VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 27-31; 53
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI NGHỆ AN
Nguyễn Thị Kim Nhung - Lương Thị Thành Vinh
Trường Đại học Vinh
Ngày nhận bài: 14/03/2018: ngày sửa chữa: 16/03/2018; ngày duyệt đăng: 05/04/2018.
Abstract: The result of the analysis at nine high schools in Nghe An province shows seven factors
affecting the vocational orientation of high school students in this province. These factors consist
of the student’s direction themselves; their families’ orientation; the trends of socio-economic
development; the professional guidance at universities and vocational schools; peer’s choices and
communication. Among these factors, orientation from family and the students themselves is the
most important one. Based on the analysis of these factors, the article proposes some solutions to
guide high school students in the process of choosing career.
Keywords: Students, vocational trend, college, university, vocational schools.
1. Mở đầu
Để phát triển và xây dựng nền kinh tế của đất nước,
chất lượng nguồn nhân lực phải được xem là yếu tố then
chốt để phát huy mọi tiềm lực của đất nước. Nếu chúng
ta không chiếm lĩnh được tri thức, không sáng tạo và tích
cực ứng dụng công nghệ mới vào các ngành sản xuất thì
không thể thành công được trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt. Đặc biệt trong bối cảnh, Việt Nam đang tích
cực gia nhập sâu vào thị trường của khu vực và thế giới.
Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ
văn hóa của người dân, đặc biệt là việc định hướng nghề
nghiệp (ĐHNN) cho thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của
đất nước cần được chú trọng hơn bao giờ hết.
Nghệ An là một trong những tỉnh đông dân của vùng
Bắc Trung bộ, nơi có truyền thống hiếu học và học giỏi,
hàng năm có khoảng 20.000 học sinh (HS) trúng tuyển
đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ), đứng tốp đầu của cả nước.
Tuy nhiên, tư tưởng học lên ĐH để thoát nghèo đã dẫn
tới việc lựa chọn nghề chưa hợp lí, dẫn đến thực tế “Thừa
thầy, thiếu thợ”. Việc giúp HS có những hiểu biết về
nghề nghiệp để định hướng phát triển, lựa chọn ngành
nghề phù hợp với sở thích cá nhân cũng như năng lực
bản thân và nhu cầu xã hội còn nhiều hạn chế. Thực tế
hiện nay, HS trung học phổ thông (THPT) có rất nhiều
lựa chọn sau khi tốt nghiệp: học tiếp lên ĐH, CĐ; học
nghề; đi làm; du học... Vậy họ đã lựa chọn nghề nghiệp
như thế nào, trong quá trình lựa chọn ngành nghề, HS
THPT đã chịu tác động bởi những yếu tố cơ bản nào,
mức độ tác động đến đâu. Từ những vấn đề trên, việc
nghiên cứu các yếu tố có ảnh hưởng đến ĐHNN của HS
THPT sẽ giúp cho việc xác định đâu là yếu tố có tính chất
quyết định đến ĐHNN của HS, từ đó đề xuất những biện
pháp thiết thực nhằm định hướng và tạo điều kiện tốt nhất
27
cho HS THPT tỉnh Nghệ An trong lựa chọn hướng đi
tương lai của mình.
2. Nội dung và kết quả nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí thuyết, các giả thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1.1. Một số khái niệm:
- Nghề nghiệp: Nghề nghiệp là nghề làm để sinh sống
và để phục vụ xã hội [1; tr 676];
- ĐHNN: + Định hướng: là xác định phương hướng
chung [1; tr 325]; + ĐHNN: là một khái niệm giáo dục
toàn diện và liên tục được thiết kế để cung cấp cho các
cá nhân ở cấp trung học với các thông tin, kinh nghiệm
để chuẩn bị cho họ sống và làm việc trong một xã hội,
môi trường cần thiết.
2.1.2. Các giả thuyết nghiên cứu
Dựa vào các yếu tố đặc trưng của HS Việt Nam,
chúng tôi đề xuất 7 nhóm yếu tố chính đã được đưa vào
xem xét với 35 yếu tố đại diện ảnh hưởng đến ĐHNN của
HS. Từ đó, đề xuất 7 giả thuyết liên quan đến ĐHNN.
2.1.2.1. Sự lựa chọn của bản thân có ảnh hưởng quyết
định đến định hướng nghề nghiệp
Yếu tố tự thân cá nhân HS được xem là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến ĐHNN của
HS. Trong nhóm yếu tố thuộc về cá nhân người học, có
5 yếu tố được đưa vào để xem xét mức độ tác động đến
ĐHNN của người học, bao gồm: học lực; sức khỏe; đạo
đức; năng lực, sở trường; và ước mơ, lí tưởng. Trong các
yếu tố đó, yếu tố học lực được dự kiến là có ảnh hưởng
rõ nhất đến ĐHNN của người học.
Giả thuyết H1: Lực học của HS càng cao, HS càng có
xu hướng quan tâm và tự quyết định đến ĐHNN của mình.
2.1.2.2. Tác động của gia đình đến định hướng nghề nghiệp
Trong việc lựa chọn ĐHNN cho bản thân, HS phổ
thông thường bị tác động mạnh từ bố mẹ, anh chị em
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 27-31; 53
trong gia đình. Sự ảnh hưởng này thường thể hiện ở
những khía cạnh sau: Cha mẹ càng quan tâm đến con cái
càng có xu hướng can thiệp vào sự lựa chọn nghề nghiệp
của con cái. Trình độ của cha mẹ càng cao thì mức độ
quan tâm và tác động đến định hướng nghề của con càng
mạnh, nghề nghiệp của bố mẹ cũng tác động đến sự lựa
chọn nghề của con cái, tình trạng kinh tế của gia đình
cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của người
học. Xét trong bối cảnh giáo dục của tỉnh Nghệ An, một
mảnh đất giàu truyền thống hiếu học thì yếu tố gia đình
có ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn nghề nghiệp và
định hướng con đường học vấn của các bạn trẻ.
Giả thuyết H2: Sự quan tâm của bố mẹ càng nhiều
và trình độ của bố mẹ càng cao thì mức độ tác động đến
ĐHNN của con cái càng mạnh.
2.1.2.3. Xu hướng phát triển kinh tế - xã hội đến định
hướng nghề nghiệp
Xu hướng phát triển KT-XH của địa phương, đất
nước có ảnh hưởng không nhỏ đến ĐHNN của giới trẻ
hiện nay. Đây là một trong những yếu tố tất yếu góp phần
tạo ra sự phân luồng trong ĐHNN cho người học. Giới
trẻ càng ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển
KT-XH của địa phương, đất nước và thường có xu hướng
lựa chọn những ngành nghề đang có sức nóng với nhiều
cơ hội công việc và sự hứa hẹn cao về lương, thưởng.
Đây là một thực tế tất yếu dẫn đến việc, có những ngành
thu hút được rất nhiều nguồn nhân lực, trong khi có
những ngành không được giới trẻ quan tâm tìm hiểu.
Giả thuyết H3: Xu hướng phát triển KT-XH có ảnh
hưởng quan trọng đến ĐHNN của người học. HS phổ
thông có xu hướng tìm kiếm công việc ở những nơi có
nền KT-XH phát triển với nhiều cơ hội rộng mở.
2.1.2.4. Tư vấn hướng nghiệp của các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đến định hướng nghề nghiệp
Công tác quảng bá tuyển sinh, các hoạt động tư vấn
của các trường ĐH, CĐ và trung cấp chuyên nghiệp
(TCCN) cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến ĐHNN của
HS phổ thông. Các hoạt động quảng bá càng nhiều,
thường xuyên, và hình thức tổ chức càng đa dạng sẽ càng
tăng sức hấp dẫn trong lựa chọn nghề của người học. Sự
hứa hẹn về môi trường học tập tốt, học phí ưu đãi, cơ hội
sau khi ra trường có việc làm hấp dẫn cũng tác động đến
sự lựa chọn ngành, nghề của HS phổ thông.
Giả thuyết H4: Các trường ĐH, CĐ, TCCN càng đẩy
mạnh hoạt động tư vấn tuyển sinh càng có ảnh hưởng đối
với ĐHNN của người học.
2.1.2.5. Định hướng của nhà trường đến định hướng
nghề nghiệp
Đối với HS phổ thông, ĐHNN của nhà trường đóng
một vai trò không nhỏ đối với sự lựa chọn hướng đi tương
28
lai của các bạn. Trong đó, giáo viên chủ nhiệm đóng vai
trò quan trọng trong việc tư vấn, hướng nghiệp phù hợp
với năng lực và sở thích của người học, mức độ thường
xuyên của các hoạt động hướng nghiệp cũng như sự đa
dạng của các hình thức hướng nghiệp cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến khả năng ĐHNN cho các bạn HS phổ thông.
Giả thuyết H5: Nhà trường càng quan tâm và càng tổ
chức được nhiều các hoạt động tư vấn hướng nghiệp thì
càng có vai trò quan trọng trong ĐHNN đối với người học.
2.1.2.6. Sự tác động của bạn bè đến định hướng nghề nghiệp
Trong môi trường phổ thông, các bạn trẻ thường chơi
với nhau thành một nhóm nhỏ dựa trên sự đồng điệu về
lứa tuổi, sở thích, quan điểm ở trường học hoặc gần nơi
cư trú. Các bạn thường thảo luận với nhau khi đứng trước
ngưỡng cửa lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Do đó,
có nhiều HS có xu hướng chọn ngành nghề giống với bạn
thân của mình hoặc nghe theo lời khuyên của các bạn.
Giả thuyết H6: Bạn bè có tác động đáng kể đến
ĐHNN của người học.
2.1.2.7. Hoạt động truyền thông đến định hướng nghề nghiệp
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
thông tin và mạng internet, trẻ em có nhiều cơ hội để tiếp
cận với thông tin về nghề nghiệp qua đài, báo, ti vi, mạng.
Vai trò của truyền thông ngày càng lớn nó cung cấp
những kinh nghiệm xã hội, những xu hướng phát triển
kinh tế, cũng như những xu hướng lựa chọn nghề nghiệp
làm mẫu hình để các bạn trẻ tham khảo và ĐHNN tương
lai của mình. Các phương tiện truyền thông ngày càng đa
dạng, với các hình thức truyền tin hấp dẫn, nhanh chóng,
cập nhật đã tác động không nhỏ đến HS trong quá trình
tìm kiếm thông tin cho các quyết định tương lai.
Giả thuyết H7: Hoạt động truyền thông ngày càng có
vai trò quan trọng đối với ĐHNN của HS phổ thông.
2.2. Quy trình nghiên cứu
Đề xuất quy trình 7 bước: 1) Mục tiêu điều tra là các
nhân tố ảnh hưởng đến ĐHNN, đối tượng điều tra là HS
THPT; 2) Xây dựng mẫu phiếu điều tra, xác định khu
vực điều tra là các trường THPT trên địa bàn Nghệ An,
số lượng phiếu điều tra là 400 phiếu; 3) Điều tra thử để
kiểm định chất lượng bảng hỏi, sau đó điều chỉnh để có
bảng hỏi chuẩn; 4) Điều tra chính thức. Để thực hiện
bước 2, 3 và 4 cần sử dụng các phương pháp điều tra xã
hội học... Kết quả điều tra được xử lí bằng phần mềm
SPSS; 5) Phân tích kết quả điều tra; 6) Xác định vai trò
các yếu tố ĐHNN, đánh giá tác động của các yếu tố bằng
phần mềm GIS; 7) Đề xuất các giải pháp.
2.3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp
điều tra xã hội học kết hợp với phần mềm SPSS 20. Việc
lấy mẫu trên cơ sở tiêu chuẩn 5:1 của Bollen, tức là để
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 27-31; 53
đảm bảo phân tích dữ liệu (phân tích nhân tố khám phá
EFA) tốt thì cần ít nhất 5 quan sát cho 1 biến đo lường và
số quan sát không nên dưới 100. Bảng câu hỏi đánh giá
các yếu tố có tổng cộng 30 biến quan sát (các câu hỏi sử
dụng thang đo Likert), do vậy mẫu tối thiểu sẽ là 150.
Tuy nhiên, căn cứ vào số lượng phiếu thu thập được cũng
như để tăng độ tin cậy của kết quả nghiên cứu, số mẫu
được chọn để đưa vào phân tích là 317.
Nghiên cứu được tiến hành theo 2 bước, đầu tiên là
nghiên cứu sơ bộ bằng định tính rồi nghiên cứu chính
thức bằng định lượng. Thang đo và độ tin cậy của biến
quan sát được đánh giá bằng hệ số Cronbach’s Alpha.
Yêu cầu để thang đo được chấp nhận là loại bỏ các biến
số có tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 và hệ số
Cronbach’s Alpha nhỏ hơn 0,6. Bước cuối cùng là kiểm
định mô hình bằng phương pháp hồi quy đa biến với mức
ý nghĩa từ 5-10%. Các phân tích trên được thực hiện với
sự hỗ trợ của phần mềm SPSS.
Nguồn cung cấp dữ liệu gồm dữ liệu thứ cấp và dữ
liệu sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp được tham khảo từ số liệu
của tổng cục thống kê, của Sở GD-ĐT Nghệ An. Đối với
số liệu sơ cấp, bảng câu hỏi được gửi trực tiếp đến đối
tượng phỏng vấn 12 trường phổ thông tại các huyện, thị
xã, thành phố trên toàn tỉnh đại diện cho các khu vực
nông thôn, thành thị; miền núi, trung du, đồng bằng ven
biển. Tỉ lệ hồi đáp trực tiếp là 70,2% tương ứng có 317
phản hồi có giá trị trên số lượng gửi là 450.
2.4. Kết quả phân tích thống kê
2.4.1. Thống kê mô tả
Trong số 317 bảng khảo sát có giá trị, đối tượng trả
lời phỏng vấn là 93 HS ở miền núi (29,4%) gồm các
Trường THPT Kì Sơn, THPT Quỳ Hợp, THPT Tây
Hiếu; 51 HS ở trung du (16,1%) gồm Trường THPT Anh
Sơn 2, THPT Đô Lương 2, THPT Đô Lương 4; 173 HS
ở đồng bằng, ven biển (54,6%) gồm Trường THPT Hà
Huy Tập, THPT Hoàng Mai, THPT Quỳnh Lưu 1, THPT
Quỳnh Lưu 2, THPT DTNT 2. Trong đó, khu vực thành
thị có 85 HS (26,8%), khu vực nông thôn có 232 HS
(73,2%). Theo thành phần dân tộc: HS dân tộc Kinh 236
em (74,4 %), 43 HS dân tộc Thái (13,6%), 19 HS dân tộc
H’mông (6,0%), 9 HS dân tộc Thổ (2,8%), 8 HS dân tộc
Khơ mú (2,5%), 2 HS dân tộc Thanh (0,6%). Trong tổng
số 317 kết quả, có 189 nữ (59,6%) và 128 nam (40,4%)
tham gia trả lời phỏng vấn.
Theo kết quả phân tích tương quan giữa các biến độc
lập và biến phụ thuộc thì phần lớn các biến độc lập đều
có tương quan với biến phụ thuộc với ý nghĩa ở mức chấp
nhận (p < 0.01 hoặc p < 0.05) và có mức độ tương quan
giữa các biến độc lập trong cùng một nhóm với biến phụ
thuộc quyết định chọn trường đại học lớn hơn 0.3. Kết
quả này chứng tỏ mức độ phù hợp của các nhóm yếu tố
29
này với công tác phân tích nhân tố sẽ được thực hiện ở
phần tiếp theo.
2.4.2. Kiểm định độ tin cậy thang đo
Mô hình nghiên cứu ban đầu có 7 nhóm định lượng
(với 30 yếu tố) kì vọng ảnh hưởng lên quyết định lựa
chọn nghề nghiệp của HS. Tuy nhiên, khi đưa vào đánh
giá độ tin cậy của thang đo nhóm biến tác động của bạn
bè đến ĐHNN của người học (bao gồm 2 yếu tố) không
có ý nghĩa về mặt thống kê nên được loại bỏ khỏi phân
tích nhân tố và mô hình hồi quy tiếp theo.
Qua kiểm định độ tin cậy thang đo Cronbach’s Alpha
cho từng nhóm nhân tố, có thể rút ra được 4 nhóm nhân
tố có thang đo đạt độ tin cậy và có thể đưa vào để phân
tích nhân tố và phân tích hồi quy là nhân tố cá nhân người
học, nhân tố gia đình, nhân tố hoạt động hướng nghiệp
của nhà trường và nhân tố truyền thông. Tuy nhiên, trong
nhóm nhân tố hoạt động hướng nghiệp của nhà trường
thì biến tác động của nhà trường đến ĐHNN bị loại do
hệ số tương quan biến tổng dưới 3 (0.007) và hệ số
Cronbach’s Alpha nếu biến bị loại lớn hơn hệ số
Cronbach’s Alpha khi có biến tham gia (0.900 > 0.795).
Do đó, nhóm nhân tố hoạt động hướng nghiệp của nhà
trường chỉ còn lại 4 biến để đưa vào phân tích nhân tố
khám phá EFA. Nhóm nhân tố hoạt động hướng nghiệp
của các trường ĐH, CĐ và TCCN có 2 biến bị loại do
không đáp ứng yêu cầu về hệ số tương quan biến tổng và
hệ số Cronbach’s Alpha khi biến bị loại lớn hơn hệ số
Cronbach’s Alpha khi biến chưa bị loại, do đó nhóm
nhân tố này chỉ còn 2 biến đạt yêu cầu nên không đủ điều
kiện để đưa vào phân tích nhân tố khám phá. Riêng nhóm
biến xu hướng phát triển KT-XH được người học đánh
giá cao thứ 3 về mức độ ảnh hưởng tới việc ĐHNN của
người học, nhưng có 1 biến không đạt yêu cầu nên toàn
bộ nhóm biến này bị loại khỏi phân tích nhân tố khám
phá (vì nhóm này chỉ có 3 biến). Như vậy, qua kiểm định
độ tin cậy của thang đo thì còn lại 4 nhóm nhân tố được
đưa vào để phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi
quy, với tổng số 17 thang đo.
2.4.3. Phân tích nhân tố
Với 4 nhóm nhân tố độc lập và 1 nhóm nhân tố phụ
thuộc cùng 20 thang đo được rút ra sau khi kiểm định
thang đo sẽ được tiếp tục đưa vào để phân tích nhân tố
nhằm đánh giá mức độ hội tụ của các thang đo trong mỗi
nhóm nhân tố, từ đó rút ra được các đặc điểm lớn của
từng yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của HS THPT.
- Kết quả phân tích EFA cho biến độc lập. Do biến
tác động của nhà trường đến ĐHNN của người học bị
loại ở bước kiểm định thang đo, nên biến này sẽ không
được đưa vào để phân tích, kiểm định về sau:
+ Ở lần phân tích thứ nhất, hệ số KMO (Kaiser-MeyerOlkin) đạt 0.819, nên việc phân tích nhân tố được chấp
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 27-31; 53
nhận với tập dữ liệu nghiên cứu. Sig Barlett’s Test = 0.000
< 0.005, phân tích nhân tố là phù hợp. Giá trị Aigenvalue
= 1.820 > 1 và trích được 4 nhân tố mang ý nghĩa tóm tắt
thông tin tốt nhất. Tổng phương sai trích
= 78.441 > 50% cho thấy mô hình EFA là phù hợp. Như
vậy 4 nhân tố được trích cô đọng được 78% biến thiên các
biến quan sát. Kết quả ma trận xoay cho thấy, 17 biến quan
sát được gom thành 4 nhân tố, tất cả các biến quan sát đều
có hệ số tải nhân tố Factor Loading lớn hơn 0.5. Tuy nhiên,
biến mức độ tác động của bố mẹ đến ĐHNN lại được xếp
vào nhóm nhân tố cá nhân HS u biến tác động của ước mơ
lí tưởng của nhóm nhân tố cá nhân người học được xếp
vào nhóm gia đình trong ma trận xoay nên 2 biến này sẽ
bị loại khi phân tích nhân tố lần 2 và phân tích hồi quy.
+ Ở lần phân tích thứ hai, hệ số KMO (Kaiser-MeyerOlkin) đạt 0.802, nên việc phân tích nhân tố được chấp
nhận với tập dữ liệu nghiên cứu. Sig Barlett’s Test =
0.000 < 0.005, phân tích nhân tố là phù hợp. Giá trị
Aigenvalue = 1.435 > 1 và trích được 4 nhân tố mang ý
nghĩa tóm tắt thông tin tốt nhất. Tổng phương sai trích =
80.963 > 50% cho thấy mô hình EFA là phù hợp. Như
vậy 4 nhân tố được trích cô đọng được 80% biến thiên
các biến quan sát. Kết quả ma trận xoay cho thấy, 15 biến
quan sát được gom thành 4 nhân tố, tất cả các biến quan
sát đều có hệ số tải nhân tố Factor Loading lớn hơn 0.5.
- Kết quả phân tích nhân tố cho biến phụ thuộc. Sau
khi thực hiện phân tích 3 biến thuộc nhóm biến phụ thuộc
về tầm quan trọng của việc ĐHNN, hệ số KMO (KaiserMeyer-Olkin) đạt 0.603, nên việc phân tích nhân tố được
chấp nhận với tập dữ liệu nghiên cứu. Sig Barlett’s Test
= 0.000 < 0.005, phân tích nhân tố là phù hợp. Giá trị
Aigenvalue = 2.720 > 1 và trích được 1 nhân tố mang ý
nghĩa tóm tắt thông tin tốt nhất. Tổng phương sai trích
= 90.657 > 50% cho thấy mô hình EFA là phù hợp. Như
vậy, nhân tố phụ thuộc được trích cô đọng được 90%
biến thiên các biến quan sát.
2.4.4. Phân tích tương quan
Sig tương quan Pearson các biến độc lập cá nhân
người học, gia đình nhỏ hơn 0.05; biến nhà trường và
hoạt động truyền thông lớn hơn 0.05. Như vậy, chỉ có 2
biến cá nhân người học và gia đình là có mối quan hệ
tuyến tính với biến phụ thuộc ĐHNN của HS phổ thông
tỉnh Nghệ An. Hai biến tương quan có mối quan hệ khá
mạnh với ĐHNN; trong đó biến cá nhân người học có
tương quan mạnh nhất (hệ số r = 0.940), và biến gia đình
cũng có tương quan khá mạnh (hệ số r = 0.593). Hai biến
Cá nhân và gia đình có mối tương quan khá mạnh với
nhau (r = 0.560), như vậy, cần phải kiểm tra hiện tượng
đa cộng tuyến khi phân tích hồi quy giữa hai biến này với
biến phụ thuộc.
2.4.5. Hồi quy đa biến
30
Với mô hình ban đầu có 7 nhóm nhân tố được đưa
vào để đánh giá mức độ ảnh hưởng tới ĐHNN của người
học. Tuy nhiên, trải qua kiểm định thang đo, phân tích
nhân tố và phân tích tương quan, chỉ còn 2 nhân tố có vai
trò quan trọng nhất đối với ĐHNN của người học đó là
nhân tố cá nhân người học và nhân tố gia đình. Do đó,
mô hình hồi quy sẽ được rút gọn lại với 2 biến độc lập và
1 biến phụ thuộc. Tuy nhiên trong mô hình này, hai biến
giới tính và vùng miền sẽ được tham gia vào để đánh giá
sự khác biệt của 2 nhóm nhân tố gia đình và cá nhân
người học tới ĐHNN của họ theo giới tính và theo khu
vực của tỉnh Nghệ An.
Giá trị R2 hiệu chỉnh bằng 0.889 cho thấy biến độc
lập đưa vào chạy hồi quy ảnh hưởng tới 88,9% sự thay
đổi của biến phụ thuộc, còn lại 11,1% là do các biến
ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên. Hệ số DurbinWatson = 1.593, nằm trong khoảng 1.5-2.5 nên không có
hiện tượng tự tương quan chuỗi bậc nhất xảy ra. Sig kiểm
định F bằng 0.00 nhỏ hơn 0.05, như vậy mô hình hồi quy
tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng
được. Sig kiểm định t hệ số hồi quy của các biến đều
không nhỏ hơn 0.05, do đó các biến độc lập này đều có
ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc, không biến nào bị
loại khỏi mô hình. Hệ số VIF của các biến đều nhỏ hơn
2 nên không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Các hệ
số hổi quy đều lớn hơn 0. Như vậy, 2 biến độc lập đưa
vào phân tích hồi quy đều tác động cùng chiều tới biến
phụ thuộc. Dựa vào độ lớn của hệ số hồi quy chuẩn hóa
Beta, thứ tự mức độ tác động từ mạnh nhất tới yếu nhất
của các biến độc lập tới biến phụ thuộc là biến cá nhân
(0.885) lớn hơn biến gia đình (0.97). Qua đây có thể thấy,
các yếu tố thuộc bản thân cá nhân người học có ảnh
hưởng quan trọng nhất đến ĐHNN của người học.
Giá trị Mean = - 6.22E-15 gần bằng 0, độ lệch là
0.997 gần bằng 1, như vậy có thể nói, phân phối phần dư
xấp xỉ chuẩn. Do đó, có thể kết luận rằng: giả thiết phân
phối chuẩn của phần dư không bị vi phạm.
Các điểm phân biệt trong phân phối của phần dư tập
trung thành 1 đường chéo, như vậy, giả định phân phối
chuẩn của phần dư không bị vi phạm. Phần dư chuẩn đó
phân bổ tập trung xung quanh đường hoành độ 0, do vậy
giả định quan hệ tuyến tính không bị vi phạm.
Như vậy, với 7 giả thuyết từ H1-H7 đã được đặt ra từ
ban đầu ở phần giả thuyết nghiên cứu, có 2 giả thuyết được
chấp nhận trong điều kiện khảo sát ở tỉnh Nghệ An tương
ứng với các biến cá nhân người học và gia đình. 5 biến bị
loại vì không đạt các tiêu chuẩn thang đo, phân tích nhân
tố khám phá hay không có ý nghĩa trong mô hình hồi quy.
2.4.6. Thảo luận kết quả
Qua khảo sát có thể nhận thấy hai nhân tố bản thân
cá nhân người học và gia đình là những yếu tố quyết định
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 27-31; 53
tới ĐHNN của HS hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện
nay. Tuy nhiên, việc lựa chọn nghề của người học phần
lớn không xuất phát từ sở trường, năng lực hay ước mơ,
lí tưởng của người học mà chủ yếu là do nhận thức của
người học về sự tác động của học lực đến lựa chọn nghề
cũng như ảnh hưởng của kinh tế gia đình đến lựa chọn
nghề. Mặt khác trong nhận thức giá trị nghề của HS phổ
thông thì có đến 43,5% HS cho rằng nghề là để kiếm tiền;
29,7% cho rằng nghề để ổn định cuộc sống. Chỉ có 9,1%
HS cho rằng nghề để thỏa mãn ước mơ lí tưởng; 6,6%
HS cho rằng nghề để thể hiện tài năng, còn lại là các giá
trị khác. Như vậy, có thể thấy còn nhiều bất cập hạn chế
trong năng lực ĐHNN của người học. Một chỉ số đánh
giá năng lực định hướng của HS cho thấy có 95% HS
được hỏi có xác định mục tiêu. Tuy nhiên chỉ có 14,5%
kiên định với mục tiêu; 36,6% ít thay đổi mục tiêu và
34,4% hay thay đổi mục tiêu.
Bên cạnh đó, yếu tố gia đình (sự quan tâm của bố, mẹ)
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến ĐHNN của người học.
Tuy nhiên theo khảo sát hơn 87,1% bố mẹ có trình độ học
vấn từ lớp 9 trở xuống; 8,8% bố mẹ có trình độ THPT; 1%
bố mẹ có trình độ CĐ; 2,5% bố mẹ có trình độ ĐH; 0,6%
có trình độ sau ĐH. Có thể thấy trình độ học vấn của bố
mẹ có ảnh hưởng không nhỏ đến việc học và tư vấn nghề
nghiệp cho con cái. Có đến 71% bố mẹ không bao giờ dạy
con học; 65% bố mẹ không kiểm tra bài vở của con; 64,7
% bố mẹ rất ít khi trao đổi với giáo viên chủ nhiệm. Phần
lớn bố mẹ chỉ nhắc nhở con học và cho con học thêm. Lí
do chủ yếu mà bố mẹ ít quan tâm đến việc học là do
chương trình học khác trước, bố mẹ trình độ hạn chế và bố
mẹ làm việc vất vả ít có thời gian dành cho con cái. Đối
với ĐHNN của con chỉ có 5,3 % bố mẹ không quan tâm;
17% bố mẹ quan tâm nhưng không can thiệp; 52,1% có tư
vấn phân tích nhưng không can thiệp; 22,1% can thiệp vào
ĐHNN của con và 3,5% quyết định nghề nghiệp tương lai
của con. Khi phân tích tương quan giữa mức độ can thiệp
của bố mẹ với trình độ nghề nghiệp của bố mẹ, có thể nhận
thấy trình độ của bố mẹ càng cao thì mức độ can thiệp vào
ĐHNN của con càng lớn.
3. Kết luận và kiến nghị
Nghiên cứu đã xây dựng và kiểm chứng mô hình các
yếu tố ảnh hưởng đến ĐHNN của HS THPT tỉnh Nghệ
An với 7 nhân tố đại diện. Theo kết quả khảo sát, đánh
giá của người học trong việc xác định mức độ quan trọng
của từng yếu tố đối với ĐHNN của mình, yếu tố cá nhân
người học có vị trí dẫn đầu (7,26 điểm); thứ 2 là yếu tố
gia đình (5,52); thứ 3 là yếu tố xu hướng phát triển KTXH (5,46); thứ 4 là yếu tố nhà trường (4,57); thứ 5 là yếu
tố hoạt động hướng nghiệp của các trường ĐH, CĐ,
TCCN; thứ 6 là hoạt động truyền thông và cuối cùng là
yếu tố bạn bè. Tuy nhiên, khi đưa các yếu tố vào để kiểm
31
định thang đo, phân tích nhân tố và phân tích hồi quy thì
chỉ còn lại 2 nhân tố có ý nghĩa quan trọng nhất tới
ĐHNN của người học là nhân tố cá nhân người học và
nhân tố gia đình; trong đó, nhân tố cá nhân người học giữ
vai trò quyết định. Mô hình nghiên cứu hiệu chỉnh đã giải
thích được 88,9% cho tổng thể về mối liên hệ của 2 nhân
tố cá nhân người học và gia đình với biến ĐHNN, đồng
thời khẳng định mối quan hệ đồng biến giữa 2 nhân tố
này với biến phụ thuộc.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, trong 7 giả thuyết liên
quan đến ĐHNN, giả thuyết H1 và H2 đã được khẳng
định, các giả thuyết còn lại đều bị phủ định. Tuy nhiên,
trên thực tế, giả thuyết H5 là yếu tố Nhà trường THPT
mặc dù bị phủ định do hiệu quả ĐHNN chưa cao dưới
góc độ nhận xét của người học. Nhưng đây là một yếu tố
khá quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến ĐHNN của
người học. Từ đó, một số kiến nghị đề xuất được đề ra
căn cứ vào 2 nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất trong mô
hình cũng như nâng cao hiệu quả của nhân tố nhà trường
THPT trong ĐHNN cho người học:
- Nhân tố cá nhân người học: Ý thức cao trong việc
chọn ngành, nghề tương lai ngay từ khi bắt đầu bước vào
THPT. Nhận thức được tầm quan trọng của sự định
hướng ngành, nghề để có kế hoạch tự bồi dưỡng, tích cực
trong học tập nhằm hình thành những kiến thức, năng lực
liên quan đến ngành, nghề mà mình đã lựa chọn. HS phải
có thói quen tự đánh giá bản thân, tích cực tìm hiểu
những thông tin về ngành, nghề về nhu cầu thị trường lao
động của xã hội để có một nền tảng kiến thức vững chắc
làm cơ sở cho sự lựa chọn ngành, nghề phù hợp, tránh
được những sai lầm trong quá trình chọn ngành, nghề.
Sẵn sàng hợp tác với thầy cô, gia đình trong quá trình lựa
chọn nghề, mạnh dạn chia sẻ, bày tỏ những khó khăn của
bản thân trong quá trình chọn ngành, nghề với thầy cô,
với cha mẹ và với các nhà tham vấn để họ kịp thời trợ
giúp các em tháo gỡ những khó khăn đó, có như vậy mới
tạo được hứng thú, củng cố niềm tin trong học tập cũng
như trong việc lựa chọn ngành, nghề tương lai.
- Nhân tố gia đình: Gia đình cần phải có quan niệm,
cách nhìn nhận đúng đắn về giá trị nghề nghiệp trong xã
hội hiện nay. Và khi gia đình đánh giá được đúng bản
chất của nghề nghiệp thì việc cần quan tâm tiếp theo là
gia đình phải tìm hiểu về những nhu cầu, sở thích,
nguyện vọng bên cạnh đó là không quên đánh giá khả
năng, thế mạnh, năng lực của con mình... Trên các cơ sở
hiểu biết đó gia đình sẽ tư vấn, trao đổi, góp ý cho con có
được một sự lựa chọn đúng đắn nhất. Bên cạnh đó gia
đình cũng nên tìm hiểu xem nghề nghiệp mà con mình
chọn lựa có phù hợp với xu hướng và sự đòi hỏi về nguồn
.............................................................(Xem tiếp trang 53)
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 49-53
3. Kết luận
Mỗi người đều sở hữu một tài năng thiên bẩm riêng.
Tuýp NT là người thực tế, thích làm việc độc lập, có ưu
điểm là sắp xếp công việc khoa học, tuân thủ quy tắc, khả
năng ngôn ngữ tốt nhưng lại chủ quan, cứng nhắc, kém
linh hoạt; thích hợp với những công việc mang tính cụ
thể, rõ ràng. Tuýp NP là người mơ mộng, thích làm việc
tập thể, có ưu điểm là sáng tạo, mềm dẻo, ghi nhớ hình
ảnh tốt nhưng lại làm việc theo ý thích không theo kế
hoạch; thích hợp với những phần việc cần sự đột phá và
ý tưởng sáng tạo. Vì vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập theo nhóm thì mỗi nhóm nên có đủ các KTT. Khi làm
việc độc lập, những người thuộc tuýp NT nên cẩn thận
ghi chép lại những ý tưởng của mình và nên chọn thi đề
“đóng”; ngược lại, người tuýp NP nên viết ra phương
hướng hành động, tuân thủ những quy định về thời gian
và nên chọn thi đề “mở”.
Tài liệu tham khảo
[1] Cynthia Ulrich Tobias (2016). Mỗi đứa trẻ một cách
học. NXB Lao động - Xã hội.
[2] Rita Dunn - Jeffrey S. Beaudry - Angela Klavas (1989).
Survey of research on learning styles. The Association
for supervision and curriculum development.
[3] Nguyễn Văn Hạnh (2014). Dạy học theo phong cách
học tập. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 2, tr 71-75.
[4] Bùi Văn Huệ (1996). Về bản chất của năng lực trí
tuệ. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 9, tr 11-12.
[6] Lê Thị Bích Ngọc (2009). Kinh nghiệm chia nhóm
hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi theo lí
thuyết trí thông minh đa dạng. Tạp chí Khoa học
Giáo dục, số 222, tr 21-23.
[7] Phan Văn Nhân (2013). Dạy học theo thuyết đa trí
tuệ. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 98, tr 9-11.
[8] Trần Văn Trung (2017). Tăng cường tổ chức các hình
thức hoạt động nhóm theo hướng tiếp cận thuyết đa
trí tuệ. Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 138, tr 28-30.
[9] Đoàn Văn Điều (2016). Tương quan giữa bán cầu
não chiếm ưu thế - kiểu học tập với kết quả học tập.
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh, số 1 (79), tr 16-24.
[10] Nguyễn Quang Mai (chủ biên, 2004). Sinh lí học
động vật và người. NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[11] Nguyễn Chí Tăng (2018). Vận dụng phương pháp
dạy học hợp tác trong giảng dạy môn Giáo dục kĩ
năng sống ở trường cao đẳng và đại học. Tạp chí
Dạy và Học ngày nay, số tháng 02, tr 18-21.
53
[12] Phan Trọng Ngọ (chủ biên, 2001). Tâm lí học trí tuệ.
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG...
(Tiếp theo trang 31)
nhân lực của xã hội hay không. Và nhất định là không
được áp đặt và lựa chọn nghề nghiệp cho con cái. Không
gây áp lực cho con cái về việc thi ĐH hay học nghề. Tạo
tâm lí thoải mái, cởi mở ở gia đình để cho con cái sẵn
sàng chia sẻ, giải quyết thắc mắc về nghề nghiệp.
- Đối với nhà trường: Nâng cao chất lượng, hiệu quả
của công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường.
Cải tiến hình thức tổ chức và phương pháp giảng dạy bộ
môn giáo dục hướng nghiệp nhằm thúc đẩy tính tích cực
chủ động, sáng tạo của người học. Xây dựng đội ngũ giáo
viên làm công tác hướng nghiệp để phụ trách hoạt động
giáo dục hướng nghiệp, đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn, tư
vấn cho HS trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp tương
lai. Tổ chức tốt công tác thông tin nghề nghiệp để giúp
HS định hướng và lựa chọn nghề. HS cần được trang bị
những kiến thức về thị trường lao động, thế giới nghề
nghiệp, các yêu cầu của nghề đối với người lao động.
Ngoài ra, cần lồng ghép hướng nghiệp vào các môn học
và hoạt động ngoại khoá.
Tài liệu tham khảo
[1] Hoàng Phê (2010). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà
Nẵng - Trung tâm từ điển học.
[2] Ủy Ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2015). Kế hoạch phân
luồng, hướng nghiệp, dạy nghề học sinh sau trung học
cơ sở và trung học phổ thông đến năm 2020.
[3] Phạm Tất Dong (2005). Giáo dục hướng nghiệp
(sách giáo viên lớp 9). NXB Giáo dục.
[4] Nguyễn Ngọc Bích (1979). Nghiên cứu động cơ
chọn nghề của thanh niên. Luận án tiến sĩ Tâm lí
học, Hà Nội.
[5] Chapman, D. W. (1981). A model of student college
choice. The Journal of Higher Education, Vol.
52(5), pp. 490-505.
[6] Marvin J. Burns (2006). Factors influencing the
college choice of African-American students admitted
to the college of agriculture, food and natural
resources. A Thesis presented to the Faculty of the
Graduate School. University of Missouri, Columbia.
[7] Hossler, D. - Gallagher K. (1987). Studying college
choice: A three-phase model and implications for policy
makers. College and University, Vol. 2, pp. 207-21.
[8] J. F. Hair - R. E. Anderson - R. L. Tatham - William
C. Black (1998). Multivariate Data Analysis, Fifth
Edition. Prentice-Hall International, Inc.