FETP/MPP8/Macroeconomics/Riedel
Nền kinh tế vĩ mô và Chính sách vĩ mô theo Tỷ giá Cố định
GiỚI THIỆU
Các bài giảng trước đã giải thích tỷ giá cân bằng được quyết định như thế nào trong thị
trường ngoại hối và nền kinh tế vĩ mô phản ứng như thế nào đối với các cú sốc khác nhau
cũng như cách thức chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để duy trì ổn
định vĩ mô khi tỷ giá được thị trường quyết định. Bài giảng này sẽ xem xét các ý nghĩa của
chính sách cố định (neo) tỷ giá cũng như việc cố định tỷ giá sẽ có ảnh hưởng như thế nào
đến hiệu quả của chính sách tài khóa và tiền tệ.
Chính phủ cố định (hoặc neo) tỷ giá bằng cách sẵn sàng mua hay bán ngoại tệ bất kz khi
nào có một lượng dư cung hoặc cầu trên thị trường ngoại hối.
Khoản mua (bán) ngoại tệ sẽ đi vào (ra khỏi) dự trữ ngoại tệ chính thức của ngân hàng
trung ương. Vì dự trữ nước ngoài là một thành phần của tiền cơ sở (base money), cung
tiền (v.d. M2) sẽ bị ảnh hưởng bởi can thiệp của ngân hàng trung ương trên thị trường
ngoại hối.
Các chương trước đã xem cung tiền là ngoại sinh và tỷ giá là nội sinh. Trong chương này, tỷ
giá là ngoại sinh và cung tiền là nội sinh. Nói cách khác khi một quốc gia cố định tỷ giá,
quốc gia đó phải từ bỏ chính sách tiền tệ. Cố định tỷ giá là một chính sách tiền tệ!
Chính sách tỷ giá pháp lý
CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ
Chính sách tỷ giá thực tế
QUY TRÌNH CUNG TIỀN
Ngân hàng trung ương
Tài sản
Dự trữ (R)
Quyền đòi
nợ chính
phủ, tức Tín
dụng trong
nước (D)
Ngân hàng thương mại
Tài sản
Nợ
Tài sản
Nợ
Khoản cho
vay
Tiền gửi
Tiền gửi
Khoản vay
RR
Vốn chủ
sở hữu
CC
Nợ
Tiền tệ
trong lưu
thông (CC)
Dự trữ bắt
buộc của
NHTM (RR)
Hộ GĐ và doanh nghiệp
Nợ khác
Tài sản
khác
Cung tiền = Tiền trong lưu thông (CC) cộng tiền gửi ngân hàng (DEP)
Tiền cơ sở (B) = Nợ của ngân hàng trung ương = Tài sản của ngân hàng trung ương
Nợ của ngân hàng trung ương = CC + dự trữ của ngân hàng thương mại (RR + ER)
Tài sản của ngân hàng trung ương = Tài sản nước ngoài (dự trữ ngoại hối, R) cộng tài sản
trong nước (D).
SỐ NHÂN TIỀN VÀ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Cung tiền là một số nhân của tiền cơ sở. Tỷ lệ của cung tiền (v.d. M2) trên tiền cơ sở là số
nhân tiền (mm):
Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách thay đổi quy mô bảng cân
đối kế toán (∆B = ∆R + ∆D) và bằng cách điều chỉnh số nhân tiền (mm), chủ yếu bằng cách
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm nắm giữ tài sản, cung tiền sẽ tăng hay giảm.
Khi ngân hàng trung ương mượn tiền hoặc cho vay tiền đối với các ngân hàng thương mại
thông qua kênh vay chiết khấu (discount window), cung tiền sẽ tăng hoặc giảm.
Khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cung tiền sẽ giảm hay tăng.
TIỀN CƠ SỞ VÀ SỐ NHÂN TIỀN Ở MỸ 1990-2010
Tiền cơ sở và các thành phần ở Việt Nam: 2005-2011
Source: Pham and Riedel, 2012, “On the Conduct of Monetary Policy in Vietnam, Asia Pacific Economic Literature, 2012
Số nhân tiền ở Việt Nam
Source: Pham and Riedel, 2012, “On the Conduct of Monetary Policy in Vietnam, Asia Pacific Economic Literature, 2012
Các yếu tố quyết định của Số nhân tiền ở Việt Nam
Source: Pham and Riedel, 2012, “On the Conduct of Monetary Policy in Vietnam, Asia Pacific Economic Literature, 2012
Cân bằng thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá cố định
Nhớ lại điều kiện cân bằng thị trường ngoại hối:
Trong đó R và R* là lãi suất tiền gửi tiết kiệm tương ứng ở trong và ngoài nước. Nếu tỷ
giá được cố định tại E0 thì E’ = E0 và vì vậy (E0 – E)/E = 0 và R =R*.
Nếu R = R*, điều kiện cân bằng thị trường tiền tệ là:
MS/P = L (R*,Y)
Hàm ý rằng đối với giá trị P và Y cho trước, cung tiền trong nước hoàn toàn được quyết
định bởi lãi suất nước ngoài (R*).
Điều này có nghĩa là bằng cách cố định tỷ giá, một đất nước từ bỏ khả năng thực thi
chính sách tiền tệ độc lập. Tỷ giá cố định chính là một chính sách tiền tệ!
Cân bằng thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá cố định
Phản ứng với thu nhập gia tăng (Y↑)
Nếu thu nhập tăng, cầu tiền gửi tiết kiệm
thực tăng, tạo áp lực tăng lãi suất trong nước
(R) và tăng giá trị đồng nội tệ(E↓).
Ngân hàng trung ương trong trường hợp này
phải mua tài sản nước ngoài trên thị trường
ngoại hối – trên thực tế là đổi nội tệ lấy ngoại
tệ - làm tăng cung nội tệ (MS↑) và giảm lãi
suất cho đến khi cân bằng được hồi phục tại
tỷ giá cố định (E0).
Thu nhập gia tăng sẽ gây áp lực làm đồng tiền
tăng giá, nhưng thay vì tăng giá, dự trữ ngoại
tệ lại tăng.
𝐸
a
𝐸0
a'
R
R*
𝑀1𝑆
𝑃
𝑀2𝑆 𝑃
b
c
𝑀 𝑆 /𝑃
0−𝐸
𝐸
𝑅∗ +
𝐸
b'
𝐿(𝑅, 𝑌1 )
𝐿(𝑅, 𝑌2 )
Cân bằng thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá cố định
Phản ứng với lãi suất nước ngoài tăng (R*↑)
𝐸
Lãi suất nước ngoài tăng sẽ làm tăng cầu về
ngoại tệ, tạo áp lực làm đồng tiền mất giá.
Nhưng ngân hàng trung ương sẵn sàng bán
ngoại tệ để giữ tỷ giá cố định (𝐸 0 ). Để đáp ứng
cầu tăng về ngoại tệ ngân hàng trung ương buộc
phải giảm dự trữ ngoại tệ chính thức đang nắm
giữ.
c
a
𝐸0
Khi dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương
𝑀2𝑆 𝑃
giảm, cung tiền giảm và lãi suất trong nước tăng
𝑀1𝑆 𝑃
lên bằng mức lãi suất nước ngoài cao hơn
(𝑅 = 𝑅2∗ ).
b
Lưu ý, cung tiền trong nước bị ảnh hưởng bởi
chính sách tiền tệ nước ngoài.
𝑀 𝑆 /𝑃
𝑅1∗
a'
𝑅2∗
b'
𝐸0 − 𝐸
+
𝐸
0−𝐸
𝐸
𝑅1∗ +
𝐸
𝑅2∗
R
𝐿(𝑅∗ , 𝑌)
Chính sách tiền tệ không có tác dụng trong chế độ tỷ giá cố định
Giả định chính phủ muốn sử dụng chính sách
tiền tệ để kích thích sản lượng và việc làm.
Chúng ta biết rằng mở rộng tiền tệ sẽ làm giảm
lãi suất trong nước và giá trị nội tệ (mất giá, tỷ
giá tăng).
Trong chính sách tỷ giá cố định, ngân hàng trung
ương buộc phải ngăn chặn đồng tiền mất giá
bằng cách bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối, làm
giảm cung tiền và đẩy lãi suất cũng như giá trị
nội tệ tăng lên trở lại. Do đó chính sách kích
thích tiền tệ bị vô hiệu hóa bởi chính sách tỷ giá
cố định.
Tác dụng của chính sách tài khóa trong chế độ tỷ giá cố định
Trong khi chính sách tiền tệ bị vô hiệu trong
chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khóa lại có
tác dụng kép.
Như minh họa, chi tiêu chính phủ tăng trong
chế độ tỷ giá thả nổi sẽ làm tăng thu nhập từ
𝑌1 lên 𝑌 2 , nhưng trong chế độ tỷ giá cố định
sẽ làm tăng thu nhập lên 𝑌 3 .
Tác động kích thích tăng thêm trong chế độ tỷ
giá cố định xuất phát từ sự mở rộng tiền tệ do
ngân hàng trung ương can thiệp trên thị
trường ngoại hối, đổi nội tệ lấy ngoại tệ để
tránh tăng giá tiền, điều sẽ xảy ra nếu ngân
hàng trung ương không can thiệp.
Phá giá và tăng giá
Một quốc gia áp dụng tỷ giá cố định có thể
muốn thay đổi giá trị của tỷ giá cố định hiện
hành. Khi ngân hàng trung ương tăng (giảm )
giá của ngoại tệ, họ đang PHÁ GIÁ (TĂNG GIÁ)
đồng nội tệ.
Để phá giá nội tệ, ngân hàng trung ương mua
tài sản nước ngoài, từ đó tăng cung tiền trong
nước và hạ lãi suất. Kết quả của lãi suất hạ là
đồng tiền bị phá giá (E tăng).
Tác động của phá giá là làm cho hàng hóa
trong nước trở nên cạnh tranh hơn về giá,
dẫn tới sản lượng cao hơn, đồng thời tăng trữ
lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia.
Cân bằng thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá cố định
Tác động của việc mất niềm tin vào khả năng
của ngân hàng trung ương có thể bảo vệ tỷ giá
cố định.
Khi thị trường nghi ngờ về khả năng và/hoặc
mong muốn của ngân hàng trung ương có thể
bảo vệ tỷ giá, thường là cuộc chơi đã kết thúc—
sẽ kéo theo cuộc đua ngoại tệ.
𝐸
a
𝐸0
Thay đổi về tỷ giá kz vọng sẽ tạo áp lực lên ngân
hàng trung ương phải bán mạnh dự trữ ngoại
𝑆
𝑀
2 𝑃
hối, điều làm cho niềm tin của thị trường vào
ngân hàng trung ương càng giảm sút.
Biện pháp thu hẹp tiền tệ cần thiết để bảo vệ
đồng tiền sẽ tạo ra áp lực chính trị cũng như
kinh tế, làm cho xói mòn niềm tin của thị
trường vào chính sách tỷ giá cố định.
c
b
𝑀1𝑆 𝑃
𝑀 𝑆 /𝑃
𝑅1∗
a'
𝑅2∗ + 𝐸 ′
b'
𝐸1 − 𝐸
+
𝐸
0−𝐸
𝐸
𝑅1∗ +
𝐸
𝑅2∗
R
𝐿(𝑅∗ , 𝑌)
Ba thế hệ Khủng hoảng tiền tệ
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ đầu tiên (Krugman, 1979)
Khi ngân hàng trung ương cố gắng cố định tỷ giá bên dưới giá cân bằng của thị trường bằng
cách bán dự trữ ngoại hối, mức dự trữ ngoại hối cuối cùng sẽ giảm sút tới mức sẽ tạo ra một
cú tấn công đầu cơ dẫn đến một chính sách thắt chặt tiền tệ ồ ạt (massive monetary
contraction), làm tăng vọt lãi suất và suy giảm sản lượng cũng như việc làm.
Không nhiều ví dụ hay.
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ hai (Obstfeld, 1994)
Đôi khi một cuộc khủng hoảng bùng phát, không phải từ dự trữ suy giảm mà là khi chính
phủ thấy rằng cam kết cố định tỷ giá can thiệp vào những mục tiêu trong nước khác (v.d.
trạng thái toàn dụng việc làm). Khi các nhà đầu cơ nhận ra sự thiếu nhất quán giữa chế độ
tỷ giá cố định và các mục tiêu chính sách khác, họ có thể tấn công đồng tiền, đẩy lãi suất
(R) lên và buộc chính phủ phải từ bỏ chế độ neo đồng tiền.
Ví dụ hay nhất là cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1992
Ba thế hệ mô hình khủng hoảng
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ ba
Các mô hình này được xuất phát từ cuộc khủng hoảng
Mexico (1994), khủng hoảng châu Á (1997) và khủng
hoảng Argentina (2002).
Vấn đề thường bắt đầu với tình hình bong bóng tài chính
vốn được tài trợ bởi dòng vốn vào từ nước ngoài. Cuối
cùng có một cuộc tấn công tiền tệ và tạo ra phá giá quy
mô lớn.
Những mô hình này nhấn mạnh tác động của phá giá lên
bảng cân đối kế toán của ngân hàng và doanh nghiệp mà
đang nắm giữ một trữ lượng nợ nước ngoài lớn. Sự suy
giảm trong tài sản ròng của doanh nghiệp và đặc biệt của
ngân hàng, sẽ dẫn đến suy giảm ồ ạt tín dụng và giảm đầu
tư, sản lượng cũng như việc làm, làm châm ngòi cho
những đợt phá giá khác.
Tác động của khủng hoảng thế hệ ba thường rất lớn.
Vietnam, 2008????
Khủng hoản vĩ mô: Khủng hoảng và Cải cách
Các cuộc khủng hoảng kinh tế có tạo ra cải cách kinh tế?
Nghiên cứu của tôi về Khủng khoảng kinh tế vĩ mô và Tăng trưởng dài hạn ở Thổ Nhĩ Kỳ
(Macroeconomic Crises and Long-term Growth in Turkey) (World Bank, 1993) cho thấy là có.
Một số cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô nghiêm trọng bùng nổ vào cuối mỗi thập kỷ (1959,
1969, 1979), thường dẫn đến đảo chính, một gói chính sách cải cách mới và sau một hai năm
chính quyền dân sự dân chủ quay trở lại, rồi thì…
Drazen và Easterly (2001) tìm thấy bằng chứng, dựa trên dữ liệu của 156 quốc gia trong giai
đoạn hơn 45 năm, rằng các cuộc khủng hoảng tạo ra cải cách khi lạm phát và lợi nhuận từ tỷ
giá ở thị trường chợ đen là cực kz cao. Họ không tìm thấy bằng chứng rằng lạm phát, lợi
nhuận ở thị trường chợ đen ở mức trung bình, thâm hụt tải khoản vãng lai lớn, thâm hụt ngân
sách lớn hay tăng trưởng âm sẽ tạo ra cải cách.
Tại sao không? Vì khi các điều kiện xấu ở mức trung bình, các nước sẽ nhận được ODA cứu
trợ, tuy nhiên khi các nước này rơi vào tình trạng quá xấu họ bị cắt nguồn ODA và buộc phải
tiến hành cải cách.
Công cuộc Đổi Mới được thúc đẩy bởi khủng hoảng kinh tế hay chính trị?
Các cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vào đầu thập kỷ 1980 và 1990 có do khủng hoảng thúc
đẩy không?
Bộ ba Bất khả thi về Chính sách
Lý thuyết bên trên cho thấy :
1. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, chính sách
tiền tệ rất mạnh, nhưng chính sách tài
khóa lại yếu vì hiệu ứng chèn lấn.
2. Trong chế độ tỷ giá cố định, chính sách
tài khóa đặc biệt mạnh mẽ, nhưng chính
sách tiền tệ lại không có tác dụng.
Những điều này đưa đến Bộ ba Bất khả thi
về chính sách. Nếu mong muốn hội nhập
kinh tế quốc tế, thì một quốc gia buộc phải
chọn một trong hai :
Thương mại và lưu chuyển vốn tự do
1. Cố định tỷ giá và từ bỏ một chính sách
tiền tệ độc lập.
2. Thả nổi tỷ giá và duy trì chính sách tiền Ổn định tỷ giá
tệ phục vụ mục tiêu chính sách trong
nước.
Cô lập khỏi
toàn cầu hóa
Chính sách tiền
tệ độc lập