DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP
1
DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TS. Nguyễn Mạnh Dũng
1. MỤC TIÊU CỦA QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG
NÂNG CAO GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Một số nét về sản xuất nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là từ khi thực hiện Đề án tái cơ
cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững được phê duyệt tại
Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/6/2013 đã có những bước
chuyển biến đáng ghi nhận. Nhiều loại nông sản có sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu
cao và giữ những vị thế hàng đầu trên thị trường thế giới như điều, hồ tiêu đứng thứ nhất;
gạo, cà phê đứng thứ hai; gỗ và sản phẩm gỗ đứng vị trí thứ 6;….
- Sản xuất lúa: Trong năm 2014, tổng diện tích gieo trồng lúa khoảng 7,9 triệu ha,
năng suất bình quân đạt 57,7 tạ/ha, sản lượng đạt 45,0 triệu tấn. Đồng bằng sông Cửu Long
sản xuất ra 50% sản lượng và 90% lượng lúa hàng hóa. Hàng năm cả nước xuất khẩu 6,08,0 triệu tấn gạo. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5-3,5 tỷ USD. Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu
6,38 triệu tấn gạo, thu gần 2,955 tỷ USD.
- Sản xuất ngô: Diện tích gieo trồng ngô năm 2014 đạt 1,21 triệu ha, sản lượng ngô
bình quân 5,2 triệu tấn, tăng 4,8% so năm 2013. Có 2 vùng trồng ngô chính là Tây Bắc (Sơn
La) và Nam Bộ. Nhìn chung, sản lượng ngô chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong
nước, nhất là trong chế biến thức ăn chăn nuôi và chế biến một số sản phẩm có giá trị gia
tăng khác. Hàng năm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng ngô khá lớn. Năm 2014 Việt
Nam nhập khẩu 4,79 triệu tấn ngô, với kim ngạch 1,224 tỷ USD.
- Sản xuất sắn: Diện tích trồng sắn khoảng 560 nghìn ha, với tổng sản lượng đạt 9,4-10,4
triệu tấn. Chỉ có 30% sản lượng sắn thu được phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước như làm
lương thực, chế biến thức ăn chăn nuôi, công nghiệp dược phẩm, làm nguyên liệu sản xuất xăng
sinh học, cồn công nghiệp, v.v..., 70% còn lại được xuất khẩu dưới dạng tinh bột hoặc sắn lát
khô. Năm 2014 Việt Nam xuất khẩu 3,39 triệu tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, kim ngạch xuất
khẩu đạt 1,42 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu sắn đạt 1,626 triệu tấn, với kim ngạch 397,8 triệu
USD.
- Sản xuất đậu tương: Hiện có 25/63 tỉnh trong cả nước trồng đậu tương, chủ yếu ở
phía Bắc (65% diện tích). Sản lượng khoảng 300 ngàn tấn/năm. Cũng như ngô, nhìn chung
sản lượng đậu tương chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, nhất là làm thức ăn chăn
nuôi. Trong năm qua, nhập khẩu đậu tương là 1,55 triệu tấn, với kim ngạch nhập khẩu là
889,63 triệu USD.
- Sản xuất khoa lang: Hiện tại khoai lang được trồng chủ yếu ở một số địa phương
như Tây Nguyên (Lâm Đồng), Nam bộ (Đồng Nai, Đồng Tháp, Long An,..) để xuất khẩu. Sản
lượng năm 2014 khoảng trên 2,2 triệu tấn.
- Sản xuất cà phê: Diện tích gần 600 ngàn ha, sản lượng 1,36 triệu tấn. Cơ cấu: cà
phê vối 93%, chè 6% còn lại là cà phê mít, cà phê Moca,…. Hiện tại phần lớn diện tích cà phê
vối đã già cỗi, cần phải tái canh nên sản lượng có những biến động trong thời gian tới. Năm
2014 lượng cà phê xuất khẩu đạt 1,69 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu là 3,558 tỷ USD.
- Sản xuất chè: Diện tích hơn 135 ngàn ha, sản lượng 984 ngàn tấn búp tươi. Có nhiều
giống chè mới như Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên, Bát Tiên, Vân Du,… Chè được trồng nhiều ở
trung du, miền núi phía Bắc và Lâm Đồng. Lượng chè xuất khẩu năm 2014 đạt 132,7 ngàn tấn,
kim ngạch xuất khẩu 228,54 triệu USD.
- Sản xuất điều: Diện tích gần 305 ngàn ha, sản lượng 279-280 ngàn tấn/năm, chỉ
đáp ứng được 30-50% nhu cầu chế biến và xuất khẩu. Hàng năm Việt Nam xuất khẩu khoảng
gần 300 ngàn tấn sản phẩm điều. Năm 2014 đã xuất khẩu 302,9 ngàn tấn điều, kim ngạch
xuất khẩu đạt 1,995 tỷ USD.
- Sản xuất hồ tiêu: Diện tích gần 60 ngàn ha, sản lượng gần 120 ngàn tấn/năm. Năm
2013 đã xuất khẩu 132,64 ngàn tấn hồ tiêu, đạt kim ngạch xuất khẩu 888,99 triệu USD.
- Sản xuất mía: Diện tích khoảng trên 300 ngàn ha. Sản lượng 19 triệu tấn mía
cây/năm.
2
- Sản xuất ca cao: Ca cao được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Diện
tích: 22.100 ha, tập trung ở Bến Tre (7.342 ha), Bà Rịa-Vũng Tàu (2.787 ha), Tiền Giang
(2.587 ha), DăkLăk (2.554 ha), Bình Phước (1.310 ha), Vĩnh Long (1.244 ha).
- Sản xuất rau, quả
Diện tích rau hơn 830 ngàn ha, tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng
sông Hồng, Đông Nam bộ và Bắc Trung bộ. Với điều kiện thuận lợi Việt Nam có thể trồng được
trên 120 loại rau các loại, trong đó có gần 30 loại rau chủ lực, chiếm tới 80% diện tích và sản
lượng. Những chủng loại rau chính gồm cà chua, ớt, dưa chuột, mướp đắng, đậu Hà Lan, đậu
đũa, cải các loại và hành tỏi. Sản lượng khoảng 14,8 triệu tấn/năm.
Diện tích cây ăn quả là hơn 800 ngàn ha, chủ yếu ở khu vực phía Nam. Sản lượng đạt
khoảng 8,0 triệu tấn/năm. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã lựa chọn 12 cây ăn quả chủ lực gồm
thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng, vú sữa, bưởi, nhãn, chuối, dứa, cam, mãng cầu và
quýt. Năm 2014 kim ngạch xuất khẩu rau, quả đạt mức 1,49 tỷ USD.
- Thủy sản: Sản lượng thủy sản đạt 5,5-6,5 triệu tấn năm, trong đó sản lượng khai
thác đạt 2,6-2,7 triệu tấn/năm và sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 3,3-3,6 triệu tấn/năm.
Riêng sản lượng tôm nuôi đạt 660 nghìn tấn (tăng 20,4% so cùng kỳ năm trước). Giá trị sản
xuất thủy sản năm 2014 (tính theo giá so sánh 2010) đạt 188 nghìn tỷ đồng (tăng 6,5%), giá
trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 7,83 tỷ USD (tăng 16,5%) so với 2013.
- Chăn nuôi
Tổng sản lượng thịt hơi các loại đạt 4,47 triệu tấn tăng 2,7%. Trứng và sữa tươi tăng
lần lượt là 3,8% và 15,6%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi đạt 14,7 triệu
tấn, tăng 10% so với năm 2013. Trong đó lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu năm 2014 đạt
mức 3,252 tỷ USD, tăng 5,7% so năm 2013.
Tổng đàn bò vào khoảng trên 5,2 triệu con và không có biến động nhiều so năm
2013. Riêng bò sữa phát triển mạnh, đạt mức 227.625 con. Sản lượng thịt bò tăng khoảng
4,2% so năm 2013.
Tổng đàn lợn tăng khoảng 1,5-2,0% so năm 2013, đạt mức trên 26,5 triệu con. Sản
lượng thịt lơn hơi tăng 2,2,% so năm 2013.
Đàn gia cầm đạt mức trên 315 triệu con, tăng 4,9% so năm 2013.
Cơ cấu sản xuất chăn nuôi chuyển đổi nhanh theo hướng trang trại, hộ lớn, hộ
chuyên nghiệp. Xuất hiện ngày càng nhiều các mô hình liên kết trong sản xuất, như mô hình
chăn nuôi gia công, HTX và các chuỗi sản xuất khép kín thịt, trứng sạch tại Hà Nội, Hà
Nam, Bắc Giang, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai…
- Sản xuất cao su: Diện tích 955,7 ngàn ha. Năng suất khoảng 1.740 kg/ha. Sản
lượng trên 1,1 triệu tấn mủ khô. Cao su được trồng chủ yếu ở miền Đông Nam bộ và Tây
Nguyên. Hàng năm xuất khẩu khoảng gần 1,0 triệu tấn cao su, với kim ngạch khoảng 2,0- 2,5
tỷ USD. Năm 2014 khối lượng cao su xuất khẩu đạt 1,66 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt
1,78 tỷ USD.
- Chế biến gỗ: Ngành lâm nghiệp đang có những chuyển biến tích cực trong việc bảo vệ
rừng tốt, đẩy mạnh khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. Nhờ vậy, năm 2014 độ che phủ rừng đạt
41,5%, giá trị sản xuất đạt 23,9 ngàn tỷ đồng, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành đạt mức cao kỷ
lục (7,09%). Tỷ trọng giá trị sản xuất lâm nghiệp trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản
đạt mức rất cao (3,9% vượt 1,0% so năm 2013). Năng lực chế biến gỗ hiện đạt mức 25 triệu
m3 gỗ/năm với nhiều loại mặt hàng có chất lượng cao, phù hợp với thị trường xuất khẩu lớn
trên thế giới. Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt ở thị trường của trên 120 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đã tăng từ 3,4 tỷ USD
năm 2010 lên 6,2 tỷ USD năm 2014. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ củaViệt Nam đang đứng
thứ 6 thế giới, thứ 2 châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
1.2. Một số hạn chế, thách thức đòi hỏi phải tái cơ cấu
1.2.1. Quy mô sản xuất hạn chế
Nhìn chung, trong tất cả các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đều có quy mô sản xuất
nhỏ, lẻ. Đơn vị sản xuất vẫn là hộ gia đình với diện tích sản xuất nhỏ, trung bình khoảng
0,25ha/người. Tỷ lệ hộ có diện tích đất canh tác nhỏ hơn 0,5ha cả nước là 67,38%. Trong đó,
đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ cao nhất với 94,46%, miền núi phía Bắc là 63,9%, Bắc Trung
Bộ và Duyên hải miền Trung là 79,54%, Tây Nguyên là 24,08%. Đông Nam Bộ là 35,48%,
Đồng bằng sông Cửu Long là 47,96%. Có đến 34,7 số hộ có quy mô sản xuất dưới 0,2 ha.
Trung bình mỗi hộ có 4,7 mảnh đất khác nhau, tổng khoảng cách từ nơi ở đến ruộng của các
3
hộ nông dân khoảng 4,7km. Chính vì vậy, việc sản xuất nông sản hàng hóa phục vụ chế biến
công nghiệp và xuất khẩu còn hạn chế. Thường thì nhiều loại nông sản không đủ khối lượng
cũng như chất lượng (độ đồng đều, độ chín, độ tươi, độ ngọt, độ chua,...) phù hợp với công
suất và yêu cầu chế biến của nhà máy công nghiệp hay của những đơn hàng xuất khẩu lớn.
Ngay đối với gạo xuất khẩu là loại nông sản có diện tích gieo trồng tương đối tập trung ở khu
vực đồng bằng sông Cửu Long song để có được một lượng lớn gạo (vài trăm ngàn tấn) có
cùng loại giống, cùng kích cỡ hạt trong một thời gian ngắn cũng không phải là việc dễ làm.
Các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh nông sản của Việt Nam cũng thường là nhỏ
và rất nhỏ theo tiêu chí phân loại của Nghị định số 56/2009/NĐ-CP. Do có quy mô nhỏ nên
các doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, chế biến ra các sản phẩm
đơn giản, đơn điệu, giá trị gia tăng thấp, nhưng lại rất hạn chế trong việc đầu tư thay thế thiết
bị và đổi mới công nghệ. Điều đáng nói là đa phần các doanh nghiệp chế biến nông sản trong
nước hạn chế cả về năng lực công nghệ, sản phẩm lẫn về trách nhiệm xã hội và môi trường Điều rất được coi trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là xuất khẩu sản phẩm
vào thị trường các nước phát triển như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản,....
1.2.2. Mức tăng trưởng sản xuất nông nghiệp giảm dần
Tốc độ gia tăng giá trị bình quân nông sản giảm từ 4,42% (giai đoạn 1996-2000),
3,83% (giai đoạn 2001-2005) xuống còn 3,55% vào các năm 2006, 2007; hiện nay chỉ dưới
3%. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do các nguồn lực chính của nông nghiệp bị suy
giảm, bao gồm: đất đai, lao động và đầu tư, trong khi khoa học công nghệ chậm phát huy tác
dụng; thiên tai, dịch bệnh xảy ra nhiều và gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất.
1.2.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm
Ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên 57% giá trị sản lượng nông nghiệp). Giá trị
thu được trên đơn vị diện tích canh tác bình quân mới đạt khoảng 30 triệu đồng/ha, một số
vùng như vùng Tây bắc chỉ đạt 10,9 triệu đồng/ha. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam đã đạt ngưỡng về năng suất, như lúa (6 tấn/ha), cà phê (2,5 tấn/ha)..., việc tăng trưởng
theo số lượng là khó cải thiện. Mặc dù vậy, diện tích và sản lượng nông sản hàng hóa chưa
cao, chưa thuận lợi cho phát triển chế biến quy mô lớn, hiện đại.
12.4. Tổn thất sau thu hoạch lớn
Mặc dù cơ giới hóa nông nghiệp có mức tăng trưởng nhanh trong vòng 5 năm qua,
nhất là trong lĩnh vực canh tác và thu hoạch lúa, song tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng
và chất lượng đối với nhiều loại nông sản, thủy sản còn rất lớn như rau quả, đánh bắt hải sản
trên 20%; lúa gạo, ngô 11-13%; đường mía 15%;... Có thể nói Việt Nam là một trong số các
nước có tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch đối với phần lớn các loại nông sản lớn nhất trong khu
vực và trên thế giới.
1.2.5. Doanh nghiệp, dịch vụ nông thôn chậm phát triển
Từ khi có Luật Doanh nghiệp, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đã
tăng đáng kể, từ 4.574 cơ sở năm 2001 lên 11.238 năm 2005 (không kể 745 nghìn cơ sở sản
xuất cá thể). Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông, các hoạt động
phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Doanh nghiệp ở
nông thôn, kể cả doanh nghiệp sản xuất, chế biến và kinh doanh nông nghiệp, đều có quy mô
nhỏ. Nhìn chung công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, tay nghề lao động yếu, những bất
lợi về kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất khiến cho khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp này rất yếu. Có lẽ đây là nguyên nhân chính khiến cho tỷ lệ đầu tư tư nhân và
đầu tư nước ngoài vào nông thôn rất thấp. Đầu tư của tư nhân trong nước vào khu vực nông
nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% tổng số đầu tư mới hàng năm, FDI cũng chỉ chiếm dưới 5%.
Do doanh nghiệp công nghiệp nông thôn chủ yếu gồm các cơ sở có quy mô dưới 200
lao động nên hàng năm mới thu hút được 22 vạn lao động, đưa tổng số lao động khu vực này
là 2,227 triệu người (bằng 52% lao động toàn ngành công nghiệp). Đây cũng là tình trạng
chung đối với doanh nghiệp nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Tới cuối năm 2007, có
1.244 doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và 2.074 doanh nghiệp chế biến nông sản ở nông
thôn, chỉ chiếm 2,1% tổng số doanh nghiệp, chủ yếu vẫn đóng ở các thị trấn, thị tứ hoặc vùng
ven đô thị. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tích cực nhưng chủ yếu
mới tập trung vào các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ quy mô nhỏ. Các tập đoàn và
tổng công ty mới chuyển một phần sang hoạt động theo hình thức mẹ - con. Các nông, lâm
trường chưa có chuyển biến hiệu quả. Cả nước hiện có 314 nông trường và 368 lâm trường
quản lý trên 5,5 triệu ha đất nhưng chỉ thu hút được trên 200 nghìn lao động. Hoạt động của
4
nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn kém hiệu quả, 27% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, số nợ
phải trả chiếm đến 57% tổng doanh thu. Trong tình hình lao động nông thôn và số thanh niên
đến tuổi lao động cần việc làm vẫn tiếp tục tăng thêm hàng năm ở nông thôn (khoảng hơn 1
triệu người), việc doanh nghiệp nông thôn và đầu tư về nông thôn tăng trưởng chậm tạo nên
sức ép to lớn về việc làm và thu nhập của cư dân nông thôn. Trong giai đoạn 2001 - 2006, tỷ
lệ lao động nông nghiệp đã giảm 10,4%, trong đó chuyển sang làm công nghiệp - xây dựng là
5,1%, làm dịch vụ là 4,4%. Lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm 55,7% so với tổng số lao
động trong độ tuổi của cả nước và mới sử dụng 83% thời gian.
Trong kết cấu kinh tế hộ nông thôn, so với năm 2001, năm 2006 tỷ trọng hộ nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản giảm từ 80,9% xuống còn 70,9%, tỷ trọng hộ công nghiệp và xây dựng
tăng từ 5,8% lên 10%; tỷ trọng hộ dịch vụ từ 10,6% lên 14,8%. Tỷ trọng cả hai nhóm hộ công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã tăng 8,4%. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn diễn ra
khá chậm so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung trong cả nước. Vì vậy, thu nhập và điều
kiện sống của cư dân nông thôn không được cải thiện so với mức bình quân chung cả nước.
Thêm vào đó, đang xuất hiện sự phát triển không đồng đều giữa các vùng. Trong khi tỷ
trọng hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ở Đồng bằng sông Hồng tăng từ 18% năm 2001
lên 33% năm 2006; ở Đông Nam Bộ từ 33% lên tương ứng 43% thì ở Tây Bắc chỉ tăng từ 6%
lên 8%, còn ở Tây Nguyên từ 7% lên 10%.
1.2.6. Bộ máy tổ chức ngành nông nghiệp nông thôn còn yếu
Bộ máy quản lý nông nghiệp ở Trung ương và cấp tỉnh thì lớn nhưng ở cấp huyện và
cấp xã thì mỏng khó đủ sức giải quyết các vấn đề đang đặt ra. Mặt khác đội ngũ cán bộ
hưởng lương và trợ cấp ngân sách có xu hướng tăng thêm, nhưng phần đông là cán bộ làm
cho các tổ chức chính trị - xã hội. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn hạn chế,
48,7% cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn; 48,7% chưa qua đào tạo về lý luận chính trị;
55,5% chưa được đào tạo về quản lý hành chính nhà nước.
Tình trạng hành chính hóa các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể quần chúng một
mặt làm cồng kềnh bộ máy nhà nước, tăng thêm gánh nặng về ngân sách, gây khó khăn cho
việc cải thiện tiền lương của cán bộ, mặt khác làm mất đi tính sáng tạo tự chủ vốn có của
cộng đồng làng xã, kéo dài sự phân tán của hơn 10 triệu hộ tiểu nông. Sự giảm sút vai trò
quản lý tự chủ của các tổ chức và sinh hoạt cộng đồng ở thôn bản vốn rất mạnh mẽ trước
đây dẫn đến tình trạng phá hoại tài nguyên tự nhiên, tệ nạn xã hội, xói mòn văn hoá cổ
truyền, lan truyền các tôn giáo xa lạ ở nông thôn.
1.2.7. Đối mặt với những quy định khắt khe của thị trường thế giới
Càng hội nhập sâu vào nên kinh tế thế giới, hàng nông sản Việt Nam càng phải đối
mặt với các vấn đề mới đặt ra như: rào cản kỹ thuật trong thương mại (tiêu chuẩn kỹ thuật,
lao động, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm...); sự trợ cấp trong sản xuất nông sản ở
các nước phát triển. Hàng nông sản của các nước phát triển thì được trợ cấp cho sản xuất,
trợ cấp cho xuất khẩu mỗi năm tới hàng nghìn tỷ USD, trong khi hàng nông sản của Việt
Nam, cũng như các nước đang phát triển khác không được trợ cấp hoặc bị cắt giảm khi gia
nhập WTO;... Đồng thời nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn phải đối mặt với những vụ
kiện chống phá giá diễn ra ngày càng thường xuyên hơn, nhất là đối với những sản phẩm có
thế mạnh như tôm, cá tra,...
1.3. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững
1.3.1. Mục tiêu và giải pháp của Đề án tái cơ cấu
Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 đã chỉ rõ trong quá trình tái cơ cấu này, ngành chế biến
nông sản phải “Ưu tiên phát triển chế biến tinh, chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết
hợp với các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng
nông, lâm, thủy sản; phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong
vòng 10 năm”. Thực hiện định hướng này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban
hành quyết định số 1003/QĐ-BNN-CB ngày 13/5/2014 phê duyệt Đề án “Nâng cao giá trị gia
tăng hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch”. Mục tiêu hướng
tới của Đề án này là “Nâng cao giá trị, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các ngành hàng
nông lâm thủy sản thông qua việc tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm theo
hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm GTGT cao, áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới công
nghệ chế biến theo hướng hiện đại và giảm tổn thất sau thu hoạch (cả số lượng và chất
5
lượng), nâng cao chất lượng và an toàn thực phẩm (ATTP)”. “Đến năm 2020, GTGT các
ngành hàng nông lâm thủy sản tăng bình quân 20% so với hiện nay” và cụ thể là “Gạo tăng
20%; cà phê tăng 13%; chè tăng 30%; thủy sản tăng 20 %; cao su tăng 20%; muối tăng 20%;
đồ gỗ tăng trên 20%, giảm 50% lượng nguyên liệu đưa vào chế biến dăm gỗ”; “Đến 2020, tổn
thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản giảm 50% so với hiện nay”.
Để đạt được mục tiêu này trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp là (i) tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết sản xuất nguyên liệu chế biến - tiêu thụ và (ii) chuyển dịch cơ cấu sản phẩm chế biến theo hướng nâng cao tỷ
trọng các sản phẩm có GTGT cao, nâng cao chất lượng và an toàn thực phẩm, hạ giá thành
sản phẩm.
Hộp 1:
Mục tiêu của Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn
2011-2020
Mục tiêu tổng quát: Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020
Giai đoạn 2011-2015: phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy
dân chủ cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn; tăng thu nhập và
giảm đáng kể tỷ lệ nghèo, bảo vệ môi trường. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,33,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng
khoa học công nghệ. Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ
năng sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động nông thôn.
Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên kết dọc theo ngành
hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Phát triển doanh nghiệp nông thôn. Hình
thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế
nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, phòng chống
thiên tai.
Giai đoạn 2016-2020: phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản xuất
hàng hóa lớn, vững bền; phát triển nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa đất nước, tăng thu nhập và cải thiện căn bản điều kiện sống của cư dân nông thôn,
bảo vệ môi trường. Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,54%/năm. Hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu cầu
thị trường. Phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô
thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông
thôn. Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động nông nghiệp còn
khoảng 30% lao động xã hội. Hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có kỹ năng sản
xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình kinh tế hợp tác và kết nối với thị trường.
(Chiến lược phát triển nông nghiệp nâng thôn giai đoạn 2011-2020)
1.3.2. Một số lĩnh vực chế biến nông sản ưu tiên phát triển trong giai đoạn tái cơ cấu
ngành
1.3.2.1. Lúa gạo
- Thay đổi cơ cấu giống lúa, sử dụng giống chất lượng cao có xác nhận; thay đổi cơ
cấu sản phẩm gạo xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm gạo thơm, gạo chất lượng
cao. Đến năm 2020, tăng tỷ lệ gạo thơm, gạo chất lượng cao lên 70% sản lượng gạo xuất
khẩu;
- Áp dụng công nghệ chế biến hiện đại tạo các sản phẩm có GTGT cao và thực hiện
đúng quy trình xay xát, nâng cao chất lượng sản phẩm gạo, đến năm 2020 tỷ lệ gạo thu hồi
trong xay xát đạt trên 68%, tỷ lệ hạt bạc bụng không lớn hơn 4%, hạt hư hỏng không quá
0,2%.
1.3.2.2. Cà phê
6
- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, nâng tỷ lệ cà phê hòa tan, cà phê rang xay lên 25%
vào năm 2020.
- Nâng cao chất lượng chế biến cà phê nhân xuất khẩu.
1.3.2.3. Chè
- Khuyến khích đầu tư công nghệ chế biến ướt quy mô lớn, gắn với xử lý nước, hạn
chế ô nhiễm môi trường, thực hành chế biến ướt cà phê thóc quy mô hộ, nâng tỷ lệ cà phê
chế biến ướt lên 30% vào năm 2020.
- Đảm bảo trên 80% sản lượng chè được chế biến đúng yêu cầu kỹ thuật.
- Đầu tư cải tiến công nghệ, thiết bị hiện đại để thay đổi cơ cấu sản phẩm, nâng cao chất
lượng và tăng tỷ lệ chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng thị hiếu của thị trường.
- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm để đạt tỷ lệ 45% là chè xanh, chè đặc sản và 55% là
chè đen, đồng thời phát triển các sản phẩm chè chế biến sâu gắn với thương hiệu và cung cấp
đến người sử dụng sau cùng, tỷ trọng đạt trên 20% tổng sản lượng chè chế biến.
1.3.2.4. Thủy sản
- Đa dạng hóa sản phẩm thủy sản chế biến, tập trung sản xuất các sản phẩm có GTGT
phù hợp với thị hiếu từng thị trường. Nâng tỷ trọng sản phẩm GTGT lên 60-70% so với tổng
sản lượng thủy sản chế biến. Tập trung chế biến các sản phẩm thủy sản GTGT cao như: Tôm
(PTO, Sushi, Nobashi, Tempura, Butterfly PTO,…); Cá ngừ (sashimi, đóng hộp, xông khói,…);
cá tra (file bao gói nhỏ, bao bột, chả viên, khô cá tra tẩm gia vị,…); cá biển (surimi, khô tẩm
gia vị ăn liền, đồ hộp,…); nhuyễn thể (Sushi, sashimi, bánh nhân bạch tuộc, thực phẩm chức
năng từ hàu,...).
- Từ nay đến 2020 hạn chế đầu tư mới các cơ sở chế biến thủy sản sản xuất ra sản
phẩm sơ chế vì đã dư thừa 40% công suất, chỉ khuyến khích đầu tư cơ sở chế biến ra các
sản phẩm GTGT.
- Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong chế biến, bảo quản thủy sản như: Công
nghệ cấp đông siêu nhanh, sấy chân không thăng hoa, sấy bức xạ hồng ngoại, công nghệ
enzyme, công nghệ bảo quản thủy sản sống bằng phương pháp ngủ đông, bao gói MAP, ....
Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như: HACCP, Codex, ISO, BRC-food, Halal,... đáp ứng tốt yêu
cầu về chất lượng và an toàn thực phẩm.
Hộp 2:
Định hướng phát triển công nghiệp chế biến
Áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt (hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo lao động, cho vay
vốn ưu đãi, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, đơn giản hóa thủ tục, miễn giảm
thuế doanh nghiệp ở mức cao nhất,...) để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong
và ngoài nước phát triển công nghiệp chế biến. Đặc biệt khuyến khích các ngành công
nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, áp dụng công nghệ hiện đại, làm ra các sản phẩm có
giá trị cao, mở ra hướng mới về phát triển thị trường. Hình thành một số đề án phát triển để
tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo
nghề cho một số khu công nghiệp chế biến tại các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp
lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.
Tăng đáng kể tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến nông sản trong cơ cấu kinh tế
của ngành công nghiệp nhằm tạo việc làm và thu nhập cho cư dân nông thôn, nâng cao giá
trị hàng hóa nông sản.Trước hết, phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam
có lợi thế sản xuất, có nguyên liệu và thu hút nhiều lao động (chế biến gỗ, hạt điều, thủy
sản, đồ thủ công mỹ nghệ,...) kết hợp với tổ chức sản xuất nguyên liệu, quy hoạch các
vùng nguyên liệu chuyên canh có cơ sở hạ tầng và hình thức tổ chức sản xuất gắn bó với
nhà máy chế biến hoặc các kênh nhập khẩu nguyên liệu ổn định để đảm bảo quy mô sản
xuất lâu dài. Phát triển từ sơ chế đến chế biến sâu đối với những ngành hàng cho đến nay
vẫn xuất khẩu nguyên liệu thô (lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, chè,…). Nghiên cứu khả
năng đầu tư những ngành công nghiệp chế biến có giá trị cao mà Việt Nam có tiềm năng
phát triển và có thị trường (rau quả, sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản, dược phẩm, đồ
uống…).
(Chiến lược phát triển nông nghiệp nâng thôn giai đoạn 2011-2020)
1.3.2.5. Chế biến thịt
7
- Đến năm 2020, cơ cấu các loại thịt được chuyển dịch theo hướng: thịt lợn hơi xuất
chuồng giảm còn 62%, tăng tỷ trọng thịt gia cầm lên 28% và thịt trâu, bò lên 10%.
- Tổ chức liên kết theo chuỗi sản phẩm từ khâu sản xuất đến thị trường, trong đó các
doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm để liên kết với các tổ chức sản xuất như liên kết tổ hợp
tác, hội, hiệp hội ngành hàng; chú trọng việc xây dựng các thương hiệu.
- Đối với ngành hàng thịt lợn, đến năm 2020 phấn đấu xuất khẩu 1,0 triệu tấn thịt lợn
hơi.
- Đối với ngành hàng trứng vịt muối và thịt vịt đến năm 2020 xuất khẩu 1 - 2 tỷ quả
trứng muối và 70-100 ngàn tấn thịt vịt.
1.3.2.6. Cao su
- Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm mủ cao su sơ chế: Đến năm 2020, cơ cấu sản phẩm
như sau: Mủ cốm SVR 3L, SVR 5L chiếm khoảng 20%; SVR CV50, 60 khoảng 25%; mủ kem
20%; mủ cao su kỹ thuật RSS, SR và SVR 10, SVR 20 chiếm khoảng 35% để nâng cao giá trị
xuất khẩu và đưa tỷ trọng sử dụng sản phẩm cao su thiên nhiên sơ chế trong nước lên tối
thiểu 30%.
- Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến cao su sơ chế thành các sản phẩm cao su
công nghiệp (săm lốp ô tô, xe máy; găng tay y tế; đệm mút...), nâng tỷ lệ cao su chế biến sử
dụng nguyên liệu trong nước từ 17% hiện nay lên 30% vào năm 2020.
- Ứng dụng khoa học công nghệ, đầu tư thay thế khoảng 30-40% thiết bị sấy theo
công nghệ sấy từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch hiện nay bằng thiết bị sấy theo công nghệ sấy
bằng sóng cao tần, đảm bảo khoảng 30-35% sản lượng cao su thiên nhiên của Tập đoàn
Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) được dán nhãn Cac-bon Foot Print (ISO 14067).
1.3.2.7. Chế biến gỗ
- Cơ cấu lại sản phẩm chế biến gỗ, giảm tối đa xuất khẩu dăm gỗ sang chế biến các sản
phẩm phù hợp với quy mô nguyên liệu từng vùng. Trong đó, đến năm 2020 giảm tỷ lệ sản
phẩm dăm gỗ, ván bóc từ 22% xuống 6%, gỗ ghép thanh tăng lên 12%; sản phẩm ngoại thất là
25%; ván dăm 7%; MDF 26%; sản phẩm gỗ mỹ nghệ, nội thất là 24%
- Khuyến khích đầu tư các nhà máy sản xuất ván sợi MDF có công suất từ 120.000
m3/năm trở lên.
- Đối với những vùng gỗ rừng trồng phân tán, gỗ rừng trồng vùng xa xôi, khó khăn:
khuyến khích sản xuất ván gỗ dăm, gia công bóng bề mặt và đồ mộc cấp thấp phục vụ nhu
cầu trong vùng.
2. DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG SẢN
2.1. Chuỗi giá trị nông sản
Có thể nói thị trường kể cả nội tiêu và xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản thiết
yếu và có thế mạnh của Việt Nam đang ngày càng rộng mở, khối lượng hàng hóa tiêu thụ
cũng như giá trị sản phẩm đang ngày một tăng cao, tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự
phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển, mở rộng, các thị trường tiêu thụ nông sản cũng đang trở nên
ngày một khó tính hơn, có yêu cầu ngày càng cao hơn về chất lượng sản phẩm, về an toàn
vệ sinh thực phẩm, an toàn đối với người tiêu dùng và môi trường. Đặc biệt trên các thị trường
xuất khẩu, nông sản Việt Nam đang phải đối mặt với ngày càng nhiều khó khăn, thách thức như
việc phải vượt qua các rào cản kỹ thuật, các rào cản thương mại đã và đang được dựng lên ở
những thị trường lớn, các vụ kiện chống bán phá giá,… Chính vì vậy, việc sản xuất và tiêu thụ
các mặt hàng nông sản cũng đang đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các bên liên quan trong
chuỗi sản xuất nhằm giữ vững uy tín thương hiệu, ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Hình thành các chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản đã trở thành một giải
pháp quan trọng, một xu thế tất yếu, mang tính quyết định đến khả năng cạnh tranh của nông
sản, nhất là đối với các thị trường nhập khẩu của các nước phát triển.
Một trong những đặc thù trong sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay là sản
xuất vẫn ở quy mô nhỏ, manh mún, kỹ thuật lạc hậu, năng suất và chất lượng sản phẩm chưa
cao nên khả năng tiêu thụ hàng hóa vẫn chủ yếu dựa theo tập quán, tự cung, tự cấp, thiếu
hẳn các chiến lược phát triển lâu dài và thường chỉ chạy theo những mối lợi trước mắt mà bỏ
qua nhưng cơ hội phát triển ở qui mô sản xuất hàng hóa, mang tính chiến lược. Chính vì vậy,
mối liên kết giữa các bên liên quan trong cả quá trình từ sản xuất nông nghiệp đến người tiêu
dùng, từ trang trại đến bàn ăn, giữa người sản xuất nông nghiệp với các doanh nghiệp chế
biến và với người xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm… thường khó hình thành, hoặc đã hình thành
8
nhưng còn lỏng lẻo nên nông sản hàng hóa nói chung thường có giá trị gia tăng thấp. Hầu hết
các mặt hàng nông sản xuất khẩu đều dưới dạng nguyên liệu thô và đều có giá bán thấp hơn
giá bán trung bình của thế giới, chẳng hạn như giá chè trong 10 năm qua chỉ bằng 52,7% giá
chè thế giới, giá gạo thường thấp hơn giá gạo cùng loại của Thái Lan 10 - 30USD… Điều
quan trọng là cho đến nay, chúng ta chưa có được sự nhịp nhàng, đồng bộ giữa khâu sản xuất
nông sản với các khâu khác như chế biến và tiêu thụ chúng. Điệp khúc “được mùa mất giá”, giá
nguyên liệu cho chế biến công nghiệp lên xuống thất thường khiến cho việc chế biến, tiêu thụ
sản phẩm, nhất là sản phẩm xuất khẩu không ổn định vẫn diễn ra thường xuyên với tần suất
ngày càng dầy hơn. Con đường tất yếu để ổn định sản xuất, chế biến và qua đó ổn định thị
trường tiêu thụ sản phẩm chính là việc liên kết các khâu sản xuất nông nghiệp, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm trong một chuỗi liên kết hữu cơ. Tạo ra được chuỗi liên kết chặt chẽ từ sản xuất
đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và thiết thực thực
hiện Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 Hội
nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đồng thời sẽ tạo ra
những lợi thế rất lớn cho nông sản Việt Nam.
Trước hết, tham gia vào chuỗi liên kết ổn định, chặt chẽ, nhất là giữa các khâu sản
xuất nguyên liệu và chế biến nông sản, các mặt hàng nông sản sẽ tăng giá trị gia tăng do
tăng được khả năng đầu tư khoa học công nghệ trong cả khâu sản xuất lẫn khâu chế biến.
Các doanh nghiệp chế biến nông sản sẽ ổn định được sản xuất do ổn định được nguồn cung
cấp nguyên liệu, do có được nguồn nguyên liệu có chất lượng cao và do đó thị trường tiêu
thụ sản phẩm cũng sẽ ngày càng ổn định hơn, uy tín, chất lượng nông sản vì vậy cũng được
cải thiện và nâng cao. Thực tế cho thấy với khoảng gần 90% số nông sản xuất khẩu của
chúng ta hiện nay là sản phẩm thô thì chẳng những chúng ta đang lãng phí một nguồn tài
nguyên nông nghiệp to lớn do không thu được phần giá trị gia tăng của nông sản thông qua
chế biến, mà còn không tạo ra sức cạnh tranh cần có cho nông sản trên thị trường tiêu thụ,
cũng như không có cơ hội tạo ra công ăn, việc làm cho người nông dân, đặc biệt là người
nông dân đã và đang chịu ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, cần có sinh
kế hữu hiệu một khi họ phải mất đi một phần tư liệu sản xuất.
Thứ hai, từ việc hình thành các chuỗi liên kết trong sản xuất, các nguồn lực tiềm năng
sẽ được phát hiện và phát huy hiệu quả tạo ra nguồn sức mạnh vật chất cho sản xuất nông
nghiệp. Nhờ vào các mối liên kết ổn định và chặt chẽ, người nông dân sẽ hoạch định được kế
hoạch sản xuất của mình một cách lâu dài và có nhiều cơ hội trong việc hợp tác với nhau tạo
ra các nguồn nông sản có sản lượng lớn, mang tính hàng hóa cao. Đồng thời, chất lượng
nông sản sẽ được nâng cao do được thu hoạch đúng thời điểm, thời gian tàng trữ sau thu
hoạch ngắn, … làm tăng lợi ích cho cả xã hội và người sản xuất. Các doanh nghiệp chế biến
nông sản cũng nhờ đó mà có điều kiện để được thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật cần
thiết, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, khi tham gia vào chuỗi liên kết, lợi ích của các bên liên quan trong chuỗi sẽ
được ổn định và hài hòa hơn, đồng thời hạn chế được những rủi ro vốn luôn tiềm ẩn trong
các quá trình sản xuất nông nghiệp. Tham gia vào chuỗi liên kết, một mặt, người nông dân do
có đầu ra của sản phẩm ổn định nên có thể yên tâm sản xuất, không còn lo lắng về giá cả lên
xuống, bấp bênh; doanh nghiệp chế biến do có đủ nguyên liệu, ổn định được sản xuất và thị
trường tiêu thụ sản phẩm nên có nhiều cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất và cải thiện chất
lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm do mình tạo ra. Mặt khác, nhà nước đảm
bảo thực hiện được mục tiêu đảm bảo lợi nhuận 30% trở lên đối vơi người nông dân, hạn chế
được tình trạng “được mùa rớt giá”. Thậm chí thương lái, người thu mua nông sản khi tham
gia vào chuỗi liên kết, cung ứng sản phẩm nếu tuân thủ những quy định chung cũng sẽ được
đảm bảo lợi ích một cách hài hòa với các thành phần khác.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất là thông qua việc thiết lập được các chuỗi liên kết,
cung ứng có hiệu quả thì chẳng những uy tín, thương hiệu của các nhà sản xuất, chế biến
nông sản được nâng cao mà uy tín và thương hiệu của nông sản Việt Nam cũng sẽ được
nâng cao cả trên thị trường thế giới lẫn trong mắt người tiêu dùng nội địa.
2.2. Vai trò của doanh nghiệp chế biến nông sản
Tái cơ cấu theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản,
chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng,
miền là một trong những nội dung quan trọng của Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
9
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững được phê duyệt tại Quyết định số
899/QĐ-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2013. Nói cách khác, quá trình tái cơ cấu ngành nông
nghiệp là phải xây dựng, quản lý và phát huy được các liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm
của các ngành hàng. Trong chuỗi liên kết này, các doanh nghiệp chế biến nông sản đóng vai
trò như một tác nhân chủ yếu, đầu mối, một mắt xích quan trọng nhất để hình thành và duy trì
hoạt động bền vững của chuỗi. So với các tác nhân khác trong chuỗi, các doanh nghiệp chế
biến nông sản là những đơn vị có tổ chức chặt chẽ và hoạt động mang tính công nghiệp hơn
cả. Họ cũng là tác nhân duy nhất sở hữu một khối lượng lớn người lao động được đào tạo,
huấn luyện để làm việc mang tính chuyên nghiệp cao; các công nghệ và dây chuyền chế biến
nông sản hiện đại; đồng thời cũng sở hữu một khối lượng tài sản lớn, có thể đảm đương
được những nhiệm vụ đòi hỏi phải huy động những nguồn lực đủ mạnh để duy trì hoạt động
của cả chuỗi. Các doanh nghiệp chế biến cũng là nơi tạo ra giá trị gia tăng của các mặt hàng
nông sản, là nơi tạo ra động lực để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, cũng như các hoạt động
phụ trợ phát triển.
Hộp 3:
Một số nội dung cơ bản của Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp
- Tập trung khai thác và tận dụng tốt lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng và
phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn theo hình thức trang trại, gia trại, khu nông
nghiệp công nghệ cao, đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về an toàn vệ sinh thực phẩm,
kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm với chuỗi giá
trị toàn cầu đối với các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo
quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế
vùng, miền… Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến sâu và
bảo quản sau thu hoạch theo hướng hiện đại, nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao
giá trị gia tăng của sản phẩm.
- Tái cơ cấu trong chăn nuôi: Khuyến khích áp dụng công nghệ cao, tổ chức sản xuất khép
kín hoặc liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất giống, thức ăn, đến chế biến
để nâng cao năng suất, cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng.
- Tái cơ cấu đối với thủy sản: Có cơ chế hỗ trợ người nghèo tham gia vào chuỗi giá trị và
chương trình bảo hiểm nông nghiệp; khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn kiểm soát xã hội
vào nuôi trồng và chế biến thủy sản.
- Phát triển công nghiệp chế biến: Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế
biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị, kết hợp với các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ
hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản; phấn đấu mỗi ngành hàng có
mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong vòng 10 năm.
Hơn thế nữa, các doanh nghiệp chế biến cũng thường đảm nhiệm cả nhiệm vụ kinh
doanh, phân phối, xuất khẩu nông sản nên có khả năng tìm hiểu, nắm bắt được thị hiếu của
người tiêu dùng, những biến động thị trường,… để từ đó nâng cao chất lượng, tính cạnh tranh
của sản phẩm, đồng thời huy động các ngưồn lực xã hội và trong chuỗi thiết kế các sản phẩm
mới nhằm ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị của các mặt hàng
nông sản. Trong một số trường hợp khi các doanh nghiệp chế biến nông sản không đảm
đương nhiệm vụ kinh doanh, xuất khẩu nông sản (như trường hợp xuất khẩu gạo hiện nay) thì
khó có thể tìm được tác nhân nào đóng vai trò chủ đạo trong liên kết và đương nhiên, có thể
liên kết sẽ khó có thể hình thành và phát triển bền vững được. Trong trường hợp này, giữa
doanh nghiệp chế biến nông sản và đơn vị xuất khẩu nông sản cần phải có mối liên kết gần,
chặt chẽ để có thể cùng đảm nhiệm vai trò chủ trì, đầu mối hoạt động của chuỗi.
Chính vì vậy, trong chuỗi liên kết sản xuất nông sản đang hướng tới, tác nhân đầu mối,
chủ trì của chuỗi - các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản không chỉ đóng vai trò phối
hợp, duy trì hoạt động của các tác nhân trong chuỗi một cách phù hợp, nhịp nhàng, theo một
thể thống nhất nhằm đạt được mục tiêu tối đa là nâng cao chất lượng, tính cạnh tranh của sản
phẩm làm ra, mà quan trọng hơn cả là đạt được mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng, nâng cao
10
thương hiệu, uy tín và tính cạnh tranh của các mặt hàng nông sản Việt Nam, qua đó đạt được
lợi nhuận cao nhất có thể của chuỗi, cũng như của mỗi tác nhân trong chuối liên kết. Và do đó
“nhạc trưởng” này sẽ tạo ra một chuỗi liên kết hoạt động thực sự có hiệu quả và bền vững.
Hơn thế nữa, với mô hình chuỗi liên kết này, nhà nước sẽ có địa chỉ cụ thể để hỗ trợ
cho sản xuất của chuỗi thông qua hệ thống chính sách và các tổ chức hỗ trợ của mình; người
nông dân sẽ ý thức được hơn về vị thế của mình, có điều kiện tiếp cận những điều kiện sản
xuất tốt hơn để làm ra các loại nông sản có giá trị cao hơn, trước hết là phù hợp yêu cầu của
doanh nghiệp chế biến và sau đó là phù hợp nhu cầu thị trường. Thương lái hay người thu gom
nông sản sẽ có cơ hội được tổ chức lại, đóng góp vào phần giá trị gia tăng của nông sản và
không còn bị coi thường trong con mắt của một số người nữa. Các nhà khoa học (các viện
nghiên cứu, trường đại học,…) vừa có thể dễ dàng nhận được các đơn đặt hàng cụ thể, vừa có
những địa chỉ tin cậy để áp dụng các kết quả nghiên cứu, thành tựu đã đạt được của mình. Kết
quả hoạt động khoa học của họ sẽ được thực tế dễ dàng công nhận, đem lại lợi ích cho sản
xuất. Nhưng điều quan trọng hơn là thông qua liên kết chuỗi, nhà khoa học nhận được những
lợi ích kinh tế do đóng góp của họ đem lại một cách xứng đáng
3. THỰC TRẠNG CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN
3.1. Số lượng doanh nghiệp chế biến nông sản
Hiện tại, chỉ tính riêng cho 12 ngành hàng chủ yếu là lúa gạo, cà phê, cao su, chè,
điều, đường mía, rau quả, hồ tiêu, thịt, thủy sản, thức ăn chăn nuôi và chế biến gỗ thì cả
nước có khoảng 6.610 doanh nghiệp và hàng ngàn hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực chế
biến nông sản. Trong đó, chế biến lúa gạo có 582 doanh nghiệp, chiếm 8,8% tổng số doanh
nghiệp cả nước; chế biến cà phê có 239 doanh nghiệp (3,6%); chế biến cao su là 147 doanh
nghiệp (2,2%); chế biến chè: 257 doanh nghiệp (3,9%); chế biến điều: 328 doanh nghiệp
(5,0%); chế biến đường mía: 38 doanh nghiệp (0,57%); rau quả: 145 doanh nghiệp (2,2%);
Hồ tiêu: 17 doanh nghiệp (0,3%); chế biến thịt: 51 doanh nghiệp (0,8%); Chế biến thủy sản:
864 doanh nghiệp (13,1%); chế biến thức ăn chăn nuôi: 338 doanh nghiệp (5,1%) và chế biến
gỗ: 3.604 doanh nghiệp (54,5%). Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản. Những địa phương có ít ngành
hàng có doanh nghiệp chế biến (2 ngành hàng) là Lạng Sơn, Bắc Kạn, Phú Thọ, Đà Nẵng. Có
4 địa phương là thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đồng Nai, Bình Dương có nhiều doanh
nghiệp chế biến nhiều loại mặt hàng nông, lâm, thủy sản (10-11 ngành hàng). Có 18 tỉnh,
thành phố trong cả nước có trên 100 doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản mỗi địa
phương. Có 15 tỉnh, thành phố có từ 50 đến 99 doanh nghiệp chế biến nông sản hoạt động.
Các tỉnh còn lại đều có từ trên 10 doanh nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản. Tỉnh có số
lượng doan nghiệp chế biến nông sản ít nhất là Cao Bằng (12 doanh nghiệp). Điều đáng nói
là có đến 88,89% số tỉnh, thành phố có trên 100 doanh nghiệp chế biến nông sản hoạt động
là ở khu vực phía Nam. Chỉ có 2 tỉnh, thành phố ở phía Bắc có trên 100 doanh nghiệp chế
biến nông sản là Hà Nội (289 doanh nghiệp) và Bắc Ninh (102 doanh nghiệp).
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp chế biến nông sản phân theo ngành hàng
TT
Ngành hàng chế biến nông sản
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Lúa gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Điều
Đường mía
Rau quả
Hồ tiêu
Thức ăn chăn nuôi
Chế biến Thịt
Chế biến thủy sản
Chế biến gỗ
Tổng số
11
Số lượng doanh nghiệp
Tổng số
Tỷ lệ %
582
8,80
239
3,62
147
2,22
257
3,89
328
4,96
38
0,57
145
2,19
17
0,26
338
5,11
51
0,77
864
13,07
3.604
54,52
6.610
100,00
(Nguồn: Dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ chức
sản xuất - Viện QH và Thiết kế nông nghiệp, 2013)
Đa phần các doanh nghiệp chế biến nông sản là các doanh nghiệp dân doanh (85,3%
tổng số doanh nghiệp được điều tra). Số doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn
nước ngoài tương đối thấp, tương ứng là 4,1% và 10,6%. Chế biến cao su là ngành có nhiều
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước nhất. Số doanh nghiệp có sở hữu nhà nước chiếm
21,77% tổng số doanh nghiệp chế biến trong ngành. Ngành chế biến cà phê và chế biến chè
có doanh nghiệp chế biến thuộc sở hữu nhà nước xấp xỉ nhau, chiếm 10,88% và 10,51%
tổng số doanh nghiệp chế biến trong ngành theo thứ tự. Trong khi đó, ngành chế biến hồ tiêu
hầu như không có doanh nghiệp nhà nước nào tham gia trong lĩnh vực chế biến. Điều này
cho thấy hiện có 3 ngành hàng chế biến nông sản là chế biến cao su, cà phê và chè đang
được nhà nước quan tâm đầu tư hơn các ngành chế biến khác. Hiện các nhà đầu tư nước
ngoài đang đầu tư mạnh vào các ngành chế biến rau quả, chế biến hồ tiêu và chế biến thức
ăn chăn nuôi. Do vậy số lượng các doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực này cao hơn hẳn các
lĩnh vực chế biến nông sản khác. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI so với tổng số doanh nghiệp chế
biến trong từng ngành chế biến rau quả, hồ tiêu và thức ăn chăn nuôi tương ứng là 26,21%,
23,53% và 19,53%. Doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực chế biến cà phê, chè, đường mía và chế
biến gỗ dao động trong khoảng 10% đến 13,18%. Mặc dù chế biến lúa gạo và chế biến thủy
sản nhận được nhiều về chính sách đầu tư, phát triển và tiêu thụ nhưng số lượng doanh
nghiệp chế biến dân doanh lại có số lượng áp đảo. Có đến gần 94% tổng số doanh nghiệp
trong ngành chế biến lúa gạo và 92,13% tổng số doanh nghiệp chế biến thủy sản là doanh
nghiệp dân doanh. Ngành chế biến điều và chế biến thịt cũng có số lượng doanh nghiệp dân
doanh rất cao (97,26% và 90,2% tổng số doanh nghiệp trong từng ngành). Ngành chế biến có
tỷ lệ doanh nghiệp dân doanh thấp nhất là chế biến rau, quả. Chỉ có gần 70% tổng số doanh
nghiệp trong lĩnh vực này là doanh nghiệp dân doanh. Các số liệu cho thấy hiện tại các doanh
nghiệp có sở hữu ngoài nhà nước đang chiếm tỷ lệ áp đảo trong lĩnh vực chế biến nông sản
nói chung. Đây cũng là xu thế phát triển tất yếu của sản xuất hiện nay.
Bảng 2. Số lượng doanh nghiệp chế biến NLTS phân theo hình thức sở hữu
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Ngành hàng chế
biến nông sản
Lúa gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Điều
Đường mía
Rau quả
Hồ tiêu
Thức ăn chăn nuôi
Chế biến Thịt
Chế biến thủy sản
Chế biến gỗ
Tổng số
Số
doanh
nghiệp
582
239
147
257
328
38
145
17
338
51
864
3.604
6.610
Nhà nước
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
21
3,61
26
10,88
32
21,77
27
10,51
5
1,52
1
2,63
6
4,14
0
0,00
14
4,14
3
5,88
32
3,70
105
2,91
272
4,1
Hình thức sở hữu
FDI
Dân doanh
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
14
547
2.41
93,99
24
189
10,04
79,08
4
111
2,72
75,51
30
200
11,67
77,82
4
319
1.,2
97,26
5
32
13,16
84,21
38
101
26,21
69,66
4
13
23,53
76,47
66
258
19,53
76,33
2
46
3,92
90,20
36
796
4,17
92,13
475
3024
13,18
83,91
702
10,6
5636
85,3
(Nguồn: Dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ chức
sản xuất - Viện QH và Thiết kế nông nghiệp, 2013)
Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện nay đều có quy mô nhỏ, sử dụng ít
lao động. Bình quân số lao động cho một doanh nghiệp chế biến nông sản chỉ là 154 người.
Doanh nghiệp chế biến cao su và đường mía có số lao động bình quân cao nhất (496 và 464
người/doanh nghiệp). Trong khi đó, doanh nghiệp chế biến lúa gạo và chế biến chè sử dụng ít
lao động nhất (62 và 81 người/doanh nghiệp). Các doanh nghiệp chế biến trong những ngành
12
hàng khác đều chỉ sử dụng khoảng 130 - 160 lao động mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
chế biến thủy sản sử dụng khoảng 280 lao động/doanh nghiệp. Lao động trong doanh nghiệp
chế biến thức ăn chăn nuôi và chế biến gạo chế biến được khối lượng sản phẩm cao nhất,
tương ứng là 267,5 và 201 tấn sản phẩm/năm đối với mỗi lao động. Các lao động ngành chế
biến chè, điều và thủy sản tạo ra khối lượng thấp nhất, dưới 10 tấn sản phẩm /năm. Trong khi
các doanh nghiệp trong lĩnh vực còn lại đều tạo ra khối lượng sản phẩm dao động trong
khoảng 12,6 -73,5 tấn SP/năm.
Bảng 3. Tổng công suất thiết kế và số lượng lao động trong các doanh nghiệp
chế biến nông sản
TT
Ngành
hàng chế
biến
nông sản
1
Lúa gạo
2
3
Cà phê
Cao su
4
Chè
5
Điều
Đường
mía
Rau quả
Hồ tiêu
Thức ăn
chăn nuôi
Chế biến
Thịt
Chế biến
thủy sản
Chế biến
gỗ
Tổng
cộng
6
7
8
9
10
11
12
Công suất thiết kế
Đơn vị
tính
tấn
lúa/năm
tấn/năm
tấn/năm
tấn búp
tươi/ngày
tấn/năm
tấn
mía/ngày
tấn/năm
tấn/năm
tấn/năm
tấn/năm
tấn/năm
m3
gỗ/năm
Công suất
17.270.000
Lao động
Số lượng
Bình
(người)
quân
(người/d
. nghiệp)
35.896
62
Sản phẩm
Khối lượng SP theo
(tấn
LĐ
SP/năm)
(tấn SP/
LĐ/năm)
8.100.000
201,0
1.469.948
1.175.370
5.204
26.780
72.839
20.764
112
496
81
1.245.870
913.866
170.000
46,5
12,6
9,6
278.594
129.900
54.842
17.631
167
464
236.564
1.295.878
4,3
73,5
826.630
116.300
18.908.780
18.598
2.279
51.749
128
134
153
464.157
65.595
13.814.078
25,0
28,8
267,5
195.661
8.432
165
147.974
17,6
2.882.115
241.417
279
1.834.375
7,6
25.452.386
469.675
130
18.995.931
40,4
1.020.875
154
(Nguồn: Dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ chức
sản xuất-Viện QH và Thiết kế nông nghiệp, 2013)
3.2. Giá trị của các doanh nghiệp chế biến nông sản
Tổng giá trị của các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản cả nước đạt trên
791.841 tỷ đồng. Có 4 ngành hàng có giá trị chế biến của các doanh nghiệp đạt trên 100 ngàn
tỷ đồng. Đó là ngành thủy sản đạt trên 147.241 tỷ đồng (bằng 18,59% giá trị chế biến nông,
lâm, thủy sản cả nước), ngành chế biến gỗ đạt trên 141.521 tỷ đồng (bằng 17,87%), ngành
chế biến thức ăn chăn nuôi đạt trên 135.024 tỷ đồng (bằng 17,05%) và ngành chế biến lúa
gạo đạt trên 114.783 tỷ đồng (bằng 14,5%). Tổng giá trị chế biến của 4 mặt hàng này đạt trên
538.570 tỷ đồng (bằng 68% tổng giá trị chế biến của cả 12 ngành hàng nêu trên). Điều này
cho thấy các doanh nghiệp chế biến của nước ta mới chỉ tập trung chủ yếu vào 04 mặt hàng
nông sản chủ yếu là chế biến thủy sản, chế biến gỗ, chế biến thức ăn chăn nuôi và chế biến
lúa gạo mà chưa thực sự chú ý đầu tư vào những nông sản có nhiều tiềm năng khác. Nói
cách khác, các doanh nghiệp chế biến nông sản vẫn sản xuất theo cái mình có mà chưa sản
xuất theo nhu cầu, định hướng của thị trường và của xu thế sản xuất trong khu vực. Nhìn
chung, các doanh nghiệp chế biến nông sản vẫn sản xuất một cách đơn điệu. Nhiều nhóm
hàng, nhất là các nhóm hàng cây công nghiệp như chè, điều, hồ tiêu,… chiếm một tỷ lệ khá
nhỏ trong tổng giá trị chế biến toàn ngành. Đa phần nhóm hàng chế biến cây công nghiệp chỉ
13
chiếm dới 5% trong tỷ trọng chế biến nông sản chung cả nước. Chế biến thịt cũng là một
ngành chế biến hết sức nhỏ cả về số lượng doanh nghiệp lẫn giá trị chế biến. Giá trị chế biến
thịt chỉ chiếm 0,62% giá trị chế biến nông sản cả nước. Trong khi kỳ vọng vào ngành chế biến
này là khá cao.
Các doanh nghiệp chế biến nông sản, nhìn chung vẫn hướng đến xuất khẩu là chủ
yếu. Có đến 62,6% tổng giá trị chế biến được dành cho thị trường xuất khẩu. Các doanh
nghiệp chế biến điều, cao su, hồ tiêu, cà phê và thủy sản chủ yếu sản xuất sản phẩm phục vụ
xuất khẩu. Mỗi ngành đều sử dụng trên 85% giá trị chế biến của mình dành cho xuất khẩu.
Ngược lại có những ngành chế biến lại chỉ chủ yếu phục vụ cho thị trường nội tiêu như ngành
chế biến mía đường, hay ngành chế biến thức ăn chăn nuôi sử dụng đến 95% và 98,9% theo
thứ tự giá trị chế biến dành cho thị trường nội địa. Rõ ràng là có sự mất cân đối trong tiêu thụ
sản phẩm chế biến của các doanh nghiệp chế biến nông sản trong thời điểm hiện nay. Các
ngành chế biến quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn như lúa gao, các cây công nghiệp, rau quả,
thủy sản, chế biến gỗ,… hầu như chỉ quan tâm đến thị trường xuất khẩu mà bỏ quên thị
trường nội địa. Thậm chí một số mặt hàng còn tập trung chủ yếu vào một hoặc hai thị trường
lớn với thị phần trên 50% mà chưa chú ý khai thác các thị trường khác. Điều này có thể sẽ
tạo ra những rủi ro không đáng có nếu có sự biến động của thị trường nước ngoài hoặc trong
trường hợp có những bất ổn về tài chính, về quan hệ,… giữa các nước đang chiếm thị phần
tiêu thụ lớn đối với nông sản Việt Nam.
Bảng 4. Giá trị chế biến và tiêu thụ sản phẩm của các các doanh nghiệp chế biến nông sản
năm 2012
14
Giá trị chế biến (triệu đồng)
TT
Ngành
hàng
Cả nước
Tổng
số
(tr.đ)
Tỷ lệ
so
với
cả
nước
(%)
791.841.119
Giá trị tiêu thụ sản phẩm
Phân theo sở hữu (triệu đồng)
DN có vốn
nhà nước
DN có vốn
nước ngoài
DN vốn
ngoài nhà
nước
100,0
63.993.713
191.649.289
536.198.116
Xuất khẩu
Giá trị
(1.000
USD)
239.43.680
Nội tiêu
Giá trị
Tỷ lệ
so với (triệu đồng)
tổng
GT
(%)
62,6 300.469.940
1
Lúa gạo
114.783.240
14,50
12.885.722
1.492.182
100.405.336
3.672.800
66,1
39.490.840
2
Cà phê
88.579.294
11,19
10.098.030
17.715.878
60.765.386
3.672.800
85,3
13.286.894
3
Cao su
67.155.416
8,48
20.146.585
537.374
46.471.457
2.859.838
87,6
8.528.737
4
Chè
7.800.995
0,99
1.138.945
1.201.353
5.460.697
198.038
56,5
31.96.695
5
Điều
31.288.616
3,95
1.595.719
3.973.654
25.719.243
1.427.863
93.5
2.077.424
6
Mía đường
19.422.770
2,45
466.146
3.093.000
15.863.624
4.873
0,5
19.322.874
7
Rau quả
24.912.000
3,15
398.592
10.263.744
14.249.664
827.000
68,6
7.958.289
8
Hồ tiêu
9.175.513
1,16
0
2.477.388
6.698.125
387.217
86,8
1.237.565
9
Thức ăn
chăn nuôi
135.024.488
17,05
2.700.490
81.014.693
51.309.305
10
Thịt
4.935.872
0,62
1.263.583
809.483
2.862.806
62.790
26,8
3.608.469
11
Thủy sản
147.241.231
18,59
6.184.132
10.895.850
130.161.248
6.088.500
85,1
22.426.981
12
Gỗ
141.521.684
17,87
7.115.769
58.174.690
76.231.225
4.670.000
68,2
45.786.684
72.000
Tỷ lệ
so với
tổng
GT
(%)
37,4
33,9
14,7
12,4
43,5
6,5
99,5
31,4
13,2
1,1 133.548.488
Giá trị bình
quân đối
với lao
động
(triệu
đ/người/nă
m)
775,6
3.200,1
3.307,7
922,0
375,7
570,5
1.101,6
1.339,5
4.026,1
2.609,2
98,9
73,2
14,9
31,8
585,4
609,9
301,3
(Nguồn: Dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ chức sản xuất-Viện QH và Thiết kế nông nghiệp, 2013)
15
Điều cần nhấn mạnh là mặc dù các doanh nghiệp có vốn nước ngoài chỉ chiếm 10,6%
về số lượng doanh nghiệp, nhưng lại chiếm đến 24,2% giá trị chế biến nông sản cả nước.
Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh nội địa chiếm đến 89,4% về
số lượng doanh nghiệp, song lại chỉ làm ra có 75,8% giá trị chế biến. Riêng 85,3% tổng số
doanh nghiệp chế biến là doanh nghiệp dân doanh nội địa làm ra có 67,72% giá trị chế biến.
Thậm chí có thể nói rằng quy mô, năng lực của các doanh nghiệp chế biến nông sản dân
doanh ở một số lĩnh vực chế biến nông sản đôi khi còn thấp hơn năng lực của các doanh
nghiệp nhà nước trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy các doanh nghiệp chế biến nông sản
thuộc khối dân doanh, thực sự nhỏ bé, khó có thể đáp ứng được vai trò của mình trong quá
trình tái cơ cấu ngành nếu không có những sự đột phá từ chính sách khuyến khích phát triển
doanh nghiệp chế biến, cũng như từ sư nỗ lực vươn lên từ chính các doanh nghiệp chế biến
này.
Bình quân mỗi lao động trong các doanh nghiệp chế biến nông sản tạo ra giá trị là
776,5 triệu đồng/năm. Giá trị này cao nhất thuộc về các doanh nghiệp chế biến hạt tiêu
(4.026,1 triệu VND/người/năm) và thấp nhất thuộc về các doanh nghiệp chế biến gỗ (301,3
triệu VND/người/năm).
3.3. Thực trạng doanh nghiệp chế biến nông sản ở một số lĩnh vực
3.3.1. Chế biến lúa gạo
Kết quả điều tra cho thấy, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo quy mô công nghiệp chủ
yếu tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long với 558 doanh nghiệp (chiếm 95,9% tổng số
doanh nghiệp chế biến lúa gao quy mô công nghiệp cả nước). Quy mô các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo của nước ta chủ yếu là vừa và nhỏ. Chỉ có 18 doanh nghiệp (chiếm 3,1% số
doanh nghiệp) có công suất trên 100.000 tấn lúa/năm. Các doanh nghiệp còn lại có công suất
dưới 10.000 tấn lúa/năm (dưới 15 tấn lúa/ca) là những doanh nghiệp nhỏ, nằm rải rác khắp
nước, thường chỉ sử dụng 01 máy xay xát liên hợp.
Bình quân các doanh nghiệp sử dụng 69,6% công suất thiết kế của dây chuyền chế
biến. Đây là một tỷ lệ không cao đối với một ngành chế biến khá sôi động hiện nay. Trong đó,
các doanh nghiệp ở phía Bắc sử dụng chỉ 53,6% công suất thiết kế của nhà máy chế biến khi
xây dựng và các doanh nghiệp ở phía Nam sử dụng đến 70,1% công suất thiết kế. Tỷ lệ sử
dụng dây chuyền chế biến trong các doanh nghiệp nhà nước là 82,7%, trong doanh nghiệp có
vốn nước ngoài là 26,3% và ở các doanh nghiệp dân doanh là 69,8%.
Tổng sản lượng chế biến công nghiệp đạt 13.500.000 tấn quy gạo, chiếm khoảng 5560% sản lượng chế biến cả nước. Sản phẩm chế biến quy mô công nghiệp chủ yếu (66,1%
giá trị sản phẩm) để xuất khẩu.
Doanh nghiệp vốn nhà nước và vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (tương ứng là 3,6%
và 2,4%). Các doanh nghiệp dân doanh chiếm đa số (94%).
Bình quân lao động được các doanh nghiệp sử dụng là 62 người, doanh nghiệp nhà
nước sử dụng 403 người, doanh nghiệp có vốn nước ngoài là 66 người, doanh nghiệp ngoài
nhà nước là 48 người.
Khối lượng sản phẩm bình quân do một lao động tạo ra (năng suất lao động) là 335
tấn SP/người/năm. Trong đó, giá trị này ở các doanh nghiệp nhà nước là 158,3 tấn
SP/người/năm; ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là 161 tấn SP/người/năm và ở các
doanh nghiệp dân doanh là 397 tấn SP/người/năm. Tương ứng với đó là giá trị chế biến bình
quân chung cho mỗi lao động là 3.200 triệu đồng/người/năm. Cao nhất là các lao động ở các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo dân doanh với mức là 3.793 triệu đồng/người/năm. Các doanh
nghiệp nhà nước và FDI tương đương nhau trong khoảng 1.522 - 1.600 triệu
đồng/người/năm. Rõ ràng là các doanh nghiệp dân doanh trong lĩnh vực chế biến lúa gạo đã
có cách tổ chức sản xuất hợp lý hơn và tạo ra được năng suất lao động cao hơn cả doanh
nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
3.3.2. Chế biến cà phê
Các doanh nghiệp chế biến cà phê quy mô công nghiệp, chủ yếu tập trung ở Đông Nam Bộ
(43,1%) và Tây Nguyên (36,4%). Các địa phương có từ 10 doanh nghiệp chế biến cà phê trở lên là
Đắc Lắc, Tp. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Gia Lai, Đồng Nai, Bình Dương. Hiện tại cả
nước có 45 doanh nghiệp chế biến cà phê nhân quy mô lớn (công suất thiết kế từ 20.000
tấn/năm đến 50.000 tấn/năm) tập trung ở 7 tập đoàn và công ty lớn, với tổng công suất thiết
kế chiếm 71,9% công suất thiết kế cả nước. Doanh nghiệp có vốn nhà nước và vốn nước
16
ngoài chiếm tỷ lệ tương đối thấp (tương ứng là 11,0% và 10,0%). Các doanh nghiệp có vốn
ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ cao (79,0%).
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân của các doanh nghiệp là 84,4%. Trong đó
các doanh nghiệp ở Tây nguyên là 88,0%, ở Đông Nam Bộ là 78,3%, ở các tỉnh miền Bắc là
0,8%, ở miền Trung là 31,1% và ở đồng bằng sông Cửu Long là 79,3%. Các doanh nghiệp chế
biến cà phê thuộc sở hữu nhà nước sử dụng 48,3% công suất thiết kế của dây chuyền chế
biến. Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng có tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế khá thấp
(35,3%). Trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước lại sử dụng tối đa các thiết bị hiện có. Các
doanh nghiệp dân doanh thường sử dụng gần gấp đôi (182,0%) công suất thiết kế của dây
chuyền chế biến ban đầu. Đây là một đặc điểm tương đối khác biệt của các doanh nghiệp chế
biến nông sản Việt Nam hiện nay.
Chế biến công nghiệp chiếm khoảng 96,0% sản lượng cà phê cả nước. Lượng cà phê còn
lại được chế biến bởi các doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, mức độ chế biến mới chỉ đến phần tạo
ra cà phê nhân. Tỷ lệ doanh nghiệp, tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu như cà phê bột, cà phê hòa
tan,… còn khá khiêm tốn. Sản lượng sản phẩm chế biến sâu hàng năm chỉ đạt khoảng
20.000 tấn cà phê bột và 68.000 tấn cà phê hòa tan. Mặc dù vậy tổng công suất dây chuyền
thiết bị chế biến sâu đối với cà phê hiện đang cao hơn nhu cầu rất nhiều. Vấn đề hiện tại là
sử dụng các loại dây chuyền chế biến này như thế nào để tránh hao phí vô hình tài sản đã
đầu tư của các doanh nghiệp chế biến lĩnh vực này.
Các doanh nghiệp chế biến mà chính xác hơn là sơ chế cà phê hiện nay đang hướng
mạnh đến thị trường xuất khẩu với 85% tổng giá trị chế biến hiện tại.
Bình quân các doanh nghiệp chế biến cà phê sử dụng 112 người/doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp nhà nước sử dụng 319 lao động, doanh nghiệp có vốn nước ngoài sử dụng
324 người, trong khi các doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ sử dụng 57 người.
Năng suất lao động bình quân của các doanh nghiệp chế biến cà phê là 46,5 tấn
SP/người/năm. Năng suất này của các doanh nghiệp nhà nước chỉ là 17,1 tấn SP/người/năm,
khối doanh nghiệp vốn nước ngoài là 32,0 tấn SP/người/năm. Các doanh nghiệp dân doanh
có năng suất lao động khá cao, 79,7 tấn SP/người/năm. Vì vậy, giá trị chế biến bình quân của
mỗi lao động trong ngành chế biến này là 3.308 triệu đồng/người/năm, trong các doanh
nghiệp nhà nước 1.216 triệu đồng/người/năm, trong các doanh nghiệp vốn nước ngoài 2.281
triệu đồng/người/năm và trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước 5.672 triệu đồng
/người/năm.
3.3.3. Chế biến chè
Các doanh nghiệp chế biến chè, tập trung chủ yếu ở Trung du - miền núi phía Bắc
(79,4%), Miền Trung và Tây Nguyên, mà chủ yếu là ở Lâm Đồng với 15,6% tổng số doanh
nghiệp chế biến chè cả nước.
Đa phần (45,9%) các doanh nghiệp nhà máy chế biến chè là các doanh nghiệp nhỏ
với công suất chế biến dưới 10 tấn búp tươi/ngày. Chỉ có 3,1% tổng số doanh nghiệp chế
biến có quy mô lớn, chế biến được trên 100 tấn búp tươi/ngày. Các doanh nghiệp còn lại có
công suất chế biến dao động trong khoảng 10 - 99 tấn búp tươi/ngày.
Doanh nghiệp vốn nhà nước và vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (tương ứng là 10,5% và
11,7%). Các doanh nghiệp có vốn ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ đa số (77,8%).
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân của các doanh nghiệp chế biến là 70%.
Trong đó, khu vực Trung du - miền núi phía Bắc là 74%; Miền Trung và Tây Nguyên là 71,9%.
Tỷ lệ này ở các doanh nghiệp nhà nước là 69,3%, ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là
60,8% và trong các doanh nghiệp dân doanh là 72,6%.
Chế biến công nghiệp sản xuất ra 170.000 tấn sản phẩm/năm, chiếm khoảng 86% sản
lượng chè cả nước. Lượng chè còn lại được chế biến bởi các cơ sở nhỏ lẻ hoặc hộ gia đình.
Tổng giá trị sản phẩm chế biến do các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ (năm 2012) đạt
7.252.515 triệu đồng, trong đó xuất khẩu là 198.038.000 USD tương đương 4.055.820 triệu
đồng, chiếm 55,9% giá trị tiêu thụ sản phẩm.
Bình quân doanh nghiệp chế biến chè sử dụng 81 lao động/doanh nghiệp. Trong đó
doanh nghiệp nhà nước sử dụng 176 người/doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn nước ngoài
sử dụng 187 người/doanh nghiệp và doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ sử dụng có 52
người/doanh nghiệp.
Năng suất lao động bình quân trong các doanh nghiệp chế biến chè là 9,6 tấn
SP/người/năm. Trong khi năng suất này ở các doanh nghiệp dân doanh đạt khá cao (13,6
17
tấn SP/người/năm) thì ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần còn lại rất thấp (chỉ khoảng
4,7-5,4 tấn/người/năm). Chính vì vậy mỗi lao động trong các doanh nghiệp dân doanh lĩnh
vực này có thể tạo ra giá trị chế biến là 525,8 triệu đồng/người/năm thì các doanh nghiệp
khác chỉ làm ra 214-239 triệu đồng/người/năm.
3.3.4. Chế biến hạt điều
Các doanh nghiệp chế biến hạt điều quy mô công nghiệp tập trung trên địa bàn của 20
tỉnh, thành phố trong cả nước. Các tỉnh có trên 10 doanh nghiệp chế biến điều là Phú Yên, Bình
Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Long An. Doanh nghiệp vốn
nhà nước và vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (tương ứng là 1,5 % và 1,3%). Các doanh nghiệp
có vốn ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ đa số (97,2%). Có 56,1% số doanh nghiệp chế biến có công
suất từ 100 tấn/năm đến 500 tấn/năm. Còn lại là các doanh nghiệp có công suất chế biến trên
500 tấn/năm.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân chung là 84,9%, cao nhất là các doanh
nghiệp của tỉnh Khánh Hòa, có khả năng sử dụng đến 96,0% công suất thiết kế của dây
chuyền chế biến.
Việc sử dụng dây chuyền sản xuất cũng có điểm khác biệt khá lớn. Trong khi các
doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực này sử dụng đến 83,3% công suất thiết kế của các dây
chuyền chế biến được lắp đặt thì các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sử dụng 80,9% công
suất thiết kế và các doanh nghiệp dân doanh lại chỉ sử dụng được có 48% công suất thiết kế
của nhà máy chế biến. Mặc dù vậy, vẫn có thể coi đây là một ngành chế biến mang nặng tính
thủ công, năng suất lao động không cao. Bình quân mỗi lao động chế biến chỉ làm ra 570,5
triệu đồng/năm. Các doanh nghiệp dân doanh dù chỉ sử dụng có 48% công suất thiết kế của
dây chuyền chế biến, nhưng lại làm ra giá trị sản phẩm là 566,2 5 triệu đồng/người/năm, cao
hơn giá trị tạo ra của lao động trong các doanh nghiệp nhà nước (550,35 triệu
đồng/người/năm) và thấp hơn giá trị của lao động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài
(610,0 5 triệu đồng/người/năm). Đây là điểm khác biệt rất cần được chú ý của ngành chế biến
này so với các ngành chế biến nông sản khác.
Tổng giá trị sản phẩm chế biến do các doanh nghiệp chế biến điều tiêu thụ đạt
31.288.616 triệu đồng. Sản phẩm chế biến chủ yếu là xuất khẩu với kim ngạch đạt khoảng
1.427.863.000 USD (năm 2012) tương đương 29.271.192 triệu đồng, chiếm 93,5% tổng giá trị
sản phẩm chế biến.
Bình quân lao động của các doanh nghiệp chế biến hạt điều là 167 người/doanh
nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước sử dụng 580 người/doanh nghiệp, doanh nghiệp
có vốn nước ngoài sử dụng 1.628 người/doanh nghiệp, doanh nghiệp dân doanh chỉ sử dụng
142 người/doanh nghiệp.
Trung bình, mỗi lao động ngành chế biến điều tạo ra 4,3 tấn SP/người/năm. Điểm
khác biệt cơ bản nữa của ngành này là năng suất lao động của các doanh nghiệp nhà nước
khá cao (6,7 tấn SP/năm). Có thể nói là năng suất này cao hơn hẳn năng suất lao động của
các doanh nghiệp vốn nước ngoài (3,63 tấn SP/người/năm) và ở các doanh nghiệp ngoài nhà
nước (4,26 tấn SP/người/năm).
3.3.5. Chế biến rau quả
Các doanh nghiệp chế biến rau quả quy mô công nghiệp, tập trung ở 28 tỉnh, thành
phố. Các tỉnh phía Bắc có 71 doanh nghiệp (49%), miền Trung có 18 doanh nghiệp (12,4%),
miền Nam có 56 doanh nghiệp (38,6%). Những địa phương có từ 10 doanh nghiệp trở lên là:
Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Lâm Đồng và Tp. Hồ Chí Minh.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân là 56,2%. Tỷ lệ này ở các doanh nghiệp
nhà nước là 50,0%, ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là 53,7%, doanh nghiệp ngoài
nhà nước là 58,0%; ở khu vực miền Bắc là 33,0%, ở miền Trung là 96,8%, ở miền Đông Nam
Bộ là 81,1% và ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là 53,1%.
Các doanh nghiệp chế biến rau, quả quy mô công nghiệp (năm 2012) sản xuất
464.157 tấn sản phẩm mỗi năm, bao gồm chủ yếu là đồ hộp và các sản phẩm tương tự chiếm
68% tổng sản lượng chế biến, chuối sấy (12%), nước giải khát (10%), sản phẩm IQF (8,0%)
và gia vị (2,0%). Sản phẩm rau quả chế biến công nghiệp chủ yếu vẫn hướng đến thị trường
xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hiện đang có tốc độ tăng trưởng rất mạnh. Năm 2012 kim
ngạch này chỉ ở mức 162.382.000 USD, nhưng năm 2014 đã đạt gần 1,5 tỷ USD.
Trong lĩnh vực chế biến rau quả, các doanh nghiệp vốn nhà nước chiếm tỷ lệ thấp
(4,1%), chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh (69,7% tổng số doanh nghiệp hiện có).
18
Số lượng lao động của các doanh nghiệp chế biến rau quả trung bình khoảng 128
người/doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước sử dụng nhiều lao động hơn cả (161 người
doanh nghiệp), doanh nghiệp có vốn nước ngoài chỉ sử dụng 92 người/doanh nghiệp, trong
khi các doanh nghiệp dân doanh khác lại sử dụng khoảng 140 người/doanh nghiệp. Năng
suất lao động trong các doanh nghiệp chế biến rau, quả có vốn nước ngoài khá cao, khoảng
53,4 tấn SP/người/năm và tương ứng với giá trị chế biến là 2.935,0 triệu đồng/người/năm.
Trong khi năng suất lao động của các doanh nghiệp nhà nước chỉ là 7,7 tấn SP/người (412,0
triệu đồng/người/năm) và ở các doanh nghiệp dân doanh là 19,0 tấn SP/người/năm (1.008,2
triệu đồng/người/năm). Điều này dẫn đến năng suất lao động bình quân của các doanh
nghiệp chế biến rau quả chỉ là 7,6 tấn SP/người/năm, tương ứng với giá trị chế biến là 610,0
triệu đồng/người/năm. Điều này cho thấy các doanh nghiệp chế biến rau quả của nước ngoài
có thể có dây chuyền chế biến có mức độ cơ giới hóa, tự động hóa cao hơn các doanh
nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác.
3.3.6. Chế biến hạt tiêu
Các doanh nghiệp chế biến hạt tiêu quy mô công nghiệp, phân bố tại 6 tỉnh/thành
phố trong cả nước. Tỉnh có nhiều doanh nghiệp nhất là Bình dương (7 doanh nghiệp) sau đó
là Gia Lai và Đồng Nai (mỗi tỉnh 3 doanh nghiệp). Điểm đặc biệt là không có bất cứ một doanh
nghiệp nhà nước nào trong lĩnh vực chế biến hạt tiêu. Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng
chỉ chiếm 23,5%, còn doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 76,5%.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân là 56,4%, cao nhất là các doanh nghiệp
của tỉnh Đồng Nai (77,5%), thấp nhất là Phú Yên (23,3%); doanh nghiệp có vốn nước ngoài
sử dụng khoảng 74,6% và các doanh nghiệp dân doanh sử dụng 51,7% công suất thiết kế
của dây chuyền chế biến được lắp đặt.
Chế biến công nghiệp cho 65.595 tấn sản phẩm, chiếm khoảng 58,2% sản lượng hạt
tiêu cả nước. Trong đó, sản phẩm tiêu đen là chủ yếu, chiếm 80% cơ cấu sản phẩm. Sản
phẩm tiêu trắng chiếm 15% sản lượng chế biến. Còn sản phẩm tiêu bột chỉ chiếm 5,0% tổng
lượng sản phẩm chế biến.
Tổng giá trị sản phẩm chế biến do các doanh nghiệp chế biến tiêu thụ năm 2012 đạt
9.175.513 triệu đồng, trong đó xuất khẩu là 387.217.000 USD tương đương 7.937.948 triệu
đồng, chiếm 86,5%.
Số lượng lao động của các doanh nghiệp chế biến hạt tiêu là 134 người/doanh
nghiệp và không có sự khác biệt đáng kể giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. doanh
nghiệp có vốn nước ngoài là 140 người/doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài nhà nước là 132
người/doanh nghiệp. Đồng thời cũng không có sự khác biệt đáng kể nào về năng suất lao
động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bình quân mỗi lao động trong các doanh
nghiệp chế biến hạt tiêu sản xuất ra 28,8 tấn SP/người/năm, tương ứng với 4.026,1 triệu
đồng/người/năm. Năng suất lao động của các doanh nghiệp chế biến hạt tiêu nước ngoài
cao hơn chút ít với 31,7 tấn SP/người/năm và 4.424,0 triệu đồng/người/năm. Trong khi các
doanh nghiệp trong nước có năng suất lao động là 27,8 tấn SP/người/năm, tương ứng 3.896,
triệu đồng/người/năm.
3.3.7. Chế biến thịt
Cũng như các ngành chế biến nông sản khác, số lượng các doanh nghiệp chế biến
thịt có quy mô nhỏ khá nhiều và tồn tại ở hầu khắp các địa phương trong cả nước. Rất khó
thống kê được về số lượng cũng như tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chế
biến nông sản quy mô nhỏ này. Các doanh nghiệp chế biến thịt quy mô công nghiệp (có công
suất từ 500 tấn SP/năm trở lên) tập trung trên địa bàn của 18 tỉnh, thành phố cả nước. Miền
Bắc có 23 doanh nghiệp (45,1%), miền Trung chỉ có 01 doanh nghiệp và miền Nam có 27
doanh nghiệp (52,9%). Doanh nghiệp chế biến thịt có công suất thiết kế lớn nhất (23.000 tấn
SP/năm) được xây dựng ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Trong số các doanh nghiệp chế biến thịt
được khảo sát, doanh nghiệp vốn nhà nước và vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ (tương
ứng là 5,9% và 3,9%). Trong khi các doanh nghiệp có vốn ngoài nhà nước lại chiếm tỷ lệ cao
(90,2%).
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân của các doanh nghiệp chế biến thịt là
75,6%. Trong đó các doanh nghiệp ở miền Bắc sử dụng 48,9% công suất thiết kế; miền Trung
là 37,0% và ở miền Nam thì các dây chuyền chế biến thịt được sử dụng khá triệt để. Các
doanh nghiệp ở phía Nam đều sử dụng đến 93,4% công suất dây chuyền chế biến được thiết
kế cho các hoạt động thực tế của mình. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào trong
19
việc sử dụng dây chuyền chế biến được thiết kế, lắp đặt giữa các loại hình doanh nghiệp chế
biến thịt. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước sử dụng 72,8% công suất thiết kế thì các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh cũng chỉ sử dụng tương ứng là
73,4% và 75,6% công suất thiết kế.
Các doanh nghiệp chế biến thịt được khảo sát (năm 2012) sản xuất được khoảng
147.974 tấn sản phẩm mỗi năm, tạo ra giá trị chế biến là 4.935.872 triệu đồng, trong đó xuất
khẩu là 62.790.000 USD chiếm 26,9% tổng giá trị chế biến tạo ra.
Các doanh nghiệp chế biến thịt sử dụng trung bình khoảng 165 người/doanh nghiệp.
Trong khi các doanh nghiệp nhà nước sử dụng đến 756 người/doanh nghiệp thì doanh nghiệp
có vốn nước ngoài chỉ sử dụng 562 người/doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp dân doanh sử
dụng khá ít lao động, với chỉ 110 người/doanh nghiệp. Tuy nhiên, năng suất lao động trong
các doanh nghiệp chế biến thịt không khác nhau nhiều giữa các loại hình doanh nghiệp. Mỗi
lao động trong doanh nghiệp chế biến thịt chế biến được khoảng 17,6 tấn SP/năm, tương ứng
với giá trị chế biến là 585,4 triệu đồng/người/năm. Lao động trong các doanh nghiệp chế biến
thịt có vốn nước ngoài chế biến được 21.6 tấn SP/người/năm và tạo ra giá trị là 720,8 triệu
đồng/người/năm. Số liệu tương ứng của các doanh nghiệp nhà nước và dân doanh tương
ứng là 16,7 tấn SP/người/năm, 557,14 triệu đồng /người/năm và 17,03 tấn SP/người/năm,
568,02 triệu đồng/người/năm.
3.3.8. Chế biến thủy sản
Các doanh nghiệp chế biến thủy sản tập trung trên địa bàn của 38 tỉnh, thành phố. Đồng
bằng sông Cửu Long là vùng có tỷ lệ sản phẩm thủy sản được chế biến cao nhất (72,0%).
Các tỉnh có tỷ lệ sản phẩm thủy sản chế biến cao là: Đồng tháp (10,3 %), An Giang (9,9%),
Cà Mau và Kiên Giang (9,0% mỗi tỉnh), Cần Thơ (7,2%).
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ rất thấp, tương ứng
là 3,6% và 4,2% tổng số doanh nghiệp được khảo sát. Có đến 92,2% tổng số doanh nghiệp chế
biến thủy sản là doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân của các doanh nghiệp là 65%. Trong khi
các doanh nghiệp ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ chỉ sử dụng khoảng 50,0% công
suất chế biến được thiết kế thì tỷ lệ này ở các doanh nghiệp thuộc vùng Trung Bộ và duyên
hải Nam Trung Bộ là 69%, Đông Nam Bộ là 75% và Đồng bằng sông Cửu Long là 64%. Các
doanh nghiệp nhà nước sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật chế biến khá hạn chế với chỉ 41,8%
công suất thiết kế. Các doanh nghiệp chế biến thuộc các loại hình sở hữu khác sử dụng 64,7
- 67,6% công suất thiết kế cho các hoạt động thực tế của mình. Cũng có thể nói, ngành chế
biến thủy sản đã đầu tư khá nhiều trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế
biến. Trong tương lai, vấn đề không phải là đầu tư xây dựng mới các nhà máy chế biến mà là
tận dụng công suất chế biến hiện có, đồng thời hiện đại hóa dây chuyền chế biến để nâng
cao hiệu quả hoạt động.
Chế biến công nghiệp (năm 2012) tạo ra khoảng 1.834.375 tấn sản phẩm/năm. Các
sản phẩm chế biến thủy sản hầu hết (80,7% giá trị chế biến) phục vụ cho thị trường xuất
khẩu.
Bảng 5. Cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến năm 2012
TT
1
2
3
4
5
Sản phẩm chế biến
Sản phẩm đông lạnh
Hàng khô
Đồ hộp
Thủy sản khác
Nước mắm
Tổng
Doanh nghiệp
Số lượng
Tỷ lệ (%)
425
49,2
70
8,1
47
5,4
82
9,6
240
27,7
864
100
Sản lượng
Khối lượng
Tỷ lệ (%)
1.273.682 tấn
69,4
171.284 tấn
9,3
31.939 tấn
1,8
178.212 tấn
9,7
179.258, lít
9,8
1.834.375
100
(Nguồn: Dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ
chức sản xuất - Viện QH và Thiết kế nông nghiệp, 2013)
Mặt hàng thủy sản đông lạnh chiếm tỷ lệ cao nhất với 49,2% số doanh nghiệp được
khảo sát và 69,5% tổng sản lượng chế biến tạo ra. Các doanh nghiệp sản xuất thủy sản đông
lạnh chủ yếu tập trung ở Trung Bộ - duyên hải Miền Trung, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long. Đây cũng là khu vực có sản lượng thủy sản lớn nhất, chiếm 57% sản lượng cả
20
nước. Đây cũng là khu vực có hoạt động chế biến thủy sôi động nhất cả nước với những mặt
hàng có giá trị xuất khẩu cao như cá tra, tôm,… Nếu như trước đây hầu hết các doanh
nghiệp chế biến thủy sản đều tập trung sản xuất đồ hộp các loại với những sản phẩm có uy
tín khá cao như Đồ hộp thủy sản Hạ Long,… thì hiện nay đồ hộp thủy sản là sản phẩm chế
biến có số lượng doanh nghiệp chế biến và khối lượng sản phẩm chế biến chiếm tỷ lệ thấp
nhất. Chỉ có 5,4% tổng số doanh nghiệp được điều tra chế biến lại sản phẩm này và làm ra
1,7% tổng sản lượng thủy sản chế biến cả nước. Doanh nghiệp sản xuất đồ hộp: 5,4%, tập
trung ở Đông Nam Bộ. Nước mắm là sản phẩm chế biến chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu
chế biến thủy sản hiện nay với 27,7% tổng doanh nghiệp và 9,8% sản lượng chế biến hàng
năm. Các doanh nghiệp sản xuất nước mắm (27,8% tổng số doanh nghiệp chế biến thủy
sản), tập trung ở Trung Bộ - duyên hải Miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long (Kiên Giang).
Có khá nhiều sản phẩm nước mắm của Việt Nam tạo dựng được thương hiệu có uy tín không
chỉ tại thị trường nội địa mà còn cả ở thị trường ngoài nước, nhất là thị trường châu Âu vốn
khá xa lạ với sản phẩm chế biến truyền thống của khu vực Đông Nam Á mà chủ yếu chỉ có ở
Việt Nam và Thái Lan như nước mắm Phú Quốc, Nha Trang, Cát Hải, Thanh Hương,…
Các doanh nghiệp chế biến thủy sản sử dụng một số lượng lao động khá cao. Trung
bình mỗi doanh nghiệp chế biến ở lĩnh vực này sử dụng khoảng 280 lao động. Số lượng lao
động được sử dụng phụ thuộc vào loại hình sở hữu. Các doanh nghiệp dân doanh nhìn
chung sử dụng ít lao động hơn, với chỉ 272 người/doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp vốn nước ngoài sử dụng nhiều lao động với số lượng tương ứng là 347 người
và 389 người mỗi doanh nghiệp. Năng suất lao động bình quân trong các doanh nghiệp chế
biến thủy sản là 7,6 tấn SP/người/năm, tương ứng với giá trị chế biến là 610 triệu
đồng/người/năm (năm 2012). Năng suất lao động của các doanh nghiệp nhà nước khá thấp
với 5,6 tấn SP/người/năm và 556,7 triệu đồng/người/năm. Trong khi đó năng suất lao động
của các doanh nghiệp vốn nước ngoài lại khá cao, tương ứng là 8,9 tấn SP/người/năm và
778,3 triệu đồng/người/năm. Các doanh nghiệp dân doanh của Việt Nam cũng có năng suất
lao động khá ấn tượng. Mỗi lao động trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản ngoài nhà
nước làm ra khoảng 7,6 tấn SP/người/năm hay 601,5 triệu đồng/người/năm.
Có thể nói chế biến thủy sản là một trong những lĩnh vực chế biến có nhiều thế mạnh
của Việt Nam. Các sản phẩm chế biến mang tính đặc thù cao, vừa có nhiều sản phẩm truyền
thống, lại vừa có những sản phẩm phù hợp với thị trường tiêu thụ hiện đại, toàn cầu. Các
doanh nghiệp chế biến thủy sản được tổ chức tốt, đầu tư nhiều loại dây chuyền, thiết bị chế
biến hiện đại, chất lượng sản phẩm không ngừng được cải thiện và nâng cao. Mặc dù vậy, đa
phần các doanh nghiệp chế biến trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu hướng đến thị trường xuất
khẩu, trong khi vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu ổn định, phù hợp nên sản xuất
vẫn chưa thực sự bền vững. Hiện tại, việc tiêu thụ các sản phẩm thủy sản chế biến tại thị
trường trong nước vẫn còn là một vấn đề lớn cần được quan tâm giải quyết.
3.3.9. Chế biến đường mía
Hiện tai, cả nước có 38 doanh nghiệp chế biến mía đường hoạt động, tập trung ở 25
tỉnh/thành phố. Trong đó chủ yếu là các tỉnh phía Nam (39,5%) và miền Trung (34,2%). Sau
quá trình cổ phần hóa, các doanh nghiệp chế biến đường mía thuộc khối dân doanh chiếm đa
số với 84,2% tổng số doanh nghiệp chế biến hiện có. Doanh nghiệp có vốn nhà nước hiện
còn rất ít, chỉ chiếm 2,6% tổng số doanh nghiệp. Còn lại khoảng 13,2% là các doanh nghiệp
chế biến có vốn nước ngoài.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân của các doanh nghiệp miền Trung là
73,1%, tương đương với bình quân chung cả nước. Các doanh nghiệp miền Bắc sử dụng chỉ
67,6% công suất thiết kế, còn các doanh nghiệp ở miền Nam có tỷ lệ này là 78,1 %.
Do hạn chế về mùa vụ, chất lượng mía,… nên chế biến công nghiệp mới sử dụng
được khoảng 78,0% sản lượng mía cả nước. Lượng mía còn lại do các doanh nghiệp nhỏ
chế biến. Tổng giá trị sản phẩm chế biến công nghiệp (năm 2012) đạt 19.422.770 triệu VNĐ,
chủ yếu (99,5% sản lượng) phục vụ cho thị trường nội địa.
Bình quân lao động của các doanh nghiệp chế biến mía đường là 464 người. Doanh
nghiệp có vốn nhà nước sử dụng 492 người/doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
sử dụng nhiều lao động hơn (643 người/doanh nghiêp), nhưng đa phần các doanh nghiệp
dân doanh chỉ sử dụng khoảng 435 người/doanh nghiệp.
21
Năng suất lao động trung bình của các doanh nghiệp chế biến đường mía là 73,5 tấn
SP/người/năm, tương đương với giá trị chế biến là 1.101,6 triệu đồng/người/năm và không có
sự khác biệt đáng kể nào giữa các loại hình sở hữu doanh nghiệp.
Nhìn chung, chế biến đường mía là ngành chế biến nông sản khá nhỏ bé, hiện đang
được bảo hộ nhiều nên hoạt động chưa thật sự hiệu quả. Hàng năm ngành này luôn phải đối
mặt với nhiều vấn đề như nhiều doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn nguyên liệu, dẫn
đến cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu mua mía cây cho nông dân; hệ thống phân
phối, tiêu thụ sản phẩm thiếu và yếu, giá cả bấp bênh, thiếu ổn định và rất khó chóng đỡ với
sản phẩm sản xuất ở nước ngoài, kể cả đường nhập lậu từ các nước trong khu vực, cũng
như đường do các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sản xuất ở nước ngoài.
3.3.10. Chế biến thức ăn chăn nuôi
Thực hiện tái cơ cấu ngành, lĩnh vực chăn nuôi ngày càng được phát triển, do vậy,
ngành chế biến thức ăn chăn nuôi cũng ngày càng có cơ hội phát triển, mở rộng sản xuất. Cả
nước hiện có 338 doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi quy mô công nghiệp tập trung
trên địa bàn 42 tỉnh, thành phố của cả nước. Một số địa phương có nhiều doanh nghiệp chế
biến thức ăn chăn nuôi (từ 20 doanh nghiệp trở lên) là Tp. Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Hưng
Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương. Doanh nghiệp có vốn nhà nước chiếm tỷ lệ
thấp, chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp của lĩnh vực này. Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
chiếm 19,5% tổng doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi cả nước.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân là 73,1%, nhưng có sự khác biệt khá lớn
giữa các vùng trong cả nước. Trong khi các doanh nghiệp ở Trung du, miền núi phía Bắc chỉ
sử dụng có 33,2% công suất thiết kế thì các doanh nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ lại sử dụng
đến 100% hoặc hơn công suất dây chuyền chế biến hiện có. Các doanh nghiệp FDI sử dụng
đến 88,0% công suất thiết kế, trong khi doanh nghiệp dân doanh sử dụng 64%, còn doanh
nghiệp nhà nước thì khá thê thảm với chỉ 33,8% công suất thiết kế được sử dụng. Nhiều nhà
máy chế biến thức ăn chăn nuôi được xây dựng mới, nhưng các nhà máy chế biến thức ăn
chăn nuôi do nhà nước quản lý, được xây dựng trước đây lại đang hoạt động cầm chừng
hoặc phá sản do hoạt động kém hiệu quả.
Sản lượng chế biến công nghiệp (năm 2012) đạt 13.814.078 tấn sản phẩm, chiếm
khoảng 81,3% sản lượng TACN cả nước. Lượng còn lại được chế biến bởi các doanh
nghiệp nhỏ. Tổng giá trị sản phẩm chế biến đạt 135.024.488 triệu đồng. Sản phẩm tạo ra chủ
yếu (98,9%) phục vụ cho ngành chăn nuôi trong nước. Tuy nhiên, khá nhiều nguyên liệu dành
cho chế biến đang phải nhập khẩu do trong nước chưa sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu.
Các doanh nghiệp chế biến TACN sử dụng bình quân khoảng 153 người/doanh
nghiệp. Không có sự khác biệt nào giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh
về số lượng lao động. Mỗi doanh nghiệp ở loại hình này thường sử dụng 80-86 người. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài lại sử dụng khá nhiều lao động. Mỗi doanh
nghiệp ở loại hình này sử dụng đến 454 người. Điều này có thể là do quy mô của các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài khá lớn (công suất thiết kế của mỗi doanh nghiệp FDI khoảng
142,5 ngàn tấn SP/năm) và thực tế hoạt động cũng tốt hơn các doanh nghiệp còn lại. Các
doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 19,5% tổng số doanh nghiệp, nhưng lại chế biến được 60,0%
tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi cả nước. Mặc dù vậy, có thể nói rằng đây là một ngành chế
biến nông sản có khả năng cơ giới hóa không cao, chủ yếu vẫn sử lao động trong chế biến.
Năng suất lao động bình quân của doanh nghiệp là 267,0 tấn SP/người/năm, tương ứng với
giá trị chế biến là 2.609,2 triệu VNĐ/người/năm và không có khác biệt đáng kể nào giữa các
loại hình sở hữu doanh nghiệp.
3.3.11. Chế biến cao su
Chế biến cao su chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Bộ. Trong số 147 doanh nghiệp chế
biến cao su có quy mô chế biến từ 1.000 tấn SP/năm trở lên, khu vực này hiện có 106 doanh
nghiệp, chiếm 72,1% số doanh nghiệp chế biến cao su cả nước. Tỉnh có nhiều doanh nghiệp chế
biến cao su là Bình Phước với 42 doanh nghiệp (chiếm 28,6%) và Bình Dương với 44 doanh
nghiệp (chiếm 29,9%). Các doanh nghiệp có quy mô từ 5.000 tấn SP/năm đến 10.000 tấn
SP/năm chiếm 64,0% tổng số doanh nghiêp. Phần còn lại (36%) là các doanh nghiệp có công
suất chế biến trên 10.000 tấn SP/năm. Doanh nghiệp vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (3,0%),
đồng thời cũng chỉ sản xuất ra có 0,8% sản lượng chế biến (7.300 tấn/năm). Các doanh
nghiệp có vốn ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ đa số (75%).
22
Tổng công suất thiết kế của các doanh nghiệp chế biến vào khoảng 1.174.000 tấn
SP/năm, cao hơn sản lượng cao su hiện có của cả nước. Cơ cấu sản phẩm hiện tại chủ yếu
là cao su mủ cốm (84,7%). Các loại sản phẩm khác chiếm tỷ lệ không cao (cao su xông khói
chiếm 4,2%, cao su HH và Creps khoảng 11,1%). Cũng có thể nói hiện tại ở nước ta, các sản
phẩm cao su hiện nay vẫn chỉ là sản phẩm sơ chế. Các sản phẩm chế biến sâu, có gia trị gia
tăng cao như săm, lốp xe, cao su dùng trong y tế, trong thể thao, trong công nghiệp,… chỉ
chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể. Năm 2012 chế biến công nghiệp cho 913.866 tấn sản
phẩm, đạt giá trị 67.155.416 triệu đồng. Hầu hết sản phẩm cao su chế biến (87,3%) chỉ ở
dạng sơ chế, dành để xuất khẩu.
Các doanh nghiệp chế biến cao su trung bình sử dụng 495 người/doanh nghiệp.
Trong khi các doanh nghiệp dân doanh hoặc FDI chỉ sử dụng 167-196 người/doanh nghiệp
thì các doanh nghiệp nhà nước lại sử dụng đến 1.575 người/doanh nghiệp. Do vậy, năng suất
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước là khá thấp, chỉ 5,5 tấn SP/người/năm, tương ứng
399,7 triệu đồng/người/năm. Năng suất lao động của các doanh nghiệp dân doanh cao hơn
hẳn của các doanh nghiệp nhà nước và bình quân chung của ngành. Năng suất lao động của
các doanh nghiệp FDI là đạt mức 10,8 tấn SP/người/năm và 792,6 triệu đồng/người/năm, còn
năng suất lao động của các doanh nghiệp dân doanh trong nước là 29,0 tấn SP/người/năm
và 2.136 triệu đồng/người/năm.
Mức độ sử dụng dây chuyền chế biến trong ngành chưa cao, đạt mức bình quân chung
là 77,8% công suất thiết kế. Điều đáng nói là các doanh nghiệp nhà nước chỉ sử dụng hết có
36,9% công suất thiết kế, trong khi doanh nghiệp dân doanh sử dụng cao gấp 1,5 lần công
suất thiết kế của các cơ sở chế biến, còn các doanh nghiệp FDI tỷ lệ này là 76,8%. Nếu tính
theo không gian thì nhìn chung các doanh nghiệp cả nước mới chỉ sử dụng được 77,8% công
suất thiết kế. Tỷ lệ này của các doanh nghiệp ở khu vực Bắc Trung Bộ là 70,7%, ở Nam Trung
Bộ là 49,4%, ở Tây Nguyên là 100,0% và ở Đông Nam Bộ là 74,6%.
3.3.12. Chế biến gỗ
Đa phần các doanh nghiệp chế biến gỗ của nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có
đến 47% tổng số các doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng dưới 500 m3 gỗ tròn/năm.
Có 21,67% tổng số doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng trên 10.000 m3 gỗ nguyên
liệu một năm. Các doanh nghiệp này hầu hết là các doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoặc
doanh nghiệp sản xuất trong hệ thống phân phối sản phẩm của nước ngoài (IKEA chẳng
hạn), các tập đoàn chế biến gỗ trong nước (như Trường Thành, Đức Long…) hoặc các doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu dăm gỗ và các doanh nghiệp chế biến ván nhân tạo (MDF, ván
dăm…). Có 11,51% doanh nghiệp có quy mô thiết kế từ 1.000-10.000 m3 gỗ nguyên liệu một
năm. Đa phần là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, được thiết kế và thành lập từ
trước với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Các doanh nghiệp có quy mô thiết kế 500-1.000 m3
nguyên liệu một năm chiếm 19,78% tổng số doanh nghiệp chế biến cả nước.
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ (56,1%) sản xuất
các dạng sản phẩm đa dạng như gỗ xẻ, dăm gỗ, gỗ mỹ nghệ… Chỉ có 8,6% tổng số doanh
nghiệp chế biến tham gia chế biến ván nhân tạo như MDF, ván dán, ván dăm, gỗ ghép
thanh… mặc dù đây là ngành chế biến có nhiều tiềm năng phát triển do tận dụng được nguồn
nguyên liệu là gỗ rừng trồng và tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Có thể do là lĩnh vực
chế biến mới nên cần có thời gian để các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực này.
Có 18,1% doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất và 13,7% tổng số doanh nghiệp đang chế
biến đồ gỗ ngoại thất. Đây là các doanh nghiệp đã thực hiện đăng ký kinh doanh và có sản
phẩm chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu. Nếu tính cả các cơ sở chế biến chưa đăng ký kinh
doanh thì số lượng các cơ sở chế biến đồ gỗ nội, ngoại thất còn cao hơn nhiều.
Bình quân lao động của các doanh nghiệp chế biến gỗ là 130,3 người. Trong đó các
doanh nghiệp nhà nước có số lao động bình quân cao nhất (429,9 người/doanh nghiêp), Các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài sử dụng số lao động tương đối thấp (khoảng 306,2
người/doanh nghiệp) và các doanh nghiệp tư nhân trong nước sử dụng khoảng 92,3 người
trong mỗi doanh nghiệp. Điều này cũng cho thấy các doanh nghiệp FDI có quy mô lớn hơn
nên dù có sử dụng công nghệ hiện đại, nhưng vẫn sử dụng khá nhiều lao động hơn các
doanh nghiệp dân doanh trong nước. Đa phần các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước có
quy mô nhỏ, sử dụng ít lao động do quy mô doanh nghiệp thường nhỏ.
Hiệu suất sử dụng lao động bình quân chung của các doanh nghiệp là 40,44 m3
SP/người/năm (quy đổi), trong đó, doanh nghiệp nhà nước là 21,26 m3 SP/người/năm, doanh
23
nghiệp có vốn nước ngoài là 46,96 m3 SP/người/năm và doanh nghiệp ngoài nhà nước là
40,15 m3 SP/người.
Bình quân chung giá trị chế biến tính cho 01 lao động là 301,32 triệu đồng/người/năm,
doanh nghiệp nhà nước là 157,62 triệu đồng/người/năm, doanh nghiệp vốn nước ngoài là
380 triệu đồng/người/năm và doanh nghiệp ngoài nhà nước là 273,2 triệu đồng/người/năm.
Tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân chung là 74,6%, trong đó doanh nghiệp
nhà nước là 66,4%, doanh nghiệp có vốn nước ngoài là 80,%, còn doanh nghiệp ngoài nhà
nước là 72,4%.
4. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
Một là, nhanh chóng thực hiện cổ phần hóa, chuyển đổi các doanh nghiệp chế biến
nông sản thuộc sở hữu nhà nước sang sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến nông sản. Kết quả điều tra
về thực trạng cá doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam ở phần trên cũng cho thấy hầu
như các doanh nghiệp chế biến nông sản thuộc sở hữu nhà nước đều có hiệu quả hoạt động
không cao. Các doanh nghiệp này một mặt sở hữu những dây chuyền, thiết bị chế biến lạc
hậu vừa phải sử dụng nhiều lao động, lại vừa tạo ra sản phẩm có giá thành cao và chất lượng
thấp, không ổn định. Mặt khác các doanh nghiệp nhà nước còn là những doanh nghiệp trình
độ quản trị kém, chậm đổi mới cả về công nghệ, thiết bị chế biến, mẫu mã sản phẩm, cũng
như khó tiếp cận các nguồn vốn phục vụ sản xuất. Chính vì vậy, cổ phần hóa, chuyển đổi
hình thức sở hữu của các doanh nghiệp chế biến nông sản phải được coi là định hướng chủ
đạo trong quá trình tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và sản xuất bền
vững đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Hai là, tập trung mọi nguồn lực phát triển các doanh nghiệp chế biến những loại nông
sản có nhiều lợi thế cạnh tranh, lợi thế vùng, miền và có giá trị gia tăng cao như chế biến lúa
gạo, cây công nghiệp, cây ăn quả, thủy sản,… tạo ra những điểm nhấn làm tiền đề để kêu gọi
đầu tư và phát triển các ngành chế biến nông sản khác. Phấn đấu đến sau năm 2020 hình
thành một nền công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, sản xuất được các sản phẩm phù
hợp với thị hiếu thị trường trong và ngoài nước, tận dụng các thế mạnh nông sản trong nước
để chế biến, góp phần ổn định việc tiêu thụ nông sản cho người nông dân. Cho đến năm
2014, mặc dù chế biến nông sản góp phần không nhỏ trong việc xuất khẩu nông sản, đưa kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm thủy sản lên mức ấn tượng là 30,8 tỷ USD, song phần lớn sản
phẩm nông sản xuất khẩu đều là nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế. Nhiều sản phẩm
mang đặc thù Việt Nam hoặc của những vùng, miền nổi tiếng của nước ta như thanh long,
vải, nhãn,… vẫn chưa có nhiều cơ hội để xuất hiện tại những thị trường tiềm năng, có sức
mua lớn. Việc tập trung mọi nguồn lực để phát triển các doanh nghiệp chế biến nông sản
trong giai đoạn hiện nay không chỉ là mục tiêu của quá trình tái cơ cấu ngành mà còn là áp
lực của quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
vào cuối năm 2015 có thể tạo ra cơ hội phát triển ngành chế biến nông sản của Việt Nam,
nhưng cũng có thể biến ngành nông nghiệp nước ta thành nhà cung cấp nguyên liệu cho các
doanh nghiệp chế biến trong khu vực nếu tự chúng ta không có những chuyển biến phù hợp.
Ba là, cần thực hiện đầu tư mới và chuyển đổi các doanh nghiệp chế biến nông sản
hiện có từ chỉ thực hiện sơ chế, chế biến những cái mình có sang thực hiện chế biến tinh, chế
biến sâu tạo ra những sản phẩm vừa có giá trị gia tăng cao, vừa phù hợp thị hiếu thị trường
và nâng cao hiệu quả chế biến. Đây chính là mục tiêu và cũng là nội dung của quá trình tái cơ
cấu ngành trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản hiện nay.
Bốn là, chú trọng kết hợp mọi nguồn lực, mọi cơ hội đầu tư phát triển công nghiệp hỗ
trợ phục vụ cho chế biến nông, lâm, thủy sản. Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp
thực hiện chế biến sâu, các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao đều có tỷ trọng thành
phần phi nông sản khá cao. Thậm chí nhiều sản phẩm nông sản chế biến càng có giá trị gia
tăng cao thì tỷ trọng nông sản càng thấp. Nói cách khác, sản phẩm của công nghiệp hỗ trợ
trong chế biến nông sản chẳng những làm thay đổi diện mạo hình thức và nội dung của sản
phẩm nông sản chế biến mà còn mang lại giá trị và tính cạnh tranh cao hơn cho các loại sản
phẩm này. Trong khi đó, hiện nay công nghiệp hỗ trợ trong ngành chế biến nông, lâm, thủy
sản của chúng ta nói chung hầu như đang ở giai đoạn sơ khai. Phát triển công nghiệp hỗ trợ
trong lĩnh vực này vừa tạo ra nhiều việc làm, vừa tạo ra cơ hội để chuyển đổi cơ cấu sản
phẩm và tạo ra cơ hội để nâng ngày càng cao giá trị gia tăng trong mỗi loại nông sản chế
biến.
24
Năm là, đẩy mạnh phát triển loại hình doanh nghiệp khoa học công nghệ, đặc biệt là
các doanh nghiệp khoa học công nghệ hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch
vừa để tạo ra động lực phát triển doanh nghiệp chế biến nông sản, vừa để thực hiện mục tiêu
“giảm 50% tổn thất sau thu hoạch so với hiện nay của các loại nông sản” đã được đề ra, vừa
tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định và có chất lượng phù hợp phục vụ cho việc phát triển công
nghiệp chế biến nông sản trong tương lai.
5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG SẢN TRONG
QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU NHÀNG NÔNG NGHIỆP
5.1. Tổ chức sản xuất theo hướng tăng cường liên kết sản xuất nguyên liệu - chế biến tiêu thụ
Rà soát và xây dựng các chính sách để thực hiện triệt để việc tổ chức sản xuất theo
chuối giá trị. Trước mắt triển khai ở một số loại nông sản có nhu cầu xã hội cao và có nhiều
khả năng thực hiện như sản xuất, chế biến lúa gạo, chế biến và tiêu thụ cá tra,... Hình thành
các doanh nghiệp “đầu tàu”, những doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện làm hạt nhân, trung tâm
của chuỗi liên kết và doanh nghiệp vệ tinh làm nhân tố thực hiện sản xuất của toàn ngành
theo chuỗi. Đối với những doanh nghiệp này cần tập trung hỗ trợ đầu tư để đổi mới công
nghệ và thiết bị cho các doanh nghiệp thật sự có năng lực và hiệu quả. áp dụng các hệ thống
quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP, SSOP, ISO... trong chế biến, nhằm kiểm soát tốt
chất lượng và ATTP.
Thực hiện nhân rộng các mô hình sản xuất tiến tiến, thông qua các hoạt động như:
các dự án khuyến nông nhằm nâng cao chất lượng nguyên liệu cho chế biến, xây dựng các
mô hình liên kết doanh nghiệp - nông dân; hỗ trợ tập huấn về công nghệ thông tin, xây dựng
và áp dụng chứng chỉ FSC, CoC, ISO,… cho doanh nghiệp chế biến và người sản xuất
nguyên liệu, ưu tiên phổ biến các công nghệ phù hợp, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng
cao cho các doanh nghiệp chế biến,...
5.2. Nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm chế biến theo hướng nâng cao tỷ
trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, nâng cao chất lượng và an toàn thực phẩm,
hạ giá thành sản phẩm
Nghiên cứu và triển khai xây dựng các chính sách phù hợp, khuyến khích các doanh
nghiệp chuyển dịch hợp lý cơ cấu sản phẩm theo hướng chế biến sâu, chế biến tinh, nâng
cao chất lượng và tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế đến mức thấp nhất
việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô. Chú trọng hướng dẫn các doanh nghiệp chế
biến nông sản xây dựng và tổ chức thực hiện các quy trình sản xuất tiên tiến đối với từng loại
sản phẩm, đảm bảo chất lượng, giảm tỷ lệ tiêu hao vật tư, nguyên liệu và quản lý tốt ATTP,
cải tiến, đa dạng hóa hình thức bao bì, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng. Thực hiện xử lý triệt để các cơ sở chế biến không đảm bảo các điều kiện theo quy
chuẩn kỹ thuật về ATTP đã ban hành và thiếu xử lý ô nhiễm môi trường trong chế biến.
Có chính sách hỗ trợ kịp thời, hiệu quả các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động chế
biến nông sản có giá trị gia tăng cao làm cơ sở để đẩy mạnh hoạt động chế biến nông sản
theo hướng này.
Đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng công nghệ chế biến và bảo quản nông sản cả trong
các đơn vị nghiên cứu chuyên ngành và trong các doanh nghiệp chế biến. Có cơ chế khuyến
khích các doanh nghiệp chế biến đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, nhất là áp dụng các
công nghệ bảo quản, chế biến nông sản tiên tiến từ nước ngoài. Thành lập các đơn vị nghiên
cứu các sản phẩm mới, có giá trị gia tăng cao, tạo ra tính cạnh tranh của nông sản trên thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Khẩn trương xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật làm cơ sở để quản lý nhà
nước và tạo ra sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp chế biến nông sản và khuyến
khích hơn nữa việc đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào lĩnh vực chế biến nông sản.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích và chỉ đạo các cơ quan, doanh nghiệp trong lĩnh
vực thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh việc xây dựng, đăng ký thương hiệu sản phẩm,
nâng cao năng lực cạnh tranh.
5.3. Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực chế biến
nông sản
Rà soát thủ tục hành chính, đồng thời công khai minh bạch trên các phương tiện
thông tin về thủ tục hành chính và niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan, đơn vị nơi trực tiếp
giải quyết thủ tục hành chính trong việc đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản. Chủ động, bố
25
trí, sắp xếp cán bộ có năng lực, có trách nhiệm trong hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ, tiếp nhận,
xử lý các thủ tục hành chính bảo đảm đúng tiến độ theo quy định. Tăng cường công tác phối
hợp, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thủ tục hành chính trong triển khai dự án đầu tư tại các
cấp chính quyền địa phương; phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức có hành vi
nhũng nhiễu, gây cản trở cho tổ chức, cá nhân khi thi hành công vụ.
Đẩy mạnh đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác,
vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo từng ngành hàng chế biến nông sản.
Nâng cao năng lực làm chủ công nghệ và hiệu lực, hiệu quả quản lý hệ thống hạ tầng thông
tin, nội dung thông tin phục vụ quản trị doanh nghiệp, cho quá trình đổi mới doanh nghiệp,
thiết kế chế tạo sản phẩm mới và trong tiêu thụ nông sản chế biến./.
26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
2. Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/6/2013 phê duyệt
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và sản xuất bền
vững.
3. Quyết định số 1003/QĐ-BNN-CB ngày 13/5/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Phê duyệt Đề án nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản thông qua chế
biến và giảm tổn thất sau thu hoạch.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chiến lược phát triển nông nghiệp nông
thôn giai doạn 2011-2020, ban hành kèm theo văn bản 3310/BNN-KH ngày 12/10/2009.
5. Báo cáo tổng hợp dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản
trong các loại hình tổ chức sản xuất, Phê duyệt tại Quyết định số 2298/QĐ-CB-NS ngày
30/12/2014.
6. Nguyễn Mạnh Dũng, Xây dựng mô hình chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
nông sản, Tạp chí Nông nghiệp và PTNT số 19/2012, năm 2012, trang 3-12
7. Nguyễn Mạnh Dũng, Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chế biến gỗ. Cổng thông
tin
điện
tử
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn,
http://wcag.mard.gov.vn/pages/news_detail.aspx?NewsId=29882
27