Quy trình quy hoạch đô thị và quá trình ra quyết định kiểm soát phát
triển nhìn từ dự án cải tạo công viên Thống Nhất
Những ngày gần đây, việc quy hoạch cải tạo và dự án đầu tư ở công viên Thống Nhất
đã trở thành tâm điểm của dư luận. Sau khi UBND thành phố Hà Nội đã quyết định
giữ nguyên mục đích sử dụng công viên là nghỉ dưỡng, có lẽ chúng ta vẫn còn nhiều
điều trăn trở đối với quy trình quy hoạch và ra quyết định phát triển hiện nay.
1. Bối cảnh
Công viên Thống nhất hiện là công viên lớn nhất (gần 50ha) nội đô và có ý nghĩa lớn
nhất trong 32 công viên thành phố hiện nay. Về cả quy mô, tính hòan thiện, và vị trí nằm
giữa trung tâm th đô, giao thông thuận tiện mà công viên tr thành địa điểm lựa chọn để
nghỉ ngơi c a c a đông đảo nhân dân nội thành Hà Nội. Suốt gần năm thập kỷ qua, công
viên Thống Nhất đóng vai trò như một lá phổi cải tạo môi trư ng phía Nam trung tâm
cũ nơi có mật độ dân cư rất cao và rất thiếu cây xanh như quận Đống Đa. Trên thực tế,
công viên Thống Nhất đóng góp tới 81% cơ cấu cây xanh c a quận Hai Bà Trưng và làm
cho quận này có diện tích cây xanh bình quân gần gấp đôi so với tất cả các quận nội
thành khác hiện nay (1.68m2/0.9m2) (xem ảnh vệ tinh dưới đây).
Công viên Thống Nhất nằm trong đường bao màu trắng, (Nguồn: Google Earth, ảnh
chụp vệ tinh 2004).
Sau khi công ty Tân Hoàng Minh và mới đây là công ty Vincom đề xuất cải tạo công viên
Thống Nhất, đồng th i S Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội trình bày phương án cải tạo m
rộng vùng ‘động’ cho các hoạt động vui chơi giải trí; dư luận và các chuyên gia đã có
1
những phản hồi mạnh mẽ. Dù việc lấy ý kiến nhân dân về nhiệm v quy hoạch cải tạo
chưa tiến hành như dự kiến, ngày 17/8/2007, y ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có
công văn trả l i không thay đổi m c đích sử d ng làm nơi nghỉ ngơi thư giãn c a công
viên này.
Có thể nói, việc xã hội hóa công tác quản lý dịch v công như công viên để ph c v các
nhu cầu ngày càng tăng cho nhân dân là ch trương đúng đắn. Quá trình đầu tư sử d ng
nguồn vốn không phải từ Nhà nước dự kiến sẽ không gây thất thoát lãng phí; dự án do
doanh nghiệp có kinh nghiệm phát triển bất động sản hay vận tải công cộng đầu tư khi có
hiệu quả cũng có nghĩa ph c v được nhu cầu c a xã hội. Nhiệm v cải tạo được cơ
quan tư vấn cho UBND là S Quy hoạch Kiến trúc thành phố Hà Nội đệ trình chắc đã có
những thẩm định về mặt chuyên môn.
Tuy nhiên, khi đề án cải tạo công viên được đưa ra, các chuyên gia quản lý, chuyên gia
quy hoạch, kiến trúc sư cảnh quan, các nhà khoa học về môi trư ng, về xã hội học bậc
‘cây đa cây đề’ đã lên tiếng. Các hội nghề nghiệp c a cả trung ương và địa phương như
Tổng hội Xây dựng, Hội Quy hoạch Xây dựng Đô thị, một số tổ chức quốc tế và những
nhà nghiên cứu trong và ngòai nước cũng phản đối ý tư ng biến công viên này thành nơi
giải trí cao cấp. Vậy tại sao có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và cộng đồng dân cư
xung quanh phản đối như vậy?
Thông qua dự án cải tạo công viên Thống Nhất, bài viết phân tích những vấn đề c a quy
trình quy hoạch và quá trình ra quyết định phát triển so với mô hình quy hoạch đồng
thuận và minh bạch mà chúng ta cùng hướng tới.
2. Cơ sở để cải tạo công viên Thống Nhất
a) Cơ sở cải tạo theo mô hình nhu cầu
Vấn đề quan tâm đầu tiên khi quy hoạch cải tạo là phải đánh giá hiện trạng sử d ng, xây
dựng quan điểm cải tạo căn cứ theo hiện trạng, cơ s lý thuyết và quan điểm cải tạo.
Điều này liên quan đến những khái niệm căn bản về công viên và, mô hình tính tóan về
nhu cầu sử d ng. Khi những ý kiến phản đối đến từ ngư i dân ngày càng tăng, chúng ta
thử lập một mô hình sơ bộ tính toán về nhu cầu sử d ng để sử d ng làm căn cứ cải tạo.
Với quy mô lớn và vị trí trung tâm, công viên Thống Nhất có đối tượng sử d ng rất đa
dạng. Thông thư ng, những ngư i sử d ng công viên được chia làm ba nhóm: thường
xuyên, bán thường xuyên, và không thường xuyên với cơ cấu, số lượng mỗi nhóm ph
thuộc vào đặc thù về vị trí, về quy mô, cũng như tương quan về chất lượng, dịch v c a
công viên này so với các công viên khác trong khu vực.
Nhu cầu đến công viên định kỳ được coi là c a các cư dân lân cận như thư giãn, tập thể
d c buổi sáng, đi dạo buổi chiều. Đây là nhu cầu khó hoặc không thể thay thế được b i
cư dân xung quanh không có địa điểm khác để thỏa mãn các nhu cầu nghỉ ngơi tái tạo
sức khỏe. Cư dân rất gần thư ng đến công viên thư ng xuyên (3-4 lần trong 1 tháng
tr lên) bằng phương tiện thô sơ hoặc đi bộ; cư dân xa hơn đến công viên ít thư ng
xuyên hơn (1-2 lần trong một tháng tr xuống hay còn gọi là bán thư ng xuyên).
2
Ngòai hai nhóm có tính định kỳ trên, công viên có quy mô lớn như công viên Thống Nhất
còn đón khách không thư ng xuyên như khách du lịch và cư dân từ khắp nơi trong thành
phố. Họ đến đây không vì tính cấp thiết nghỉ dưỡng thư ng xuyên mà để tham quan,
tham gia các hoạt động lễ hội có tính mùa v như các triển lãm cây cảnh, hoạt động văn
hóa-nghệ thuật tổ chức ngòai tr i. Thông thư ng nhóm này đến từ xa và do đó phải sử
d ng phương tiện giao thông chứ không đi bộ. Số lượng ngư i đến trong các dịp như vậy
ph thuộc vào nội dung sự kiện được tổ chức đây.
Sử d ng mô hình xác suất ngư i sử d ng công viên để nghỉ dưỡng theo cự ly, ta giả định
như 80% cư dân trong bán kính đi bộ 500m (đi bộ 5-7’) sử d ng công viên như một nơi
nghỉ dưỡng thư ng xuyên (1); với bán kính từ 500 - 1000m (đi bộ 10-15’) là 40% (2), và
bán kính 1000-2000m là 20%. (nếu có công viên thay thế thì chia đôi khu vực chồng lấn
có công viên khác). Áp d ng mô hình trên vào công viên Thống Nhất, ta có diện tích
ph c v tính theo cự ly c a cả hai nhu cầu thư ng xuyên và bán thư ng xuyên là 1778 ha
với số ngư i sử d ng thư ng xuyên tương ứng là gần 15 vạn ngư i thuộc ba quận Đống
Đa (gần 40%), Hai Bà Trưng (gần 40%), và Thanh Xuân (gần10%), (xem mô hình bên
dưới).
Hình 2: Mô hình nhu cầu sử dụng tính theo cự ly
3
Bán kính 1000m
Bán kính
500m
Bảng1: thống kê dân số tương ứng với mô hình nhu cầu sử dụng công viên làm nơi
nghỉ dưỡng thường xuyên và không thường xuyên (dân số tính trên cơ sở số liệu
thống kê năm 2003, tổng cục thống kê)
Nhu
Diện
Tên phư ng
Tỉ lệ sử
Dân số
cầu
tích (ha)
d ng (%) (ngư i)
173 Lê Đại Hành, Bùi Thị Xuân, Bách
80 41’718
Khoa (1/2), Phương Liên, Phương
Mai (1/3), Nguyễn Du
Thư ng
xuyên
Tổng
cộng
(tổng
cộng)
Không
thư ng
xuyên
Tổng cộng
363 Trần Hưng Đạo, Hàng Bài, Cửa Nam
(1/2), Phạm Đình Hổ, Ngô Thì Nhậm,
Phố Huế, Đồng Nhân (1/2), Cầu Dền,
Thanh Nhàn (1/2), Đồng Tâm (1/2),
Bạch Mai (1/4), Phương Mai (2/3),
Kim Liên, Trung Tự (1/2), Trung
Ph ng, Văn Chương (1/3), Thổ Quan
(1/3).
536 17 phư ng c a 2 quận Đống Đa và
Hai Bà Trưng
1778 Hai Bà Trưng (75%), Đống Đa
(67%), Hoàn Kiếm (60%), Thanh
Xuân (10%). Ba Đình (7%)
1778 Một phần dân số 05 quận nội thành
40
46’431
88’149
20
59’397
147’546
Đối với các dịch v đặc thù, nhu cầu không thư ng xuyên có thể bao gồm cư dân cả nội
thành với bán kính lên đến 10km. Tuy nhiên nhu cầu này không ổn định và không tính
theo cơ s đơn vị mà tính theo sức chứa/thu hút c a từng hoạt động hoặc tính theo nhu
cầu thị hiếu tiêu dùng.
Như vậy, nhóm sử d ng sử d ng công viên Thống Nhất định kỳ là khá lớn. Mô hình
tương tự các quốc gia khác cũng cho thấy hầu hết các công viên đều quan sát được nhu
cầu sử d ng công viên c a cư dân địa phương để nghỉ dưỡng thư giãn lớn hơn nhiều so
với nhu cầu c a khách du lịch hoặc cư dân xa đến.
Dù việc cải tạo công viên Thống Nhất chưa được điều tra xã hội học hay lấy ý kiến cộng
đồng, chúng ta vẫn có thể tham khảo kết quả khảo sát nghiên cứu lập quy hoạch tổng thể
cho th đô Hà Nội tiến hành năm 2005. Số liệu tính toán dựa trên 20’000 mẫu ngẫu
nhiên từ hộ gia đình Hà Nội và vùng lân cận cho thấy cư dân Hà Nội, nhất là khu vực
trung tâm rất thiếu không gian để đi bộ, thư giãn, nghỉ ngơi 1 ; trên 91% số dân được
phỏng vấn điều kiện tiếp cận công viên, không gian xanh là quan trọng hoặc rất quan
trọng trong cuộc sống c a họ. Mong muốn c a họ là có thêm chỗ chơi thư ng xuyên cho
1
Dự thảo Báo cáo chính, Haidep, trang 10-21 đến 10-23, UBND thành phố Hà Nội, 2006.
4
trẻ em là ưu tiên số một trong các tiện nghi cần được nâng cấp các công viên hiện có,
kế đến là các chức năng khác như đi dạo, sân tập thể d c thể thao và chỗ nghỉ ngơi 2 .
Dựa vào mô hình trên, chúng ta có thể đánh giá chức năng nghỉ dưỡng là nổi trội c a
công viên Thống Nhất với số lượng trên 15 vạn có nhu cầu nghỉ dưỡng định kỳ. Điều tra
xã hội học về nhu cầu sử d ng cũng cho thấy đa số cư dân Hà Nội mong có thêm công
viên, đư ng dạo ph c v nhu cầu nghỉ dưỡng. Qua đó, chúng ta có thể hiểu tại sao có
cộng đồng dân cư băn khoăn về việc cải tạo công viên Thống Nhất như vậy.
b) Cơ sở cải tạo the quan điểm cải tạo
Công viên (từ Hán-Việt là gong yuan) có nghĩa là vư n công cộng, có m c đích tạo lập
lại sự cân bằng về tự nhiên, cải tạo vi khí hậu, cung cấp nơi nghỉ ngơi thư giãn, hồi ph c
sức khỏe cho cư dân trong khu vực và đô thị nói chung. Theo từ điển bách khoa toàn thư
tiếng Anh thì chức năng chính c a công viên (park) là nghỉ ngơi, thư giãn gắn kết trên
nền tảng không gian tự nhiên, không gian m với cây xanh, vư n hoa, mặt nước, sân chơi
chung, khu vực cắm trại và các khu vực dành để giải trí mang tính hồi ph c sức khỏe
(recreation). Công viên là một sản hàng hóa công đặc thù phải được quản lý ph c v lợi
ích chung. Đặc thù c a công viên là tọa lạc trên đất đai sở hữu chung và phải mở cho
công chúng được vào.
Bên cạnh nhu cầu dân cư, căn cứ để thiết kế cải tạo là khái niệm hay quan điểm và hệ
thống giá trị. Căn cứ này dựa trên cơ s xác lập mối quan hệ c a công viên với cả đô thị
trong một tầm nhìn lâu dài. Trên cơ s thực tiễn vừa qua, có thể nói cải tạo công viên
Thống Nhất nằm đâu đó giữa ba khái niệm (concept) khái quát như sau:
2
Quan điểm thứ nhất cho rằng trung tâm thành phố thiếu không gian xanh và tĩnh
lặng để hồi ph c sức khỏe cộng đồng. Công viên chính là khu ‘vư n’ trung tâm
thành phố với ưu tiên ph c v nhu cầu nghỉ dưỡng, cân bằng sinh thái ph c v
cho môi trư ng quá thiếu cây xanh, quá thừa yếu tố ‘động’ để nhân dân ‘hồi
ph c’ sức khỏe.
Quan điểm thứ hai cho rằng trung tâm thành phố thiếu bãi đỗ xe, thiếu không gian
đa chức năng mà việc khai thác quỹ đất công viên hiện nay chưa hiệu quả kinh
tế. Vì vậy cần tận d ng khai thác hợp lý không gian ngầm hoặc một số khu vực
để ph c v khách du lịch và nhu cầu giải trí, tăng thu nhập và việc làm, đáp ứng
nhu cầu giải trí đa dạng và ngày càng tăng c a nhân dân, tiếp cận hội nhập với thế
giới thông qua các hoạt động văn hóa nghệ thuật và dịch v có tính chuyên
nghiệp, hiện đại.
Quan điểm thứ ba cho rằng trung tâm thành phố cần khai thác một cách hài hòa
không gian đa chức năng thì cần dần dần bổ sung một số dịch v và hoạt động
Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể (dự thảo sửa đổi), Haidep, bảng 10-36, trang 10-22.
5
mang yếu tố ‘động’ trên cơ s cơ cấu ‘tĩnh’ là ch đạo hiện nay công viên; giải
quyết hài hòa các m c tiêu, các nhóm nhu cầu khác biệt trên cơ s những điều
kiện sẵn có, ph c v tốt hơn nhu cầu thiết yếu về sức khỏe c a bản thân cộng
đồng địa phương và yêu cầu phát triển du lịch, phát triển kinh tế và sức khỏe cộng
đồng.
Đối với khái niệm thứ nhất, việc quy hoạch cải tạo không thay đổi chức năng c a công
viên hiện nay mà chú trọng ph c v tính cân bằng trong đ i sống đô thị. Với Hà Nội,
điều này thật có ý nghĩa quan trọng b i trên thực tế, năm 2004, diện tích cây xanh bình
quân chung tại 9 quận Hà Nội là 0.9m2 3 . Diện tích này chỉ bằng 1/20-1/30 lần những đô
thị tiên tiến có môi trư ng sống tốt trên thế giới (London 27m2/ngư i và New York là
29m2/ngư i).
Các phương án cải tạo sẽ ưu tiên bổ sung các hạng m c nơi vui chơi cho trẻ em và gia
đình, một số tiện nghi như nhà vệ sinh công cộng, quản lý chặt chẽ môi trư ng văn hóa,
an ninh để nơi đây tr thành môi trư ng thư giãn tốt hơn cho mọi đối tượng. Mô hình
thứ nhất không đòi hỏi đầu tư thêm đáng kể mà chỉ tập trung cải tiến cách thức quản lý.
Làm sao cho đơn vị có thêm động lực, có thể thêm thu nhập khi cho thuê mặt bằng tổ
chức các hoạt động văn hóa, lễ hội để đảm bảo nguồn thu ph c v lợi ích công cộng.
Đây là mô hình phổ biến c a các công viên trung tâm các đô thị lớn trên thế giới.
Đối với khái niệm thứ hai, cần bổ sung cho công viên các hoạt động giải trí và dịch v
cao cấp có tính khám phá, thử thách (mô hình công viên giải trí kiểu Disney land). Ý
tư ng c a công viên loại này là ph c v nhu cầu giải trí c a nhiều nhóm đối tượng, đặc
biệt là trẻ em, thanh niên trong công viên. Mặc dù không có nhiều không gian yên tĩnh
nhưng công viên này cũng tạo ra sự thay đổi trong nhịp sống thư ng ngày và cũng là một
hình thức nghỉ ngơi hấp dẫn. Công viên giải trí thư ng đặt trung tâm các đô thị nhỏ vệ
tinh c a đô thị lớn, có chức năng chuyên làm du lịch. Trên thế giới cũng chưa có nơi nào
đặt công viên giải trí lớn vào trung tâm đô thị lớn do sự quá tải về giao thông và nhiều lý
do khác, đặc biệt là khi mọi ngư i cần sự yên tĩnh để lấy lại cân bằng khi yếu tố động đã
quá thừa.
Mô hình thứ hai đòi hỏi việc đầu tư lớn, có thể quá sức ngân sách c a chính quyền đô thị.
Chính vì vậy thành phố Hà Nội ch trương kêu gọi vốn đầu tư từ xã hội để ph c v yêu
cầu đầu tư tập trung, quản lý chặt chẽ bằng đồng vốn tư nhân đảm bảo hiệu quả khai thác
cao hơn đầu tư công cộng. Khi đầu tư lớn, doanh nghiệp thư ng yêu cầu ưu tiên khai
thác sử d ng mặt bằng như khai thác thương mại (độc quyền) không gian và cảnh quan
công viên (yếu tố rất thiếu trung tâm Hà Nội) để làm các dịch v như bãi để xe, nhà
hàng cao cấp trong không gian vư n, siêu thị để kết hợp tiềm năng khách hàng đi chơi
kết hợp ăn uống và mua sắm. Mô hình thứ hai ít tính công cộng hơn do hoạt động giải trí
cao cấp không nằm trong diện hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống đòi hỏi phải được chính
quyền hỗ trợ. Đối tượng ph c v c a nhóm này có khả năng chi trả cao có thể chi trả
thêm để đi xa hơn.
3
Báo cáo cuối kỳ dự án nghiên cứu quy hoạch tổng thể Hà Nội Haidep, 2006
6
Đối với khái niệm thứ ba, việc cải tạo sẽ tính toán bổ sung một số hạng m c với quy mô
nhất định làm tăng cư ng tính hấp dẫn cho không chỉ thanh niên mà cả các gia đình có trẻ
em nhiều độ tuổi khác nhau được nghỉ ngơi và giải trí đa dạng hơn. Tuy nhiên, những
hoạt động như vậy không làm ảnh hư ng đến môi trư ng thư giãn và tính chất nghỉ ngơi
mang tính tĩnh lặng, cân bằng c a công viên.
Mô hình thứ ba không yêu cầu đầu tư lớn nhưng cũng cần đầu tư nhất định với sự bổ
sung một số hạng m c vào các trang thiết bị, tiện nghi sẵn có. Các hoạt động giải trí
‘động’ bổ sung vào một số khu vực quy mô vừa phải sẽ không cần đến doanh nghiệp
bên ngòai độc quyền khai thác mà có thể chỉ cần đấu thầu một số hạng m c c thể. Sự
gia tăng họat động đa dạng sẽ dẫn tới bổ sung đáng kể yếu tố còn thiếu công viên này là
bãi gửi xe, nhà vệ sinh công cộng, các khu vực chơi dành riêng cho trẻ nhỏ và trẻ cùng
gia đình. Mô hình thứ ba cũng ít tính công cộng hơn mô hình đầu tiên, nhưng nó là
nguồn thu bổ sung tại chỗ cho công tác quản lý.
Việc lựa chọn khái niệm cải tạo là quan trọng, b i nó chi phối các phương án thiết kế.
Đối với công viên Thống Nhất, và quan điểm c a UBND thành phố Hà Nội mới đây đã
khẳng định khái niệm thứ 2 bị loại bỏ. Vấn đề là UBND sẽ lựa chọn quan điểm như thế
nào để điều hòa các nhu cầu trước mắt và lâu dài, giải quyết các mối quan hệ đa chiều để
ph c v được đa số nhân dân cũng như ph c v nhu cầu c c bộ cư dân xung quanh. Điều
này liên quan đến quá trình ra quyết định
3. Quá trình ra quyết định
Cơ s quy hoạch cải tạo là yếu tố quan trọng, xong từ đề án đến triển khai còn một yếu tố
không kém phần quan trọng là quá trình ra quyết định. Trên thực tế, quá trình ra quyết
định với những dự án lớn luôn thu hút sự quan tâm c a công chúng, nhưng công chúng
lại ít khi biết quy trình ra quyết định về ‘số phận’ c a những công viên họ đang sử d ng
diễn ra như thế nào. Sự lo ngại rằg đằng sau những đề xuất cải tạo ‘vùng động’ và ‘vùng
tĩnh’ có thể dẫn đến những ‘hàng rào mới ngăn cách giàu nghèo’ hay sự biến tướng c a
quá trình ‘xẻ thịt’ công viên Tuổi trẻ hay vư n thú Hà Nội, giống như KTS Thanh Bình
Đại học Deakin, Australia 4 đã nêu là biểu hiện c a ngư i dân không được rõ vai trò
tham gia c a mình. Điều này phải chăng gây nên những lo ngại được cảnh báo từ các
chuyên gia, các nhà quản lý có nhiều năm thâm niên ngay từ trong bộ máy hành chính
nhà nước như TS Phạm Sỹ Liêm, nguyên Phó Ch tịch UBND thành phố và Thứ trư ng
Bộ Xây dựng, TS. KTS. Trần Ngọc Chính, Thứ trư ng Bộ XD, hay TS. Đào Ngọc
Nghiêm, nguyên Giám đốc S Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội cùng rất nhiều ‘cây đa cây đề
khác nữa’. Chúng ta sẽ phân tích quy trình làm quy hoạch và quy trình ra quyết định
hành chính liên quan đến lập và thực thi quy hoạch.
a) Quy trình quy hoạch
Có thể nhận thấy sự hội t c a lo ngại trong lĩnh vực quy hoạch trên bắt nguồn từ hai vấn
đề là bản chất pháp lý c a quy hoạch quá trình lập quy hoạch.
4
Xem thêm bài có trên đư ng dẫn sau: http://vietnamnet.vn/bandocviet/2007/01/658909/
7
Hiện nay quá trình làm quy hoạch hầu hết các nước có nền kinh tế thị trư ng, dù có hay
không có tính ràng buộc, bắt buộc phải thực thi đều ít nhiều lấy sự đồng thuận hay sự
tham gia c a cộng đồng làm căn bản. Quy hoạch là một ngành đặc thù có nhiều cách
hiểu, nhiều phương án, lại động chạm quyền lợi rất nhiều bên nên nếu không có cơ s
pháp lý chặt chẽ rất khó thực hiện. Tuy nhiên, một khi cộng đồng đã tham gia và có ý
kiến và được kiểm soát thì nó tr nên có tính pháp lý (legitimacy) và dễ dàng triển khai
hơn b i nó dựa trên ý chí c a đa số. Quy hoạch Việt Nam sau Luật Xây dựng năm
2004 và Nghị định 08-2005 c a Chính ph cũng đã quy định khi lập quy hoạch chi tiết
phải có sự tham gia c a cộng đồng. Tuy nhiên, quy định này luật Xây dựng rất chung
chung, kể cả văn bản dưới luật là Nghị định cũng chỉ yêu cầu UBND cấp huyện tổ chức
lấy ý kiến về ‘nhiệm vụ quy hoạch chi tiết’ thông qua ‘đại diện tổ dân phố’ và ‘ủy ban
nhân dân cấp xã’ (khỏan 2, điều 22, Nghị định 08/2005/NĐ/CP).
Trong khi đó, luật quy hoạch c a các quốc gia khác ví d như Anh, Th y điển, Hoa Kỳ
rất coi trọng quá trình tham gia c a cộng đồng và quy định chi tiết, chặt chẽ quá trình lấy
ý kiến bao gồm cả th i hạn, nội dung, và giám sát kết quả lấy ý kiến cộng đồng. Do mỗi
quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng dựa trên đặc thù c a tổ chức chính quyền địa
phương và hệ thống hành chính nên khó có thể so sánh một cách đầy đ . Dưới đây là
một mô hình quy hoạch cải tạo công viên với sự tham gia cộng đồng một cách thực chất
tại hạt hạt Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ:
8
Phân tích địa
điểm
Tham khảo quy trình quy hoạch cải tạo
công viên ở Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ
Thông tin về
địa điểm
Xây dựng
lựa chọn
Hội thảo
chuyên gia
Ghi chú:
Tư vấn thực
hiện
Cộng đồng
tham gia
Quyền lực
quyết định
Xây dựng
phương án
Nghe phản hồi
vướng mắc
Triển lãm
lấy ý kiến
Dự thảo sửa
đổi
Thông qua,
quyết định
Thông thư ng, những mô hình như trên thư ng có sáu tiêu chí để được coi là có sự tham
gia c a cộng đồng:
cộng đồng và cá nhân bị điều chỉnh b i quy hoạch được tham gia trực tiếp, không
cần phải thông qua đại diện mới được có ý kiến (khác với quy định Việt Nam
hiện nay);
‘vấn đề’ (problem) tức là lý do cần cải tạo được xây dựng trên cơ s tham khảo ý
kiến từ cộng đồng (điều này ta không quy định rõ mà gộp vào nhiệm v quy
hoạch chi tiết),
Ý đồ m c tiêu cải tạo (concept) phải được lấy ý kiến c a cộng đồng (điều này ta
không quy định rõ mà gộp vào nhiệm v quy hoạch chi tiết);
Các phương án so sánh cải tạo (alternatives) phải được lấy ý kiến trước khi hội
đồng xét duyệt lựa chọn (Việt Nam không quy định);
Sau khi dự thảo phương án được chọn ra (draft plan), cộng đồng được quyền có
các ý kiến phản hồi để đóng góp và nó phải được phản ánh khi trình duyệt cuối
cùng (Việt Nam không quy định).
9
Các quy trình trên có th i hạn và kế hoạch c thể, cách thức lấy ý kiến c thể đ
để cộng đồng cho ý kiến (Việt Nam không quy định).
Có thể nói các nước phát triển lựa chọn cách thức để thể chế hóa phương án quy hoạch
c a họ dựa vào nguyên tắc đồng thuận và minh bạch. Mỗi quốc gia và hệ thống quy
hoạch có cách lựa chọn khác nhau để quy hoạch c a mình có tính pháp lý (legitimacy).
Trước kia hệ thống quy hoạch c a Việt Nam chỉ cần Hội đồng nhân dân và y ban nhân
dân thông qua, phê duyệt là có giá trị pháp lý (thực ra là phải thông qua cả tỉnh y hoặc
thành y), còn hiện nay là có thêm sự tham gia c a cộng đồng. So sánh trên cho thấy để
quy hoạch Việt Nam có sự tham gia c a cộng đồng như các quốc gia phát triển còn là
một quá trình lâu dài.
Tuy nhiên, nếu không xác định đây là con đư ng đi tới thì ngay dự án công viên Thống
Nhất đã xuất hiện những quan ngại về quá trình lập quy hoạch. Thứ nhất, trong cuộc họp
trình bày phương án cải tạo, ý kiến từ cộng đồng và các nhà khoa học hỏi về cơ s c a
việc quy hoạch có dựa trên điều tra xã hội học về nguyện vọng c a những ngư i đang sử
d ng không (cơ s thực tiễn). Thứ hai, về ý tư ng ch trương cải tạo, mọi ngư i đã thắc
mắc thế nào là ‘thiết kế cảnh quan hiện đại’, quan điểm này xuất phát từ đâu (quan điểm
cải tạo). Thứ ba, phương án cải tạo với cơ s phân chia vùng động và vùng tĩnh là gì, tại
sao đề án cải tạo không xây dựng các phương án lựa chọn riêng biệt theo quan điểm để
đánh giá. Có thể nói dự án công viên Thống Nhất là một liều thuốc thử cho quy trình làm
quy hoạch với sự tham gia c a cộng đồng hiện nay.
b) Quá trình ra quyết định
Trong giai đoạn trước, các dự án phát triển nằm trong chương trình kế hoạch sẽ được
thông qua nhanh chóng. Vấn đề chậm trễ thư ng nằm các giải pháp kỹ thuật và thu xếp
tài chính để đầu tư. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, dự án thông qua được hay
không lại phải xét tới góc độ nó sẽ đem lợi cho ai, có cho đa số không hay chỉ cho một
nhóm, và cũng có thể một nhóm lợi ích nhất định chịu thiệt hại. Về bản chất, đây là bài
toán lợi ích nhóm 5 . Thông thư ng, cơ chế dân ch đòi hỏi sự cân nhắc lợi hại được giải
quyết công khai tại nghị trư ng. Mỗi đề xuất phát triển hay hạn chế phát triển được mổ
xẻ và phản biện công khai tại hội đồng thành phố, với mỗi đại biểu dân cử lên tiếng bảo
vệ cho các nhóm lợi ích họ đại diện, ví d các cộng đồng, các ngành, giới nhất định.
Trên lý thuyết, dự án thông qua có nghĩa là ngư i đề xuất phải thuyết ph c được đa số về
lợi ích cho nhóm c a mình được chia sẻ chung với xã hội, và chứng minh rằng nó tốt hơn
các phương án khác trong th i điểm đó.
Từ thập niên 80 thế kỷ trước tới nay, đô thị tại các nước phát triển đã thay đổi từ một
chiều sang đa chiều. Chính quyền đô thị không đ sức, không cần thiết, và không hiệu
quả nếu tự mình làm hết mọi việc. Những việc chung được doanh nghiệp và cộng đồng
chia sẻ và chính quyền giữ vai trò trung tâm để định hướng và giám sát. Khái niệm quản
lý (management) được thay bằng điều hành và phối hợp (governance). Doanh nghiệp
5
Xem thêm bài lợi ích nhóm c a NCS Nguyễn An Nguyên
nhật đư ng link này.
đại học Rice, US, đã đăng trên tuổi trẻ ch
10
(đại diện cho tư bản) luôn luôn phải liên minh với quyền lực chính trị để kinh doanh sinh
l i. Liên minh này được tác giả Elkin 6 (1987) và Stone (1993) gọi là một thứ ‘định chế
đô thị’ (urban regime). Định chế này ra đ i cùng với sự tự ch c a chính quyền đô thị về
rất nhiều mặt và đồng th i là trách nhiệm nặng hơn. Với trách nhiệm đó, chính quyền đô
thị rất cần nguồn tài chính dồi dào và cũng phải thương mại hóa các hoạt động c a nó
một phạm vi nhất định. Sự liên minh là hai chiều b i các doanh nghiệp dồi dào nguồn ‘tư
bản’ cần quyền lực, còn thì chính quyền đô thị cần ‘liên minh’ với các doanh nghiệp để
kiếm tiền chi trả cho các hoạt động c a họ. Khi doanh nghiệp càng mạnh, mối quan hệ
này càng chặt chẽ, thậm chí là chính quyền còn ph thuộc vào một số doanh nghiệp.
Tuy nhiên vấn đề nằm định chế này được kiểm soát ra sao. Nhìn chung, không ai có
thể điều chỉnh các liên minh giữa các doanh nghiệp và các chính trị gia hay ứng viên tiềm
năng b i đó là lựa chọn c a cá nhân, theo quan hệ và s thích riêng không bị điều chỉnh
b i luật hành chính. Tuy nhiên, về nguyên tắc chỉ có một cách duy nhất là minh bạch hóa
quá trình ra quyết định để mỗi dự án tự giải trình (accountability) cho ngư i ch c a đô
thị là nhân dân thông qua cơ chế đại diện là hội đồng thành phố (city council) và công
luận (public). Trên nguyên tắc này, các nguyên tắc thương lượng để đền bù cho dự án
phát triển hay không cho phát triển được công khai. Quá trình thương lượng có thể được
giữ kín, song kết quả thương lượng phải được công bố chi tiết để công luận giám sát.
Nhìn ra bên ngòai, trong giai đoạn đầu chuyển đổi Trung Quốc, khi thể chế cũ còn ảnh
hư ng quá lớn thì việc ra quyết định sau ‘các cánh cửa đóng kín’ 7 đôi khi có thể dẫn tới
những quyết định tốt; tuy nhiên, nếu tiếp t c duy trì nó thì quả là sự cầu may. Trong lĩnh
vực kiểm soát phát triển đô thị, các học giả như Xu J., Ma, L. đã phân tích những bài học
về những dự án được quyết định theo kiểu này, dẫn đến việc chính trị hóa những vấn đề
thuộc về hành chính hoặc kỹ thuật. Với bản chất tùy nghi (discretion) c a các cơ quan
kiểm soát quy hoạch và tính linh động (flexibility) c a phương án quy hoạch, những hậu
quả có thể trông thấy được c a hệ thống kiểm soát quy hoạch thành phố Quảng Châu
hay nhiều đô thị c a Trung Quốc là từ các tuyên bố m c tiêu cho đến hiện thực là khác
xa nhau 8 . Hiện nay, dự thảo luật quy hoạch mới c a Trung Quốc cũng đã nhấn mạnh
phương pháp làm quy hoạch từ dưới lên và yêu cầu minh bạch trong quá trình ra quyết
định.
Việt Nam, KTS Thanh Bình cũng đã lấy ví d về các doanh nghiệp không công
bố rõ ràng những ‘quà tặng’ cho thành phố và cư dân địa phương trong các dự án nâng
Elkin Steven, Stone Clarence và nhiều tác giả khác đã xây dựng lý thuyết về định chế đô thị (urban
regime) sử d ng cách tiếp cận kinh tế chính trị để mô tả quan hệ liên minh giữa quyền lực chính trị và
quyền lực tư bản, giữa chính quyền và các nhóm lợi ích bao gồm cả cộng đồng trong các hoạt động kinh tế
và xã hội trên địa bàn đô thị. Xem thêm trong ‘Cities and the regime in America, Elkin S., 1987, Chicago
University Press; Urban regimes and capacity to govern: a political economy approach, Stone C., Journal of
Urban Affairs, Vol 15, 1993.
6
7
Thuật ngữ chỉ việc ra quyết định kín, không công khai.
8
Xem thêm Xu, J., the changing role of land use planning in the land-development process in Chinese
cities: the case of Guangzhou, Third World Planning Review, vol 23, issue 3, 2001; Economic reforms,
urban spatial restructuring, and planning in China, Ma, J.L.C, Progress in planning, vol 61, issue 3, 2004.
11
cấp công viên, và khi dự án triển khai, với lý do thiếu tiền, trượt giá, các hạng m c này bị
bỏ qua khi sự đã rồi.
Những quyết định quan trọng về phát triển đô thị Hà Nội (và các đô thị khác) nhìn
chung được xem xét và quyết định b i thư ng v Thành y, Hội đồng Nhân dân và y
ban Nhân dân. Những quyết nghị tập thể có ưu điểm tránh được những sai sót từ một
phía hay lợi ích c c bộ nhưng đôi khi cũng bó buộc những sáng tạo và quyết đoán trong
điều hành. Xu hướng đổi mới c a Chính ph hiện nay là đề cao trách nhiệm cá nhân và
tôn trọng ý kiến tập thể. Đối với lĩnh vực phát triển đô thị, đề cao trách nhiệm đây có lẽ
là trách nhiệm giải trình. C thể là vấn đề làm sao hoàn thiện cơ chế đảm bảo để các dự
án được mổ xẻ một cách minh bạch trước Hội đồng, (hầu như) không thiên vị và đặt lợi
ích chung, lợi ích lâu dài lên trên lợi ích nhóm và lợi ích trước mắt.
4. Kết luận
Quy trình lập, xét duyệt quy hoạch để đảm bảo tính ph c v , tính minh bạch và đồng
thuận là cơ s để nhân dân dân thực hiện quyền tham gia đóng góp, khi nhân dân là ngư i
ch , ngư i sử d ng các công trình có tính công cộng và tính xã hội cao như công viên.
Khi một khách hàng vào quán cắt tóc, ngư i thợ trước khi cắt cần phải hỏi xem ngư i
được cắt muốn bộ tóc c a mình như thế nào. Nếu yêu cầu rõ ràng là không hợp lý, ngư i
cắt tóc sẽ hướng dẫn và nhưng cũng sẽ đưa ra một số mẫu để ngư i ch c a mái tóc lựa
chọn. Khi đã chọn xong kiểu, ngư i cắt tóc cũng cần trao đổi sẽ làm thế nào để có được
kiểu như ý muốn. Trong quá trình làm, ngư i ch cũng cần theo dõi và sửa đổi những
khiếm khuyết cho đến khi hòan thiện. Chính quyền đô thị được tổ chức để giải quyết
những vấn đề cấp độ toàn đô thị, liên khu vực, có liên quan mật thiết đến đông đảo cư
dân, có tính thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển đô thị. Ngư i dân luôn mong muốn
chính quyền c a mình ph c v nhân dân như ngư i thợ cắt tóc với khách hàng, với nhân
dân là ngư i ch đích thực c a tác phẩm c a công tác quản lý đô thị.
Bài viết này không nhằm m c đích ng hộ hay phê phán một quyết định c thể mà nhằm
cung cấp thông tin cho những ngư i quan tâm cả khía cạnh chuyên môn và quản lý.
Hy vọng rằng những thông tin này giúp các nhà quản lý tham khảo và hòan thiện hơn nữa
quy trình lập, xét duyệt quy hoạch và ra quyết định kiểm soát phát triển Hà Nội cũng
như Việt Nam, hướng tới một hệ thống quy hoạch đồng thuận, nâng cao giá trị pháp lý
cũng như minh bạch c a hệ thống thể chế nói chung. Trong dữ liệu sử d ng để tính toán
còn có một số yếu tố chưa đầy đ do thông tin thu thập từ nhiều nguồn chưa chính thức.
Bản thân tác giả cũng không tham dự và nghe thuyết trình c a đại diện S Quy hoạch
Kiến trúc về dự án quy hoạch cải tạo công viên này nên có thể những thông tin khai thác
qua internet chưa đầy đ và hạn chế.
Nguyễn Ngọc Hiếu, NCS quản lý đô thị, Đại học tổng hợp London
London, 21/08/2007
(bài đã đăng trên tạp chí Người Xây dựng, số tháng 9 năm 2007)
12