thể được tổ chức bởi các cộng đồng xã hội.
- Tổ chức lãnh thổ được hiểu như toàn bộ quá trình hay hành động của con người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ của chúng, các sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng.
- Các hành động này được thực hiện phù hợp với các mục tiêu của xã hội trên cơ sở các quy luật kinh tế trong hình thái Kinh tế xã hội tương ứng.
- Mục tiêu cơ bản của tổ chức lãnh thổ là nhằm tiết kiệm lao động xã hội nhờ cải thiện cơ cấu sản xuất - lãnh thổ của nền kinh tế và cải thiện cơ cấu tổ chức sản xuất của đất nước hay của từng vùng cụ thể theo hướng 1 phát triển tổng hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong sản xuất, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội còn được hiểu như sự kết hợp của các tổ chức lãnh thổ đang hoạt động : cấu trúc lãnh thổ quần cư, cấu trúc không gian xã hội, cấu trúc không gian sử dụng tự nhiên v.v.
- Ở đây, không thể bỏ qua nội dung phân vùng và quy hoạch vùng, đó là việc xác định các tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển kinh tế xã hội giữa các ngành trong một vùng, giữa các vùng nhỏ trong vùng lớn, giữa các vùng lớn trong một quốc gia và trên mức độ nào đó có xét đến các mối liên kết khu vực và quốc tế.
- Cấu trúc này được thống nhất bởi các cơ cấu quản lý quá trình tái sản xuất xã hội, làm cơ sở cho việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ Kinh tế xã hội của một vùng nhất định, bao gồm các điểm, các ‘cực’, các nút, và các dải, các tuyến lực và một không gian bề mặt.
- Để tiến hành nghiên cứu tổ chức lãnh thổ phải có sự phân tích những phân dị địa lý nhằm xác định các cấu trúc không gian (cấu trúc lãnh thổ), các mối quan hệ lãnh thổ, sự tác động qua lại với các cấu trúc không gian thành phần để nhận dạng một không gian tổng quát mà ta gọi là không gian chiến lược.
- Như vậy, một trong nguyên tắc tổ chức lãnh thổ là phải sử dụng một cách hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và Kinh tế xã hội, trong đó mục tiêu phát triển bền vững vừa là nhiệm vụ, vừa là hệ quả của tổ chức lãnh thổ.
- Tổ chức lãnh thổ được coi như một trong những đối tượng địa lý học quan trọng, đòi hỏi phải vận dụng các phương pháp phù hợp để tái xác định phẩm chất của lãnh thổ trước thách thức của nền kinh tế thị trường, chuyển động từ sự chú ý tới các điều kiện tự nhiên đơn thuần sang lĩnh vực con người, các khía cạnh xã hội đứng sau các cấu trúc, các cơ sở hạ tầng và các chính sách phát triển.
- Không dừng lại ở khái niệm lãnh thổ, các nhà địa lý Việt Nam cần chuyển sang một quan niệm mới về tổ chức không gian phát triển.
- Khái niệm tổ chức không gian phát triển được tiếp nhận ở nhiều nước phát triển.
- Bên cạnh nội dung có tính truyền thống, các nhà nghiên cứu cần hướng tới một khoa học địa lý về tổ chức lại hoặc tổ chức mới không gian (lãnh thổ), góp phần quản lý nó, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững.
- Không gian bao gồm cả phần đất liền, vùng trời và lòng đất, được huy động vào sản xuất và dịch vụ vì mục đích phát triển.
- Mục đích của tổ chức không gian phát triển là tạo ra khung sườn cho sự chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
- Chính sự phân công lao động theo lãnh thổ dẫn tới sự hình thành và hoàn thiện các không gian kinh tế với các quy mô và chức năng xác định.
- Nền kinh tế hiện đại được đặc trưng bằng mạng lưới truyền dẫn thông tin, đã thúc đẩy sự quá độ từ biên giới lãnh thổ Kinh tế xã hội sang các không gian Kinh tế xã hội.
- Điều này làm chúng ta có cơ hội vượt qua sự ràng buộc biên giới cứng, mà sang biên giới mềm với các cực, các tuyến hành lang phát triển.
- Có thể nói từ thập kỷ 90 những ý tưởng về tổ chức lãnh thổ đã được các cơ quan chức năng Nhà nước dành nhiều kinh phí và xây dựng các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước về tổ chức lãnh thổ ở Việt Nam.
- Điều đó đã tạo cơ hội cho các nhà địa lý tham gia trong việc soạn thảo chiến lược tổ chức lãnh thổ đất nước, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lãnh thổ và chiến lược phát triển gần gũi hơn với phương pháp luận của địa lý học.
- Điều quan tâm nhất của các nhà địa lý là thời kỳ đến 2020, và xa hơn, đến năm 2050, phải thiết kế một sơ đồ tổ chức lãnh thổ mới, sâu sắc, toàn diện hơn, bổ sung các bản đồ phân bố đã có sao cho các vùng chậm phát triển có điều kiện phát triển hơn, kể cả các vùng biển và hải đảo, tránh tập trung hoá các vùng sắp đạt tới hạn dung lượng dân cư và công trình các loại.
- Sơ đồ tổ chức lãnh thổ mới cần tôn trọng một số nguyên tắc : Thứ nhất, đảm tính thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của cả nước, tạo ra được tính gắn kết, tính không chia cắt của quốc gia.
- Một sơ đồ lãnh thổ như vậy, theo GS Lê Bá Thảo, nhất thiết phải đề cập đến các vấn đề.
- Các hành động trước mắt là việc tham gia tích cực trong công tác quy hoạch vùng như là một trong những nội dung quan trọng trong tổ chức lãnh thổ.
- quy hoạch về tổ chức lãnh thổ ở nhiều nơi còn tình trạng chồng chéo, không ăn khớp, thậm chí có trường hợp gây lãng phí lớn về kinh tế (tinh thần của chỉ thị số 32/ 1998.
- CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 23/9/1998 về các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đến năm 2010).
- Về lâu dài, các hành động cần tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề có tính lý luận về tổ chức lãnh thổ trong điều kiện khó khăn, kém phát triển.
- Điểm xuất phát của công việc này nằm trong bước quá độ từ lý luận tổ chức lãnh thổ truyền thống sang tổ chức không gian vì mục đích phát triển công bằng và bền vững làm cơ sở để tạo dựng một mô hình hệ thống cấu trúc lãnh thổ hợp thành từng cặp một trong chuỗi giá trị : Tính ổn định (chính trị / luật pháp / tiền tệ giá cả.
- Tính bền vững (tăng trưởng kinh tế đều đặn / môi trường được bảo vệ.
- Đến đây, có thể nói về cơ bản, trên quan điểm địa lý đổi mới và phát triển chúng ta đã xem xét một số vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc tổ chức lãnh thổ trong sự vận động không ngừng từ quan niệm truyền thống sang tổ chức lãnh thổ Kinh tế xã hội vì mục đích phát triển ổn định và bền vững.
- Trong tinh thần đó tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội được khẳng định là một trong những đối tượng và nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu của địa lý kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước.
- Địa lý học gắn bó với các quan niệm mới này, không nên bỏ lỡ (và khắc phục hiện tượng vừa nêu), tư duy của chúng ta, của thế hệ các nhà địa lý trẻ sẽ năng động hơn, hiệu quả hơn 4 và sự nghiệp sẽ phát triển hơn.
- Ở một nước “tứ hải, tam sơn, nhất phần điền” như Việt Nam, tư duy về không gian chiến lược biển có tầm quan trọng đặc biệt về địa - chính trị và địa - kinh tế.
- Trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước nhà đã khởi phát khá thành công từ biển.
- Biển gắn bó mật thiết và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường mọi miền đất nước.
- Biển là nhân tố không gian chi phối toàn bộ hành động tổ chức lãnh thổ đất nước.
- Vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của ta rộng, phần lớn trên thềm lục địa.
- Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò là cây “cầu nối” cực kì quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, đặc biệt với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Vùng nội thủy, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền rộng gấp hơn ba lần diện tích đất liền.
- Biển Đông chính là nguồn cung cấp lượng ẩm quanh năm cho toàn bộ lãnh thổ đất nước.
- nhiều đảo ven bờ và xa bờ có ý nghĩa quan trọng về kinh tế và quốc phòng.
- “Đứng trước biển” ở đây được hiểu theo hai nghĩa : Thứ nhất, tỉ lệ đóng góp của kinh tế biển hiện mới bằng một nửa tỉ lệ dân số sống ở vùng biển so với cả nước.
- Bình quân 1 km2 biển ở các nước phát triển thu được 100 nghìn USD, còn ở nước ta chỉ thu được khoảng 20 nghìn USD, thấp hơn nhiều lần ở các nước nhóm G8.
- Thực ra, chúng ta không đứng trước biển một cách thụ động, trái lại, về nhận thức, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, ngày nay, biển 6 có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các nước có biển nói riêng và của thế giới nói chung.
- Trong những năm đổi mới qui mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng mạnh, cơ cấu ngành nghề có thay đổi cùng với sự xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển trọng điểm.
- Năm 2005, GDP của kinh tế vùng biển và ven biển bằng hơn 48%, trong đó kinh tế biển chiếm khoảng gần 22% tổng GDP cả nước.
- Các ngành vận tải biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển, du lịch biển đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của cả nước.
- Trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam không dừng trước biển mà thực sự phải tiến ra biển lớn.
- Nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược biển của Việt Nam, trước hết là đổi mới tư duy về biển, từ tư duy “có tính biển” sang tư duy “vươn ra biển lớn”, từ khai thác “giá trị vật chất biển” sang khai thác “chức năng biển”, từ tư duy “kinh tế tài nguyên” sang tư duy “ kinh tế tri thức” mà công nghệ thông tin giữ vai trò chi phối.
- xác định các tiêu chí và phương pháp lượng hoá các chỉ tiêu về kinh tế biển.
- phát triển ngành nghề, quốc phòng an ninh, bảo vệ và làm giàu môi trường biển.
- Thực tiễn phát triển kinh tế biển cho thấy vùng ven biển bao gồm dải các đơn vị hành chính lãnh thổ có biển, vùng đảo và nội thuỷ thuộc đơn vị hành chính quản lí tương ứng và các mối liên hệ không gian như mạng giao thông, mạng thông tin liên lạc, các cảng biển, cửa sông ven biển, vùng bãi ngang, là cầu nối các vùng nội địa với biển, đồng thời là cơ sở hậu cần cho quản lí và khai thác các đảo - quần đảo xa bờ và ngoài khơi Biển Đông.
- có các vùng kinh tế trọng điểm đang được đầu tư phát triển mạnh.
- nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có thể trở thành mũi nhọn để phát triển.
- nhiều đảo có giá trị kinh tế cao.
- 125 bãi biển lớn và nhỏ, cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi biển đủ tiêu chuẩn quốc tế để phát triển các loại hình du lịch, thể thao, festival biển.
- Tiềm năng tài nguyên biển của nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới nhưng cũng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với sự phát triển đất nước (dầu khí với trữ lượng đã thăm dò khảo sát khoảng 3 - 4 tỉ m3 dầu qui đổi.
- Vùng ven biển Việt Nam có một số khoáng sản quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp, như than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và khoảng 50 - 60 nghìn ha ruộng muối biển.
- Trong giai đoạn chuẩn bị ra biển lớn thì tương tác kinh tế lãnh thổ - lãnh hải diễn ra chủ yếu và trực tiếp tại vùng duyên hải, gồm phần đất liền thuộc các tỉnh - thành phố / các huyện có biển, rộng hẹp tuỳ nơi, và vùng ven biển - nội thuỷ trực thuộc nằm phía trong đường cơ sở.
- Hệ quả tất yếu là sẽ dẫn tới sự hình thành các phức thể kinh tế lãnh thổ - lãnh hải được tổ chức theo hướng mở trong mối tương tác với các nước trong khu vực có lợi ích chung trên Biển Đông [5].
- Định hướng phát triển các ngành chủ yếu: xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh thành trung tâm kinh tế mạnh, nòng 8 cốt là cảng biển, công nghiệp và du lịch biển là đầu tàu kéo cả vùng phát triển / Hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp, cụm công nghiệp ven biển / Phát triển các khu kinh tế thương mại gắn với vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ trên cơ sở xây dựng tuyến đường ven biển, cảng biển, các khu kinh tế, các thành phố, thị trấn ven biển.
- Định hướng phát triển các ngành chủ yếu : Xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của vùng, là một trong ba trung tâm kinh tế biển lớn của nước ta / Xây dựng hành lang kinh tế trên cơ sở tuyến cao tốc Bắc - Nam, các cảng nước sâu, sân bay quốc tế, phát triển các đô thị ven biển / Xây dựng khu kinh tế tổng hợp.
- chú trọng phát triển kinh tế hàng hải, du lịch.
- Định hướng phát triển các ngành chủ yếu : Phát triển thành phố Vũng Tàu thành trung tâm hướng ra biển của vùng / Hình thành các tuyến hành lang kinh tế, các khu công nghiệp, trong đó quan trọng nhất là tuyến hành lang kinh tế dọc quốc lộ 51.
- Định hướng phát triển ngành : Xây dựng Phú Quốc thành trung tâm kinh tế lớn và bàn đạp hướng mạnh ra biển của tiểu vùng.
- phát triển công nghiệp xi măng, công nghiệp khí - điện - đạm, du lịch biển - đảo.
- đào tạo nhân lực và phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển.
- xây dựng trung tâm cứu hộ cứu nạn và bảo vệ môi trường biển, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng biển / Hình thành và phát triển các tuyến hành lang kinh tế ven biển : tuyến hành lang ven biển phía tây (Rạch Giá - Hà Tiên) và tuyến hành lang kinh tế biển phía đông (Bạc Liệu - Ghềnh Hào - Cà Mau - Năm Căn), gắn với xây dựng khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau.
- Giải pháp tổ chức không gian lãnh thổ mềm Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta phải có một tư duy mới về tổ chức lãnh thổ đất nước để tận dụng vận hội mới nhằm sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nguy cơ tụt hậu 9 ngày càng xa so với khu vực và thế giới, và khẳng định vị thế nước Việt Nam.
- Theo đó, tổ chức lãnh thổ đất nước là công cụ để thúc đẩy các quan hệ song phương, đa phương trong sản xuất và trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp, giữa các quốc gia, qua đó một mặt giữ vững tự chủ kinh tế, mặt khác khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ thế giới.
- Theo quan niệm truyền thống, các vùng Kinh tế xã hội thường được thiết kế trong khuôn khổ các lãnh thổ có giới hạn hành chính kinh tế, lịch sử.
- kết cục là lãnh thổ cứng, truyền thống bị phá vỡ, thay vào đó là không gian kinh tế.
- Trên đường đua quốc gia, khu vực và quốc tế trong điều kiện hội nhập, việc tổ chức lãnh thổ chỉ có thể là hành động có chủ ý trong một không gian mà biên giới của nó là "mềm", làm cơ sở cho cách thiết kế một không gian 3D (đa kịch bản, đa tình huống, đa mục tiêu).
- Các nước có nền kinh tế phát triển, có với sức cạnh tranh lớn thường hướng biên giới mềm của mình sang các nước nền kinh tế yếu kém hơn.
- Trong tình hình đó, các nước yếu kém phải có đối sách để chống lại tham vọng biên giới mềm không phải bằng việc thiết kế một không gian cứng, khép kín, cố thủ mà bằng đối sách không gian lãnh thổ mềm (a shoft spacio - territorial solution) trên cơ sở phát huy các thế mạnh văn hoá, truyền thống và quản lí thông minh (smart management).
- Về cơ bản, chuỗi quá trình tạo giá trị toàn cầu có ba phân khúc : 1) Nghiên cứu & phát triển (R - D.
- Trong đó, các nước phát triển hiện nắm giữ vai trò chi phối hai phân khúc đầu và cuối tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn hẳn.
- còn lại cho các nước đang phát triển là phân khúc giữa đòi hỏi nhiều lao động, tài nguyên nhưng tạo ra ít giá trị, kém khả năng cạnh tranh.
- Bằng việc lưu chuyển vốn chóng vánh qua thị trường chứng khoán, qua 10 mạng interrnet toàn cầu, các nước phát triển luôn chiếm vị thế thượng phong trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với các nước đang và kém phát triển.
- Trong bối cảnh đó, một nước nước đang phát triển ở giai đoạn thấp như Việt Nam không có cách nào khác là phải chấp nhận phân khúc giữa, để rồi tìm cách nhanh chóng vươn lên cạnh tranh ở hai phân khúc đầu cuối với giá trị gia tăng cao, nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.
- Trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa thể ngay lập tức tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu & phát triển - sở hữu trí tuệ, nhưng hoàn toàn có thể tranh đua với thế giới trong hai lĩnh vực thương hiệu và thương mại có thế mạnh về lợi thế tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cũng như nguồn lao động dồi dào.
- Để thực hiên mục tiêu này, chúng ta hoàn toàn cần thiết và có thể sử dụng công cụ lãnh thổ hữu hiệu trên cơ sở tổ chức các vùng, các địa bàn có lợi thế.
- 11 Một khi văn hoá là bộ phận cấu thành quyền lực mềm, thì việc tổ chức Kinh tế xã hội phải được đổi mới trên cơ sở các thế mạnh văn hoá vật thể và phi vật thể.
- cơ hội hội nhập kinh tế được mở ra khi nước ta là thành viên WTO, là Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp Quốc.
- Thay vì kết luận cho những điều trình bày ở trên, chúng tôi cho là cần thiết phải nhấn mạnh tư tưởng của Lê Bá Thảo viết trong Tổ chức không gian lãnh thổ hợp lí cho thập kỷ đầu thế kỷ XXI : "Nói tóm lại Việt Nam nhất thiết phải tổ chức lại lãnh thổ đất nước với một quyết tâm và sự chỉ đạo khoa học có tính toán nhằm giải quyết những yêu cầu bức xúc hiện nay của đất nước là : 1) Sử dụng một cách có hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên và xã hội để đảm bảo được một sự phát triển liên tục và bền vững, 2) Thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các phần khác nhau của lãnh thổ.
- và 3) Dự báo được để có một sự phát triển đúng đắn hơn.
- Những tư tưởng lớn đó sẽ được kiến giải bằng các giải pháp tổ chức không gian lãnh thổ mềm trên cơ sở đổi mới tư duy trên cơ sở nhận thức sâu hơn về cách tiếp cận địa lí phát triển trên phần đất liền cũng như địa lí chiến lược biển, hướng tới phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Vũ Tự Lập, Sự phát triển của khoa học Địa lý trong thế kỉ XX, NXB Giáo Dục, Hà Nội tr.
- Đặng Văn Phan, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam.
- Lê Thu Hoa, Kinh tế vùng ở Việt Nam - Từ lý luận đến thực tiễn, NXB Lao Động, Hà Nội tr.
- Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi, Phát triển bền vững ở Việt Nam - Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, NXB Lao Động, Hà Nội, 2007,843 tr.
- Ngô Doãn Vịnh (chủ biên), Hướng tới sự phát triển của đất nước - một số vấn đề lí thuyết và ứng dụng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội tr.
- Vũ Như Vân, Chiến lược Biển Đông - một cách nhìn từ triết lí phát triển bền vững, Hội nghị Thông tin và Định vị phát triển kinh tế biển Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr