Academia.eduAcademia.edu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- BÁO CÁO CUỐI KỲ HỌC KỲ 2 MÔN: Kinh tế chính trị Mác - Lênin Đề tài: Cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ( chủ đề 8) Nhóm: 110 Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Công Hưng Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021 Danh sách tổ 2 nhóm 110 Môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin Ca 2 Thứ bảy ngày 7 tháng 8 năm 2021 STT MSSV Họ và tên Ghi chú 1 320K0011 Lê Trúc Quỳnh Thư kí 2 320K0019 Nguyễn Bùi Bảo Thiện 3 320K0038 Trần Nguyễn Việt Tiến 4 B20K0134 Võ Duy Thắng Nhóm trưởng Lưu ý: STT theo số thứ tự trong danh sách giảng viên ------------------------------------------------------------------------------------------------------ Lời cam đoan Chúng em xin cam đoan Báo cáo cuối kỳ do tổ 2 nhóm 110 nghiên cứu và thực hiện. Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành. Kết quả Báo cáo cuối kỳ là trung thực và không sao chép từ bất kỳ báo cáo của nhóm khác. Các tài liệu được sử dụng trong Báo cáo cuối kỳ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. (Ký và ghi rõ họ tên) MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU…………………………...................................……...……….1 PHẦN NỘI DUNG: 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 2 1.1 Các mô hình kinh tế 2 1.1.1 Kinh tế tự nhiên 2 1.1.2 Kinh tế hàng hóa 2 1.1.3 Kinh tế thị trường 4 1.2 Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của việt nam 6 1.2.1 Nguồn gốc hình thành 6 1.2.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam và khái niệm kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa……………….. 8 2. TÌNH HÌNH THỰC TIỄN CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10 2.1 Những thành tựu khởi sắc sau hơn 30 năm đổi mới 10 2.2 Những hạn chế, bất cập của nền kinh tế việt nam hiện nay 11 2.3 Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 12 PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………….……..……16 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………….….….17 PHỤ LỤC : BIÊN BẢN HỌP NHÓM………………………………………19 PHẦN MỞ ĐẦU Trước thời kì đổi mới, Việt Nam đã tuân theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, trì trệ của các nước trong cùng hệ thống Xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy nhiên, mô hình này hoàn toàn không phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước ta lúc bấy giờ, vì thực tế kinh tế đất nước khi ấy còn nghèo nàn, lạc hậu, đời sống vật chất chưa đủ dồi dào, giàu có để thực hiện lí tưởng của chủ nghĩa xã hội. Hay nói cách khác, quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó khiến cho quân hệ sản xuất từ chỗ là “ hình thức phù hợp”, “ tạo địa bàn” phát triển lực lượng sản xuất trở thành “ xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, mà then chốt là tư duy về nền kinh tế thị trường, việc xây dựng nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển chung của đất nước và thế giới, cụ thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được xác định là vấn đề then chốt trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước thoát khỏi những vấn đề kinh tế, xã hội nghiêm trọng đang hiện hữu như : lạm phát phi mã, tình trạng thiếu hàng hóa vì tình trạng bao vây cấm vận của các thế lực thù địch,… Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta giờ đây đã thoát khỏi vùng trũng của khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thay vào đó, đất nước đang bước vào một thời kì mới của sự phát triển, tiến bộ về mọi mặt, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Điều này chứng minh rằng, việc nhận thức đầy đủ về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều hết sức cần thiết. Để có thể nhìn nhận toàn diện về mô hình kinh tế có tính đặc thù ở Việt Nam này, bài luận tập trung trình bày rõ cơ sở lí luận của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ đó, nêu lên những thành tựu nổi bật và tình hình thực tiễn của mô hình kinh tế này hiện nay. PHẦN NỘI DUNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Các mô hình kinh tế Kinh tế tự nhiên Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội được bắt đầu từ sản xuất tự cấp tự túc, hay còn gọi là kinh tế tự nhiên, phổ biến nhất vào thời nguyên thủy. Gọi là nền kinh tế tự nhiên bởi lẽ khi ấy loài người chưa phát minh ra các công cụ săn bắt, sản xuất hiện quả, lực lượng sản xuất còn sơ khai, chưa phát triển. Chính vì vậy các hoạt động lao động sản xuất lúc bấy giờ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, môi trường thiên nhiên phong phú và mang tính chất giản đơn, khép kín. Trong quá trình sản xuất tự cấp tự túc, các hoạt động trao đổi sản phẩm đã xuất hiện, nhưng chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún, còn phần lớn các sản phẩm đều có mục đích chính là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân của người sản xuất. Kinh tế hàng hóa Hai điều kiện để xuất hiện nền kinh tế hàng hóa Theo tiến trình phát triển của nền sản xuất, mô hình kinh tế tự cấp tự túc dần dần được thay thế bởi mô hình kinh tế hàng hóa. Trái với mục đích của nền kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa là nền kinh tế sản xuất sản phẩm với mục đích chính là để trao đổi, mua bán. Để đạt được bước phát triển này, theo C.Mác, phần lớn nhờ vào 2 điều kiện chính sau đây : Thứ nhất, điều kiện cần trước nhất là sự phân công lao động xã hội. Đây là sự chia nhỏ những người sản xuất để sao cho mỗi người sản xuất chỉ sản xuất ra một hoặc một vài sản phẩm nhất định và đồng thời phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện mối quan hệ trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Nói cách khác, đó là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, lĩnh vực khác nhau tạo nên sự chuyên môn hóa của người sản xuất, nhờ đó số lượng sản phẩm sẽ ngày càng trở nên dồi dào hơn. Tuy nhiên, nhu cầu con người đồng thời sẽ ngày càng đa dạng hơn bởi giờ đây cuộc sống đã trở nên đầy đủ, thậm chí là dư thừa. Vì vậy, để thỏa mãn những nhu cầu đó, những người sản xuất phải trao đổi hàng hóa với nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra rằng: nếu xét trong phạm vi của một gia đình, các thành viên trong gia đình đều sản ra dồi dào sản lượng và tự trao đổi với nhau thì nền kinh tế hàng hóa có được ra đời hay không? Thực chất sự trao đổi giữa các thành viên trong gia đình với nhau là không có ý nghĩa và không cần thiết, mặc dù giữa các thành viên đều có sự phân công lao động, dẫn tới sản lượng do chính họ làm ra dồi dào. Tuy nhiên, suy cho cùng tất cả sản phẩm được làm ra đều thuộc về chính gia đình đó, hay nói cách khác các thành viên là những “người một nhà”, gắn bó chặt chẽ, máu mủ với nhau vì vậy toàn bộ lượng hàng hóa và sản phẩm đó đều có thể san sẻ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Từ đó suy ra rằng, nền kinh tế hàng hóa sẽ không thể ra đời trong trường hợp này. Điều này sẽ khác đi nếu ta xem xét tới quan hệ của các gia đình khác nhau, sản xuất ra các sản phẩm khác nhau trong phạm vi xã hội. Ở đây, những người sản xuất là những người tách biệt về mặt kinh tế, là những chủ thể kinh tế tách biệt, họ có địa vị độc lập, vì vậy họ mới cần trao đổi, việc trao đổi mới trở nên có ý nghĩa. Vậy, cùng với điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất chính là điều kiện đủ khiến cho nền kinh tế hàng hóa được hình thành. Sự chuyển biến của nền kinh tế hàng hóa Kinh tế hàng hóa ra đời kế tiếp nền kinh tế tự nhiên – vào thời kì tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, với hình thức là nền kinh tế giản đơn. Đó là kiểu sản xuất do những người nông dân, thợ thủ công tiến hành tư hữu hóa với quy mô nhỏ lẻ về tư liệu sản xuất và sức lao động của chính bản thân người sản xuất, họ trực tiếp trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường. Theo thời gian, quan hệ trao đổi Hàng – Tiền phát triển mạnh trong thời kì tan rã của phương thức sản xuất phong kiến quá độ sang chủ nghĩa tư bản, đó đồng thời cũng là quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh tế hàng hóa Tư bản chủ nghĩa – và cũng là hình thức sản xuất hàng hóa cao nhất, phổ biến nhất trong lịch sử. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa là dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế thị trường Sự xuất hiện kinh tế thị trường Nền kinh tế hàng hóa Tư bản chủ nghĩa đã trải qua lần lượt hai giai đoạn phát triển mới là : kinh tế thị trường tự do (sơ khai) và kinh tế thị trường hỗn hợp (hiện đại). Hay nói một cách tổng quát, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, dựa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra nhanh chóng, thị trường được mở rộng. Nói như trên, không có nghĩa rằng kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa Tư bản chủ nghĩa đồng nhất với nhau. Khi nói sản xuất hàng hóa Tư bản chủ nghĩa là muốn nhấn mạnh mặt xã hội của sản xuất tính chất của nền sản xuất, hay nói cách khác Tư bản chủ nghĩa không phải là một thể chế kinh tế mà là một thể chế chính trị - xã hội. Còn nói về kinh tế thị trường là muốn nhấn mạnh mặt tự nhiên của sản xuất dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, thị trường và cơ chế điều tiết nền kinh tế, được phân biệt với tư cách là một thể chế kinh tế. Khái niệm kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, đó là cơ chế điều tiết nền kinh tế bởi các quy luật thị trường như: Quy luật giá trị, cung cầu, giá trị thặng dư, cạnh tranh,… trong môi trường cạnh tranh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nói cách khác, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường – nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và các nguồn lực khác trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế tham gia trên thị trường đều chịu sự tác động của các quy luật thị trường và thái độ ứng xử của họ đều hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường Đặc điểm kinh tế thị trường Có năm đặc điểm chính của nền kinh tế thị trường, đó là : Thứ nhất, các chủ thể kinh tế đều tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Các chủ thể hoàn toàn tự do lựa ngành nghề mà pháp luật không cấm, loại hình sản xuất, hình thức sở hữu… đồng thời giữa các chủ thể vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau và hướng đến mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích kinh tế và điều này cũng góp phần vào việc tăng phúc lợi ích xã hội. Ví dụ, giữa các nhà buôn bán cùng một mặt hàng, họ sẽ tìm cách cạnh tranh với nhau để vừa giảm chi phí, giá bán sản phẩm, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm để thu hút khách hàng. Từ đó, phúc lợi xã hội rõ ràng được tăng lên đáng kể bởi ở góc độ của người tiêu dùng, họ được sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao với giá thành phải chăng, trong khi ở góc độ của người bán, họ bán được nhiều sản phẩm khiến họ đạt được mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của chính cá nhân họ. Thứ hai, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các chiến lược, kế hoạch hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế đều phải nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Vốn dĩ các chủ thể kinh tế phải lấy thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của hoạt động kinh doanh, sản xuất bởi chỉ bằng thông qua thị trường, các chủ thể mới có thể xác định kế hoạch kinh doanh hiệu quả. Như việc phải quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu? đều do tín hiệu giá cả trên thị trường quy định, hay sản xuất cho ai, phân phối như thế nào là do thông qua thu nhập ( sức mua của người tiêu dùng) và giá cả trên thị trường quyết định. Thứ ba, giá cả trong nền kinh tế thị trường là tín hiệu quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường, giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: quan hệ cung cầu, sức mua của đồng tiền,… đồng thời, giá cả có chức năng thông tin, điều tiết sản xuất và lưu thông, phân bổ các nguồn lực phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy ứng dụng kĩ thuật công nghệ tiên tiến vào trong kinh doanh,… Thứ tư, có chế thị trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi mặt của nhà sản xuất, người tiêu dùng trong quá trình trao đổi trên thị trường nhằm mục đích cuối cùng là hàng hóa và dịch vụ được mua bán trên thị trường. Cuối cùng, đó là vai trò điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Sự điều tiết được thể hiện vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là để phát huy những mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những khuyết tật, hạn chế của cơ chế thị trường. Vai trò này thể hiện qua các chứng năng của nhà nước như: đề ra các nghị định, ban hành các đạo luật để kiểm soát và hoàn thiện cơ chế kinh tế, tạo điều kiện cho các chủ thể phát triển; nhà nước dùng nguồn lực vốn đầu tư để bảo đảm an sinh phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo giúp giảm chênh lệch giàu nghèo trong xã hội,… Kinh tế thị trường và mô hình kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là loại hình kinh tế mà mọi yếu tố đầu vào đầu ra đều được thực hiện trên thị trường, thế nhưng kinh tế thị trường này ra đời và phát triển ở những quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như : trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, thể chế chính trị, truyền thống, văn hóa,… Từ đó mới hình thành các mô hình kinh tế thị trường khác nhau. Đã là kinh tế thị trường, cho dù là mô hình nào đi chăng nữa, thì cũng phải mang tính phổ biến, tức là có đầy đủ những đặc điểm của một nền kinh tế thị trường nói chung và vận hành theo các quy luật của thị trường như đã đề cập ở trên, và đồng thời bao hàm những yếu tố đặc thù, khác nhau. Tuy nhiên, chính sự tác động của thể chế chính trị là một trong những yếu tố chính để hình thành nên các mô hình kinh tế thị trường khác nhau trên thế giới Mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam Nguồn gốc hình thành Kể từ khi thành lập đất nước tới nay, chúng ta đã áp dụng và thực thi hai mô hình kinh tế phát triển kinh tế cơ bản : mô hình kế hoạch hóa tập trung và mô hình phát triển kinh tế thị trường. Mô hình xây dựng và phát triển kinh tế theo phương thức vận hành của nền kinh tế kế hoạch là mô hình mà Nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền phân phối về thu nhập, với mục đích là đảm bảo tính xã hội. Trong thực tế, mô hình này đã phát huy rất tốt vai trò và ưu thế trong thời chiến, vì có thể huy động tối đa các nguồn lực kinh tế, có tính thống nhất cao về hệ tư tưởng, ý chí toàn dân để tập trung ra sức tăng gia sản xuất, chiến đấu. Tuy nhiên, những hạn chế của mô hình kinh tế này như quan liêu, bao cấp khiến triệt tiêu sáng tạo, triệt tiêu động lực phấn đấu, cạnh tranh,… đã khiến mô hình này hoàn toàn không hiệu quả, thậm chí khiến nền kinh tế đi lùi trong thời bình. Nhận thức rõ những khiếm khuyết hiện hữu của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn đổi mới nền kinh tế, mà cốt lõi là lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường – mô hình vốn là kết quả của nền văn minh nhân loại đã đạt đến và là con đường tất yếu mà các dân tộc buộc phải đi theo để phát triển. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trên thế giới đã có rất nhiều mô hình kinh tế thị trường như : Kinh tế thị trường tự do chủ yếu ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, đây là mô hình hạn chế sự can thiệp và điều tiết của nhà nước nhưng lại đề cao sự vận hành tự do của các quy luật thị trường. Hay kiểu mô hình kinh tế thị trường xã hội ở một số nước phương Tây và Bắc Âu ( điển hình nhất là Đức – được xem là quê hương của mô hình kinh tế này), đây là mô hình kinh tế mà trong đó nhà nước đảm bảo hoạt động tự do hoạt động kinh tế, nhưng có chính sách quản lí, điều tiết kinh tế, xã hội để đạt được sự cân bằng về xã hội, hay nói một cách ngắn gọn, bên cạnh mục tiêu là lợi nhuận kinh tế, mô hình này đồng thời rất coi trọng các mục tiêu xã hội và phát triển con người như công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo,… Vậy, mô hình kinh tế nào phù hợp với Việt Nam? Ở Việt Nam, đất nước ta chỉ đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó cũng có nghĩa ta cần một quá trình phấn đấu và phát triển lâu dài mới có thể xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó. Để phù hợp và tương thích với hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn xây dựng mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình này được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và thực hiện xây dựng từ những năm 90 của thế kỉ XX cho tới nay và tên gọi ngày chính thức được dùng từ Đại hội IX của Đảng ( năm 2001). Đối với Việt Nam, mô hình này có ý nghĩa quyết định đến tương lai đất nước và vì vậy, tại đại hội XI, Đảng ta coi đây là một trong ba đột phá chiến lược kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng và chủ động hội nhập quốc tế. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam và khái niệm kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Không phải bắt đầu từ nghị quyết đại hội VI, mà từ trước đó rất lâu, những mầm móng của kinh tế thị trường đã được những người Cộng sản chân chính khuyến khích. Ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói mục tiêu của cách mạng như sau “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”. Những lời nói giản dị này như những chấm phá đầu tiên về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì nếu không có kinh tế thị trường thì “người đủ ăn” khó mà trở nên “khá giàu” và “người khá giàu” càng khó trở nên “giàu thêm”.Và nếu không có định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn người nghèo không thể đủ ăn vì những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Hay trong gọng kìm của kế hoạch hóa ở những năm 1966-1967 – gọi là gọng kìm kế hoạch hóa vì cơ chế tập trung quan liêu đã ăn sâu vào cấu trúc xã hội, thành nếp nghĩ, muốn tháo bỏ không hề dễ dàng. Thậm chí, tiêu biểu như Bí thư tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc Kim Ngọc – người được coi là cha đẻ của khoán 10 đã bị phê phán gay gắt do thực hiện giao khoán ruộng đất cho từng hộ nông dân, dù rất hiệu quả trong kích thích quá trình sản xuất, rất được người dân tỉnh Vĩnh Phúc ủng hộ, tuy nhiên chủ trương của Bí thư Kim Ngọc đưa ra gần như đi ngược lại quan điểm lúc bấy giờ và chưa được thừa nhận, thậm chí là phê phán. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986) đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong toàn Đảng, hướng kinh tế cả nước vận hành theo cơ chế thị trường. Điều đó có nghĩa rằng, Đảng ta không khư khư công thức của Chủ nghĩa xã hội theo truyền thống quốc tế, mà thực hiện Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu “ làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”… và đã có tư tưởng đổi mới như : quan niệm kinh tế thị trường có những mặt tích cực cần vận dụng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên vẫn chưa đi ngay vào cuộc sống vì vẫn còn nhiều lực cản, nền kinh tế còn tiếp tục gặp khó khăn trong những năm đầu nhưng từ năm 1989 đã có nhiều biện pháp đổi mới như : xóa bỏ chế độ tem phiếu, mở rộng quan hệ thị trường,…khiến nền kinh tế có nhiều bước khởi sắc, từ đó Đảng ta đã nhận thức rõ hơn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), khái niệm “ nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” đã được khẳng định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) tiếp tục làm rõ nội hàm, mục tiêu và phát triển như sau : “ nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một hình thái Kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của Kinh tế thị trường, vừa dựa trên những cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của Chủ nghĩa xã hội”. Ở đây ta cần hiểu rõ rằng, Đảng ta lãnh đạo bằng các chủ trương, đường lối, định hướng. Trong khi đó Nhà nước tuân theo sự lãnh đạo này của Đảng và quản lí đất nước, nền kinh tế bằng những bộ luật, nghị định, thông tư,… Ngay tại Đại hội XII (2016), đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XII, Đảng ta đã có bước phát triển mới, nhận thức và định nghĩa về nền kinh kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng đầy đủ và toàn diện như sau : “ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng Xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. TÌNH HÌNH THỰC TIỄN CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Những thành tựu khởi sắc sau hơn 30 năm đổi mới Thực hiện những chủ trương của Đảng, hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều cải cách, bước tiến mới để phát triển các thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu đan xen, cụ thể như sau : Từ một quốc gia nghèo, thiếu thốn sau chiến tranh, mục tiêu chính là đảm bảo lương thực, công nghiệp, thương mại hầu như không có gì. Việt nam đã chuyển mình trở thành 1 quốc gia mạnh về xuất khẩu, từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. - Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế tăng hơn 6,6%, riêng giai đoạn từ năm 1992 – 1997 GDP Việt Nam đã tăng trên 8% mỗi năm. Người Việt đã bước vào ngưỡng thu nhập trung bình với GDP đầu người tiến gần 2000 USD 1 năm theo giá thực tế ( tương đương hơn 5000 USD theo ngang giá sức mua) - Cùng với tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cũng dành được những ổn định trong kinh tế vĩ mô. Từ mức lạm phát phi mã ở những năm cuối thập kỉ 80, lạm phát đã ở mức khoảng 5% trong những năm gần đây. - Từ một nước trong tình trạng khủng hoàng thiếu hàng hóa tiêu dùng, lương thực, thực phẩm – mỗi năm phải nhập từ nửa triệu đến một triệu tấn lương thực để nuôi sống người dân, chỉ đúng 1 năm sau Đổi mới chúng ta có dư thừa ra 1 triệu tấn gạo để xuất khẩu. Từ đó tới nay đất nước đã trở thành một trong những nước xuất khẩu lớn về lương thực trên thế giới, như : liên tục nằm trong top 3 những nước có sản lượng sản xuất gạo lớn nhất trên thế giới, xuất khẩu nông sản đứng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 15 thế giới và nông sản Việt hiện đã xuất hiện trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. - Kinh tế phát triển trong điều kiện dân số cao, chi phí lao động hợp lí. Việt Nam trở thành điểm đến cho làn sóng đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 3 năm đầu thời kì đổi mới, chỉ có 211 dự án FDI với tổng vốn đăng kí đạt được 1604 triệu USD, đến năm 2020 tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 28.5 tỉ USD (tăng 178 lần). - 30 năm đổi mới cũng ghi nhận quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tích cực của Việt Nam. Đến nay đã có 59 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, chính phủ đã kí hàng loạt hiệp định thương mại với những đối tác lớn nhỏ khác nhau như : Mĩ, EU, Nhật Bản, ASEAN,…. Và đã gia nhập thành công WTO năm 2007. Từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại, gia tăng xuất nhập khẩu, nếu năm 1986 kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 2.9 tỉ USD, nhập siêu chiếm tới 173% tổng kim ngạch thì đến năm 2020 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 544 tỉ USD, mức xuất siêu kỉ lục 19.1 tỉ USD. - Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các nhân tố thị trường với sự tham gia tích cực của các chủ thể trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước đã phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp FDI tăng cao về số lượng từ đó đóng góp một phần lớn vào GDP. Kinh tế nhân phát triển mạnh, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo lan tỏa rộng, bộ máy chính phủ thực hiện tốt vai trò chính phủ kiến tạo, nỗ lực tạo mội trương kinh doanh đầu tư thuận lời, để tập trung chuyển hóa nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế-xã hội. Những hạn chế, bất cập của nền kinh tế Việt Nam hiện nay Bên cạnh những thành tựu khởi sắc nêu trên, thực tế nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế như : - Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu : Nguyên nhân bởi đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ hiện còn thấp, chỉ chiếm 1% GDP ( tương đương với 2% của Hàn Quốc, 0,7% của Nhật Bản), đội ngũ nhân lực khoa học hạn chế, môi trường nghiên cứu, ứng dụng và cơ sở hạ tầng còn hạn chế. - Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động xã hội hóa, thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế ( chủ yếu hiện nay việc đầu tư kết cấu hạ tầng còn dựa vào ngân sách nhà nước là chủ yếu). - Trình độ tổ chức và quản lí còn nhiều bất cập, đôi khi còn mang tư duy cồng kềnh, rườm rà của nền kinh tế bao cấp. Cơ chế quản lí đổi mới còn chậm, chưa bắt nhịp được với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế - Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực chưa hợp lí, hiệu quả chưa cao. Nhiều trường hợp chưa theo cơ chế thị trường, gây lãng phí và làm cạn kiệt nguồn lực của đất nước. Ví dụ như việc sử dụng nguồn lực tài chính và tiền tệ chưa có hiệu quả cao, bởi cân đối chi chưa gắn kết chặt chẽ với khả năng thu từ nền kinh tế. Việc phân bổ các nguồn lực còn tràn lan, trải dài gây lãng phí và gây bội chi ngân sách ở mức cao. - Là một nước đa dạng, giàu tài nguyên khoáng sản, tuy nhiên việc sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên, môi trường chưa hiệu quả. Tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản, nguồn nước ngầm,… đang quá mức dẫn tới gân lãng phí và hủy hoại môi trường nhiều nơi trầm trọng. Diện tích đất đang sử dụng kém hiệu quả hoặc chưa được sử dụng còn lớn. Nhiều địa phương thậm chí còn lơ là, buông lỏng công tác tác giám sát kéo theo nhiều hệ lụy như đất bị hoang hóa, bị lấn chiếm, người dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất… - Lực lượng lao động của Việt Nam rất đông tuy nhiên không mạnh. Ví dụ như năm 2014 nước ta có 52 triệu lao động nhưng chỉ 35% trong số đó đã được qua đào tạo. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, đến quý 2 năm 2017, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ tới 54 triệu người ( chiếm 76.45%). Trong đó số lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chỉ chiếm 21.6% ( tỉ lệ lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên là 9.09%, cao đẳng là 3.17%, trung cấp là 5.43%, sơ cấp nghề là 3.53%) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thể chế là những quy định, luật lệ, cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội, bắt buộc mọi người phải tuân theo. Thể chế kinh tế là thể chế điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Vậy còn thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là một thể chế kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận hành thông suốt và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo đó gồm ba yếu tố cấu thành, bao gồm: Thứ nhất, đó là các bộ quy tắc, chế định, luật lệ…. trong hệ thống quy tắc đó lại bao gồm : thể chế hình thức (bắt buộc mọi chủ thể phải thực hiện dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ về sở hữu, quản lí, phân phối,…) và thể chế phi chính thức ( không bắt buộc mọi chủ thể phải thực hiện, chủ yếu có tính chất ngầm như các phong tục, tập quán, thỏa ước cộng đồng,…). Thứ hai bao gồm các chủ thể tham gia kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, bao gồm : Nhà nước – là lực lượng nền tảng, quan trọng, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp và các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ chức xã hội- là hệ thống các tổ chức và quan hệ công dân, cộng đồng để thực hiện hóa và củng cố lợi ích của họ. Cuối cùng là các cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác, ba yếu tố cấu thành nêu trên đóng vai trò tương tự như : luật chơi, người chơi, và cách chơi trong thị trường kinh tế này. Năm 2001, nhà nước và toàn Đảng dần nhận ra và rút kinh nghiệm từ những đại hội trước đây, tại Đại hội IX của Đảng đã quyết tâm và tìm ra những con đường để phát triển, biến hóa nền kinh tế thoát khỏi cái tên “ nước nghèo”. “Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001-2010 là : Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở t hành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Từ đầu năm 2001 đến tháng 7 năm 2009, Nhà nước đã ban hành 133 luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1141 nghị định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác” Đến năm 2006 khi Đại hội X được tổ chức, Đảng và Nhà nước đã hiểu rõ ngoài những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, còn có những đặc trưng riêng mang tính đặc thù thể hiện tính định hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã chính thức có những nghị quyết để có thể hoàn thiện thể chế định hướng Xã hội chủ nghĩa. Kịp tiếp cận với nền kinh tế toàn cầu ở Đại hội XI Năm 2011, tại Đại hội XI của Đảng đã công bố chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020, theo đó khẳng định “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội. Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ cế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế…” Ngoài ra còn đặt những mục tiêu, định hướng về nhiều mặt khác như : chính sách tài chính quốc gia, chính sách tiền tệ, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và bỉnh đẳng giữa các thành phần kinh tế,… Đại hội XII của Đảng đề cập đến rất nhiều vấn đề mới trên các lĩnh vực và có những phát triển về định hướng, giái pháp về đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Đại hội đã xác định những mục tiêu đến năm 2020 là “ phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinht ế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; Bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; Bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; Bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội”. Để đạt được các mục tiêu trên, Đại hội đã yêu cầu phải “ Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộn. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lí, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.”. Đại hội đã yêu cầu tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của nền kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoàn t hiện cơ chế, tạo thuận lợi phát triển và khuyến khích kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đại hội toàn quốc gần đây nhất – Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp, đạt được sự nhất trí cao và đề ra “ Chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước” trong đó bao gồm: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Tầm nhìn đến năm 2045, đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2021-2025. Cụ thể, trong đó bao gồm : “ Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn về quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đạo tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả, phát triển nền kinh tế số, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;… “ Ngoài ra, trong phiên họp đầu tiên với Chính phủ nhiệm kì 2021 – 2026, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu “Chính phủ tập trung ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lí dứt điểm những “ điểm nghẽn”, vướng mắc, tồn tại để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô,…”. Để làm được những điều này, cần phải luôn quan tâm nghiên cứu, nắm chắc và quán triệt sâu sắc các lí luận và thực biển cơ bản, trong đó ba gồm lí luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa – một đột phá lí luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lí luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. PHẦN KẾT LUẬN Nói tóm lại, kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế mới xuất hiện và phát triển tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các nước đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tuy có hơi muộn nhưng bước đầu đã đạt được những cột mốc, thành tựu khởi sắc và ngày càng chứng minh tính đúng đắn của Đảng trong lí luận về mô hình kinh tế thị trường chưa từng có tiền lệ trong lịch sử này Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, nền kinh tế Việt Nam đang phải gặp đối phó với nhiều khó khăn do nền kinh tế thị trường đem lại. Đảng phải dựa vào thực tiễn, trên cơ sở đó chắt lọc những thành tựu lí luận phát triển với tư cách là những giá trị chung, phổ biến. Ngoài ra cần phải tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước trên thế giới nhằm bồi đắp kinh nghiệm, hoàn thiện và phát triển nền kinh tế của đất nước.Đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ giữa những vấn đề mang tính phổ biến toàn cầu với những vấn đề đặc thù quốc gia trong phát triền nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế của nước ta. Tu nhiên, nhờ có đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ mà nên kinh tế của ta vẫn tăng trưởng dương, trở thành một điểm sáng trong phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Đó chính là nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Với tư cách là những sinh viên Việt Nam – những chủ nhân tương lai của đất nước, chúng em cần phải luôn luôn quan tâm nghiên cứu, nắm chắc và quán triệt thật sâu sắc các lí luận về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tất cả vì mục tiêu làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, vững mạnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình triết học Mác- Lênin Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin Tạp chí Kinh tế - Kĩ thuật : Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vì sự tiến bộ xã hội ( Nguyễn Khánh Vân) Tiểu luận “ bản chất nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa “ (https://tailieu.vn/doc/tieu-luan-ban-chat-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-1739254.html) Tạp chí Kinh tế - Quản lí : Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (TS. Bùi Văn Can – TS. Lý Hoàng Mai) (https://tailieumienphi.vn/doc/ban-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-r7xeuq.html) Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – mô hình sáng tạo của Việt Nam ( PGS.TS. NGÔ ĐÌNH XÂY – ngày 22/05/2021) Báo Tin Tức – Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc – Người mở đường cho tư duy đổi mới nông nghiệp (https://baotintuc.vn/ho-so/bi-thu-tinh-uy-kim-ngoc-nguoi-mo-duong-cho-tu-duy-doi-moi-nong-nghiep-20190526085228194.htm) Báo Nhân Dân – Sức thuyết phục của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ( Trương Minh Tuấn) Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/toan-van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-45877.html). https://vneconomy.vn/xuat-khau-nong-san-viet-nam-dung-thu-2-dong-nam-a-thu-15-the-gioi.htm Thành tựu kinh tế Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới ( VnExpress) (https://vnexpress.net/thanh-tuu-kinh-te-viet-nam-sau-30-nam-doi-moi-3519532.html) Nền kinh tế Việt Nam sau 35 năm đổi mới (https://www.youtube.com/watch?v=Xi3wC2PcT1Y) Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-xii-ve-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-509159 Sách giáo trình Trung cấp Lí Luận chính trị của Học viện chính trị quốc gia Hà Nội 2015. http://tapchicongthuong.vn của Bộ Công Thương ( đăng ngày 9/2/2019) Nâng cao hiệu quả quản lí, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế ( https://tapchitaichinh.vn ) Nghị quyết của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế ( https://baodauthau.vn) Tình hình đất nước sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 ( https://tapchicongsan.org.vn/noi-dung-co-ban-va-moi-cua-cac-van-kien/-/2018/2121/tinh-hinh-dat-nuoc-sau-10-nam-thuc-hien-chien-luoc-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-2001-2010.aspx ) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 (https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2011-2020-1527 ) Văn kiện Đại hội XII của Đảng : Điểm mới về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ( https://infonet.vietnamnet.vn/thoi-su/van-kien-dai-hoi-xii-cua-dang-diem-moi-ve-hoan-thien-the-che-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-221463.html ) Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong tại Phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kì 2021 – 2026 ( https://tienphong.vn/tong-bi-thu-danh-du-moi-la-dieu-thieng-lieng-cao-quy-nhat-post1364853.tpo) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2021-2030-3671 PHỤ LỤC : Biên bản họp nhóm CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN HỌP NHÓM (V/v Phân công công việc /Đánh giá hoàn thành) 1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự. 1.1. Thời gian: 9/8/2021 và 12/8/2021 1.2. Địa điểm: Nền tảng họp trực tuyến Google meet. 1.3. Thành phần tham dự: + Chủ trì: Võ Duy Thắng + Tham dự: Trần Nguyễn Việt Tiến, Nguyễn Bùi Bảo Thiện, Lê Trúc Quỳnh. + Vắng: Không 2. Nội dung cuộc họp + Cuộc họp thứ nhất (9/8/2021): Cả nhóm thống nhất đề cương chi tiết, phân công công việc cho từng cá nhân. + Cuộc họp thứ hai (12/8/2021): Các thành viên đánh giá bài báo cáo của cả nhóm ( về nội dung, hình thức,…). Thống nhất đánh giá của nhóm trưởng về mức độ hoàn thành công việc của các thành viên. 3. Nhóm trưởng đánh giá mức độ hoàn thành công việc cho các thành viên : STT Họ tên MSSV Nhiệm vụ Đánh giá hoàn thành Mức độ Điểm Võ Duy Thắng B20K0314 Rất tích cực, có nhiều ý kiến đóng góp giá trị được sử dụng A ĐBC + 1,0 Trần Nguyễn Việt Tiến 10 ... Tích cực tham gia. Mức độ tham gia đóng góp từ 90% trở lên B ĐBC + 0 Nguyễn Bùi Bảo Thiện 15 ...….. Mức độ tham gia đóng góp khoảng từ 70% đến 90% C ĐBC - 1,0 Lê Trúc Quỳnh ...….. Mức độ tham gia đóng góp khoảng từ 50% đến 75% D ĐBC - 2,0 * ĐBC: Điểm báo cáo môn học của nhóm do giảng viên chấm *Điểm trừ: Từ mức C trở xuống mỗi mức độ sẽ trừ 1 điểm 2.2. Ý kiến của các thành viên: 2.3. Kết luận cuộc họp Thống nhất lại nội dung cuộc họp sau khi có ý kiến của từng thành viên Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc ....giờ.... phút cùng ngày. Thư ký ( Ký và ghi rõ họ tên) Chủ trì ( Ký và ghi rõ họ tên) 3