VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ
KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ - NHÌN TỪ NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN
Ngô Văn Lệa
Nguyễn Thị Hạnhb
Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh
Email: lengovan@gmail.com
b
Học viện Dân tộc
Email: hanhnt@hvdt.edu.vn
a
Ngày nhận bài: 18/8/2019
Ngày phản biện: 20/8/2019
Ngày tác giả sửa: 30/8/2019
Ngày duyệt đăng: 25/9/2019
Ngày phát hành: 30/9/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/334
rong những năm gần đây, khi nghiên cứu về các tộc người
thiểu số, các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến kho tàng
tri thức địa phương mà cộng đồng đã tích lũy trong quá trình lao
động sản xuất, tổ chức đời sống và coi đó như một nguồn lực phát
triển. Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã có vai trò quan trọng
dẫn đến những thay đổi của đời sống xã hội nhưng các nhà nghiên
cứu, nhà quản lý cộng đồng dân cư vẫn cho rằng, kho tàng tri thức
đó vẫn đã và luôn có giá trị. Trên cơ sở những tư liệu thu thập được,
bài viết chủ yếu phân tích vai trò của tri thức địa phương như một
nguồn lực phát triển ở khu vực Đông Nam Bộ.
Từ khoá: Tri thức địa phương; Tộc người thiểu số; Nguồn lực
phát triển.
T
1. Đặt vấn đề
Từ ngàn đời nay, đồng bào các dân tộc thiểu
số (DTTS) vẫn luôn sống chan hòa với thế giới tự
nhiên xung quanh. Đồng bào thích ứng với môi
trường sống và đúc rút ra được những kinh nghiệm
quý báu. Đó là những kinh nghiệm trong bảo vệ
môi trường, bảo vệ rừng thiêng, rừng đầu nguồn,
những kinh nghiệm trong sản xuất, canh tác, chữa
bệnh, lối sống thân thiện với thiên nhiên. Nguồn tri
thức địa phương đó có vai trò quan trọng, có nhiều
tác động tích cực đến sự phát triển bền vững của tự
nhiên và xã hội.Do đó, đánh giá đúng vai trò của tri
thức địa phương của các DTTS khu vực Đông Nam
Bộ dưới góc nhìn nguồn lực phát triển sẽ góp phần
quan trọng cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị
tri thức đó, trong giai đoạn hiện nay.
2. Tổng quan nghiên cứu
Tri thức địa phương của các tộc người thiểu số ở
nước ta nói chung và tri thức địa phương của các tộc
người thiểu số ở khu vực Đông Nam Bộ nói riêng
đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, nghiên cứu
trong thời gian qua. Trong đó có những công trình
tiêu biểu sau: Luật tục Xtiêng và vấn đề đất rừng
ở Bình Phước hiện nay (An, 2001); Tri thức dân
gian của người Thái trong sử, dụng và bảo vệ tài
nguyên (An, 2008); Tri thức địa phương và sự phát
triển bền vững (Bình, 1998); Tìm hiểu luật tục của
các tộc người ở Việt Nam (Thịnh, 2003); Tri thức
bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông Nam
Bộ trong tiến trình phát triển xã hội Việt Nam (Lệ,
Thu, & Lan, 2016); Nghiên cứu tộc người và văn
Volume 8, Issue 3
hóa tộc người: Tiếp cận nhân học phát triển (Lệ,
2017)… Các nghiên cứu đã chỉ rõ: Trong quá trình
phát triển, các tộc người thiểu số đã tích lũy nhiều
tri thức. Kho tàng tri thức này không chỉ góp phần
vào sự phát triển chung của cộng đồng mà đồng thời
còn làm phong phú văn hóa các dân tộc trong những
điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội cụ thể.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng một số phương pháp như: Kế
thừa tài liệu thứ cấp; phương pháp thu thập tài liệu
sơ cấp; phương pháp tổng hợp phân tích.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Vai trò của tri thức địa phương trong quản
lý xã hội
Tri thức địa phương xét cả về phương diện khoa
học và thực tiễn có thể coi là tài sản của một tộc
người trong quá trình phát triển, phản ánh mối quan
hệ của từng cộng đồng đối với môi trường tự nhiên
và xã hội nơi tộc người đó sinh tồn. Như là một
thành tố văn hoá của một tộc người nên tri thức địa
phương của các tộc người cũng rất đa dạng. Mỗi tộc
người trong những điều kiện cụ thể của môi trường
tự nhiên, xã hội có một kho tàng tri thức riêng của
mình (Lệ, 2013).
Địa bàn Đông Nam Bộ cũng là nơi cư trú của
nhiều tộc người thiểu số như Xtiêng, Mnông, Mạ,
Chơ Ro… nhiều thành phần tộc người thiểu số ở
các tỉnh miền núi phía Bắc di cư vào sau năm 1975.
Các tộc người tại chỗ ở đây trong quá trình chinh
phục vùng đất này đã sáng tạo cho mình một nền
99
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
văn hóa mang đậm dấu ấn riêng, trong đó có tri thức
địa phương. Các thành phần tộc người ở các tỉnh
miền núi phía Bắc di cư vào khu vực Đông Nam
Bộ trong vài chục năm gần đây chưa thể tạo riêng
cho mình một dạng tri thức địa phương ở vùng đất
mới, do không gian văn hóa còn quá mới đối với họ.
Những gì thuộc về tri thức địa phương mà họ tích
lũy được chỉ có thể tồn tại và ứng dụng được trong
không gian văn hóa truyền thống phía Bắc. Trong
không gian văn hóa mới (các tỉnh Đông Nam Bộ)
không còn phù hợp với tri thức địa phương cũ mà
họ tích lũy được trong quá trình sinh sống ở các tỉnh
miền núi phía Bắc. Còn các tộc người thiểu số tại
chỗ đã gắn bó lâu đời với vùng đất Đông Nam Bộ,
nên đã có hệ thống tri thức địa phương phù hợp với
môi trường tự nhiên ở nơi đây. Đó là phải thích ứng
với môi trường sinh thái, mặt khác, tiếp nhận các
yếu tố văn hóa ngoại sinh, để làm phong phú văn
hóa truyền thống.
Làng của các tộc người thiểu số là tổ chức xã
hội cổ truyền, trong nhiều trường hợp, là hình thái
duy nhất. Tên gọi có thể khác nhau, nhưng là nơi tụ
cư, điểm cư trú của cư dân, mà mối quan hệ giữa
họ cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu,
làng thường là nơi tập hợp những người có quan hệ
huyết thống, dần dần có thêm những người khác
không cùng huyết thống, xuất hiện quan hệ mới quan hệ láng giềng. Như một quy luật, các làng đều
có chung sở hữu về đất đai thổ cư, thổ canh, rừng,
bãi chăn thả, sông suối… ở đó mọi thành viên của
làng có quyền sử dụng và đồng thời cũng phải có
nghĩa vụ bảo vệ. Làng là nơi cư trú của nhiều gia
đình có quan hệ huyết thống hay quan hệ láng giềng,
trở thành một tổ chức xã hội cơ sở, dựa trên quan
hệ cộng đồng, tự quản, vận hành trên các nguyên
tắc của luật tục. Ở một khía cạnh khác, làng còn
thể hiện phương diện văn hóa cộng đồng thông qua
ngôi nhà chung, gọi là nhà cộng đồng. Đây là nơi
diễn ra các sinh hoạt cộng đồng, là nơi hội họp thực
hành các nghi lễ. Khi Nhà nước chưa trực tiếp can
thiệp vào từng buôn làng, khi luật pháp chưa thể chế
hóa các hoạt động của buôn làng, thì buôn làng có
bộ máy tự quản, sử dụng luật tục như là nguyên tắc
cơ bản để xử lý các vi phạm và quản lý cộng đồng.
Làng của các tộc người thiểu số được hình thành
và vận hành theo những chuẩn mực riêng, nên có
kết cấu xã hội vững chắc, nơi tích tụ và sản sinh ra
nhiều giá trị văn hóa độc đáo, trong đó có tri thức
địa phương. Do làng được tổ chức và vận hành như
vậy, nên nó như một “ốc đảo” tách biệt với các cộng
đồng cư dân khác, việc giao lưu tiếp xúc với các
khu vực khác cũng rất hạn chế. Không gian sinh tồn
đó chính là tri thức địa phương được hình thành và
trải nghiệm, được truyền dẫn từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Vai trò của tri thức địa phương được thể
hiện rõ những giá trị nhất định trong việc kiểm soát
và quản lý xã hội, khi xã hội tộc người chưa chịu
100
sự can thiệp của quản lý Nhà nước. Để vận hành
được xã hội trong làng truyền thống, khi mà chưa
có hệ thống pháp luật của Nhà nước, cộng đồng đã
xây dựng cho mình những nguyên tắc, hay còn gọi
là luật tục. Phần lớn các tộc người thiểu số chưa
có chữ viết, nên mọi tri thức tích lũy được trong
đời sống đều được truyền miệng từ thế hệ này sang
thế hệ khác, có những yếu tố trở thành luật tục của
cộng đồng. Luật tục là bộ luật bất thành văn quy
định các hành vi ứng xử của các thành viên trong
cộng đồng với nhau và cách ứng xử của mọi người
với thiên nhiên. Là sản phẩm của cộng đồng, nên
luật tục của các tộc người dù theo mẫu hệ hay phụ
hệ đều hướng tới tạo nên mối quan hệ thân thiện
giữa con người với con người và giữa con người
với thiên nhiên. Luật tục của các tộc người thiểu số
ở khu vực Đông Nam Bộ đề cập đến các khía cạnh
đời sống của các tộc người, trong đó có những qui
định về vấn đề tổ chức, quản lý cộng đồng. Ở một
chừng mực nhất định, luật tục là một khía cạnh của
tri thức địa phương, mà các tộc người tích lũy được
trong quá trình sản xuất, ổn định xã hội để phát
triển, nên nó thể hiện tính địa phương (gắn liền với
từng tộc người), không có luật tục chung cho mọi
cộng đồng. Như vậy, ở bất kỳ một tộc người nào,
luật tục đều mang đậm dấu ấn văn hóa tộc người và
giữ vai trò như là một nguyên tắc trong việc quản
lý, điều hành xã hội.
4.2. Vai trò của tri thức địa phương trong đời
sống kinh tế
Tri thức địa phương như một kho tàng kinh
nghiệm, trong đó, các thế hệ nối tiếp nhau tích lũy và
truyền dẫn. Nó được hình thành trong quá trình lao
động sản xuất gắn với hoạt động thực tiễn và điều
kiện môi sinh cụ thể. Tri thức địa phương sẽ không
tồn tại nếu không gắn liền với hoạt động thực tiễn
và trong một không gian văn hóa cụ thể. Chính hoạt
động thực tiễn và trong môi trường cụ thể, bằng trải
nghiệm của các tộc người, dù thành công hay thất
bại trong trồng trọt, săn bắt, hái lượm, trong chăm
sóc sức khỏe… đã giúp họ đặt ra các câu hỏi và tự
tìm câu trả lời từ hoạt động thực tiễn. Từ đó, con
người tích lũy những kinh nghiệm, truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Trong điều kiện hiện nay, từ nghiên cứu nhu cầu
thực tiễn, người ta đưa ra các cách thức để có thể
đạt được mục đích của mình. Nhưng có một thực tế
là không có tri thức địa phương chung của mọi tộc
người sinh sống trên một địa bàn cũng như không
có luật tục chung của các tộc người. Trong đời sống
hàng ngày, con người để tồn tại đòi hỏi phải sản
xuất ra lương thực, nhưng cách thức thì lại khác
nhau. Cùng sinh sống trên địa bàn Đông Nam Bộ
với điều kiện tự nhiên giống nhau, nhưng cách thức
tổ chức sản xuất cũng như đời sống xã hội của các
cộng đồng cư dân là rất khác nhau.
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Vai trò của tri thức địa phương trong đời sống
kinh tế thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, khai thác các sản phẩm từ rừng. Ở
khu vực Đông Nam Bộ, rừng nhiều nên có các loài
thú như heo rừng, gà rừng, nai, mễn, kỳ đà, các loài
chim. Đây là nguồn thực phẩm mà thiên nhiên ban
cấp cho các cộng đồng cư dân. Bằng thực tiễn của
cuộc sống và những loại cây có thể giúp làm các
công cụ săn bắn, người dân đã tự chế tạo ra các công
cụ cho phù hợp với từng loài. Tùy theo đặc tính của
loài thú mà người dân có những kinh nghiệm đánh
bắt khác nhau. Từ kinh nghiệm thường ngày, người
dân thấy các loài thú có những “sở thích” khác nhau
như heo rừng thích ăn trái cây chín, chồn thích ăn
trái cà chua, nai hoặc mễn thích ăn các loại lá non.
Người dân dựa vào những “sở thích” này của các
loài thú để săn bắt có hiệu quả. Mỗi loài thú trong
rừng khi di chuyển thường để lại các dấu vết đặc
trưng, giúp cho những người có kinh nghiệm dễ
nhận biết. Người Xtiêng khi đi săn dựa vào các dấu
vết để lại của các loài thú. Chẳng hạn, heo rừng khi
đi tìm mồi thường dùng mõm để đào ủi tìm kiếm
nguồn thức ăn, nên để lại những vết đất đào trên
mặt đất. Người đi săn sẽ lần theo dấu vết này để
tìm thú. Đối với loài chồn, dấu vết để lại là chất thải
(phân). Chồn ăn trái cây, nhưng những hạt này khó
tiêu hóa, nên thường để lại phân trên đường đi. Việc
để lại những chất thải trên đường di chuyển không
khác gì dẫn đường cho người đi săn. Người thợ săn
với kinh nghiệm của mình lần theo các đường chỉ
dẫn đó tìm đến nơi cư trú của loài chồn.
Các tộc người thiểu số khác sinh sống trong
địa bàn như Mnông, Chơ Ro, Mạ… cũng dựa vào
những đặc điểm dễ nhận biết như trên để tìm ra thú
khi đi săn. Những nơi mà họ chú ý nhất để có thể
bắt gặp thú là những khu đồng cỏ, sông, suối, ao,
hồ… Vì đây là địa điểm mà các loài thú thường ra
ăn và uống nước. Để có thể săn bắt các loài thú, các
tộc người ở khu vực Tây Nguyên và miền Đông
Nam Bộ đã chế tác các loại công cụ như nỏ, bẫy.
Các loại công cụ này cũng rất đa dạng. Khi đi săn,
bắn như vậy những người dân luôn ý thức được giới
hạn địa bàn mà họ có thể thực hiện việc săn bắn,
không xâm phạm đến địa phận đất rừng của làng
khác, tộc người khác.
Việc khai thác mật ong trong các khu rừng cũng
được các tộc người thiểu số ở khu vực Đông Nam
Bộ quan tâm. Đây là sản phẩm có giá trị không
những được sử dụng trong ăn uống, bồi bổ sức
khỏe, mà còn dùng để trị các bệnh thông thường
như ho, viêm họng, các bệnh liên quan đến tiêu hóa,
mà rừng mang lại cho cộng đồng. Kinh nghiệm của
cư dân sống gắn bó với rừng, là ong thường làm tổ
ở những nơi mát gần sông suối và nhiều cây có hoa.
Khi đi tìm mật ong, mỗi tộc người có những
nghi thức riêng mong được sự giúp đỡ của thần linh
Volume 8, Issue 3
để việc khai thác mật ong của họ có hiệu quả hơn.
Chẳng hạn, người Chơ Ro, trước khi đi tìm mật ong,
người lớn tuổi nhất sẽ đứng trước bàn thờ tổ tiên
khấn vái, cầu cho chuyến đi lấy mật được nhiều và
không gặp bất kỳ bất trắc nào trong quá trình khai
thác. Bởi vì người Chơ Ro quan niệm, nếu không
khấn vái, cầu xin thì tổ tiên ông bà không phù hộ,
vì vậy, không những không thu được sản phẩm mật
ong như mong muốn, mà nhiều khi còn gặp phải
những điều xui xẻo khác. Ở những tộc người khác
như Mnông, Xtiêng khi đi khai thác mật ong trong
rừng cũng làm các nghi thức khấn vái.
Thứ hai, khai thác và sử dụng nguồn nước. Mặc
dù, sinh sống trong không gian văn hóa Đông Nam
Bộ, nhưng mỗi tộc người lại có cách tiếp cận khác
nhau về nguồn nước cũng như sử dụng nó trong sản
xuất và trong đời sống hàng ngày. Người Chơ Ro
phân nguồn nước tự nhiên thành ba loại: nước từ
khe suối, nước mưa và mạch nước ngầm; trong đó,
nước suối được cai quản bởi một vị thần có tên là
“Ba suối”. Sở dĩ có quan niệm này, có thể, do các
dòng suối thường dâng nước lên cao vào mùa mưa,
nên gây ra những thiệt hại về người và của. Do vậy,
trước sức tàn phá đó, người dân sùng bái thành thần
thánh. Còn người Mnông lại chia nguồn nước thành:
nước sông, nước suối, nước mưa, nước ngầm (nước
giếng) và nước từ các loại cây. Theo quan niệm của
người Mnông, nước sông, nước suối đều có các vị
thần cai quản. Con người chỉ được sử dụng, không
được làm ô uế dòng sông suối, như thả xác chết,
phóng uế xuống đầu nguồn. Nếu vi phạm con người
sẽ bị thần linh trừng phạt bằng cách làm khô nguồn
nước (hạn hán) và trong những trường hợp như vậy
buộc làng phải di chuyển đến địa điểm cư trú mới.
Cũng sống trong không gian văn hóa chung của khu
vực Đông Nam Bộ, nhưng người Xtiêng, người Mạ
chia nguồn nước thành ba loại như người Chơ Ro
là nước giếng, nước ở suối nhỏ và nước ở suối lớn
hay sông. Trong đời sống hàng ngày, người Xtiêng,
người Mạ đều có chung quan niệm rằng, các nguồn
nước này đều có thần cai quản. Con người khai thác
các nguồn đó để phục vụ sinh hoạt hàng ngày cũng
như trong sản xuất, nhưng nếu ai vi phạm làm ô
uế nguồn nước, người đó hoặc cả cộng đồng sẽ bị
trừng phạt.
Thứ ba, chọn đất canh tác. Hoạt động kinh tế
chính của các tộc người thiểu số ở khu vực Đông
Nam Bộ là trồng trọt, nên đất là tư liệu quan trọng
để hoạt động kinh tế này mang lại hiệu quả. Mỗi
tộc người, tùy theo kinh nghiệm mà phân loại, khai
thác đất theo kinh nghiệm riêng của mình. Người
Mnông (ở tỉnh Bình Phước) chia đất thành năm
loại. Theo đó, loại đất thứ nhất có màu xám đen,
thường nằm ở gần suối hoặc ở những cánh rừng già
có đá đen. Loại đất này phù hợp với việc trồng lúa
và có thể khai thác (trồng) từ 5-7 vụ mùa. Loại đất
có màu xám đen thường ở gần rừng già, cạnh suối
101
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
và có địa hình bằng phẳng. Loại thứ hai, đất màu đỏ
mịn, mưa đi đạp dính chân. Loại đất này trồng lúa,
nhưng độ phì nhiêu hạn chế, nên không trồng được
lâu. Loại thứ ba, đất đỏ có sỏi. Loại đất này mưa đi
đạp không dính, có thể trồng lúa, nhưng không tốt.
Trồng lúa ở loại đất này không cho năng suất cao.
Đến khoảng tháng 8-9, vào mùa khô, loại đất này
trở nên khô cứng, nên khó khai thác để trồng thêm
các loại rau màu khác. Loại thứ tư, đất có màu trắng.
Loại đất này có thể trồng tỉa lúa, nhưng không cho
năng suất cao. Loại đất này cũng chỉ khai thác vài
vụ. Cuối cùng là loại đất bưng bao gồm đất bưng
có nước và đất bưng khô (nằm gần nguồn nước).
Người Mnông đã biết khai thác đất bưng để trồng
lúa. Trong thời gian gần đây, do tiếp xúc với người
Việt, người Mnông đã biết khai phá bưng nước để
trồng lúa nước.
Bằng kinh nghiệm của mình, người Xtiêng (ở
tỉnh Bình Phước) chia đất thành hai loại, dựa vào
địa hình. Đó là đất bằng và đất đồi. Sự phân chia
các loại đất như vậy thực sự không có ý nghĩa gì.
Nhưng theo người dân, đất bằng canh tác tốt hơn
và lâu hơn. Còn người Chơ Ro dựa vào màu đất để
phân loại. Theo đó tại địa bàn cư trú của người Chơ
Ro ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu có hai
loại đất: Đất đen và đất đỏ. Bằng kinh nghiệm và
thực tiễn, người dân cho rằng đất đen ít độ ẩm và
nhiều đá tổ ong, trồng lúa và cây công nghiệp ngắn
ngày tốt. Tuy nhiên, loại đất này khó đào giếng vì
nhiều đá tảng, phải phá đá. Đất đỏ (đất đỏ bazan)
tốt hơn, trồng lúa và các cây hoa màu đều tốt. Loại
đất này cũng phù hợp với các cây rừng tạp. Trong
khi đó, người Mạ (ở tỉnh Bình Phước) cũng dựa vào
màu của đất để phân loại. Theo đó, ở địa bàn cư trú
của người Mạ có bốn loại đất. Đó là đất đen, đất
mỡ gà, đất đỏ và đất trắng. Trong các loại đất đó,
theo kinh nghiệm của người dân, đất đỏ và đất mỡ
gà được xem là loại đất tốt, vì độ ẩm cao, nên có
khả năng chịu hạn. Chọn đất canh tác cũng là một
công việc không đơn giản. Bởi vì, địa bàn cư trú
của các tộc người thiểu số ở khu vực Đông Nam
Bộ trước đây phần lớn là rừng. Do điều kiện thiên
nhiên khá ưu đãi và dân cư không nhiều so với các
địa phương khác, nên nhu cầu đất canh tác không
bức bách. Chính vì vậy, việc khai thác đất rừng để
phát triển kinh tế chỉ được quan tâm đến, khi vào
những năm đầu thế kỷ XX người Pháp phát hiện
vùng đất phù hợp với việc trồng cây cao su. Trước
năm 1975, tình hình khai thác đất rừng cũng rất hạn
chế. Các tộc người cư trú ở khu vực Đông Nam Bộ
là cư dân trồng trọt, chủ yếu là trồng trọt nương rẫy
(chỉ có một bộ phận người Xtiêng Bù Dek trồng lúa
nước), hình thức khai thác luân khoảnh là phổ biến.
Do không có thâm canh như cách thức trồng lúa
nước của người Việt, nên độ phì nhiêu của đất phụ
thuộc vào nguồn phân hủy của các cây có trên rẫy.
Do đó, người dân không thể canh tác liên tục, mà
102
phải để đất nghỉ một thời gian, đợi khi cây rừng lên,
người dân phát đốt để có nguồn thức ăn nuôi dưỡng
cây trồng. Vì vậy, người dân chọn hình thức luân
khoảnh là tốt nhất. Cách thức khai thác đất rừng dẫn
đến là mỗi gia đình cần một diện tích đất rừng lớn,
để có thể luân khoảnh (hưu canh) trong một khoảng
thời gian nhất định, khi mà người dân cảm nhận
được là đã đến lúc có thể canh tác lại được. Trong
không gian sinh tồn và thuộc sở hữu của cộng đồng
(buôn làng), mỗi gia đình nhỏ vào cuối mùa khô,
vào khoảng tháng 2 âm lịch, tự chọn đất, phát các
cây nhỏ sau đó mới chặt các cây lớn. Các cây lớn
được chừa lại. Hiện nay, quan sát các rẫy trồng điều
của người dân, vẫn gặp những gốc cây lớn còn sót
lại. Bởi vì, các rẫy trồng điều hiện nay của người
dân cũng chính là rẫy trồng lúa trước đây. Những
rẫy trồng lúa này chỉ được chuyển đổi mục đích,
khi các cây công nghiệp như tiêu, điều, cao su dần
xác lập vị thế của mình trong đời sống kinh tế của
người dân. Dựa trên những kinh nghiệm được tích
lũy qua nhiều thế hệ, việc chọn đất theo các tiêu
chí sau: người dân sẽ chọn vùng đất bằng hoặc gần
suối. Người dân ưu tiên phát đất ở gần địa bàn cư
trú để thuận tiện cho việc chăm sóc và khai thác,
không chọn đất dốc, vì dễ bị xói mòn không canh
tác được lâu. Việc lựa chọn đất gần nhà, gần sông
suối cũng là nhu cầu sinh hoạt của đời sống. Mặt
khác, những vùng đất thấp gần sông suối độ ẩm sẽ
cao thích hợp với cây trồng (tươi nước khi có nhu
cầu). Theo người dân, những vùng đất mà ở đó các
loại cây bụi hay cây nhỏ, những khu rừng xum xuê
cũng là những khu đất tốt. Những cư dân trong khu
vực khi chọn đất cũng lựa chọn những khu rừng có
nhiều cây lồ ô và gỗ thấp. Những cánh rừng như
thế sẽ bớt công khai phá và dễ khai thác. Người dân
không khai thác những khu rừng già và có nhiều
tảng đá lớn. Một mặt, những khu rừng già, nhất là
rừng đầu nguồn thường gắn với yếu tố thiêng, mặt
khác, vì rừng già thường có nhiều cây gỗ lớn cũng
như nhiều đá sẽ tốn công khai phá. Cùng với việc
chọn đất dựa vào những kinh nghiệm tích lũy qua
quan sát cây rừng, người dân, khi chọn đất cũng
dựa vào chất đất để chọn đất làm rẫy. Cách thức lựa
chọn đất này xuất phát từ những kinh nghiệm tích
lũy được cũng như các loại đất hiện có trên địa bàn
cư trú. Các tộc người thiểu số ở huyện Bù Đăng
(tỉnh Bình Phước) như Mnông, Mạ, Xtiêng thường
chọn loại đất đỏ hoặc đất mỡ gà (đây là hai loại đất
được xem là tốt theo cách phân loại của đồng bào)
để canh tác. Hai loại đất này có độ ẩm cao và giữ
ẩm tốt, nên tốt cho cây trồng. Đất trắng độ màu mỡ
kém, nên không được người dân lựa chọn cho việc
trồng trọt. Công việc lựa chọn đất canh tác là do
người đàn ông trong gia đình quyết định. Người đàn
ông trong gia đình của người Xtiêng là người có
kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất. Người Chơ Ro
ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, bằng kinh
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
nghiệm của mình cũng chọn loại đất đỏ, có độ phì
nhiêu cao để khai phá trồng trọt. Còn người Mnông
ở huyện Bù Gia Mập (tỉnh Bình Phước) cũng ưu
tiên chọn loại đất đỏ để khai thác.
Điều này cho thấy, tri thức địa phương rất quan
trọng. Bằng những kinh nghiệm đã tích lũy qua
nhiều thế hệ, các tộc người thiểu số tại chỗ đã có
được vốn kiến thức phong phú, duy trì và phát triển
mang lại hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống của
cộng đồng tộc người mình.
Thứ tư, chăn nuôi. Trong hoạt động kinh tế của
mình do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở hầu hết
các tộc người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam chưa
xảy ra phân công lao động xã hội. Chính vì vậy, tính
đa nguyên trong hoạt động kinh tế như là một đặc
điểm nổi trội của các cộng đồng cư dân nơi đây. Đối
với các tộc người thiểu số tại chỗ ở khu vực Đông
Nam Bộ cũng xuất hiện tính đa nguyên trong hoạt
động kinh tế, cụ thể là vừa làm nông nghiệp, vừa
khai thác tự nhiên, vừa chăn nuôi.
Chăn nuôi ở các tộc người thiểu số tại chỗ không
phải là hoạt động kinh tế chính. Sản phẩm làm ra
chủ yếu đáp ứng nhu cầu hàng ngày, nhất là phục
vụ cho lễ hội. Người Mnông ở tỉnh Bình Phước
trước đây có nuôi voi để kéo gỗ hoặc vận chuyển
lâm sản. Người Xtiêng, người Mạ nuôi chó để đi
săn, tuy nhiên, không phải là phổ biến. Việc chăn
nuôi để lấy thịt là yếu tố mà các tộc người tại chỗ
hướng đến. Họ chăn nuôi chủ yếu thả rông, không
có chuồng trại. Các vật nuôi thường là gà, heo, dê,
trâu, bò… nhằm mục đích để giết thịt trong các dịp
lễ hiến sinh.
Hình thức chăn nuôi thả rông là cách thể hiện
tri thức của họ, bởi họ sống chủ yếu dựa vào môi
trường tự nhiên nên trong chăn nuôi cũng được thể
hiện điều này.
Từ những phân tích trên cho thấy, tri thức địa
phương cũng có những vai trò rất lớn trong đời sống
kinh tế của các tộc người ở khu vực Đông Nam Bộ
trong tiến trình phát triển của họ.
4.3. Đánh giá tri thức địa phương trong đời
sống của các tộc người
Chúng ta đề cập nhiều đến tri thức địa phương
của các tộc người thiểu số. Đây là một thực tế có
tính lịch sử. Bởi phần lớn các tộc người thiểu số, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, mà số lượng dân cư
ít, lại sinh sống chủ yếu ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn, xa trung tâm văn minh,
ít có điều kiện tiếp xúc với những tiến bộ của khoa
học, kỹ thuật nên còn bảo lưu nhiều tri thức truyền
thống, mang đậm nét dấu ấn địa phương. Ngoài ra,
tộc người đa số, tuy có điều kiện sớm tiếp xúc với
những tiến bộ từ các cộng đồng cư dân khác do
giao lưu mà có và cũng có thể do năng lực sáng tạo
của chính cộng đồng đó, nhưng vẫn có tri thức địa
Volume 8, Issue 3
phương tồn tại.
Do nhu cầu phát triển, các cộng đồng dân cư
trong những điều kiện cụ thể của mình cũng tích
lũy được những tri thức mang tính địa phương, dân
gian khá đậm nét. Khi nghiên cứu về văn hóa của
người Việt ở vùng Tây Nam Bộ, bên cạnh những
nét chung là sự kế thừa của văn hóa truyền thống,
lại có nhiều nét riêng mang đậm nét văn hóa của
người Việt ở vùng Tây Nam Bộ. Đó là yếu tố sông
nước, kênh rạch khá đậm nét. Ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long với hàng ngàn cây số sông rạch,
... tạo thành hệ thống chằng chịt, nhưng lại bám
chặt vào mọi nẻo đường. Tại đây lại có 09 tỉnh giáp
biển, mở cửa ra biển cả, nên đường sông, đường
biển là mạch máu giao thông giữa các vùng. Trong
đời sống hàng ngày, người dân gắn liền với sông
nước, nên sông nước có ảnh hưởng rất lớn đến văn
hóa và sinh hoạt văn hóa của người Việt ở vùng
Nam Bộ. Tất cả mọi hoạt động của con người từ
sản xuất nông nghiệp (mùa nước nổi), nuôi trồng
thủy sản, đến di chuyển, những sinh hoạt vui chơi,
lễ hội đều tùy thuộc vào con nước lên xuống. Làng
xã (ấp) bám theo các kênh rạch và nhà cửa hướng
ra bờ sông, bờ rạch. Bao quanh những làng xã là
kênh rạch nên sông rạch đã cung cấp cho người
nông dân nguồn lợi thủy sản vô cùng phong phú.
Người nông dân có thể khai thác các nguồn lợi đó
một cách dễ dàng, đáp ứng những nhu cầu thường
nhật. Trong các món ăn ở vùng Tây Nam Bộ có rất
nhiều nguyên liệu liên quan đến sông nước như
mắm cá đồng, khô cá… Chiếc cầu khỉ nối các bờ
kênh rạch như là nét rất điển hình của văn hóa vùng
sông nước. Ở một vùng sông nước như vậy, nên
phương tiện di chuyển thuận lợi và có hiệu quả nhất
là chiếc xuồng. Nhà nào cũng có chiếc xuồng, đi
chợ, thăm bạn bè, đám cưới, đám tang, rước bà mụ,
rước thầy thuốc đều dùng ghe, xuồng… Điều đó
cho thấy, mặc dù tộc người đa số tiếp xúc với nhiều
luồng văn hóa khác nhau, nhưng họ vẫn phải xây
dựng cho mình hệ tri thức địa phương để thích ứng
với môi trường tự nhiên.
Có thể khẳng định, tri thức địa phương gắn liền
với một cộng đồng cư dân cụ thể. Như vậy, cũng có
nghĩa là không có tri thức địa phương chung cho
mọi cộng đồng dân cư, cho dù họ cùng sinh sống
trong một không gian văn hóa nhất định. Trong đời
sống hàng ngày, mỗi hiện tượng xã hội, mỗi hành vi
trong hoạt động sản xuất sẽ được trải nghiệm theo
những kinh nghiệm riêng của mình, dẫn đến cùng
một hiện tượng kinh tế, xã hội, tự nhiên đã được
nhìn nhận từ hai nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra,
tri thức địa phương còn bị chi phối bởi môi trường
tự nhiên nơi các cộng đồng dân cư sinh sống. Vì
vậy, có thể nhận thấy sự đa dạng của tri thức địa
phương dẫn đến sự đa dạng của văn hóa (như trong
trường hợp các tộc người Xtiêng, Mạ, Mnông như
cách phân loại đất, cách phân loại và khai thác
103
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
nguồn nước cũng rất khác nhau,…).
Như là một thành tố văn hóa của tộc người, tri
thức địa phương góp phần làm phong phú văn hóa
của chính tộc người đó. Nhưng văn hóa của một tộc
người lại luôn có những biến đổi, một phần, do nhu
cầu của đời sống, những phong tục kinh nghiệm cũ
không còn phù hợp, đòi hỏi phải thay đổi. Mặt khác,
do quá trình giao lưu tiếp xúc giữa các tộc người mà
dẫn đến những thay đổi đó. Để đánh giá đúng vai
trò của tri thức địa phương, nhóm nghiên cứu có
những nhận định rõ hơn về những đóng góp của tri
thức địa phương trong phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của các tộc người.
Một là, tất cả mọi xã hội dù ở trình độ phát triển
kinh tế - xã hội cao hay thấp, đều có chung nhiệm
vụ là đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của con người
về ăn, ở, mặc, phương tiện đi lại, các nhu cầu về văn
hóa tinh thần. Nhưng cách thức để đáp ứng các nhu
cầu đó lại không giống nhau. Tuy nhiên, có những
vấn đề có tính chất chung của nhân loại là để thỏa
mãn các nhu cầu đó con người phải biết tổ chức sản
xuất. Những tộc người, mà ở đó đã diễn ra phân
công lao động xã hội, tính chuyên môn hóa trong
sản xuất là rất rõ ràng. Mỗi cộng đồng tùy thuộc
vào những điều kiện cụ thể của mình, mà tham gia
hoạt động sản xuất trong một lĩnh vực cụ thể. Sự
phân công lao động như vậy dẫn đến tính chuyên
môn hóa cao, thường ở những nơi mà nền kinh tế
hàng hóa phát triển, nhưng lại dẫn đến sự phụ thuộc
trong sản xuất. Ở khu vực Đông Nam Á, do chưa
xảy ra phân công lao động xã hội, nên trong một địa
bàn cư dân thường thể hiện sự đa nguyên trong hoạt
động kinh tế. Như nhiều tộc người ở Việt Nam chưa
xảy ra sự phân công lao động xã hội, nên không có
sự tách bạch một cách rõ ràng giữa các nhóm dân cư
trong hoạt động kinh tế. Ở trên một địa bàn dân cư
một nền kinh tế tự cung, tự cấp thể hiện rất rõ trong
hoạt động kinh tế, đặc biệt tại khu vực cư trú của
các tộc người thiểu số. Tại mỗi làng, bản của các tộc
người thiểu số, tính đa nguyên trong hoạt động kinh
tế là rất rõ. Mỗi làng, bản là một tổ hợp kinh tế bao
gồm sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia cầm, trâu,
bò… Trong quá trình sản xuất để đảm bảo cho cuộc
sống cộng đồng, mỗi làng, bản tích lũy cho mình
những kinh nghiệm (tri thức địa phương) cùng với
những yếu tố tín ngưỡng tôn giáo khác góp phần
làm nên tính văn hóa của cộng đồng.
Các tộc người thiểu số ở khu vực Đông Nam
Bộ là cư dân nương rẫy, chưa xảy ra phân công lao
động xã hội, nên những kinh nghiệm địa phương
mà họ tích lũy được, ngoài việc góp phần làm nên
tính đa dạng văn hóa, còn góp phần phát triển kinh
tế. Ở một địa bàn, rừng núi nhiều, nên trong đời
sống hàng ngày, rừng không chỉ là không gian sinh
tồn, mà còn là nơi cung cấp nguồn lương thực phẩm
104
rất quan trọng. Bởi vì, rừng ở khu vực Đông Nam
Bộ có hệ thực vật và động vật rất đa dạng. Trong
bối cảnh hoạt động kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào
rừng, những tri thức địa phương, mà các cộng đồng
cư dân địa phương tích lũy được đã góp phần phát
triển kinh tế. Việc phân loại và khai thác những sản
phẩm của rừng là những kinh nghiệm để các thế
hệ kế tiếp vẫn tiếp sống và gắn bó với rừng. Rừng
phần lớn là rừng mọc tự nhiên, nên rất đa dạng về
chủng loại và quy mô khác nhau. Phân loại rừng để
có cách ứng xử riêng đối với từng loại rừng. Rừng
già là rừng có nhiều cây to, rừng lâu năm, thường là
rừng đầu nguồn nên hạn chế khai thác. Những khu
rừng đó thường là rừng thiêng, nơi trú ngụ của các
vị thần linh bảo vệ cộng đồng nên cấm khai thác.
Từng cộng đồng, tùy theo truyền thống văn hóa của
mình, mà có những kiêng cữ riêng. Chính vì lợi ích
cộng đồng nên họ đều có ý thức bảo vệ rừng. Ai
vi phạm căn cứ vào luật tục để xử. Cộng đồng phụ
thuộc vào rừng nên không thể khai thác một cách
quá mức sự phục hồi của rừng. Một khi rừng bị khai
thác sẽ gây nên những thảm họa khôn lường.
Ngày nay, khoa học đã chỉ ra việc khai thác rừng
không có quy hoạch sẽ dẫn đến tàn phá rừng, mà
hậu quả là xảy ra những đợt lũ quét, lũ ống ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống con người. Ở các tộc
người Xtiêng, Mạ và Mnông có cách phân loại rừng
giống nhau, tức chia thành rừng già, rừng non, rừng
ma, rừng đầu nguồn. Trong khi đó, người Chơ Ro ở
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu lại phân đất rừng thành năm
loại (bao gồm rừng trảng, rừng già vừa, rừng tre
núa, rừng chồi). Như vậy có thể thấy, các tộc người
thiểu số rất có ý thức trong việc bảo vệ rừng. Họ
gắn bó với đất rừng, là cư dân “ăn rừng”, nhưng họ
không triệt phá rừng khi khai thác. Họ chỉ khai thác
những loại rừng nhất định và có những quy định cụ
thể để không tận diệt rừng. Đặc biệt, các tộc người
thiểu số ở khu vực Đông Nam Bộ trong việc bảo vệ
môi trường sống của mình, rừng thường được gắn
với yếu tố “thiêng” để bảo vệ. Việc gắn khai thác và
bảo vệ rừng với yếu tố “thiêng” có ở hầu hết các tộc
người thiểu số, khi rừng là nguồn cung cấp thức ăn,
vật liệu xây dựng, cây thuốc chữa bệnh… và rừng
cũng là lá chắn che chở cho đời sống cộng đồng.
Khi con người có niềm “tin” và “sợ” thần linh thì
đây là cách bảo vệ rừng tốt nhất.
Mặt khác, người dân luôn gắn bó với cộng đồng,
người ta có thể hy sinh cho cộng đồng (hiến sinh
cho thần linh), nhưng người dân rất sợ khi bị cộng
đồng ruồng bỏ. Việc khai thác hiệu quả của luật
tục trong việc khai thác và bảo vệ rừng. Như vậy,
những tri thức địa phương có liên quan đến việc bảo
vệ và khai thác rừng giúp chúng ta thấy được vai trò
của nó trong việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội
ở các tộc người nơi đây.
Việc khai thác các loại rau để phục vụ đời sống
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
thường nhật cũng thể hiện ý thức bảo vệ nguồn sống
của cả cộng đồng. Trong xã hội của các tộc người
thiểu số tại chỗ ở khu vực Đông Nam Bộ cho đến
đầu thế kỷ XX, chưa có sự phân hóa sâu sắc, nên đất
rừng là sở hữu của cả cộng đồng. Vì vậy, mọi thành
viên trong cộng đồng tự do khai thác, nhưng không
được tận diệt như chặt cây để hái trái hoặc đào cây
trong rừng về trồng ở nhà. Khi hái rau chỉ hái lá
non, chỉ được bẻ măng vừa lên, còn những măng đã
lên cao có đốt, không được bẻ. Hoặc khi đào những
loại củ (như củ mài), dùng thuổng có lưỡi dài, đào
một bên dọc theo gốc xuống đến hết củ, sau đó giật
gốc nghiêng của lỗ đào để lấy củ lên. Khi lấy củ lên,
người đào sẽ cắt phần gốc dây (chỗ gần với củ) cắm
xuống ngay chỗ vừa đào, lấp đất lại để cây tiếp tục
phát triển cho sản phẩm của vụ sau. Việc làm này là
điều bắt buộc và trở thành ý thức của cộng đồng khi
khai thác sản phẩm tự nhiên.
Khi đi săn thú, người dân cũng chỉ săn trong
phạm vi rừng thuộc sở hữu cộng đồng, họ chỉ săn
những loài thú nhỏ. Khai thác các nguồn lợi trong
rừng, trong bối cảnh của nền kinh tế “tước đoạt”,
nhưng như là một nguyên tắc, người dân chỉ khai
thác những gì mà cộng đồng cho phép. Khai thác
rừng để phục vụ đời sống của gia đình và cả cộng
đồng, nhưng không “tận diệt”, đó như là những bài
học cho cuộc sống hôm nay, khi đất rừng ngày một
thu hẹp và cây rừng cũng một ngày cạn kiệt.
Việc khai thác các nguồn lợi của rừng để phục
vụ đời sống diễn ra trong suốt quá trình dài, khi
nền kinh tế “tước đoạt” vẫn là phương thức hoạt
động chủ yếu của các tộc người chưa tiến tới định
canh, định cư. Những quy tắc có tính bắt buộc ở các
cộng đồng được thể hiện trong luật tục, là khai thác
nhưng không mang tính triệt phá, khai thác để phục
vụ đời sống, nhưng chỉ được khai thác tới mức nào,
để các thế hệ sau vẫn có nguồn tài nguyên đó để
khai thác. Tư duy phát triển bền vững chỉ xuất hiện
ở thế kỷ XX, nhưng những quy định trong việc khai
thác nguồn lợi của rừng ở các tộc người thiểu số đã
được thực hiện từ rất lâu. Rõ ràng, những kiến thức
mà cư dân các tộc người thiểu số tích lũy trong quá
trình sản xuất, khai thác nguồn lợi của rừng đã góp
phần phát triển kinh tế, ổn định để phát triển.
Hai là, nước là một nhu cầu rất cần thiết cho con
người. Ở các tộc người thiểu số ở khu vực Đông
Nam Bộ, do canh tác chủ yếu vào mùa mưa, theo
hình thức quảng canh, nên không có hệ thống tưới
tiêu. Khai thác nước để phục sản xuất chỉ thấy ở các
tộc người trồng lúa nước, đòi hỏi phải có hệ thống
thủy lợi, nên nước chủ yếu phục vụ cho đời sống
hàng ngày. Để có thể ổn định và phát triển, thì việc
tìm kiếm những địa bàn phù hợp là rất cần thiết.
Đối với người Mnông cũng như các tộc người khác,
khi chọn địa điểm lập làng phải gần sông, suối. Lập
làng gần sông, suối, trước hết là cho việc cung cấp
Volume 8, Issue 3
nước cho sinh hoạt được thuận lợi dễ dàng, giúp
cho cộng đồng có thể trụ lại lâu dài. Mặt khác, sông,
suối cũng là nơi cung cấp nguồn thức ăn cho cộng
đồng.
Các tộc người thiểu số trong địa bàn nghiên
cứu chủ yếu sử dụng nguồn nước cho mục đích
sinh hoạt, mà không hướng tới việc sử dụng nguồn
nước đó cho sản xuất. Do sử dụng nguồn nước cho
sinh hoạt, nên tác động của nước đến đời sống cộng
đồng là dễ nhận thấy. Ở hầu hết các tộc người, trong
luật tục đều có những quy định về nước và nguồn
nước. Trong các xã hội truyền thống, khi mà chưa
có luật pháp thì luật tục giữ vai trò quan trọng trong
điều tiết các mối quan hệ trong cộng đồng. Điều dễ
nhận thấy là cho dù có luật tục, nhưng bao giờ cũng
phải gắn với yếu tố thiêng. Trong cộng đồng từ
nhỏ đã tắm mình trong không gian văn hóa, những
luật tục của cộng đồng cũng được truyền dẫn trong
môi trường văn hóa đó. Vì vậy, việc gắn liền yếu
tố thiêng với trừng phạt là cách hiệu quả nhất để
duy trì sự ổn định của cộng đồng. Rõ ràng trong
bối cảnh của các tộc người còn dừng lại ở những
thang bậc thấp của sự phát triển, thì việc gắn yếu tố
thiêng trong mọi lĩnh vực của đời sống như là một
phương thức tối ưu. Tri thức địa phương trong quản
lý cộng đồng về khai thác và bảo quản nguồn nước
là tránh không để xảy ra ô nhiễm. Người dân có ý
thức khi có con vật chết, sẽ không vất bừa bãi, mà
chôn để tránh ô nhiễm. Như vậy có thể thấy, khi sự
hiểu biết của cộng đồng về vệ sinh môi trường còn
rất hạn chế, nhưng người dân vẫn có ý thức chôn
cất súc vật. Đây là thói quen rất đáng được trân
trọng trong bối cảnh hiện nay, khi mà môi trường
bị ô nhiễm đang là một trong bốn vấn đề nan giải
của xã hội hiện đại1. Khi có người sử dụng phương
thức săn bắt, nhất là săn bắt cá, có thể dùng các loại
độc dược thuốc cá, sẽ gây ô nhiễm nguồn nước, thì
được cảnh báo để tránh những hậu quả xấu có thể
xảy ra. Những tri thức đó, rõ ràng được tích lũy
trong thực tế, nhưng cũng rất hiệu quả trong bảo vệ
nguồn nước sinh hoạt cho cả cộng đồng. Tác động
gây bệnh qua nguồn nước là rất lớn, không chỉ ảnh
hưởng tới một cộng đồng cư dân nhỏ lẻ, mà nhiều
khi vượt ra khỏi không gian một quốc gia. Các sông
suối thường có nguồn thủy sản dồi dào, có thể góp
phần vào việc cải thiện bữa ăn. Việc dựa vào những
kinh nghiệm tích lũy để lựa chọn những địa điểm
gần sông suối, đáp ứng các nhu cầu về nước sinh
hoạt, về di chuyển, về khai thác nguồn thủy sản cho
cộng đồng, để lập làng, sẽ giúp cho tính ổn định của
cộng đồng trong sản xuất, trong các khía cạnh đời
sống khác.
Ba là, để ổn định và phát triển, trong điều kiện
cụ thể của mình, các tộc người thiểu số tại chỗ ở
khu vực Đông Nam Bộ có những kinh nghiệm trong
. Bốn vấn đề có tính toàn cầu đó là: a) xung đột tộc người tôn giáo;
b) vấn đề gia tăng dân số; c) vấn đế đói nghèo; d) vấn đề môi trường.
1
105
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
chăm sóc sức khỏe. Người dân biết khai thác các
nguồn dược liệu để chữa bệnh. Trong rừng có các
loại cây có thể khai thác làm thuốc chữa bệnh. Mỗi
tộc người có những kinh nghiệm riêng để khai thác
nguồn dược liệu phục vụ cộng đồng. Trong bối cảnh
chung, khi y học hiện đại chưa có điều kiện để đáp
ứng nhu cầu của nhân dân, thì việc khai thác nguồn
dược liệu quý đó để chữa bệnh là điều cần thiết.
Không chăm sóc sức khỏe tốt có thể dẫn đến
bệnh tật, nhất là những bệnh dịch, làm tổn hại sức
khỏe cũng như của cải. Khi có bệnh dịch người ta
phải cầu khấn thần linh, đi tìm những nguyên nhân
gây ra bệnh dịch. Trong nhiều trường hợp họ phải
di chuyển chỗ ở. Đây là vấn đề khó khăn, khi trên
một địa bàn có nhiều cộng đồng dân cư cùng sinh
sống. Do đó, những tri thức địa phương tích lũy
được trong chữa bệnh góp phần tích cực vào việc
ổn định đời sống cộng đồng.
Bốn là, để ổn định cộng đồng và phát triển kinh
tế xã hội, những kinh nghiệm tích lũy được đã được
thể hiện trong bộ luật mang đậm dấu ấn địa phương,
gắn liền với cộng đồng. Đó là luật tục. Luật tục có
ở hầu hết các tộc người, kể cả các tộc người đa số
(như hương ước của các làng người Việt). Đây là bộ
luật bất thành văn, đề cập đến tất cả các khía cạnh
của đời sống cộng đồng.
Luật tục là tập hợp những tri thức của cộng
đồng thành những quy định có tính chất bắt buộc
đối với mọi thành viên trong cộng đồng tộc người.
Luật tục mang đậm yếu tố địa phương, gắn liền với
một cộng đồng cụ thể. Thực chất luật tục là tri thức
địa phương của một cộng đồng. Những quy định
trong luật tục có tính bắt buộc đối với mọi thành
viên trong cộng đồng. Là thành viên của một cộng
đồng, không chỉ có trách nhiệm thực hiện theo luật
tục, mà còn giúp những thành viên khác thực hiện.
Luật tục của các tộc người mang đậm yếu tố văn
hóa tộc người. Mỗi tộc người có luật tục của mình,
không có luật tục chung cho mọi cộng đồng sinh
sống ở những điều kiện tự nhiên cụ thể khác nhau,
từ thực tế hoạt động sản xuất, tổ chức đời sống xã
hội và các mối quan hệ khác đã hình thành tri thức
địa phương. Trải qua thực tiễn của đời sống sản xuất
và hoạt động xã hội, những tri thức địa phương đó
dần trở thành luật tục, để các thành viên trong cộng
đồng thực hiện. Luật tục với tư cách là một công cụ
để quản lý và điều hòa các mối quan hệ xã hội ở một
giai đoạn lịch sử nhất định, nên nó phản ánh thực
tại xã hội. Luật pháp phản ánh xã hội thông qua ý
chí và nguyện vọng của giai cấp thống trị, nên nó
mang tính áp đặt ý chí và nguyện vọng đó lên toàn
xã hội. Còn luật tục là sản phẩm của thực tiễn xã
hội, tương thích với từng cộng đồng nhỏ có giới hạn
(là sản phẩm của cộng đồng). Luật tục của các tộc
người thiểu số là một biểu hiện hài hòa giữa quản
lý và tự quản, giữa áp đặt và tự nguyện, nó thể hiện
106
tính đồng thuận của cộng đồng về các phương diện
sinh hoạt kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặt khác, trong
thực thi luật tục luôn có sự gắn kết giữa giáo dục và
trừng phạt. Đây có thể xem là một kinh nghiệm quý
báu trong kho tàng tri thức địa phương trong quản
lý cộng đồng.
Ở hầu hết các tộc người, luật tục thuộc phạm
trù văn hóa, nó liên quan trực tiếp với đời sống tâm
linh, đến các vị thần linh. Vì vậy, khi ai đó trong
cộng đồng vi phạm luật tục đều trực tiếp hay gián
tiếp xúc phạm tới thần linh. Do vậy, những người
vi phạm không chỉ bị trách phạt, mà còn phải thực
hiện các nghi lễ tạ lỗi thần linh, nhất là các lỗi lầm
liên quan đến đất đai, rừng rú, nguồn nước. Việc
thực hiện các nghi lễ sau khi xử, còn có ý nghĩa hòa
giải trước sự chứng kiến của thần linh và cộng đồng
làm mất đi những khả năng có thể xảy ra xung đột.
Rõ ràng các tộc người thiểu số, trong đời sống hàng
ngày đã biết kết hợp luật tục với văn hóa tín ngưỡng
để giải quyết một cách có trong việc giải quyết xung
đột cộng đồng.
Như vậy, tri thức truyền thống của các tộc người
gắn liền với một địa phương, với một cộng đồng và
luôn thay đổi. Tri thức địa phương không chỉ có
ở các tộc người thiểu số, mà còn thấy trong tộc
người đa số. Về phương diện văn hóa, do tri thức
là những gì được tích lũy trong quá trình sản xuất
và tổ chức đời sống của cộng đồng, nên tri thức địa
phương góp phần làm phong phú văn hóa của các
tộc người. Tri thức địa phương còn góp phần phát
triển kinh tế, ổn định xã hội. Ngoài ra, tri thức địa
phương được thể hiện trong luật tục cũng góp phần
tạo nên sự ổn định của cộng đồng trong tiến trình
phát triển chung.
Tri thức địa phương luôn gắn liền với một cộng
đồng cư dân và một địa bàn cụ thể, nên dẫn đến tính
đa dạng văn hóa của một tộc người. Tri thức địa
phương có vai trò nhất định trong đời sống văn hóa
của một tộc người. Bởi tri thức địa phương là những
kiến thức, kinh nghiệm được tích lũy và truyền dẫn
qua nhiều thế hệ góp phần làm phong phú văn hóa
của một tộc người. Vậy phải làm gì để bảo tồn và
phát huy giá trị của tri thức địa phương trong bối
cảnh hiện nay? Đây là một vấn đề có tính nguyên
tắc ở tất cả các nước trên thế giới, nhất là ở các nước
đang phát triển, nơi có xuất phát điểm thấp so với
các nước khác và với những truyền thống văn hóa
của mình. Phát triển và phát triển bền vững kinh
tế - xã hội, đảm bảo công bằng xã hội, an ninh con
người đã và đang là xu hướng chủ đạo của các quốc
gia trên thế giới. Việc thực hiện những chính sách
trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở các nước
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thay đổi của
đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá của cả nước, của
từng vùng, của mỗi tộc người, đặc biệt những thay
đổi diễn ra mạnh mẽ ở các tộc người thiểu số.
JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Các DTTS ở nước ta chủ yếu cư trú ở miền núi.
Đây là địa bàn chiến lược có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nơi
có tiềm năng mọi mặt để góp phần xây dựng đất
nước. Tuy nhiên, đây cũng là vùng có nhiều khó
khăn trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nơi
còn bảo lưu nhiều nét của đời sống văn hóa, rất bất
cập trong xây dựng hiện nay. Vì vậy, ở Việt Nam,
do đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, mà trong chính
sách phát triền kinh tế - xã hội luôn dành nhưng ưu
tiên có thể có được cho phát triển kinh tế các tỉnh
miền núi, nơi các tộc người thiểu số sinh sống.
5. Kết luận
Tri thức địa phương là một thành tố văn hóa của
tộc người, góp phần làm da dạng văn hóa tộc người.
Tài liệu tham khảo
An, P. (2001). Luật tục Xtiêng và vấn đề đất
rừng ở Bình Phước hiện nay. Tạp chí Khoa học Xã
hội, (Số 1), 160–166.
An, V. V. (2008). Tri thức dân gian của người
Thái trong sử, dụng và bảo vệ tài nguyên. Tạp chí
Dân tộc học, (Số 1), 15–23.
Bình, H. H. (1998). Tri thức địa phương và sự
phát triển bền vững. Tạp chí Dân tộc học, (Số 2).
Lệ, N. V. (2013). Văn hóa các tộc người ở Tây
Nguyên - nhìn từ khía cạnh tri thức bản địa. Hội
thảo Văn hóa Tây Nguyên, ngày 2 tháng 4 năm
2013, do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì.
Trong bối cảnh hiện nay, tri thức địa phương đã bị
thay đổi nhiều do sự tác động của nhiều nhân tố,
nhất là những tác động từ những thành tựu của khoa
học công nghệ. Mặc dù, tri thức địa phương không
còn giữ vai trò quan trọng như trong xã hội truyền
thống, nhưng vẫn còn tiềm ẩn như là những thành
tố văn hóa, mà còn vận hành trong đời sống hiện tại
(như trong chăm sóc sức khoẻ, trong ổn định xã hội,
trong cố kết cộng đồng). Các tri thức địa phương
cùng với các nguồn lực xã hội góp phần tạo nên
sức mạnh để các tộc người phát triển. Tri thức địa
phương đã có những thay đổi, tuy nhiên cần xem
xét những thành tố nào còn phù hợp, cái nào không
phù hợp để từ đó hoạch định chính sách bảo tồn,
coi đó như nguồn lực phát triển xã hội của các tộc
người thiểu số trong bối cảnh hiện nay.
Lệ, N. V. (2017). Nghiên cứu tộc người và văn
hóa tộc người: Tiếp cận nhân học phát triển. Thành
phố Hồ Chí Minh: Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh.
Lệ, N. V., Thu, H. N., & Lan, N. T. P. (2016).
Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đông
Nam Bộ trong tiến trình phát triển xã hội Việt Nam.
Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật.
Thịnh, N. Đ. (2003). Tìm hiểu luật tục của các tộc
người ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
LOCAL KNOWLEDGE OF ETHNIC MINORITIES IN THE
SOUTHEAST REGION - LOOKING FROM DEVELOPMENT
RESOURCES
Ngo Van Lea
Nguyen Thi Hanhb
University of Social Sciences and
Humanities - Vietnam National University Ho
Chi Minh City
Email: lengovan@gmail.com
b
Vietnam Academy for Ethnic Minorities
Email: hanhnt@hvdt.edu.vn
a
Received: 18/8/2019
Reviewed: 20/8/2019
Revised: 30/8/2019
Accepted: 25/9/2019
Released: 30/9/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/334
Volume 8, Issue 3
Abstract
In recent years, when researching on ethnic minorities,
researchers are often interested in the local treasure of
knowledge that the community has accumulated in the
production labor process, organized life and considered It’s a
growing resource. Today, when science and technology have
played an important role, leading to changes in social life, but
the researchers and managers still believe that such treasure
of knowledge is always valuable. Based on collected data, the
paper analysis the role of local knowledge as a development
resource in the Southeast region.
Keywords
Local knowledge; Ethnic minorities; Development
resources.
107