Academia.eduAcademia.edu
Lê Nhi & Nguyễn Viết Sê Tháng 6/2017 BẢNG VIẾT TẮT & DANH MỤC BẢNG BẢNG VIẾT TẮT CMCN4.0 : Cách mạng Công nghiệp 4.0 GRDP :  Gross Regional Domestic Product GDP :  Gross Regional Domestic Product Go : Gross output FDI : Foreign Direct Investment FTA : Free trade agreement KTTĐPN : Kinh tế trọng điểm phía Nam VA : Value Added DANH MỤC BẢNG: Bảng 1: GDP vùng KTTĐPN và cả nước – giá hiện hành Bảng 2: GRDP bình quân đầu người (giá thực tế). Bảng 3: Tăng trưởng bình quân các khu vực theo thời kỳ. Bảng 4: Vốn đầu tư bình quân/lao động theo khu vực. Bảng 5: Cơ cấu các khu vực kinh tế. Bảng 6: Tăng trưởng và cơ cấu giá trị gia tăng (VA) ngành công nghiệp. Bảng 7: Tăng trưởng xuất khẩu bình quân. Bảng 8: Cơ cấu các tỉnh trong vùng. Bảng 9: So sánh hệ số chuyển dịch cơ cấu và tốc độ tăng trưởng. Bảng 10: Các yếu tố chuyển dịch làm tăng NSLĐ. Bảng 11: So sánh nguồn đóng góp vào tăng trưởng NSLĐ một số nước. Bảng 12: Hệ số tương quan giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM GIAI ĐOẠN 2011-2015 PHẦN I: TỔNG QUAN VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) được thành lập từ cuối năm 1997 theo các Quyết định số 747/1997/QĐ-TTg ngày 11/9/1997, Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg ngày 23/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia đến năm 2010, gồm 4 tỉnh, thành là TP. Hồ chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu; Tháng 07/2003, Vùng được bổ sung thêm 3 tỉnh là Tây Ninh, Bình Phước và Long An theo Thông báo số 99/2003/TB-VPCP ngày 02/07/2003 của Văn phòng Chính phủ; tháng 09/2005 Thủ tướng Chính phủ bổ sung tỉnh Tiền Giang vào Vùng KTTĐPN theo công văn số 4973/2005/CV-VPCP của Văn phòng Chính phủ. Đến nay vùng KTTĐPN có 8 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm TP. Hồ chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An và Tiền Giang, trong đó khu vực trung tâm của Vùng gồm TP. Hồ chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. 1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Vùng KTTĐPN có diện tích tự nhiên 30.455 km2, chiếm 9,2% diện tích cả nước; tiếp giáp với các vùng Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và Biển Đông, nên Vùng KTTTĐPN là nơi phát triển dịch vụ thương mại, tài chính, du lịch các tỉnh phía nam và cả nước mang tầm cỡ khu vực. Ngoài những tiềm năng về đất, nước, rừng, vùng KTTĐPN còn có nguồn tài nguyên khoáng sản lớn về dầu mỏ, khí ở thềm lục địa và ngoài khơi, với trữ lượng được dự báo khoảng 4- 5 tỷ thùng dầu và 485 – 500 tỷ m3 khí, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của ngành công nghiệp dầu khí và các hoạt động chế biến dầu khí. 2. Nguồn nhân lực Vùng KTTĐPN đứng thứ hai về dân số trong các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, sau vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, nhưng là nơi có tốc độ tăng dân số nhanh. Trong 5 năm 2011-2015, dân số trên địa bàn vùng đã tăng thêm gần 10%, giảm so thời kỳ trước nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 5,5% của cả nước. Dân số trung bình của vùng năm 2015 là 19,3 triệu người, chiếm 21% dân số toàn quốc. Nguồn: Số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Các cuộc điều tra dân số của Tổng Cục Thống Kê cho thấy dòng di dân vào vùng KTTĐPN rất lớn; năm năm qua lượng nhập cư đến 1,7 triệu người, đặc biệt nhập cư vào thành phố Hồ chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai chiếm 87,35% lượng nhập cư cả vùng. TP. Hồ chí Minh là nơi mật độ dân số tập trung cao nhất (3.943 người/km2), trong khi mật độ dân số bình quân toàn vùng đạt 635 người/km2 (2015), gấp 2,3 lần bình quân chung cả nước, tăng khoảng 130 người/km2 so với 10 năm trước đây. Tỷ lệ đô thị hóa của vùng tiếp tục tăng lên, đạt 56% vào năm 2015 so với 50% năm 2010 và cả nước là 34% (2015). Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc ở mức 55,5% tổng dân số trung bình, tỷ lệ này đã tăng thêm khoảng 5 điểm phần trăm sau mười năm. Lao động phi nông nghiệp chiếm đến 76,5% lao động xã hội trên địa bàn (2015- cả nước là 56%), so với 73,7% năm 2010. Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. 3. Điều kiện cơ sở hạ tầng So với các vùng khác, vùng KTTĐPN có sự vượt trội về kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, lưới điện, hạ tầng đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống đường bộ bao gồm mạng lưới quốc lộ, đường chức năng và hệ thống vành đai, đặc biệt là các tuyến cao tốc cùng nhiều tuyến liên tỉnh kết nối giữa các tỉnh và với vùng trung tâm, kết nối vùng KTTĐPN với các vùng Tây nguyên, Duyên hải Nam Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu long. Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đang được khẩn trương nâng cấp,mở rộng qui mô lên gấp đôi, cảng hàng không quốc tế Long Thành đang tìm kiếm nhà đầu tư để triển khai đầu tư giai đoạn I, khi hoàn thành sẽ là cảng hàng không lớn nhất Đông Nam Á (công suất dự kiến 100 triệu lượt hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm). Hệ thống cảng biển của vùng (Cảng Sài Gòn, Vũng Tàu, Đồng Nai...) hiện chiếm 62% khối lượng hàng hóa vận chuyển container qua cảng biển toàn quốc, đặc biệt hệ thống cảng Sài Gòn (Tân Cảng Cát Lái, Cái Mép, Hiệp Phước…) đóng vai trò là cửa ngõ của miền Nam trong các hoạt động ngoại thương, đứng trong top 25 cảng container của thế giới năm 2015. Hạ tầng kỹ thuật điện, nước, công nghệ thông tin –viễn thông khá phát triển, đặc biệt tại các đô thị trung tâm. Toàn vùng hiện có 147 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, công viên phần mềm, diện tích 57.217 ha, bằng 45,5% về số cơ sở và 62,3% diện tích khu công nghiệp cả nước. Số lượng doanh nghiệp trong vùng phát triển nhanh với tốc độ tăng bình quân trên 8%/năm giai đoạn 2011-2015, đến năm 2015 có khoảng 180 ngàn DN đang hoạt động, chiếm 43-44% số doanh nghiệp cả nước, với vốn đăng ký 7,8 triệu tỷ đồng, bằng 38% vốn đăng ký cả nước; trong đó các doanh nghiệp tư nhân chiếm gần 95% tổng số DN trong vùng, tuy nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng cùng với hàng vạn hộ kinh doanh cá thể đã góp phần quan trọng trong cung cấp cơ hội việc làm, trong phát triển kinh tế xã hội của vùng và cả nước. 4. Phát triển kinh tế. Quy mô tổng sản phẩm (GRDP) của vùng KTTĐPN năm 2015 đạt 1.864.629 tỷ đồng (giá hiện hành), bằng 44,47 % GDP cả nước. Bảng 1: GDP vùng KTTDPN và cả nước – giá hiện hành (Đvt: tỷ đồng & %) 2005 2010 2015 CẢ NƯỚC (tỷ đồng) 914001 2157828 4192862 Vùng KTTĐPN 42,43% 46,35% 44,47% Ngoài vùng 57,57% 53,65% 55,53% Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh Tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đã chậm lại trong giai đoạn 2011-2015, nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. GRDP toàn vùng tăng bình quân 8,2%/năm thời kỳ 2011-15 so với 11,1%/năm thời kỳ 2006-10. Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Tăng trưởng cao của vùng KTTĐPN là kết quả của nhiều yếu tố nền tảng về nội lực lẫn ngoại lực. Vốn đầu tư vào vùng đã tăng bình quân 23%/năm (giá thực tế) thời kỳ 2006-10 và 11,1% thời kỳ 2011-15, đưa tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội cả nước từ 32% (2005) lên 39% (2015). Ngành công nghiệp là ngành có vị trí quan trọng nhất, có giá trị gia tăng (VA) chiếm tỷ trọng hàng năm từ 45-50% tổng giá trị gia tăng của vùng và duy trì tốc độ tăng cao liên tục nhiều năm. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng trưởng nhanh, nhất là thời kỳ 2011-2015, trong đó có sự đóng góp đáng kể của khu vực FDI ( khu vực này chiếm tỷ trọng từ 53% năm 2010 lên 65% năm 2015 trong tổng xuất khẩu của vùng KTTĐPN). 5. Đời sống: Giá trị sản phẩm nội địa (GRDP) bình quân đầu người trong vùng năm 2015 đạt 96,4 triệu đồng/người (theo giá thực tế), gấp 2,1 lần mức bình quân cả nước (nếu không tính ngành dầu khí thì GRDP b/q đầu người là 90,4 triệu đồng). Ngoài tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (263.2 triệu đồng/người – năm 2015) là nơi khai thác dầu khí quốc gia, hai địa phương có mức GRDP cao nhất và tăng nhanh là Tp.Hồ Chí Minh (117.5 triệu đồng/người) và Bình Dương (101.1 triệu đồng/người). Bảng 2: GRDP bình quân đầu người (giá thực tế) Đơn vị: Triệu đồng Đvt: triệu đồng 2005 2010 2015 CẢ NƯỚC 11.1 24.8 45.7 Vùng KTTĐPN bao gồm dầu khí 25.1 56.8 96.4 Vùng KTTĐPN không tính dầu khí 19.5 49.8 90.4 Nguồn: Số liệu từ các tỉnh thành vùng KTTĐPN và các Niên giám Thống kê Các dịch vụ y tế, cơ sở và thiết bị giáo dục được phát triển đa dạng, nhiều thành phần. Chất lượng giáo dục - đào tạo được tiếp cận theo hướng đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của các địa phương và doanh nghiệp trên địa bàn. Tỷ lệ hộ đói nghèo bình quân toàn vùng theo chuẩn mới năm 2015 còn 1,87% Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.. 6. Vai trò vùng KTTĐPN trong cả nước. Với điều kiện địa lý thuận lợi, kết cấu hạ tầng khá đồng bộ, vùng KTTĐPN là nơi hội tụ các khu chế xuất, khu công nghệ cao, có lợi thế để thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao có ý nghĩa với cả nước. Sự phát triển nhanh đã đưa vùng KTTĐPN trở thành vùng kinh tế năng động, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế nước ta. Trong 5 năm qua 2011- 15, vùng KTTĐPN đã đóng góp đến gần 45% tổng sản phẩm quốc nội, so với mức 42 - 43% của 10 năm trước. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp chiếm 70% so cả nước. Tỷ trọng xuất khẩu chiếm từ 50-60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hàng năm vùng đã đóng góp trên 55% ngân sách quốc gia (trong đó yếu tố dầu thô chiếm 5-7 điểm phần trăm); năm 2015 giá dầu thô thấp nên tỷ trọng đóng góp ngân sách của vùng còn 48,2%). Nguồn: Bộ Tài chính, TCTK và Niên giám thống kê các tỉnh. Vùng đã tạo việc làm cho hàng triệu lao động, bao gồm một lượng lớn lao động nhập cư, với mức thu nhập bình quân cao hơn so cả nước. Với tiềm năng và lợi thế của mình, vùng KTTĐPN thật sự trở thành một trong những “cực tăng trưởng” của cả nước, nơi đây có nhiều ngành công nghiệp chế tác có tính lan tỏa lớn nhất so với tất cả các vùng. Bùi Trinh và nnk. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) Sự phát triển của vùng sẽ luôn tác động đáng kể đến tốc độ phát triển chung của cả nước. PHẦN II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÙNG KTTĐPN GIAI ĐOẠN 2011-2015. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành“ Trung tâm biên soạn từ điển quốc gia (1995): Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.. Như vậy, cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở tương quan tỷ lệ mà còn là mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển để phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu không chỉ xãy ra giữa các ngành, các khu vực mà còn bao gồm sự thay đổi trong nội bộ ngành, khu vực, thường là theo chiều hướng hiện đại hơn, ngày càng hoàn thiện hơn. I. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1. Cơ cấu GRDP theo thành phần kinh tế: Tăng trưởng kinh tế vùng KTTĐPN bình quân 5 năm qua có chậm lại so cùng kỳ, chủ yếu ở hai khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân tuy tốc độ vẫn tăng nhưng bị ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô từ 2011-2012, tái lạm phát, sức mua thị trường giảm, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản trì trệ…Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cổ phần hóa, thoái vốn, giải thể, tuy việc thực thi còn chậm và chưa đạt mục tiêu. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, vẫn tăng trưởng tuy năm 2015 bị ảnh hưởng do giá dầu thô giảm mạnh. Bảng 3: Tăng trưởng bình quân các khu vực theo thời kỳ   Thời kỳ 2006-10 Thời kỳ 2011-15 10 năm 2006-15 Vùng KTTĐ phía Nam 11.1% 8.2% 9.6% Nhà nước 8.9% 3.6% 6.2% Ngoài nhà nước 17.6% 9.0% 13.2% Khu vực FDI 3.5% 9.7% 6.5% Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Tăng trưởng kinh tế của vùng KTTĐPN diễn ra trong bối cảnh lực lượng lao động tham gia vào các ngành kinh tế vẫn tiếp tục tăng tuy mức tăng đã giảm so nhưng năm trước đây ở cả 3 khu vực. Tốc độ tăng vốn đầu tư vào Vùng cũng giảm, nhưng số lượng lao động tăng chậm nên suất đầu tư/lao động tăng lên. So với cả nước, suất đầu tư/lao động của vùng hàng năm lớn gấp đôi do sự đóng góp mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Bảng 4: Vốn đầu tư bình quân/lao động theo khu vực (triệu đồng – giá hiện hành) Đvt: triệu đồng 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Vùng KTTĐ phía Nam 14.2 32.9 37.0 39.5 42.2 45.5 49.7 Khu vực nhà nước 43.3 87.9 84.3 84.0 88.0 88.6 94.6 Khu vực ngoài nhà nước 7.4 18.5 24.3 26.6 27.6 31.4 35.4 Khu vực có đầu tư nước ngoài 34.0 68.7 69.5 76.9 84.8 83.4 86.1 Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước nhờ tăng trưởng cao nên tỷ phần tăng lên trong cơ cấu kinh tế từ 44,2% năm 2010 tăng lên 48,7% năm 2015. Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước giảm rõ rệt, từ 23,2% năm 2010 chỉ còn 18,2% năm 2015. Khu vực kinh tế FDI hàng năm chiếm khoảng 27-28%, đến năm 2015 do khai thác và xuất khẩu dầu khí giảm nên tỷ trọng giảm xuống còn 23,8%. Nếu không tính dầu khí, tỷ trọng khu vực FDI vẫn tăng từ 14,2% (2010) lên 18,8% (2015). Bảng 5: Cơ cấu các khu vực kinh tế (Đvt: %)  Vùng KTTĐ phía Nam Có dầu mỏ (%) Không dầu mỏ (%)   2010 2011 2012 2013 2014 2015 2010 2015 Nhà nước 23.2 22.3 21.9 21.3 20.2 18.2 26.5 19.4 Ngoài nhà nước 44.2 42.8 42.9 43.7 44.5 48.7 50.3 51.9 Khu vực FDI 24.8 28.4 28.3 27 27.5 23.8 14.2 18.8 Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Tuy kinh tế ngoài nhà nước trong Vùng phát triển hơn các vùng khác, nhưng vẫn chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có qui mô nhỏ, năng lực kinh doanh, nhất là năng lực tài chính, năng lực quản trị và ứng dụng khoa học công nghệ yếu. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị thế ngày càng quan trọng trong kinh tế vùng, nhưng trình độ công nghệ,vai trò chuyển giao công nghệ, lôi kéo doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều hạn chế. 2. Cơ cấu GRDP theo ngành kinh tế. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô từ giai đoạn 2011-2012 cũng làm tăng trưởng chậm lại ở cả ba ngành kinh tế tổng hợp, rõ rệt nhất là ngành công nghiệp - xây dựng. Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Tỷ trọng ngành dịch vụ đã tăng đến 6,5 điểm phần trăm trong 5 năm lên 42,5% năm 2015. Ngành công nghiệp - xây dựng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng đã giảm 5,6 điểm phần trăm còn 48,7%, sau khi giảm 5 điểm phần trăm từ 5 năm trước đó; ngành nông nghiệp chỉ còn 6,1% năm 2015 so với 7,1% vào năm 2010. Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Đến năm 2015, trong 4 tỉnh có tỷ trọng nông nghiệp lớn trong vùng là Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, có 2 tỉnh tỷ trọng ngành này giảm nhanh từ trên 35% trong 5 năm trước nay chỉ còn 25-26%, 2 tỉnh còn lại tỷ trọng ngành vẫn chiếm từ 36-40% trong cơ cấu GRDP của tỉnh. Các địa phương khác trong vùng có tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, trong đó TP Hồ chí Minh chỉ còn 1%. Tỷ trọng nông nghiệp của toàn vùng KTTĐPN giảm gần đây là tổng hợp các yếu tố: sự tăng trưởng nhanh hơn của các ngành phi nông nghiệp, sự sụt giảm của giá nông sản toàn cầu và tình trạng thiếu đất, thiếu việc làm của nông dân khu vực ven đô do đất nông nghiệp đang bị thu hẹp cho phát triển công nghiệp, khu đô thị và kết cấu hạ tầng. Hiện nay, ngành nông nghiệp trong vùng đang chuyển dịch tích cực theo hướng nông nghiệp xanh, phát triển nông nghiệp gắn với đô thị và nông nghiệp sinh thái; sản xuất giống cây, con, tăng diện tích trồng hoa, rau an toàn, cỏ chăn nuôi và cây công nghiệp có giá trị cao. Tuy sản xuất nông nghiệp có thay đổi về chất nhưng theo các chuyên gia, công nghệ sinh học về giống, vật nuôi còn thiếu nền tảng; công nghệ sau thu hoạch chưa tiên tiến, nên sức cạnh tranh của nông sản không cao so các nước trong khu vực (như Thái Lan). Chuyển dịch nội bộ ngành công nghiệp Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng (VA) ngành công nghiệp bình quân (không tính ngành xây dựng) 5 năm gần đây là 6,7% thấp hơn mức tăng GRDP chung 8,2% của toàn vùng. Tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GRDP cuả vùng năm 2015 giảm xuống còn 43% so với 54,3% năm 2010 và 49,2% năm 2005. Quy mô VA của ngành công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm năm 2015 so với cả nước chiếm tỷ trọng dưới 70%. Bảng 6: Tăng trưởng và cơ cấu giá trị gia tăng (VA) ngành công nghiệp Tăng trưởng theo giá so sánh và cơ cấu theo giá hiện hành. .   Bình quân tăng trưởng (%) Cơ cấu (%)   2006-10 2011-15 2005 2010 2015 Toàn Vùng 13.6 6.7 100 100 100 Khai khoáng 13.2 2.1 39,7 36,7 21,4 Chế biến chế tạo 14.8 9.2 50,7 54,9 69,7 Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Suy giảm tốc độ và tỷ trọng ngành công nghiệp của vùng KTTĐPN do giảm khai thác dầu thô, do tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến giảm, một số ngành và sản phẩm tiêu thụ chậm và bị cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập khẩu. Do tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo vẫn lớn hơn nhiều so với công nghiệp khai khoáng, nên tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo trong toàn ngành công nghiệp của vùng KTTĐPN vẫn tăng lên 69,7% năm 2015, so với tỷ trọng này của cả nước là 49,2%. Công nghiệp chế biến, chế tạo của Vùng tập trung chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh với 34,1% công nghiệp chế biến, chế tạo toàn vùng, Đồng Nai chiếm 25,5%, Bình dương chiếm 22,7% Các ngành công nghiệp điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo, may mặc, da giầy, sản phẩm cao su, hóa chất, chế biến nông thủy sản là những ngành công nghiệp chế biến chế tạo chủ lực của vùng có tốc độ phát triển nhanh hơn tốc độ phát triển chung của ngành. Tỷ lệ VA/GO ngành công nghiệp vùng KTTĐPN không tăng ở hầu hết các tỉnh công nghiệp. Tỷ lệ này đã giảm từ gần 30% những năm trước đây xuống 28% năm 2014 và 24% năm 2015 do giá dầu mỏ giảm. Nếu loại trừ yếu tố dầu mỏ, tỷ lệ này của Vùng ổn định ở mức 29%, cho thấy ngành công nghiệp vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng (sự tăng lên của giá trị sản xuất) mà chưa phát triển theo chiều sâu (sự tăng lên của giá trị mới, sáng tạo). Nguồn: Số liệu thống kê cả nước và các tỉnh. Nhìn xa hơn, dù là vùng kinh tế có công nghiệp phát triển nhất cả nước, nhưng các yếu tố nền tảng để phát triển nền công nghiệp hiện đại và hội nhập thành công vẫn còn nhiều bất cập. Các cuộc khảo sát cho thấy hiếm có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư lớn cho công nghệ hiện đại, coi trọng việc chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý cho doanh nghiệp nội địa, phần lớn nguyên vật liệu, thiết bị nhập khẩu từ công ty mẹ vào để lắp ráp. Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Chưa có sự lan tỏa về công nghệ cũng như sự nối kết giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước, trong khi năng lực của các doanh nghiệp tư nhân còn rất hạn chế để đầu tư vào các giải pháp kỹ thuật mới, đổi mới và ứng dụng công nghệ cao. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp của vùng KTTĐPN và quốc gia trong tương lai. Chuyển dịch cơ cấu khu vực dịch vụ Tăng trưởng bình quân 2011-2015 của khu vực dịch vụ của vùng là 10.9% khá cao so cả nước (6.7%) cũng như so với các ngành khác. Tăng trưởng khu vực dịch vụ diễn ra ở hầu hết các địa phương trong vùng nhất là ở khu vực trung tâm có công nghiệp phát triển như Đồng Nai (14%), TP Hồ chí Minh, Bình Dương, Long An... đều tăng trên 10%, từ đó đưa tỷ phần dịch vụ trong GRDP của vùng tăng thêm 6.5 điểm phần trăm, từ 36% (2010) lên 42.5% (2015). Giai đoạn 5 năm trở lại, tăng trưởng sức mua nội địa chậm hơn nhưng xuất khẩu tăng cao nhờ khu vực FDI. Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển; nhóm tài chính - ngân hàng được tái cơ cấu tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng cho toàn khu vực dịch vụ. Các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, du lịch, thương mại điện tử... ngày càng chiếm tỷ trọng cao và tăng dần qua các năm. Bảng 7: Tăng trưởng xuất khẩu bình quân. 5 năm 2006-10 5 năm 2011-15 10 năm 2006-15 Vùng KTTĐ phía Nam 9.9% 10.1% 10.0% Tr đó: Khu vực FDI 10.0% 14.6% 12.3% Nguồn: Số liệu thống kê và số liệu hải quan cả nước và các tỉnh. Du lịch là một trong những ngành có thế mạnh của vùng KTTĐPN; trong đó TP Hồ chí Minh là nơi có lợi thế lịch sử, tự nhiên lâu đời, cùng với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là hai địa phương có điều kiện tốt nhất để phát triển du lịch - khách sạn - nhà hàng. Hai nơi này chiếm đến 80-90% doanh thu du lịch trên địa bàn vùng. Tuy nhiên, sự phát triển dịch vụ nhìn chung đã chậm hơn giai đoạn trước. Dù đóng góp đáng kể vào tăng trưởng chung của vùng, nhưng ngành dịch vụ chưa phát huy đầy đủ vai trò của mình cho các ngành sản xuất khác, tỷ trọng các ngành mang tính "động lực" như tài chính- tín dụng, khoa học, công nghệ thông tin, đào tạo.. vẫn còn thấp; hệ thống phân phối cũng còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn; chất lượng và tính chuyên nghiệp của một số loại hình dịch vụ chưa cao. 3. Cơ cấu các địa phương trong vùng Tăng trưởng kinh tế vùng KTTĐPN được đóng góp đáng kể bởi các tỉnh có đầu tư lớn về sản xuất công nghiệp như Đồng Nai, TP Hồ chí Minh, Bình Dương, Long An. Các tỉnh có cơ cấu nông lâm thủy sản chiếm tỷ trọng cao như Bình Phước, Tiền Giang đều có mức tăng thấp hơn so bình quân chung. Quy mô GRDP toàn vùng năm 2015 bằng 44.5% của cả nước, đã giảm gần 2 điểm phần trăm so với 5 năm trước đây. Bốn tỉnh, thành phố công nghiệp Đồng Nai, TP Hồ chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu chiếm đến 87% GRDP của Vùng (2015), các địa phương này với vai trò nắm giữ các ngành công nghiệp đầu tàu, trong đó có ngành công nghiệp cơ bản là dầu khí và điện năng, cùng với tiềm năng của các ngành dịch vụ cao cấp, vẫn tiếp tục có những đóng góp nền tảng vào sự phát triển chung của vùng và cả nước. Bảng 8: Cơ cấu các tỉnh trong vùng (đvt: %).  Đvt: % Toàn Vùng Tây Ninh Bình Phước Đồng Nai Bà Rịa - V Tàu TP. HCM Bình Dương Long An Tiền Giang 2005 100 2.6 1.6 8.2 30.9 42.6 8.3 3 2.8 2010 100 2.8 2 7.6 24.9 46.3 9.5 3.5 3.4 2015 100 3.3 2 10.3 15.1 51.3 10.6 4 3.3 Nguồn: Xử lý từ số liệu thống kê các tỉnh. Các tỉnh như Ðồng Nai và Tiền Giang có thế mạnh về nông nghiệp trong Vùng. Nông nghiệp Đồng Nai chuyên về cây công nghiệp lâu năm và hàng năm. Tiền Giang chuyên canh vườn cây ăn trái. sản xuất lúa gạo và chế biến thủy hải sản; các tỉnh này có vị trí quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp trong vùng. II. Tác động của chuyển dịch cơ cấu Theo Arthur Lewis (1954), chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ kéo theo chuyển dịch lao động từ những ngành năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất và hiệu quả cao hơn, từ đó sẽ đưa năng suất toàn nền kinh tế tăng cao hơn. Năng suất được nâng cao đồng nghĩa với việc sử dụng các nguồn lực như vốn, lao động, tài nguyên ngày càng hiệu quả, nhờ đó quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, tức là đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững Phần dưới đây sẽ đánh giá sự thay đổi năng suất các ngành và thành phần kinh tế, đồng thời lượng hóa mức độ chuyển dịch kinh tế ngành, so sánh với tốc độ tăng trưởng kinh tế; sau đó sẽ phân tích chuyển dịch lao động về khu vực có năng suất lao động cao hơn tác động đến tăng trưởng năng suất chung của vùng. 1. Thay đổi năng suất lao động trong vùng KTTĐPN Năng suất lao động của cả nước và vùng KTTĐPN, 2005-2015 (giá so sánh 2010) Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cụcThống kê Năng suất lao động (NSLĐ) bình quân toàn vùng (GRDP/lao động năm 2015 theo giá hiện hành là 173,6 triệu đồng, tương đương 8.005 USD) tăng lên về số tuyệt đối nhưng đã tăng chậm lại (theo giá so sánh bình quân 5 năm 2011-15 tăng 5,7% so với bình quân 6,7% của 5 năm 2006-10), chênh lệch giữa NSLĐ vùng so với cả nước theo giá hiện hành giảm Chênh lệch theo giá hiện hành giảm do giá dầu mỏ giảm, nếu tính theo giá so sánh thì chênh lệch tăng lên. Giá dầu giảm ảnh hưởng đến GRDP và NSLĐ (giá hiện hành) nhất là tại Bà Rịa-Vùng Tàu và ở 2 khu vực nhà nước và FDI. , còn 2,32 lần năm 2014 và 2,2 lần năm 2015, so với 2.37 lần năm 2010. Là vùng kinh tế động lực có mức tăng trưởng cao, năng suất lao động bình quân của vùng khá cao so với năng suất bình quân cả nước nhưng còn khá thấp so với các nước trong khu vực. Bảng dưới đây cho thấy vị trí năng suất của vùng KTTĐPN và cả nước, một số nước trong khu vực. So sánh NSLĐ của vùng KTTĐPN, một số tỉnh và một số nước 2015. Nguồn số liệu: Từ Tổng Cục Thống Kê và tính toán của tác giả. Xét theo thành phần kinh tế, đồ thị (theo giá thực tế) dưới đây cho thấy NSLĐ của khu vực kinh tế tư nhân tuy thấp nhưng tăng ổn định (theo giá so sánh tăng bình quân 7% thời kỳ 2011-15). Các thành phần kinh tế còn lại do các nguyên nhân khác nhau, năng suất lao động đã có dấu hiệu chững lại. Năng suất lao động của các thành phần kinh tế vùng KTTĐPN, 2005-2015, giá so sánh 2010. Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê Xét theo ngành kinh tế, đồ thị dưới đây cho thấy NSLĐ của ngành CN-XD đang cao nhất, tuy nhiên cũng như ngành nông lâm thủy sản, NSLĐ đã qua thời kỳ tăng nhanh trước đây. NSLĐ ngành CN-XD chững lại (theo giá so sánh bình quân 5 năm 2011-15 chỉ tăng 5,3%, thấp hơn mức tăng NSLĐ chung 5,7%) trong khi NSLĐ chung đang còn ở mức thấp cho thấy nguy cơ của bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam. Trong khi đó, NSLĐ ngành dịch vụ tăng trưởng khá ổn định nhờ sự phát triển của các dịch vụ chất lượng cao, nhưng giá trị NSLĐ chỉ ở mức trung bình. Năng suất lao động của các ngành kinh tế vùng KTTĐPN, 2005-2015 (giá so sánh 2010). Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của Tổng cục Thống kê Về lao động, cơ cấu lao động trong vùng vẫn chuyển dịch nhiều hơn sang khu vực dịch vụ, từ 27,3% (2005), 29,5% (2010) lên 33,2% (2015), đây là khu vực có năng suất chưa cao nhưng còn đang tăng trưởng. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng đã dừng ở mức 32-34% trong tổng lao động. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm còn 23,5% từ 26,4% năm 2010, tuy lượng lao động ổn định (2,5 triệu), hiện tượng lao động nông nghiệp của vùng rời khỏi ngành là không rõ ràng. 2. Lượng hóa tác động của yếu tố chuyển dịch Để thấy rõ hơn tác động của chuyển dịch kinh tế đến tăng trưởng kinh tế, và chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế ảnh hưởng đến thay đổi năng suất nội vùng KTTĐPN, phần dưới đây sẽ ứng dụng 2 phương pháp để đo lường, đó là phương pháp vectơ và “mô hình cơ bản” của R.M.Sundrum và W.Cornwall. Phương pháp vec tơ Phương pháp véctơ Tham khảo : Lê Huy Đức (2003), Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế - xã hội - NXB Thống Kê, Hà Nội. nhằm lượng hóa mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành giữa 2 thời điểm khác nhau, dựa trên góc chuyển dịch cơ cấu ngành theo công thức: Trong đó : Si(t0): cơ cấu của ngành i năm t0, Si(t): cơ cấu của ngành i năm t φ là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S(t0) và S(t). Kết quả tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tính theo phương pháp hệ số véc tơ cho vùng KTTĐPN và cả nước cho từng thời kỳ như sau: Bảng 9: So sánh hệ số chuyển dịch cơ cấu và tốc độ tăng trưởng:   2006-10 2011-15   Hệ số chuyển dịch cơ cấu ngành % tăng trưởng kinh tế bình quân Hệ số chuyển dịch cơ cấu ngành % tăng trưởng kinh tế bình quân Cả nước 2.3% 6.3% 2.9% 5.9% Vùng KTTĐPN 6.3% 11.1% 8.5% 8.2% Nguồn số liệu: Tính toán của tác giả. Có thể thấy ở cả hai giai đoạn, chuyển dịch cơ cấu vùng KTTĐPN nhanh hơn so với cả nước và tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn. Nhưng ở giai đoạn sau tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chậm lại dù chuyển dịch cơ cấu ngành cao hơn. Có nhiều yếu tố khách quan ngoài yếu tố chuyển dịch cơ cấu kinh tế cùng chi phối tốc độ tăng trưởng kinh tế; mặt khác, tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến tăng trưởng bao giờ cũng có độ trễ. Trong nhiều trường hợp, độ trễ có thể được xác định là một khoảng thời gian trung hạn (3-5 năm). Với kết quả trên, nếu các yếu tố khác không đổi chuyển dịch kinh tế được kỳ vọng sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế tốt hơn tại vùng KTTĐPN cũng như trên cả nước trong giai đoạn tiếp theo. Sử dụng “Mô hình cơ bản”: “Mô hình cơ bản” (basic model) được R.M.Sundrum (1990) đề xuất và được W.Cornwall (1994) điều chỉnh để giải thích tỷ lệ tăng trưởng NSLĐ của toàn nền kinh tế theo cách tiếp cận từ cả hai phía: cung lao động và cầu lao động. Năng suất lao động nói chung sẽ tăng lên nếu có sự chuyển dịch lao động đến những ngành có năng suất cao hơn. W.Cornwall cho rằng tác động của phân bổ lại lao động tới tăng trưởng năng suất trung bình có thể được phân rã thành ba bộ phận, đó là: Hiệu ứng chuyển dịch tĩnh, Hiệu ứng chuyển dịch động và Tăng trưởng nội sinh Cụ thể 3 yếu tố phân rã như sau: Thứ nhất. tỷ trọng LĐ ở một ngành thay đổi có thể thay đổi tỷ trọng sản lượng ngành đó, từ đó tăng trưởng tổng năng suất sẽ hội tụ về mức tăng trưởng năng suất của ngành hấp thụ LĐ. Bộ phận này được gọi là “hiệu ứng chuyển dịch tĩnh”, hiệu ứng này sẽ có giá trị dương nếu LĐ chuyển dịch từ ngành có NSLĐ thấp sang ngành có NSLĐ cao và ngược lại. Thứ hai, nếu LĐ chuyển dịch sang ngành có NSLĐ cao đồng thời tốc độ tăng trưởng năng suất nhanh thì sẽ làm tăng trưởng NSLĐ của nền kinh tế tăng, hiệu ứng tương tác mang tính tích cực sẽ được khuyếch đại hơn và ngược lại. Bộ phận này gọi là “hiệu ứng chuyển dịch động”. Hiệu ứng thứ ba là vấn đề tăng trưởng NSLĐ nội sinh, đó là tăng trưởng NSLĐ do tăng chất lượng LĐ, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, quản lý hoặc thay đổi cơ cấu sản xuất nội tại của ngành. . Các biến của mô hình: G(LPT) Tăng trưởng tổng năng suất lao động của nền kinh tế LPi.by NSLĐ ngành i năm cơ sở. LPT.by Năng suất toàn nền kinh tế năm cơ sở. Si.fy,Si.by Tỷ trọng lao động ngành i ở 2 thời kỳ: by năm cơ sở, fy năm cuối. G(LPT) = = + + Công thức cho biết tốc độ tăng trưởng năng suất tổng thể phụ thuộc vào ba yếu tố: dịch chuyển lao động giữa các khu vực có mức năng suất khác nhau, phần chia sản lượng chuyển dịch và tốc độ tăng trưởng năng suất nội tại của mỗi ngành. Bảng phân rã các hiệu ứng chuyển dịch dưới đây được tính toán dựa trên các dữ liệu về cơ cấu lao động và năng suất lao động của các ngành kinh tế cho vùng KTTĐPN và cả nước trong cả hai thời kỳ 2006-2010 và 2011-2015. Bảng 10: Các yếu tố chuyển dịch làm tăng NSLĐ.     2006-2010 2011-2015     Cả nước KTTDPN Cả nước KTTDPN Hiệu ứng chuyển dịch tĩnh 8.817 1.766 5.195 0.533 Hiệu ứng chuyển dịch động 3.296 1.984 3.442 1.062 Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế 12.113 3.750 8.637 1.595 Tăng trưởng nội sinh 93.487 106.750 71.763 64.705 Tăng trưởng năng suất LĐXH 105.6 110.5 80.4 66.3 Cơ cấu       Hiệu ứng chuyển dịch tĩnh 8.3% 1.6% 6.5% 0.8% Hiệu ứng chuyển dịch động 3.1% 1.8% 4.3% 1.6% Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế 11.5% 3.4% 10.7% 2.4% Tăng trưởng nội sinh 88.5% 96.6% 89.3% 97.6% Nguồn số liệu: Tính toán của tác giả. Kết quả cho thấy các hiệu ứng chuyển dịch tĩnh và chuyển dịch động qua hai giai đoạn của vùng KTTĐPN cũng như cả nước đều dương, chứng tỏ tác động của chuyển dịch lao động đến tăng trưởng năng suất theo thời gian vẫn còn hiệu quả. Tuy nhiên, tác động này đã bắt đầu yếu dần ở giai đoan sau với 2,4% (2011-15) so với 3,4% (2006-10). Đối với cả nước, tác động chuyển dịch lao động đến tăng năng suất qua 2 thời kỳ vẫn xấp xỉ nhau (11,5% và 10,7%). Nguồn: Tính toán của tác giả. Vấn đề là ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành đến tăng năng suất lao đông trong thời gian dài khá thấp, nhất là ở vùng KTTĐPN chỉ 2,4%-3,4%. Điều này có nguyên nhân từ thực tế ít có sự dịch chuyển lao động giữa các ngành trong nội vùng. Lao động ngành phi nông nghiệp tăng lên chủ yếu là lao động nhập cư, có rất ít được chuyển dịch từ nguồn lao động nông nghiệp trong vùng. Yếu tố tăng trưởng nội sinh chiếm đến 96-98% trong tăng trưởng năng suất chung toàn vùng, cho thấy sự thay đổi chất lượng trong nội ngành dịch vụ và công nghiệp của vùng là yếu tố chính cho tăng trưởng năng suất trong thời gian dài. Tuy nhiên, tác động này cũng đã giảm dần khi chỉ số giai đoạn 2011-2015 đạt 64,7 so với 106,7 của 5 năm trước đó. Kinh nghiệm của các nền kinh tế thành công ở châu Á như Nhật bản, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc cho thấy mức tăng NSLĐ của nội sinh trong các ngành mới là nguồn gốc chính của tăng trưởng NSLĐ tổng thể nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp của Nhật Bản được chuyển đổi từ một nền công nghiệp tập trung vào các ngành truyền thống sang các ngành công nghiệp điện tử và công nghệ cao. Hàn Quốc từ ngành dệt may sau những năm 60 đã phát triển một chương trình công nghiệp hóa dựa trên xuất khẩu, mở rộng ngành công nghiệp hóa chất và kim loại màu, đầu tư vào sản xuất thép, máy móc, ô tô, đóng tàu, điện tử; đã đưa năng lực sản xuất các sản phẩm này tăng lên đáng kể. Mô hình chuyển đổi của Singapore là mô hình đặc trưng cho sự chuyển đổi nội tại về ngành dịch vụ, đã đưa đất nước phát triển nhanh chóng. Nhà nước luôn duy trì sự bình ổn kinh tế vĩ mô với sự can thiệp hiệu quả của chính phủ, khuyến khích đầu tư dựa trên chính sách thuế hiệu quả, phát triển vốn con người có mục tiêu và cung cấp hiệu quả hàng hoá công. Bảng 11: So sánh nguồn đóng góp vào tăng trưởng NSLĐ một số nước (%) Tên nước/ vùng lãnh thổ Tốc độ tăng NSLĐ tổng thể (%) Đóng góp của tăng NSLĐ các ngành (%) Đóng góp của chuyển dịch cơ cấu (%) Trung Quốc (1990 – 2005) 8.78 7.99 0.99 Malaysia (1990 – 2005) 4.08 3.59 0.49 Việt Nam (1995 – 2014) 3.94 1.92 2.02 Hàn Quốc (1990 – 2005) 3.90 5.29 -1.4 Singapore (1990 – 2005) 3.71 3.79 -0.08 Thái Lan (1990 – 2005) 3.05 1.38 1.67 Philippines (1990 – 2005) 0.95 0.81 0.14 Châu Á (1990 – 2005) 3.28 2.12 1.16 Nguồn : Nguyễn thị Cẩm Vân (2015). Việt Nam và Thái Lan là hai trong số ít các quốc gia (được so sánh) mà chuyển dịch cơ cấu ngành dẫn đến cải thiện về NSLĐ đáng kể. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các ngành đã hướng luồng lao động dịch chuyển đến các hoạt động có năng suất cao hơn và do đó nâng cao NSLĐ của nền kinh tế. Tuy nhiên, quy mô NSLĐ giữa các ngành thường có xu hướng hội tụ, nên tăng trưởng kinh tế trong dài hạn sẽ phụ thuộc vào tăng trưởng nội sinh của các ngành kinh tế. Đây là vấn đề đặt ra cho vùng KTTĐPN cũng như cả nước để có những định hướng điều chỉnh chính sách phù hợp hơn trong hiện tại và tương lai. PHẦN III: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TÊ VÙNG KTTĐPN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐPN trong thời gian qua là kết quả của nhiều nhân tố tác động đồng thời. Dưới đây sẽ phân tích một số nhân tố chính, bao gồm các nhân tố biến động kinh tế vĩ mô, tác động của cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động, tác động của làn sóng công nghiệp lần thứ 4, chính sách hội nhập cũng như đổi mới thể chế kinh tế. 1. Tác động của biến động kinh tế vĩ mô: Kinh tế đất nước giai đoạn 2011-2015 vừa thoát ra khỏi tình trạng bất ổn từ năm 2007-08, các cân đối vĩ mô cơ bản ổn định nhưng kinh tế phục hồi chậm và chưa vững chắc. GDP bình quân 5 năm (2011-15) tăng thấp hơn 5 năm trước, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh chậm được cải thiện. Nợ công cao, nợ xấu cao trong các ngân hàng và chậm được giải quyết đang là những trở ngại lớn trong quá trình tái cấu trúc và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Những biến động kinh tế vĩ mô trên đây tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐPN qua các kênh: Tổng cầu tại các vùng kinh tế khác trong cả nước không ổn định và suy giảm có tác động tiêu cực đến chuyển dịch cơ cấu sản xuất của vùng KTTĐPN. Hoạt động của doanh nghiệp trong 5 năm qua, nhất là doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn hơn, số doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể, phá sản tăng nhanh trong các năm 2011-2013. Thu, chi ngân sách và đầu tư phát triển vùng KTTĐPN 5 năm qua thay đổi theo hướng thu hẹp dư địa hỗ trợ cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng thu ngân sách trên địa bàn vùng KTTĐPN trong tổng thu ngân sách cả nước giảm từ 57,8% năm 2010 xuống còn 48,2% năm 2015, chủ yếu do nguồn thu từ dầu khí giảm mạnh; tỷ trọng chi ngân sách địa phương trên địa bàn trong tổng chi ngân sách nhà nước cũng giảm từ 17,7% xuống còn 13,2%. Tỷ lệ đầu tư toàn xã hội/GRDP giảm từ 31,5% năm 2010 xuống 28,6% năm 2015, chủ yếu do giảm đầu tư từ khu vực nhà nước. 2. Tác động của nhân tố đầu tư phát triển: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn vùng KTTĐPN chiếm 39-40% tổng vốn đầu tư xã hội cả nước, với mức tăng trưởng hàng năm 17,2% trong 10 năm gần đây (theo giá hiện hành), nếu loại trừ yếu tố lạm phát thì tăng trưởng đầu tư phát triển không có nhiều thay đổi. Trong đó, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) có tác động khá mạnh tới cơ cấu kinh tế của vùng. Riêng trong 5 năm 2011-15 với vốn FDI đăng ký chiếm 32% vốn đăng ký cả nước, hơn 50% số vốn đã tập trung vào các ngành chế biến chế tạo, tuy phần lớn là các ngành có hàm lượng gia công cao. Mặc dù nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn được nhà nước xác định là mục tiên hàng đầu, nhưng tỷ trọng đầu tư vào khu vực nông lâm thủy sản trong vùng KTTĐPN giảm từ 3,03% năm 2005 xuống còn 2,6% tổng đầu tư xã hội năm 2015. Qui mô đầu tư nhỏ, năng suất lao động thấp và tăng chậm là những nhân tố quan trọng cản trở chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông lâm thủy sản. Khu vực dịch vụ được coi là mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế vùng, tỷ trọng đầu tư cho khu vực này chiếm tỷ trọng lớn nhất và tương đối ổn định trong 5 năm gần đây, từ 52-55% tổng vốn đầu tư xã hội, tỷ phần GRDP dịch vụ tăng khá ổn định từ 36,02% năm 2010 lên 42,54% năm 2015. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào dịch vụ thương mại, bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng khá nhanh, nhất là khu vực bất động sản gắn với yếu tố đầu cơ nên thị trường không ổn định với những “cơn sốt nóng, sốt lạnh”, trong khi đầu tư cho các dịch vụ giáo dục, khoa học công nghệ… tăng chậm. Tỷ trọng đầu tư vào khu vực công nghiệp- xây dựng trong tổng vốn đầu tư xã hội tăng từ 41,9% năm 2011 lên 48,6% năm 2015, nhưng tỷ trọng GRDP khu vực này lại giảm từ 55% năm 2011 xuống 48,6% năm 2015. Nhìn chung, tác động hạn chế của đầu tư tới quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nguyên nhân từ hiệu quả đầu tư giảm dần. Hệ số ICOR của toàn vùng thấp hơn so với cả nước nhưng có xu hướng tăng dần, bình quân toàn vùng đạt 2,7 cho 5 năm 2006-2010, 3,3 cho 5 năm 2011-2015 và 3,7 cho năm 2015, so với cả nước tương ứng là 6,0; 5,3; 4,9. Đầu tư từ các thành phần kinh tế có những thay đổi quan trọng, tỷ trọng vốn đầu tư trong khu vực nhà nước trên địa bàn vùng giảm từ 27,6% năm 2010 xuống còn 19,6% năm 2015; đầu tư trong khu vực FDI từ 29,9% xuống còn 27,6%, trong khi đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 42,3% lên 52,6% đã thúc đẩy các ngành dịch vụ thương mại, nhà hàng khách sạn, sản xuất hàng tiêu dùng phát triển. 3. Tác động của nhân tố lao động: Thực trạng nguồn nhân lực vùng KTTĐPN đang có nhiều bất cập so với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Số lượng lớn lao động nhập cư tạo ra những áp lực lớn về nhà ở, phúc lợi xã hội và trật tự an ninh đô thị, trong khi lao động khu vực nông lâm thủy sản vẫn chiếm tới ¼ lao động xã hội trong Vùng. Dù là vùng kinh tế phát triển nhất của cả nước nhưng chất lượng nguồn nhân lực không cao. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo (có chứng chỉ) thấp và tăng chậm, từ 18% năm 2010 lên 23,0% năm 2015, so với tỷ lệ 19,9% của cả nước. Chất lượng lao động thấp nhưng vẫn có sự tương quan đáng kể giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu ngành kinh tế trong 5 năm qua, trong đó tương quan mạnh hơn ở hai ngành nông, lâm, thủy sản và dịch vụ; ngành công nghiệp – xây dựng tương quan yếu hơn (cả nước và vùng) nhưng vẫn là tương quan dương. Bảng 12: Hệ số tương quan giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế : Nông Lâm Thủy sản CN-XD Dịch vụ Cả nước 0,739 0,344 0,929 Vùng KTTĐPN 0,854 0,698 0,813 Nguồn : Tính toán của tác giả từ số liệu thống kê. 4. Tác động của nhân tố hội nhập kinh tế: Theo Bùi Trinh và nhóm tác giả (2012), xuất khẩu là yếu tố kích thích sản xuất nhiều nhất so với các yếu tố khác trong tất cả các vùng kinh tế trong cả nước. Đến năm 2015, vùng KTTĐPN đóng góp 45,8% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, so với 58,1% trong năm 2010. Kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng KTTĐPN tăng trưởng nhờ sự đóng góp quan trọng của khu vực FDI nhưng cơ cấu so với cả nước giảm chủ yếu do yếu tố dầu thô. Xuất khẩu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng thông qua các kênh quan trọng : Ổn định và phát triển các ngành có lợi thế so sánh trong vùng và các vùng lân cận như sản xuất chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp, thủy sản, dầu thô, sản xuất giấy, giày da, may dệt, phương tiện vận tải, sản phẩm kim loại, sản phẩm chế biến khác và xây dựng. Phát triển các ngành hàng mới như điện tử, linh kiện điện tử, linh kiện ô tô... Trong vòng 5 năm, xuất khẩu hàng điện tử, linh kiện điện tử của TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai tăng 3-5 lần so với 5 năm trước. Tạo tiền đề phát triển các dịch vụ phục vụ xuất khẩu như logicstic, hải quan, kiểm định hàng hóa,... Bên cạnh đó, vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI) là nguồn bổ sung quan trọng cho nền kinh tế, mở rộng sản xuất và xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm và phát triển một số ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, mặt trái là nhiều doanh nghiệp FDI đang lợi dụng chính sách ưu đãi để cạnh tranh “tiêu cực” với doanh nghiệp trong nước về nguồn lực, về thị trường nội địa, thậm chí chuyển công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Xuất khẩu của vùng KTTĐPN cũng như cả nước đang ngày càng phụ thuộc vào khu vực FDI, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và làm cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở nên kém bền vững hơn. 5. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐPN Tuy chưa có khảo sát cụ thể nhưng quan sát bước đầu cho thấy CMCN4.0 đã tác động vào Vùng KTTĐPN trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, tập trung nhiều hơn vào khu vực dịch vụ, với sự phát triển của ngân hàng số (digital banking - qua internet, mobile, facebook), chứng khoán điện tử, ứng dụng thương mại điện tử, tổ chức chuỗi trong lĩnh vực phân phối (như marketing, bán hàng và thanh toán online), kết nối cung cầu trong dịch vụ vận tải, logistic, du lịch, tài chính… Một số doanh nghiệp đã sử dụng công nghệ in 3D (trong hoạt động kiến trúc, xây dựng, thời trang, mỹ thuật, giáo dục..). Ngành y tế TP. Hồ chí Minh đã giới thiệu robot phẫu thuật và sử dụng công nghệ in 3D để in sọ nhân tạo tại bệnh viện Chợ Rẫy. Trong nông nghiệp, một số nhà vườn bước đầu ứng dụng công nghệ cảm biến và tích hợp dữ liệu để theo dõi, chăm sóc cây trồng, giảm thiểu chi phí và tăng giá trị gia tăng. CMCN4.0 đã diễn ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐPN trong khoảng hơn 10 năm, nhưng với phạm vi hẹp, chưa làm thay đổi lớn về năng suất và chuyển dịch cơ cấu, thể hiện NSLĐ các khu vực chưa cao và tốc độ tăng có xu hướng chậm lại. Thâm dụng lao động vẫn diễn ra khi robot hóa trong các ngành gia công còn chậm chạp, đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực thấp và chưa được chú trọng. Tuy nhiên, có thể thấy trong tương lai gần, CMCN4.0 tác động đến khá nhiều ngành và lĩnh vực tại Vùng KTTĐPN, có thể làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của Vùng. Với cơ cấu hiện tại, CMCN4.0 sẽ tác động đến hầu hết ngành mà Vùng chiếm ưu thế như dầu khí, điện; dệt, may, da; sản xuất, chế biến thực phẩm; điện tử, cơ khí chế tạo; bán lẻ, viễn thông, tài chính ngân hàng và các ngành dịch vụ khác. Mức độ ảnh hưởng với từng ngành sẽ khác nhau. Ảnh hưởng lớn nhất, nhanh và trực tiếp nhất là các ngành thâm dụng lao động như dệt, may, da, điện tử; đây là những ngành chiếm tỷ trọng lớn sẽ đối mặt với lao động thất nghiệp, suy giảm giá trị xuất khẩu, do các nguyên nhân: 1/ Đưa vào ứng dụng công nghệ tự động hóa và in 3D, 2/ Sản xuất có thể bị thu hẹp do vốn đầu tư của các doanh nghiệp FDI đang có xu thế quay trở về nơi nhập khẩu, đó là các quốc gia, khu vực có trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ Robot phát triển (như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…). Ngành dầu khí cũng bị ảnh hưởng do suy giảm tiêu dùng và giá thấp khi công nghệ mới, khai thác năng lượng tái tạo, ít tiêu hao và sử dụng nhiên liệu sạch. Các hoạt động dịch vụ như tài chính, ngân hàng, thương mại, xuất nhập khẩu và một số dịch vụ khác bước đầu tích hợp công nghệ số trong quản trị và giao dịch, tính hiệu quả, năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng cao hơn nhưng khuynh hướng nhân lực bị đào thải cũng tăng lên. 6. Đổi mới thể chế kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng KTTĐPN. Trong 5 năm 2010-2015 nhiều thay đổi quan trọng về thể chế tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN. Đầu năm 2013 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số: 339/QĐ-TTg phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020 của cả nước. Đầu năm 2014, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 252 QĐ-TTg ngày 13-2-2014 về việc phê duyệt Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Chính quyền các địa phương cũng đã đề ra các chương trình hỗ trợ và khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Điển hình là các Quyết định 24/2011/QĐ-UBND của UBND TP. Hồ Chí Minh ban hành về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố giai đoạn 2011-2015, kèm theo 79 đề án cụ thể. Quyết định Số: 2048/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đồng Nai về Phê duyệt chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2015. Những chủ trương, chính sách của Trung ương và địa phương đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn vùng KTTĐPN theo hướng hợp lý hơn, tập trung nguồn lực vào các nhóm sản phẩm, dịch vụ có nhiều lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của vùng. Tuy nhiên, tác động của các chính sách hỗ trợ, khuyến khích trong 5 năm qua không lớn để có thể tạo ra những thay đổi “đột phá” trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng do các nguyên nhân: Thời gian 5 năm chưa đủ để tạo ra những đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành, nhất là trong bối cảnh kinh tế đất nước chưa thoát ra khỏi tình trạng bất ổn, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định, nợ công, nợ xấu trong ngân hàng và doanh nghiệp ở mức cao và tăng nhanh, nguồn lực, nhất là nguồn tài chính hỗ trợ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế bị hạn hẹp. Lựa chọn mục tiêu ưu tiên trong chính sách tái cấu trúc kinh tế ở mỗi địa phương còn dàn trải, trong khi nguồn lực hạn hẹp; thiếu sự phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong vùng trong quá trình hoạch định chính sách, từ đó thiếu vắng mối liên kết ngang, dọc giữa các doanh nghiệp trong vùng để hình thành các chuỗi giá trị và các cụm liên kết ngành với mỗi ngành hàng sản phẩm. Các qui định về hỗ trợ, khuyến khích chuyển giao, ứng dụng công nghệ mới chưa rõ ràng và đủ kích thích để thu hút các nhà đầu tư hưởng ứng chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là các nhà đầu tư chủ đạo. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có nền công nghiệp phát triển hơn các địa phương khác trong cả nước, sau khoảng 10 năm thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp thành phố, tỷ trọng của 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố chỉ tăng 3,3%, riêng 5 năm 2011-2015 tăng khoảng 1%. Đồng Nai, Bình Dương, tỷ trọng của các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Các cuộc điều tra cho thấy phần lớn các DN FDI trong các ngành dệt, may, giầy dép, cao su, nhựa, sản phẩm kim loại...chủ yếu thực hiện khâu gia công cho công ty mẹ, trình độ công nghệ không tiên tiến hơn so với các doanh nghiệp nội địa. Không ít sản phẩm công nghệ cao được sản xuất tại Việt Nam (smartphone, máy vi tính...), nhưng chỉ thực hiện khâu lắp ráp do công nghiệp hỗ trợ trong nước kém phát triển. Những “nút thắt” của quá trình tái cấu trúc kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng như kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông, chất lượng nguồn nhân lực và cải cách thể chế chậm được giải quyết, nhiều khó khăn trở ngại cho quá trình chuyển dịch tới cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả cao hơn. II. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ Để thực hiện có hiệu quả chính sách tái cấu trúc kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo yêu cầu của Chính phủ, trong phạm vi cấp tỉnh trong Vùng KTTĐPN cần nhấn mạnh một số vấn đề: Mục tiêu cơ bản nhất của tái cấu trúc và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, chuyển cơ cấu kinh tế từ tình trạng năng suất, chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh yếu sang cơ cấu có năng suất, hiệu quả cao hơn trên cơ sở lựa chọn đúng trật tự ưu tiên phát triển sản phẩm, dịch vụ, hay nhóm sản phẩm, dịch vụ trên địa bàn. Đối với Vùng KTTĐPN, tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế cần được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với sự xâm nhập của làn sóng công nghệ lần thứ 4.0. Gần đây, Chính phủ đã nhận ra tầm quan trọng của CMCN4.0 trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, Thủ tướng Chính Phủ đã có Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 Về việc Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với phân công trách nhiệm cụ thể cho các ngành, lĩnh vực và các địa phương. Vùng KTTĐPN là vùng kinh tế động lực lớn nhất cả nước, là nơi chịu tác động trước tiên và tương đối toàn diện của làn sóng công nghệ 4.0, làm thay đổi trong trung hạn và dài hạn đến kinh tế-xã hội, tác động đến cơ cấu kinh tế, ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc làm, thu nhập và đời sống dân cư trong vùng và cả nước. Để phát huy tốt hiệu quả của CMCN4.0 đồng thời hạn chế những vấn đề do CMCN4.0 mang lại, như lao động thất nghiệp, thu hẹp sản xuất, suy giảm sản phẩm xuất khẩu, cũng như chủ động trước sự thay đổi nhanh chóng của làn sóng công nghệ trên thế giới, Chính phủ và các ngành hữu quan nên khẩn trương có những khảo sát, nghiên cứu toàn diện, đầy đủ và xây dựng những mô hình tác động liên quan đến vấn đề này trên toàn vùng , trên cơ sở đó định hướng, lưa chọn chiến lược đầu tư, xây dựng các chính sách hổ trợ và thu hút đâu tư phù hợp. Kê hoạch triển khai phải được cụ thể hóa từng giai doạn, từng loại công nghệ, từng ngành, từng sản phẩm và dịch vụ.. vì tác động cuả CMCN4.0 đến các ngành, lĩnh vực là khác nhau. Doanh nghiệp là chủ thể quan trọng nhất, vừa cạnh tranh vừa liên kết, hợp tác với nhau trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần thúc đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhằm khắc phục tình trạng kém hiệu quả của khu vực này, đồng thời góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp FDI, chú trọng lựa chọn đúng những ngành, sản phẩm, dịch vụ, những vùng cần ưu tiên thu hút FDI. Cần ban hành qui định về điều kiện, tiêu chuẩn làm căn cứ lựa chọn dự án FDI vào vùng KTTĐPN phù hợp với thực tế, nhưng không trái luật để ngăn ngừa những tác động tiêu cực của các dự án FDI. Kinh nghiệm các nước đi trước trong thu hút FDI cho thấy việc lưa chọn các dự án FDI mà có thể vừa khai thác những lợi ích lâu dài đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực và rủi ro của dự án là vấn đề khó khăn phức tạp. Đối với các dự án FDI được ưu tiên lựa chọn và được hưởng những ưu đãi của chính phủ hoặc của địa phương trong phạm vi qui định của luật, cần đáp ứng yêu cầu: có đầu tư chuyển giao và sử dụng công nghệ tiến tiến, hiện đại, có hỗ trợ hoặc tác động tích cực đến chuyển giao và sử dụng công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước; giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường; giảm thiểu tác động tiêu cực đến thị trường và doanh nghiệp nội địa. Đặt trọng tâm ưu tiên và khuyến khích vào các dự án liên doanh, hợp tác giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp nội địa, nhằm lôi kéo các doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển, gần đây nhất có Nghị quyết BCHTƯ lần thứ 5, khóa XII. Nhìn chung hiệu lực, hiệu quả và tác động của các chính sách còn nhiều hạn chế. Do đó cần rà xét lại các chính sách hiện có, điều chỉnh những qui định bất hợp lý, bổ sung những qui định cần thiết đồng thời cần bố trí nguồn lực, nhất là nguồn tài chính để hỗ trợ kinh tế ngoài nhà nước, nhất là kinh tế tư nhân đẩy mạnh sản xuất kinh doanh theo mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế. 3. Tiếp tục đổi mới cơ cấu và thể chế đầu tư công, tăng cường, nâng cấp và mở rộng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế vùng KTTĐPN. Nâng tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho khu vực nông lâm nghiệp, thủy hải sản để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, các trung tâm khuyến nông, các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất nông, lâm, thủy sản, nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời giải quyết những “nút thắt” về thể chế, nhất là quyền tài sản trên đất và đầu tư vào đất (bao gồm cả mặt nước, rừng tự nhiên), khuyến khích tập trung hóa đất đai để thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản. 4. Chủ động triển khai có hiệu quả các hiệp định tự do thương mại và đầu tư mà Việt Nam đã ký kết và đàm phán. Chính quyền địa phương và cộng đồng doanh nghiệp vùng KTTĐPN cần chủ động và đi tiên phong trong xây dựng và thực thi chiến lược hiệu quả về phát triển thị trường, bao gồm cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài trong khuôn khổ của các hiệp định FTA, có nhiều cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh bền vững, tham gia chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu. Từ thực tiễn mở rộng thị trường, kiến nghị chính phủ điều chỉnh pháp luật để cộng đồng doanh nghiệp cả nước tham gia hội nhập có hiệu quả hơn. Tài liệu tham khảo. 1. QĐ 252/QĐ-TTg ngày 13/2/2014 cuả Thủ tướng Chính Phủ về Qui hoạch Tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng KTTĐPN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 2. QĐ 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt đề án tổng thể “Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020” 3. Mai văn Tân (2014). Nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ. 4. Nguyễn thị cẩm Vân (2015). Các mô hình phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. 5.CIEM (2007). Đánh giá đóng góp cúa các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành tới tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp bộ. 6. TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ - XÃ HỘI QUỐC GIA (2016) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam. 7. Anabela S. S. Queiros và Euroro A. C. Teixeira (11/2014). Economic Growth, Human capital and structural change: An Empirical Analysis. 8. R. M. Sundrum (1990). Income Distribution in Less Developed Countries, 9. Trường Đại học Tài chính-Marketing TP HCM (2011). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Tp.HCM theo hướng cạnh tranh đến năm 2020. Kỷ yếu hội thảo khoa học. 10. Bùi Trinh (2012). Phân tích mối quan hệ giữa Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các vùng kinh tế khác dựa trên mô hình cân đối liên ngành, liên vùng. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012). 11. Sở kế hoạch và đầu tư TP Hồ Chí Minh, 2011. Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015. 12. Websile của các Bộ, Tổng Cục Thống kê, Tổng Cục Hải Quan, các tỉnh thành phố vùng KTTĐPN. 30