Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thị Hoa, Phạm Thế Anh
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
XÃ HỘI ĐỨC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM
Báo cáo này được thực hiện với sự hỗ trợ của:
Văn phòng Đại diện Viện Konrad Adenauer tại Việt Nam
Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thị Hoa, Phạm Thế Anh
Bài Nghiên cứu NC-36
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
ĐỨC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM
Hanoi - 2019
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Bài Nghiên cứu
NC-36, ©2020 Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc
gia Hà Nội
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu “Kinh tế Thị trường Xã hội Đức”, do Viện Nghiên cứu
Kinh tế và Chính sách (VEPR) thực hiện, đã được hoàn thành nhờ sự
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tổ chức.
Trước hết, nhóm nghiên cứu xin được gửi lời cảm ơn chân
thành đến Viện Konrad-Adenauer-Stiftung, với tư cách là nhà tài
trợ chính cho nghiên cứu này, đã có những hỗ trợ vô cùng quý giá
trong quá trình tổ chức thực hiện Dự án nghiên cứu. Nhóm nghiên
cứu xin gửi lời cảm ơn tới các cá nhân là cán bộ của Viện KonradAdenauer-Stiftung đã hỗ trợ nhóm trong quá trình thực hiện nghiên
cứu này.
Chúng tôi xin gửi lời tri ân đến các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu độc lập đã tham gia tích cực vào quá trình phản biện và đóng góp
ý kiến cho nghiên cứu, gồm GS. TS. Phạm Quang Minh - Hiệu trưởng
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), GS. TS.
Phạm Hồng Tung - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát
triển, PGS. TS. Phạm Thị Hồng Điệp - Phó Chủ nhiệm Khoa Kinh tế
Chính trị, Đại học Kinh tế (ĐHQGHN) vì những thảo luận chi tiết liên
quan tới nội dung của nghiên cứu trong các buổi hội thảo và tham vấn
chuyên gia.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thành viên hỗ trợ
của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), đặc biệt là Hà
Thị Dịu và Đinh Thị Hương Liên. Sự tận tâm, nhiệt tình và kiên nhẫn
của họ là phần không thể thiếu trong việc hoàn thiện nghiên cứu.
v
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Dù đã rất cố gắng trong thời gian cho phép, với những sự hỗ trợ
nhiệt thành của các chuyên gia và cộng sự, chúng tôi biết nghiên cứu
vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự
đóng góp của quý vị độc giả để nhóm tác giả có cơ hội được học hỏi
và hoàn thiện hơn trong những nghiên cứu hoặc nghiên cứu tiếp theo.
Hà Nội, tháng 12 năm 2019
Thay mặt nhóm tác giả
PGS. TS. Nguyễn Đức Thành
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐCSVN
FDP
SPD
AfD
DNNN
GDP
FTA
KTTTXH
EU
CDU
CSU
MSOME
NHNN
NHTƯ
SOME
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Dân chủ Tự do
Đảng Dân chủ Xã hội Đức
Đảng Lựa chọn mới cho nước Đức
Doanh nghiệp nhà nước
Gross Domestic Product (Tổng Sản phẩm Nội địa)
Hiệp định Thương mại Tự do
Kinh tế Thị trường Xã hội
Liên minh Châu Âu
Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo
Liên minh Xã hội Cơ đốc giáo
Modern Social Market Economy (Kinh tế Thị trường
Xã hội Hiện đại)
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Trung ương
Social Market Economy (Kinh tế Thị trường Xã hội)
vii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................... vii
TÓM TẮT BÁO CÁO ...................................................................................1
GIỚI THIỆU ..................................................................................................1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ....................................................................................1
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ? .........................................2
GIÁ TRỊ NỀN TẢNG ....................................................................................5
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG ...........................................................................7
KHUNG CHÍNH SÁCH ................................................................................9
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ........................................... 15
1. GIỚI THIỆU .......................................................................................... 21
2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ ........................................................................... 25
3. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ? ................................. 33
3.1. ĐỊNH NGHĨA “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI” .......................... 33
3.2. SO SÁNH VỚI MỘT SỐ MÔ HÌNH KHÁC ....................................... 34
3.3. CHỈ SỐ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI ........................................ 37
4. GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI ..... 41
4.1. TỰ DO .................................................................................................. 43
4.2. CÔNG BẰNG ....................................................................................... 44
4.3. PHÂN CẤP TRÁCH NHIỆM .............................................................. 46
4.4. ĐOÀN KẾT .......................................................................................... 47
5. NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG ................................................... 49
ix
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
5.1. THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ CÓ SỨC CẠNH TRANH................. 53
5.3. SỰ BỀN VỮNG KINH TẾ VÀ SINH THÁI ....................................... 60
5.4. DUNG HỢP XÃ HỘI ........................................................................... 64
6. MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH........................... 69
6.1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC – THỊ TRƯỜNG – XÃ HỘI DÂN SỰ .. 69
6.2. CHÍNH SÁCHTIỀN TỆ – TÀI KHOÁ ................................................ 73
6.3. QUYỀN TÀISẢN ................................................................................. 78
6.4. CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH ........................................................... 81
6.5. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC .................................................................. 83
6.6. CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG ................................................................ 85
6.7. CHÍNH SÁCH TRUYỀN THÔNG ...................................................... 87
6.8. CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG MỞ ..................................................... 89
6.9. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG............................................................ 91
7. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ....................................... 95
7.1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC – THỊ TRƯỜNG – XÃ HỘI DÂN SỰ . 96
7.2. CHÍNH SÁCHTIỀN TỆ – TÀI CHÍNH ............................................... 99
7.3. QUYỀN TÀI SẢN ............................................................................... 100
7.4. CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH .......................................................... 103
7.5. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC ................................................................. 105
7.6. CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG ............................................................... 107
7.7. CHÍNH SÁCH TRUYỀN THÔNG ..................................................... 108
7.8. CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG MỞ .................................................... 109
7.9. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG ......................................................... 111
KẾT LUẬN ................................................................................................. 115
PHỤ LỤC.................................................................................................... 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 157
x
MỤC LỤC
Hình 1
Các giai đoạn của nền kinh tế Đức kể từ 1945 ........................ 27
Hình 2.
Chỉ số kinh tế thị trường xã hội Hiện đại năm 2012 ............... 38
Hình 3.
Chỉ số Kinh tế thị trường xã hội, 2005 - 2010......................... 39
Hình 4.
Mô hình nền Kinh tế Thị trường Xã hội Hiện đại ................... 52
Hình 5.
Phân bổ số ghế trong Quốc hội Liên bang Đức
vào kỳ Tổng tuyển cử thứ 19 ................................................. 121
Hình 6.
Tỷ lệ số ghế trong Quốc hội LB Đức của các đảng,
1990-2017.............................................................................. 122
xi
TÓM TẮT BÁO CÁO
GIỚI THIỆU
Mô hình Kinh tế Thị trường Xã hội (KTTTXH), được triển khai lần
đầu tiên tại Tây Đức vào năm 1948, đã mang lại phép lạ biến Tây Đức
từ một nền kinh tế sụp đổ sau Thế chiến thứ II trở thành một quốc gia
thịnh vượng với phúc lợi hào phóng, ngày nay dẫn đầu sự phát triển của
Liên minh Châu Âu. Kể từ đó, mô hình này đã được áp dụng không chỉ
ở Đức mà còn ở nhiều quốc gia phát triển khác. Nghiên cứu này nhằm
cung cấp một tài liệu hoàn chỉnh về nền tảng lý thuyết và ứng dụng của
mô hình KTTTXH, từ đó đưa ra hàm ý chính sách cho Việt Nam.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Nền KTTTXH không chỉ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bối cảnh
nước Đức sau Thế chiến thứ II mà còn bởi các ý thức hệ trước đó. Phần
“kinh tế” của mô hình có nguồn gốc từ chủ nghĩa Tự do trong Trật tự,
hay còn gọi là Trường phái Freiburg, được nghiên cứu trong giai đoạn
1930-1950 bởi các nhà kinh tế học và học giả pháp lý của Đại học
Freiburg (Đức). Phần “xã hội” của mô hình bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
đạo đức Thiên chúa giáo. Hệ thống an sinh xã hội tại Đức thực ra bắt
đầu từ năm 1881 dưới thời Thủ tướng Otto von Bismarck như một nỗ
lực nhằm ngăn chặn sự tràn lan của chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ.
Bốn năm sau Thế chiến thứ II (giai đoạn chuyển giao): Đức bị
chia thành bốn khu vực bị chiếm đóng bởi Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô.
1
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tất cả các vùng chiếm đóng đều áp dụng mô hình kinh tế tập trung hậu
chiến, làm suy thoái nền kinh tế vốn đã trì trệ. Để cứu vãn tình hình,
một cuộc cải cách tiền tệ được thực hiện vào năm 1948, đánh dấu sự
khởi đầu của các chính sách khác của mô hình KTTTXH được áp dụng
trong vùng Trizone.
Nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập vào
ngày 23 tháng 05 năm 1949 và khu vực do Liên Xô chiếm đóng cũng
tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) vào ngày
07 tháng 10 năm 1949.
Từ 1949 đến 1990: Tây Đức áp dụng mô hình KTTTXH còn
Đông Đức áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô.
Trong giai đoạn 1949-1966, Tây Đức đã trải qua “phép màu
kinh tế”. Nền kinh tế vận hành với các cơ chế của nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chững lại trong những năm sau đó.
Trước sự chững lại của nền kinh tế, một sự thay đổi lớn trong chính
phủ đã diễn ra. Đảng SPD lên nắm quyền lãnh đạo, thực hiện Chương
trình Godesberg với mục tiêu mở rộng tăng trưởng kinh tế và tăng cường
phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, chương trình đã cho phép sự can thiệp quá
mức của chính phủ vào nền kinh tế, dẫn đến thất bại. Sau thời kỳ Brandt,
Helmut Kohl trở thành Thủ tướng. Đóng góp của ông là giảm bớt sự can
thiệp vào thị trường và tiến tới thúc đẩy sự thống nhất nước Đức.
Tây Đức và Đông Đức đã thống nhất vào năm 1990. Vùng Đông
Đức đổi sang mô hình KTTTXH như áp dụng tại Tây Đức, dần dần
phục hồi nền kinh tế.
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ?
Không có định nghĩa chính thức về nền Kinh tế Thị trường
Xã hội. Những người sáng lập như Ludwig Erhard, Walter Eucken và
Müller-Armack chỉ tuyên bố công thức của mô hình: “Nền Kinh tế Thị
trường Xã hội nhằm mục đích hướng đến kết hợp tự do trên thị trường
với sự ổn định xã hội”.
2
TÓM TẮT BÁO CÁO
Mô hình KTTTXH có liên quan chặt chẽ tới mô hình kinh tế
thị trường nhưng có sự khác biệt căn bản, đó là mô hình KTTTXH cho
phép sự can thiệp của nhà nước trong việc thiết lập trật tự kinh tế.
Chủ nghĩa Tự do trong Trật tự khác với chủ nghĩa can thiệp vì
chủ nghĩa Tự do trong Trật tự ủng hộ sự can thiệp tối thiểu của chính
phủ vào nền kinh tế. Nhiệm vụ chính của nhà nước là phân phối lại
thành quả kinh tế.
Trường phái Freiburg và Trường phái Keynes có đặc điểm chung
là cho phép mức độ can thiệp nhất định của nhà nước nhưng khác nhau
về cách thức can thiệp. Trường phái Keynes ủng hộ các can thiệp kích
cầu bất chấp nguy cơ lạm phát, trong khi Trường phái Freiburg ưu tiên
duy trì ổn định giá cả và giữ lạm phát ở mức thấp và kích thích tăng
trưởng kinh tế từ phía cung, tức là nâng cao năng lực sản xuất.
Về mặt thực nghiệm, một nghiên cứu của Viện Bertelsmann
(2012) tính toán mức độ KTTTXH của tám quốc gia, trong đó Đức có
điểm số 7.42/10. Một nghiên cứu khác của Helfer (2015) tính toán cho
hầu hết quốc gia trên thế giới, chỉ ra rằng điểm số của các quốc gia phát
triển như New Zealand (8.261/10 trong năm 2010), Đức (7.733) hay
Hoa Kỳ (7.621) cao hơn các quốc gia kém phát triển. Chỉ số của Việt
Nam ở mức thấp, 5.468, cho thấy một khoảng cách xa so với mô hình
KTTTXH lý thuyết.
3
GIÁ TRỊ NỀN TẢNG
Từ Luật Cơ bản (Hiến pháp Đức), Điều 1 cho thấy giá trị cao
nhất mà xã hội Đức bảo vệ là phẩm giá con người. Hệ thống pháp luật,
thể chế và nhà nước đều được xây dựng để phục vụ xã hội. Mười tám
điều tiếp theo trong Luật Cơ bản bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Bốn giá trị cốt lõi của nền KTTTXH là tự do, công bằng, phân
cấp trách nhiệm và đoàn kết.
Tự do không phải là sự hỗn loạn hay sự tự phát vô trách nhiệm,
mọi người phải tôn trọng sự tự do của nhau và chịu trách nhiệm với
hành động của mình.
Mô hình KTTTXH nhìn nhận công bằng trên ba khía cạnh. Thứ
nhất, công bằng trên đóng góp ngụ ý rằng sự phân phối kết quả xã hội
cần tương xứng với đóng góp. Thứ hai, công bằng trên nhu cầu cho
phép kết quả xã hội được phân phối đến những người cần nhưng vì lý
do hợp lý nào đó không thể có được. Tuy nhiên, sự khác biệt trong đóng
góp của mỗi người có thể xuất phát từ việc họ không có cơ hội như nhau
ngay từ xuất phát điểm. Vì vậy, công bằng cơ hội đề xuất rằng nhà nước
nên tạo điều kiện để cơ hội được phân phối công bằng. Một trong những
đề xuất lớn để củng cố công bằng cơ hội là cho phép tiếp cận hệ thống
giáo dục đến với tất cả công dân.
Nguyên tắc phân cấp trách nhiệm là một đặc điểm riêng của mô
hình KTTTXH. Phân cấp trách nhiệm hàm ý rằng đối với các vấn đề
mà đơn vị nhỏ hơn có thể thực hiện hoặc thực hiện hiệu quả hơn thì đơn
vị nhỏ hơn được quyền ưu tiên trong quyết định và thực thi. Nguyên
tắc này được áp dụng trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trong nền kinh
5
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
tế, cơ chế thị trường là ưu tiên, bất cứ giải pháp nào của nhà nước, nếu
cần thiết, chỉ là thứ yếu. Trong bối cảnh xã hội, các cá nhận phải chịu
trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình trước khi tìm đến bất kỳ sự
trợ giúp nào từ bên thứ ba. Trong hệ thống hành chính, chính quyền địa
phương được quyền đưa ra quyết định (cũng như chịu trách nhiệm) cho
các vấn đề trong khu vực địa phương. Mục đích là làm sao để quyền
quyết định và trách nhiệm được phân về cấp độ nhỏ nhất có thể.
Cuối cùng, đoàn kết có vẻ là bằng chứng mạnh mẽ nhất về ảnh
hưởng của đạo đức Thiên chúa giáo đến mô hình. Sự gắn kết xã hội và
hỗ trợ lẫn nhau giữa mọi người thuộc các tầng lớp, dân tộc hoặc thế hệ
khác nhau được đánh giá cao.
6
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Mô hình nguyên thủy bao gồm mười một nguyên lý cơ bản, được
phân thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên bao gồm bảy nguyên tắc cấu
thành: hệ thống giá hoạt động, ưu tiên trật tự tiền tệ, thị trường mở,
tài sản tư hữu, tự do hợp đồng, chịu trách nhiệm, và tính liên tục
của chính sách kinh tế. Nhóm còn lại bao gồm bốn nguyên lý điều
tiết: chính sách chống độc quyền, chính sách thu nhập, điều chỉnh
tác động ngoại lai, và điều chỉnh cung lao động bất thường.
Nền KTTTXH được phát triển và trỏe nên chiếu trung hơn và có
tính định hướng chính sách cao hơn. Nghiên cứu của Viện Bertelsmann (2012) gọi chúng là “các nguyên lý nền tảng của nền
KTTTXH hiện đại”. Có thể tóm tắt các nguyên lýđó như sau:
(1) Hệ thống giá hữu hiệu cho phép giá cả được hình thành bởi các quy
luật kinh tế, không phải bởi bất kỳ cơ quan tập trung nào. Bất kỳ sự
can thiệp nào của nhà nước (ví dụ trợ cấp và chuyển nhượng) đều
vi phạm nguyên tắc này vì nó làm biến dạng giá cả, từ đó truyền tín
hiệu bị bóp méo đến các chủ thể kinh tế.
(2) Thị trường mở không chỉ ngụ ý tự di chuyển tự do xuyên biên giới
của các yếu tố sản xuất (như đề cập trong mô hình nguyên sơ)
mà còn ngụ ý tháo gỡ rào cản gia nhập thị trường cho các doanh
nghiệp tiềm năng.
(3) Cạnh tranh góp phần vào tăng trưởng kinh tế và phân chia quyền
lực thông qua chức năng cổ điển, chức năng tĩnh và chức năng
động của nó (Seitel, 2005). Chức năng chính trị cổ điển của nó là
hạn chế tác động của quyền lực nhà nước lên những người tham gia
7
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thị trường là tư nhân, đồng thời kiểm soát quyền lực của chính tư
nhân. Chức năng tĩnh của cạnh tranh là sản xuất hàng hóa và dịch
vụ theo nhu cầu của người tiêu dùng và buộc các doanh nghiệp tận
dụng tối ưu các yếu tố sản xuất. Chức năng động của cạnh tranh
là thúc đẩy các công ty đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và đổi
mới. Trong khi mô hình sơ ủng hộ cạnh tranh hoàn hảo, mô hình
KTTTXH hiện đại chấp nhận của độc quyền và độc quyền nhóm.
(4) Quyền tài sản: Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra vai trò quan
trọng của tài sản tư hữu lên tăng trưởng kinh tế (Franke & Gregosz,
2013). Tuy nhiên, thay vì chỉ tập trung vào tài sản tư hữu, mô hình
KTTTXH hiện đại nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa quyền và
trách nhiệm đi cùng với quyền tài sản nói chung.
(5) Tự do hợp đồng có nghĩa là mọi người có quyền tự do lựa chọn đối
tác, thảo luận, ký kết và thực hiện hợp đồng mà không bị bất kỳ sự
ép buộc nào từ bên thứ ba.
(6) Chịu trách nhiệm ngụ ý rằng mọi người phải chịu trách nhiệm
trước quyết định của họ (Suntum & Ilgmann, 2014). Eucken đã
hoài nghi về hình thức trách nhiệm hữu hạn, ông tin rằng cổ đông
lớn phải chịu trách nhiệm toàn bộ. Tuy nhiên, mô hình KTTTXH
đã mở rộng hơn, công nhận các mức độ chịu trách nhiệm pháp lý
khác nhau của doanh nghiệp.
(7) Sự ổn định tài chính không chỉ ngụ ý khả năng chịu các cú sốc của thị
trường tài chính mà còn hàm ý sự ổn định về giá. Sự ổn định giá trị đồng
tiền đòi hỏi ngân hàng trung ương pháp độc lập khỏi áp lực chính trị.
(8) Tính nhất quán trong chính sách đề cập đến vấn đề không nhất
quán qua thời gian và vấn đề ông chủ - người đại diện trong kinh
tế học hiện đại. Thay đổi chính sách cần có kế hoạch và truyền các
tín hiệu để các chủ thể kinh tế có khả năng dự đoán được.
(9) Bảo vệ môi trường hiệu quả: Mô hình ban đầu chỉ đề cập đến việc
điều chỉnh các hiệu ứng ngoại lai môi trường còn mô hình hiện đại
nhấn mạnh vào công cụ để bảo vệ môi trường. Các nhà kinh tế ưu
tiên các công cụ thị trường nhưng trên thực tế các biện pháp phi thị
trường (ví dụ xử phạt, cấm) vẫn phổ biến hơn.
8
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
(10) Thị trường lao động hiệu quả: Các nhà kinh tế học ủng hộ sự can
thiệp lên thị trường lao động dù họ có sự hoài nghi về mức lương
tập thể và mức lương tối thiểu vì các hình thức này làm méo mó
mức lương thị trường cân bằng.
(11) Di động xã hội đề cập đến sự dịch chuyển của mọi người trên thang
địa vị xã hội. Mô hình KTTTXH hiện đại cho rằng một hệ thống
giao dục chất lượng cao với chi phí thấp cho tất cả mọi người góp
phần vào thực hiện nguyên lý này.
KHUNG CHÍNH SÁCH
Vai trò của Nhà nước – Thị trường – Xã hội dân sự
Trong xã hội Đức, con người được đặt làm trung tâm. Các hoạt động
kinh tế, thể chế chính trị và nhà nước đều nhằm phục vụ xã hội.
Đặc trưng của Nhà nước là sự phân chia quyền lực, pháp quyền và
dân chủ (Currie, 1993; Stockmann, 2001; Waarden, 2015).
Sự phân chia quyền lực chính trị ở Đức được hình thành theo chiều
ngang và chiều dọc. Sự phân chia theo chiều ngang là sự phân chia
kinh điển giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo The Heritage
Foundation (2019), hệ thống pháp lý của Đức có hiệu quả cao, đạt
75.4/100 điểm. Sự phân chia theo chiều dọc là sự phân cấp quyền
lực từ liên bang tới các bang và các chức trách địa phương.
Về mặt pháp quyền, theo Dự án Công lý Thế giới (World Justice
Project) (2019), Đức là một trong những quốc gia có chỉ số pháp
quyền cao nhất thế giới với 0.84/1.0 điểm, xếp thứ sáu thế giới.
Quyền lực của nhà nước cũng được kiểm soát thông qua trách
nhiệm giải trình và xã hội dân sự. Theo số liệu của Ngân hàng
Thế giới giai đoạn 1996-2017, Đức thuộc nhóm các quốc gia có
trách nhiệm giải trình cao, xã hội dân sự có vai trò lớn và quyền
tự do dân sự được thực thi.
9
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Theo đơn vị Intelligence Unit của tờ báo The Economist (2008),
Đức là một trong những quốc gia có “nền dân chủ toàn diện” với
điểm số 8.86/10.
Mô hình KTTTXH đòi hỏi một nhà nước mạnh với sự can thiệp
tối thiểu của chính phủ vào thị trường. Theo đó, hai nguyên tắc
cần phải được tuân thủ (Stockmann, 1991). Thứ nhất, nguyên
tắc phân cấp trách nhiệm chỉ ra rằng giải pháp tham gia của nhà
nước thường chỉ là thứ yếu nếu có một sự thay thế khả thi từ cơ
chế thị trường. Thứ hai, nguyên tắc tuân thủ thị trường ngụ ý
trong trường hợp can thiệp, cần tuân thủ càng nhiều càng tốt cơ
chế thị trường.
Chính sách tiền tệ và tài khóa
Chính sách tiền tệ của Đức nhằm duy trì sự ổn định giá cả. Ngân
hàng Trung ương Châu Âu phụ trách việc ban hành Chính sách tiền tệ.
Câu hỏi về tính độc lập của các quyết định của Ngân hàng Trung ương
châu Âu không vẫn còn gây tranh cãi.
Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Liên bang Đức được biết
là có sự độc lập lớn trong các quyết định của mình khỏi chính phủ và
quốc hội và có trách nhiệm giải trình cao. Dumiter (2014) cho thấy
Ngân hàng Trung ương Liên bang Đức nằm trong nhóm có tính độc lập,
minh bạch và trách nhiệm giải trình cao nhất trên thế giới.
Đối với thành viên Liên minh Châu Âu, chính sách tài khóa đóng
vai trò quan trọng hơn trong việc ổn định chu kỳ kinh doanh (Tenhofen,
Wolff & Kristen, 2010).
Đức đã ký Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng vào năm 1997 và
Hiệp ước Ổn định, Phối hợp và Quản trị trong Liên minh kinh tế và
tiền tệ (một phiên bản mới chặt chẽ hơn của Hiệp ước Ổn định và Tăng
trưởng) vào năm 2012.
10
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Theo báo cáo của Bộ Tài chính Liên bang Đức (2019), Đức tiếp
tục đạt được đầy đủ các thỏa thuận trong hai hiệp ước này. Đức không
chỉ thành công trong việc giữ thâm hụt danh nghĩa dưới mức giới hạn
(3% GDP) mà còn duy trì thặng dư ngân sách từ 0,5% đến 1,7% GDP
kể từ năm 2014. Tăng trưởng GDP cao và thặng dư ngân sách trong
những năm gần đây đã góp phần đáng kể để giảm tỷ lệ nợ. Năm 2018,
tỷ lệ nợ trên GDP giảm 3,6 điểm phần trăm xuống 60,9% GDP.
Về chi tiêu Chính phủ, mức chi cao là nhằm đóng góp tích cực
vào việc tăng cường an sinh xã hội: chi tiêu xã hội chiếm hơn 50% ngân
sách liên bang và ở cấp chính phủ chiếm khoảng 24% GDP năm 2018.
Theo tổ chức The Heritage Foundation (2019), Đức có gánh
nặng thuế lớn và chi tiêu chính phủ cao nhưng sức khỏe tài khóa rất tốt,
cho thấy khả năng của Chính phủ trong việc kiểm soát các khoản thu
và chi của mình.
Quyền tài sản
Theo Quỹ The Heritage Foundation (2019), chỉ số Quyền tài sản
của Đức là 80/100, cho thấy mức độ bảo vệ cao đối với quyền tài sản.
Tự do lao động được đảm bảo. Tuy nhiên, Đức có một vài luật
hạn chế quyền tự do nghề nghiệp. Đó là những rào cản lớn như kinh
nghiệm và sức khỏe đối với các ngành nghề như thủ công và các ngành
kỹ năng cơ giới (Viện Bertelsmann, 2012).
Về bất động sản, quyền sở hữu đất tư nhân được bảo vệ bởi Hiến
pháp và hệ thống pháp luật.
Đức tự hào là quốc gia xây dựng và thực hiện luật bảo vệ sở hữu
trí tuệ tốt.
Tài sản công và quyền và trách nhiệm đi kèm được giao cho các
pháp nhân cụ thể theo nguyên tắc phân cấp trách nhiệm.
11
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chính sách cạnh tranh
Các quy định cạnh tranh được ghi lại trong Đạo luật chống hạn
chế cạnh tranh của Đức (1999).
Các cơ quan thực thi bao gồm Cục Quản lý Các-ten Liên bang,
cơ quan quản lý các-ten cấp bang, Ủy ban Độc quyền và Tòa phúc
thẩm. Cục Quản lý Các-ten Liên bang là cơ quan có thẩm quyền lớn
nhất trong việc thực thi luật cạnh tranh cả về lý thuyết pháp lý và thực
tế. Các cơ quan liên bang và các-ten có quyền tự chủ tư pháp cao.
Tuy nhiên, hiệu quả của các hoạt động chống độc quyền truyền
thống của Đức đang gặp phải những thách thức từ sự phát triển trên thị
trường kỹ thuật số (Mund, 2018; Budzinski & Stöhr, 2018).
Chính sách giáo dục
Đức nổi tiếng với hệ thống giáo dục chất lượng cao với cơ chế miễn
học phí. Trong năm 2015, chi tiêu chính phủ cho giáo dục chiếm 4.8%
GDP. Hệ thống giáo dục linh hoạt, giúp sinh viên có nhiều sự lựa chọn.
Theo nguyên tắc phân cấp trách nhiệm, hệ thống giáo dục của Đức
khác biệt đáng kể giữa các bang và chính quyền địa phương có quyền tự
chủ đáng kể trong việc quyết định chương trình và mô hình giáo dục.
Chính sách thị trường lao động
Nhà nước can thiệp sâu vào thị trường lao động. Các can thiệp
nhằm củng cố và bảo vệ các tổ chức đại diện cho người lao động như
công đoàn hơn là những người đại diện cho giới sử dụng lao động. Theo
Tổ chức The Heritage Foundation, chỉ số Tự do Lao động Đức năm
2019 là 52,8/100, thuộc nhóm có tự do thấp trên thị trường lao động.
Theo Soltwedel (2005), Đức thực hiện tốt cả chính sách thị
trường lao động thụ động và chính sách chủ động. Việc thực thi các
chính sách này là nhiệm vụ chính của Cơ quan Việc làm Liên bang, một
một cơ quan tự trị có năng lực pháp lý và trực tiếp báo cáo lên chính
phủ liên bang.
12
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Mức lương tối thiểu theo luật định chung bắt đầu có hiệu lực tại
Đức kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015, mức € 8,50 mỗi giờ trong năm 2015.
Chính sách truyền thông
Các cơ quan quản lý bao gồm Cơ quan Mạng lưới Liên bang,
Văn phòng Liên bang và mười bốn cơ quan truyền thông khu vực, tất
cả đều hoạt động độc lập và có hiệu quả.
Liên quan đến báo chí, Hội đồng Báo chí Đức - một tổ chức tự
điều hành được thành lập bởi các hiệp hội các nhà báo và hiệp hội các
nhà xuất bản - phát triển và thực thi Bộ luật Báo chí Đức.
Ngành công nghiệp báo chí và điện ảnh chủ yếu hoạt động
theo các nguyên tắc kinh tế thị trường trong khi lĩnh vực phát thanh và
truyền hình được đặc trưng bởi hệ thống phát thanh kép (công cộng và
tư nhân). Theo Trung tâm Đa nguyên Truyền thông và Tự do Truyền
thông (2016), khoảng 80% dân số Đức trên mười ba tuổi xem truyền
hình và 74% nghe radio mỗi ngày. Khoảng 46% dân số sử dụng Internet
và 33% đọc báo hay tạp chí.
Để duy trì tính đa nguyên trong phát thanh truyền hình, các đài
công cộng được tổ chức theo kiểu đa nguyên - thành phần của hội nghị
phát thanh là đại diện cho tầm quan trọng của các nhóm xã hội như các
đảng chính trị, hiệp hội, nhà thờ, v.v.
Theo báo cáo của Trung tâm Đa nguyên Truyền thông và Tự do
Truyền thông (2016), đa nguyên truyền thông ở Đức chịu rủi ro từ thấp
đến trung bình.
Chính sách thị trường mở
Đức cam kết di chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn
trong khu vực Liên minh Châu Âu.
Về thương mại hàng hóa, các hàng rào thuế quan đã được gỡ
bỏ đáng kể. Theo Tổ chức The Heritage Foundation (2019), mức thuế
13
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trung bình của Đức là 2% và chỉ số tự do thương mại là 86/100. Tuy
nhiên, các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp dụng mạnh mẽ.
Về tự do vốn, Đức là một trong số ít các quốc gia có Chỉ số
mở cửa tài chính Chinn-Ito tối đa (đạt 1.0/1.0) cho thấy sự tự do trong
chuyển động vốn ra – vào quốc gia.
Về sự di chuyển của người lao động, còn thiếu các quy định pháp
lý về nhập cư lao động tay nghề cao ở Đức (Viện Bertelsmann, 2012).
Liên quan đến các rào cản gia nhập thị trường, có một số rào cản
trong Luật pháp Đức như thời gian xử lý dài, thủ tục phức tạp và yêu
cầu vốn cao (Viện Bertelsmann, 2012).
Chính sách môi trường
Theo báo cáo của Hội đồng Châu Âu (2019), Đức có một bộ luật
và chính sách môi trường toàn diện được thực thi có hiệu quả. Hơn nữa,
người dân có nhận thức rõ ràng về bảo vệ môi trường và đòi hỏi những
nỗ lực lớn hơn trong việc bảo vệ môi trường.
Các công cụ bảo vệ môi trường quan trọng bao gồm thuế xanh,
mua sắm công cộng xanh, tài trợ và đầu tư môi trường. Đức đã có
những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc giảm lượng khí thải CO2.
Doanh thu thuế môi trường của Đức thấp nhất ở Liên minh Châu
Âu, chiếm 1,86% GDP năm 2016 (trung bình của Liên minh Châu Âu:
2,44%). Doanh thu thuế năng lượng chiếm 1,54% GDP, thấp hơn mức
trung bình 1,88% của Liên minh Châu Âu.
Đức đã chi 19.185 tỷ euro (0,6% GDP) cho bảo vệ môi trường
năm 2016, tăng 6,7% so với năm trước. Khoản tài trợ chung của chính
phủ cho bảo vệ môi trường lên tới €88.849 tỷ trong giai đoạn 20122016, cao thứ hai ở Liên minh Châu Âu. Tuy nhiên, có một số chỉ trích
phản đối rằng chính phủ sử dụng một phần doanh thu thuế môi trường
để tài trợ cho an sinh xã hội
14
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Vai trò của Nhà nước – Thị trường – Xã hội dân sự
Khác với Luật Cơ bản của Đức, Chương I (bao gồm mười ba
điều) của Hiến pháp Việt Nam đề cập đến việc bảo vệ chế độ chính trị,
bảo vệ chế độ chính trị được coi là nhiệm vụ của xã hội. Để áp dụng nền
kinh tế thị trường xã hội, bài học quan trọng đầu tiên là đặt con người
là trung tâm của các mục tiêu và xây dựng xã hội. Nhân phẩm của con
người cần được đặt ở vị trí cao nhất và mục đích của các cơ quan chính
trị là nhằm phục vụ xã hội.
Mặc dù Hiến pháp Việt Nam quy định sự phân chia quyền lực
theo chiều dọc và chiều ngang, nhưng nguyên tắc này bị hạn chế trên
thực tế. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và tất cả chính quyền
các cấp đều là thành viên của một đảng, dẫn đến tham nhũng nghiêm
trọng và trách nhiệm giải trình thấp. Theo Tổ chức The Heritage Foundation (2019), Chỉ số Minh bạch của Chính phủ Việt Nam nằm trong
nhóm các quốc gia thấp nhất, 34/100 và Chỉ số Hiệu quả Tư pháp cũng
ở mức thấp, 40,3/100, khiến Việt Nam trở thành quốc gia “không có tự
do” trên các khía cạnh này. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới trong
giai đoạn 1996 - 2017, chỉ số tiếng nói dân sự và trách nhiệm giải trình
của Việt Nam thấp, chỉ cao hơn một chút so với Lào và thấp hơn nhiều
so với các nước ASEAN khác.
Mặc dù được Hiến pháp bảo vệ, Chỉ số Pháp quyền của Việt
Nam còn thấp, xếp hạng 81 trong số 126 quốc gia và trong số các quốc
gia kém nhất châu Á (Dự án Công lý Thế giới, 2019).
Theo đơn vị Intelligence Unit của tờ báo The Economist (2018),
Chỉ số Dân chủ của Việt Nam là 3.08/10, ngụ ý rằng đất nước đã được
đặt dưới một chế độ độc tài.
Chính phủ nên giảm thiểu sự can thiệp vào nền kinh tế và dần
dần cho phép tự do chính trị.
15
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có mức độ độc lập thấp, thậm
chí thấp hơn so với nhiều nước đang phát triển khác (Duong Thi Thuy
Nga & Do Van Vinh, 2014). Điều này làm suy giảm tác dụng của chính
sách tiền tệ.
Đặc điểm đặc trưng của chính sách tài khóa là thâm hụt ngân
sách cao liên tục (5,64% GDP năm 2016, 3,5% GDP năm 2017) và nợ
công cao. Theo Tổ chức The Heritage Foundation (2019), Chỉ số sức
khỏe tài chính của Việt Nam là 40,7/100, chứng tỏ sự yếu kém của
chính phủ trong khả năng quản lý ngân sách.
Như vậy, về chính sách tiền tệ, chính phủ nên dần dần trả lại
sự độc lập cho ngân hàng nhà nước, yêu cầu nâng cao trách nhiệm
giải trình và hiệu quả. Ngân hàng nhà nước nên được phép thực hiện
chức năng quan trọng nhất là giữ lạm phát thấp trong khi mục tiêu tăng
trưởng nên được giao phó cho khu vực sản xuất.
Về chính sách tài khóa, giám sát và kiểm soát ngân sách nhà
nước phải hiệu quả hơn. Bước đầu tiên là tăng cường trách nhiệm giải
trình và tính minh bạch.
Quyền tài sản
Theo Tổ chức The Heritage Foundation (2019), Chỉ số Quyền
tài sản của Việt Nam đứng ở mức 49,8/100, chứng tỏ thực hiện bảo vệ
quyền tài sản kém.
Tài sản công cộng (đất đai và tài nguyên thiên nhiên) thuộc sở
hữu “toàn dân” và được quản lý bởi nhà nước. Khái niệm “toàn dân”
còn mơ hồ, gây ra sự nhầm lẫn không chỉ trong lý thuyết mà còn trên
thực tế. Nhiều cuộc biểu tình đã được thực hiện do chiếm dụng, thu hồi
đất không chính đáng.
Các quy định mơ hồ và sự quản lý yếu kém gây ra sự phân phối
tài nguyên thiên nhiên không hiệu quả. Giao dịch diễn ra thông qua các
16
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
mệnh lệnh hành chính, hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc thị
trường. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước có một lợi thế rất lớn trong
việc tiếp cận các nguồn tài nguyên.
Điều 32 của Hiến pháp bảo vệ quyền tài sản tư nhân đối với các
tài sản khác.
Hệ thống bảo vệ sở hữu trí tuệ của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót.
Chính sách cạnh tranh
Theo Nguyễn Thị Thu Trang, Đinh Tuấn Minh, Đậu Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Diệu Hồng và Phạm Ngọc Thạch (2016), hệ thống pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam được coi là tương đối toàn diện và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật cạnh tranh cũng như việc thực
hiện ở Việt Nam còn nhiều vấn đề. Quyền và lợi ích của người sản xuất
và người tiêu dùng bị vi phạm do các hành vi chống độc quyền.
Giải pháp đầu tiên là sửa đổi luật chống hạn chế cạnh tranh vì
luật còn chưa chặt chẽ (Nguyễn Thị Thu Trang và cộng sự, 2016). Thứ
hai, các cơ quan cạnh tranh cần được trao nhiều quyền lực và trách
nhiệm hơn để điều tra và giám sát các hành vi chống cạnh tranh của các
chủ thể kinh tế.
Chính sách giáo dục
Mặc dù chi tiêu công cho giáo dục của Việt Nam (5,7% GDP
năm 2013) cao hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực, chất lượng
giáo dục còn hạn chế và không đồng đều.
Số lượng học sinh, giáo viên và trường học tăng nhưng chất
lượng vẫn thấp. Các trường công lập thu học phí thấp hơn, song do chất
lượng thấp nhiều phụ huynh phải đưa con học ở trường tư. Bên cạnh đó,
bệnh thành tích và gian lận là những vấn đề nghiêm trọng. Tự do học
thuật bị hạn chế ngay cả tại các trường đại học.
17
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hệ thống giáo dục nên được phép hoạt động theo các cơ chế của
nền kinh tế thị trường nhằm tạo ra sản phẩm giáo dục phù hợp với nhu
cầu cá nhân và xã hội. Trong khi đó, để củng cố công bằng dựa trên nhu
cầu, cần có hỗ trợ cho những sinh viên không đủ khả năng giáo dục chất
lượng cao. Các trường học nên được trao quyền tự chủ lớn hơn và tự do
học thuật cần được đảm bảo.
Chính sách thị trường lao động
Chỉ số tự do lao động của Việt Nam là 62,8/100 có nghĩa rằng
thị trường lao động tự do tương đối (Tổ chức The Heritage Foundation, 2019).
Luật Lao động quy định mức lương tối thiểu và cơ chế bảo vệ
cơ bản cho người lao động nhưng mức lương tối thiểu bị chỉ trích là quá
thấp cho một cuộc sống đầy đủ. Trần Văn Tư (2009) chỉ ra rằng mức
lương tối thiểu chỉ đáp ứng 60-65% nhu cầu cơ bản của người lao động
và rất gần với chuẩn nghèo.
Tổ chức công đoàn nhỏ lẻ và hoạt động không hiệu quả. Các
hoạt động chính của họ là tổ chức các sự kiện xã hội như thăm gia
đình công nhân, đám cưới, đám tang hoặc tai nạn, thay vì thương
lượng cho lợi ích của công nhân. Gần 5.000 cuộc đình công xảy ra
từ năm 1995 đến 2012 có liên quan đến vấn đề đãi ngộ không thỏa
đáng và điều kiện làm tệ. Trong đó, không có cuộc đình công nào
trong được khởi xướng hoặc tổ chức bởi các công đoàn ngoại trừ
một cuộc đình công ở Đồng Nai. Vai trò của công đoàn cần được
làm rõ và hiệu quả hơn. Các quy định pháp lý về đình công cần được
đơn giản hóa.
Quyền đồng quyết của người lao động nên được hợp pháp hóa.
Tiền lương và quản lý nguồn nhân lực, đặc biệt trong khu vực
công, phải phù hợp với cơ chế thị trường.
18
NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Chính sách truyền thông
Kể từ Đổi Mới, tự do truyền thông Việt Nam đã có những thay
đổi tích cực liên quan đến việc giảm tuyên truyền chính trị và có quyền
trao đổi thông tin một cách tự do hơn.
Tuy nhiên, tự do truyền thông vẫn bị hạn chế trong cả ba lĩnh
vực: báo chí, phát thanh truyền hình và điện ảnh. Theo Phóng viên
Sans Frontières, chỉ số Tự do Báo chí của Việt Nam xếp hạng 176 trên
180 vào năm 2019, chỉ tốt hơn Trung Quốc, Eritria, Bắc Triều Tiên và
Turkmenistan.
Kể từ khi Luật An ninh mạng có hiệu lực vào đầu năm 2019,
quyền tự do ngôn luận trên Internet sẽ bị hạn chế hơn nữa.
Chính sách thị trường mở
Theo Tổ chức The Heritage Foundation, Chỉ số Tự do Thương
mại của Việt Nam là 79,2/100, được phân vào nhóm tự do tương đối.
Thuế nhập khẩu trung bình là 2,9%. Đến giữa năm 2018, theo Tổ chức
Thương mại Thế giới, Việt Nam có 80 hàng rào phi thuế quan.
Chỉ số Tự do Đầu tư của Việt Nam rất thấp, ở mức 30/100, cho
thấy những hạn chế nghiêm trọng đối với đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Về việc di chuyển vốn xuyên biên giới, không có quy định pháp
lý cụ thể nào được ban hành. Chỉ số Mở cửa Tài chính Chinn-Ito của
Việt Nam rất thấp (0,41 năm 2016, xếp thứ 99 trên thế giới) trong khi
Đức là một trong những quốc gia có chỉ số cao nhất. Do đó, việc xây
dựng hành lang pháp lý trong tương lai là điều cần thiết.
Việt Nam cởi mở trong việc di chuyển lao động. Tuy nhiên, các
quy định về lao động nước ngoài không đầy đủ và rõ ràng.
Hầu hết các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã được đàm
phán hoặc ký kết không phải là kết quả của nghiên cứu và điều tra kỹ
lưỡng mà là “quà tặng ngoại giao” mà Việt Nam đã cung cấp cho các đối
19
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
tác của mình trong các chuyến viếng thăm ngoại giao (Đậu Anh Tuấn,
Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Thị Thu Trang, & Phạm Ngọc Thạch, 2014).
Chính sách môi trường
Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam về cơ bản đã được phát
triển nhưng chỉ mới gần đây (lần đầu tiên được thông qua vào năm
1993) và còn tồn tại nhiều thiếu sót. Luật Quy hoạch mới có hiệu lực
vào đầu năm 2019.
Môi trường đã phải trả giá đắt cho tăng trưởng kinh tế trong ba
thập kỷ qua.
Đến năm 2020, hầu hết (nếu không phải tất cả) các mục tiêu môi
trường đã không đạt được do mục tiêu đầy tham vọng, sự thiếu sót của
hệ thống luật bảo vệ môi trường, tham nhũng, và vai trò mờ nhạt của
nhà nước trong bảo vệ môi trường.
Một số trường hợp đã được giải quyết phần lớn do áp lực từ
những nhà khoa học và các bằng chứng được công chúng ghi lại trực
tiếp. Công tác bảo vệ môi trường không được thống nhất, phối hợp
không hiệu quả và thậm chí gây ra cản trở giữa các cơ quan.
20
1
GIỚI THIỆU
Mô hình kinh tế thị trường xã hội Đức (KTTTXH Đức) được thử
nghiệm chính thức lần đầu tiên tại Đức vào năm 1948, biến nước Đức
từ một nền kinh tế trì trệ sau chiến tranh thế giới thứ II trở thành một
cường quốc kinh tế với các chính sách phúc lợi tốt cho người dân. Cho
đến nay, mô hình KTTTXH vẫn được áp dụng không chỉ ở Đức mà còn
ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, phát huy tính linh hoạt của nó trong
thiết kế chính sách kinh tế - xã hội. Trong Điều 3, Khoản 3 của Hiệp
ước Liên minh Châu Âu có ghi: “Liên minh sẽ thiết lập một thị trường
nội bộ. Thị trường đó sẽ vận hành cho sự phát triển bền vững của châu
Âu dựa trên tăng trưởng kinh tế cân bằng và ổn định giá cả, nền kinh tế
thị trường xã hội có sức cạnh tranh cao, hướng tới toàn dụng nhân công
và tiến bộ xã hội, và mức độ bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường
cao.”Việc nghiên cứu mô hình KTTTXH Đức sẽ không chỉ mang lại giá
trị học thuật mà còn đem lại giá trị thực tiễn lớn cho Việt Nam.
Một trong những cụm từ phổ biến mô tả mô hình kinh tế Việt Nam
hiện nay là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, được
sử dụng chính thức lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ IX (năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Mặc dù cụm từ “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
được sử dụng thường xuyên trong các văn bản và trên các phương tiện
21
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
truyền thông nhưng nội hàm của nó vẫn chưa được làm rõ. Cụ thể, định
nghĩa chỉ ra rằng đó là một “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
quy luật thị trường” nhưng trên thực tế lại chịu sự chi phối, quản lý chặt
chẽ từ nhà nước. Ví dụ, hiện nay nhà nước đầu tư lớn với nhiều ưu đãi
vào khối doanh nghiệp nhà nước, định hướng khối doanh nghiệp này
như đầu tàu của nền kinh tế bất chấp thực trạng nhức nhối về chất lượng
của khối doanh nghiệp này. Số liệu thống kê qua các năm cho thấy nhiều
doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ trong
nhiều năm. Bên cạnh đó, định nghĩa chỉ ra rằng nền kinh tế đó “bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước”, đề cập đến những chính sách xã hội phúc lợi tốt cho tất cả
mọi người, nhưng chưa có một nghiên cứu tổng thể hay đề xuất cụ thể
nào về lộ trình thực hiện được đưa ra. Trên báo Kinh tế Sài Gòn Online,
Trần Ngọc Thơ (2015) nhận xét rằng định nghĩa đưa ra mơ hồ, thiếu tính
thuyết phục, thậm chí không tồn tại một mô hình kinh tế như vậy.
Cho đến thời điểm hiện tại, chỉ có thể khẳng định nền kinh tế Việt
Nam là một nền kinh tế hỗn hợp với sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước
vào thị trường (Riedel và Comer, 1996; Fforde và Vylder, 1996; Fahey,
1997; Đinh Văn An, 2003). Vì sự can thiệp này mà không phải mọi
quốc gia đều công nhận Việt Nam có một nền kinh tế thị trường. Theo
Mehta (2018), một số đối tác thương mại đã công nhận Việt Nam là một
nền kinh tế thị trường như ASEAN, Úc, Ấn Độ, Nhật và New Zealand.
Trong khi đó Mỹ - một trong những đối tác thương mại quan trọng nhất
của Việt Nam - vẫn chưa công nhận điều đó.
Mặc dù cả mô hình KTTTXH Đức và mô hình kinh tế hiện tại ở
Việt Nam đều mang đặc điểm chung của một mô hình kinh tế hỗn hợp,
mô hình KTTTXH Đức đã được xây dựng trên những nền tảng lý luận
vững chắc và thực tiễn sinh động,bộc lộ những điểm đặc sắc và tỏ ra
vượt trội trong mục tiêu theo đuổi sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và
bình ổn xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu này nhằm cung cấp một bức
tranh rõ nét về nguồn gốc, nền tảng giá trị, các nguyên lý cơ bản và cả
tính ứng dụng của mô hình KTTTXH Đức. Qua đó, đưa ra những hàm
ý về mô hình kinh tế cung như chính sách kinh tế - xã hội cho Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay của đất nước.
22
GIỚI THIỆU
Kết cấu tiếp theo của bài viết như sau: Phần 2 phân tích bối cảnh
lịch sử sự ra đời của mô hình KTTTXH Đức; Phần 3 phân tích khái
niệm của mô hình này; Phần 4 chỉ ra các giá trị cốt lõi mà mô hình này
theo đuổi. Tiếp đến, những nguyên lý nền tảng của nền KTTTXH được
chỉ ra trong Phần 5. Phần 6 phân tích việc áp dụng mô hình này trong
thực tế thể hiện qua khung chính sách chính. Phần 7 liên hệ với bối cảnh
và đề xuất một số bài học cho Việt Nam trước khi đưa ra kết luận.
23
2
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Có thể nói mô hình KTTTXH Đức chính thức được khởi xướng và thực
hiện đầu tiên năm 1948 tại Tây Đức bởi Đảng Liên minh Dân chủ Thiên
chúa giáo dưới thời Thủ tướng Konrad Adenauer. Mô hình này không
chỉ bị chi phối bởi bối cảnh nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ II mà
còn có nguồn gốc hay mối liên hệ với các hệ tư tưởng từ trước đó. Vì
vậy, trước khi đi vào mô tả bối cảnh nước Đức sau chiến tranh thế giới
thứ II, chúng ta cần điểm lại một số đặc điểm quan trọng trong quá trình
hình thành mô hình KTTTXH Đức.
Nhiều học giả khẳng đinh rằng mô hình KTTTXH Đức được xây
dựng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Tự do trong Trật tự (ordoliberalism),
với nền móng là lý tưởng chính trị của nền dân chủ Thiên chúa giáo
mà cội rễ sâu xa là nền đạo đức Thiên chúa giáo (Lamberts, 1997;
Abelshauser, 2004; Goldschmidt & Rauchenschwandtner, 2007).
Chủ nghĩa Tự do trong Trật tự được xây dựng trong giai đoạn 1930
– 1950 bởi các nhà kinh tế học Trường phái Freiburg tiêu biểu như
Walter Eucken, Wilhelm Röpke, Alexander Rüstow. Theo lý thuyết Tự
do trong Trật tự, nhà nước có vai trò tạo ra một trật tự kinh tế thay vì
điều hướng các tiến trình kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh được coi là
động lực chính thúc đẩy hiệu quả sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Nhà
25
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
nước cần tạo ra môi trường pháp lý phù hợp cho nền kinh tế nhằm duy
trì cạnh tranh công bằng (thay vì chỉ đơn thuần cho phép trao đổi diễn
ra) thông qua các biện pháp tuân thủ nguyên tắc thị trường. Bên cạnh
đó, chủ nghĩa Tự do trong Trật tự nhấn mạnh tầm quan trọng của ổn
định giá trị tiền tệ và lạm phát thấp. Để duy trì mục tiêu này thì ngân
hàng trung ương cần được độc lập khỏi áp lực chính trị. Trong khi đó,
chính sách tài khóa đề cập đến trách nhiệm của chính phủ trong việc
duy trì cân bằng giữa thu thuế và chi tiêu chính phủ (Padgett, 2003).
Như vậy, có thể thấy vai trò của nhà nước nổi lên không phải là can
thiệp vào các tiến trình kinh tế mà là tạo ra môi trường chính sách phù
hợp để các tiến trình ấy diễn ra trơn tru và hiệu quả trong dài hạn.
Khía cạnh “xã hội” của mô hình KTTTXH Đức chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi đạo đức Thiên chúa giáo. Một trong những vị chính trị gia
khởi xướng mô hình này là Bộ trưởng Bộ Kinh tế Ludwig Erhard (sau
này trở thành thủ tướng), ông được biết đến là ủng hộ chủ nghĩa Tự do
trong Trật tự, nền dân chủ Thiên chúa giáo và Trường phái Freiburg.
Erhard mô tả mục tiêu của chương trình cải cách kinh tế thời bấy giờ
qua khẩu hiệu “Phồn thịnh cho tất cả” và “Tài sản cho tất cả”, hàm ý
rằng mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là để phục vụ con người
và các thành viên trong xã hội cần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Điều này
chi phối chính sách phúc lợi xã hội của nước Đức. Như vậy, có thể thấy
phần nào hình ảnh của một nhà nước phúc lợi trong mô hình KTTTXH.
Trên thực tế, ý tưởng về phúc lợi xã hội vốn đã xuất hiện tại Đức
từ trước đó vào thời Thủ tướng Otto von Bismarck. Ông đưa ra một số
chính sách nổi bật như Cải cách An sinh Xã hội năm 1881 với những
hỗ trợ cho người già và người tàn tật hay chương trình bảo hiểm cho
người lao động năm 1884. Các hành động này không chỉ nhằm giữ
cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả mà còn nhằm ngăn chặn luồng tư
tưởng xã hội chủ nghĩa cực đoan nổi lên thời bấy giờ (Boissoneault,
2017). Kể từ đó, hệ thống phúc lợi xã hội tại Đức ngày càng được
hoàn thiện theo hướng mở rộng, tiếp cận tới nhiều người hơn và mức
phúc lợi cao hơn.
26
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Như vậy, đạo đức Thiên chúa giáo, sự ra đời của hệ thống phúc
lợi và của chủ nghĩa Tự do trong Trật tự góp phần hình thành mô hình
KTTTXH. Mô hình KTTTXH còn bị ảnh hưởng bởi tính đặc thù của
bối cảnh lịch sử nước Đức sau Thế chiến II. Bối cảnh ấy có thể được
được tóm lược qua ba giai đoạn lớn như trong Hình 1.
Hình 1 Các giai đoạn của nền kinh tế Đức kể từ 1945
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Giai đoạn thứ nhất bao gồm bốn năm hậu chiến từ 1945 đến 1948.
Sau chiến tranh, Đức hoàn toàn mất chủ quyền, không có chính phủ,
không có quân đội, kinh tế trì trệ và bị chiếm đóng bởi bốn quốc gia:
phía Tây bởi Mỹ, Anh, Pháp và phía Đông bởi Liên Xô. Cục diện bị
chiếm đóng bởi các quốc gia khác nhau như vậy ảnh hưởng rất lớn tới
cả tình hình kinh tế và diễn biến chính trị của Đức thời gian sau đó.
Về kinh tế, mô hình kinh tế giai đoạn này là mô hình kế hoạch hóa
tập trung, cả bốn vùng chiếm đóng sớm rơi vào tình trạng hỗn loạn, trì
trệ. Theo mô tả của Gutmann (1991), phần lớn các cơ sở vật chất bị bom
phá hủy, nhiều đàn ông và phụ nữ khỏe mạnh bị bắt làm tù binh chiến
tranh. Trên thị trường giá cả được quy định bởi nhà nước, bản thân tiền
không có giá trị. Người dân phải xếp hàng nhiều giờ để được chia khẩu
phần ăn của mình. Trong khi đó, khẩu phần ăn bị cắt nghiêm trọng,
thậm chí còn thấp hơn cả khi chiến tranh diễn ra, nạn đói hoành hành,
đỉnh điểm vào năm 1946/1947. Người ta sẵn sàng đổi những gì mình
còn để lấy chút lương thực. Tình hình của các doanh nghiệp cũng rất tệ.
Nếu họ có thể sản xuất được thứ gì thì tất cả đều phải cung cấp cho các
quốc gia chiếm đóng hoặc bán đi để nhận lấy những đồng tiền không
có giá trị thực tế. Vì vậy, lượng nguyên liệu đầu vào ngày càng giảm.
27
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hệ thống kinh tế trì trệ này khiến vi phạm pháp luật là cách duy nhất để
nhiều cá nhân và doanh nghiệp tồn tại.
Theo Tôn Thất Thông (2017), để cứu vãn tình hình, các chuyên gia
và chính trị gia Đức đề xuất cải cách tiền tệ và việc đầu tiên cần làm là
thống nhất các đơn vị kinh tế của bốn vùng chiếm đóng. Đề xuất này
được sự ủng hộ của Mỹ và Anh nhưng lại vấp phải sự phản đối của Pháp
và Liên Xô. Sau hai năm giằng co, cuối cùng Pháp đồng ý tham gia vào
vùng kinh tế thống nhất Trizone vào năm 1948. Vùng Liên Xô chiếm
đóng từ chối không tham dự vào kế hoạch chung. Ngay sau khi đồng
tiền mới D-Mark ra đời, Liên Xô mau chóng đổi đồng Mark cũ thành
đồng Mark Đông Đức để lưu hành trong Đông Đức.
Sau khi đổi tiền ba ngày, Ludwig Erhard tuyên bố các chính sách
đi kèm mặc dù Thống đốc Mỹ chưa cho phép, bất chấp điều này có thể
dẫn đến việc ông bịcách chức. Những chính sách ấy đề cập đến việc
chấm dứt nền kinh tế tập trung, ban hành đạo luật giá cả, cho phép giá
cả được hình thành theo quy luật thị trường, mở đầu cho một thời kỳ
kinh tế mới.
Một điểm nổi bật khác phải kể đến là sự hỗ trợ kinh tế từ nước Mỹ
thông qua Chương trình phục hồi kinh tế châu Âu (hay Chương trình
Marshall). Các nước nhận viện trợ có thể lên danh sách yêu cầu hàng
hóa được viện trợ và phía Mỹ sẽ quyết định hàng hóa nào được gửi. Đối
với khoản viện trợ cho vay, các nước không cần trả bằng ngoại tệ mà trả
bằng tiền nội địa vào một quỹ chung. Chương trình Marshall đóng vai
trò quan trọng trong việc phục hồi kinh tế châu Âu nói chung và Tây
Đức nói riêng.
Đối với Tây Đức, chương trình Marshall không chỉ có tác động về
kinh tế mà còn cả tác động “phi vật chất”. Người dân Đức lúc đó còn
những mặc cảm rất lớn về tội ác diệt chủng thời Quốc xã. Chương trình
Marshall góp phần giúp họ cảm thấy được sự tôn trọng từ quốc tế và
hướng về tương lai. “Đối với CHLB Đức, huyền thoại Marshall có một
tác dụng mạnh mẽ. Đặc biệt là hiệu ứng của nó từ sự thừa nhận Đức như
một dân tộc văn minh”.
28
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Về chính trị, ban đầu ba nước Mỹ, Anh và Pháp không hề chờ
đợi thứ thống nhất giữa ba vùng. Tuy nhiên, do bối cảnh chính trị biến
chuyển mạnh mẽ, ba nước đã đi đến lựa chọn hợp tác để tăng cường
sức mạnh chống lại ảnh hưởng của Liên Xô. Luật Cơ bản được Hội
đồng Nghị viện thông qua vào ngày 23/05/1949 đánh dấu ngày khai
sinh của nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức). Thủ tướng đầu tiên
của Cộng hoà Liên bang Đức là Konrad Adenauer. Trước tình hình đó,
ngày 07/10/1949 vùng chiếm đóng của Liên Xô thành lập nước Cộng
hòa Dân chủ Đức (Đông Đức).
Sau khi đắc cử, Thủ tướng Adenauer đã vấp phải rất nhiều khó
khăn cả bên trong lẫn bên ngoài trong nỗ lực khôi phục nền kinh
tế. Thứ nhất, lịch sử Đức chưa từng thực sự trải qua nền kinh tế thị
trường. Sự thành công của mô hình KTTTXH lúc đó vẫn là một dấu
hỏi lớn và thách thức đặt ra đầu tiên là thuyết phục mọi người lựa
chọn nó. Về tình hình chính trị, Tây Đức vẫn chịu sự kiểm soát nhất
định của các nước chiếm đóng, lúc bấy giờ đổi thành các Cao uỷ Đồng
minh. Mỹ ở trong tình thế lưỡng nan: một mặt, muốn ủng hộ Tây Đức
áp dụng mô hình kinh tế thị trường để chứng minh cho thế giới thấy
tính ưu việt của nó so với mô hình kinh tế của chủ nghĩa xã hội; mặt
khác, vẫn muốn áp dụng sự kiểm soát nhằm tiếp tục can thiệp vào các
quyết sách của Tây Đức. Đáp lại điều này, Adenauer không ngần ngại
tuyên bố rằng nước Cộng hoà Liên bang Đức sẽ không chấp nhận việc
để nền kinh tế tuân theo sự điều phối của quân đội. Trong khi đó, đảng
đối lập Dân chủ Xã hội (SPD), lúc đó chiếm một phần ba tổng số cử
tri với tư cách là đại diện của tầng lớp công nhân lao động, một mực
theo đuổi chính sách kinh tế có nền tảng quốc hữu hoá công nghiệp,
mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Trước những khó khăn ấy, chính phủ Adenauer phải vất vả thuyết
phục nghị viện, giới truyền thông và các học giả dần dần chấp nhận
đường lối mới. Thật không thể không kể đến công lao khởi xướng mô
hình KTTTXH của Erhard cùng đóng góp của các nhà kinh tế học
trường phái Freiburg lúc bấy giờ.
29
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Giai đoạn thứ hai,giai đoạn thử nghiệm mô hình KTTTXH ở Tây
Đức mà mức độ “thị trường tự do” có sự biến động. Trong thời gian
Erhard làm Bộ trưởng Bộ kinh tế và sau đó kế nhiệm Adenauer làm Thủ
tướng, ông đặt việc tuân thủ các nguyên tắc thị trường lên trên. Trong tư
tưởng của ông, tuân thủ nguyên tắc thị trường chính là yếu tố tiên quyết
trong phát triển kinh tế. Đây cũng chính là giai đoạn phục hồi mạnh mẽ
nhất của nền kinh tế Tây Đức, quy trình sản xuất được hiện đại hoá,
ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Mann (1992)
có viết “Nước Đức, năm 1945 còn là kẻ đi ăn cướp, rồi trở lại bị ăn
cướp như những người hành khất sống đến tận cùng đau khổ, chỉ 15
năm sau đã sở hữu một số vàng bình quân đầu người cao hơn nước Mỹ,
nền ngoại thương thặng dư gần hai tỉ đô-la, sở hữu toàn dân cao gấp ba
lần trước chiến tranh. Phần đất Cộng hòa Liên bang [Tây Đức] đã trở
thành quốc gia công nghiệp lớn thứ ba và quốc gia xuất khẩu thứ nhì
trên thế giới”.
Mặc dù với chế độ phúc lợi xã hội cao nhất các nước châu Âu trong
giai đoạn phát triển phép màu ấy, một vấn đề vẫn tồn tại là sự bất bình
đẳng. Cuối thập niên 1950, 75% toàn bộ tài sản tư nhân nằm trong tay
của nhóm người chiếm 17% dân số (Steininger, 2002). Mặc dù con số
này không tệ so với sự chênh lệch giàu nghèo trong thế kỷ XXI nhưng
tại thời điểm đó, khi mà tư tưởng chủ nghĩa xã hội đang lớn mạnh, thì
một số lượng lớn nhân dân cảm thấy không hài lòng. Theo Schlecht
(2005), sự phát triển bắt đầu chững lại với mức tăng trưởng “chỉ 2%” kể
từ năm 1966 và sự bất bình đẳng đã tạo ra phản ứng tiêu cực trong suốt
vài năm sau đó. Người dân đòi hỏi tăng lương và các trợ cấp xã hội quá
nhiều. Erhard kêu gọi không đòi hỏi quá mức nền kinh tế có thể tạo ra
nhưng lời kêu gọi của ông bị phớt lờ.
Sau đó, Willy Brandt – lãnh đạo của đảng SPD – được bầu làm
Thủ tướng với kỳ vọng tăng phúc lợi cho nhân dân. Từ năm 1966 đến
cuối thập niên 1970 là giai đoạn thực thi “Chương trình Godesberg”
của Bộ trưởng Bộ kinh tế Karl Schiller. Chương trình này đánh dấu
sự chuyển biến trong chính sách kinh tế với sự can thiệp mạnh mẽ của
nhà nước với mục đích tăng trrưởng kinh tế và, từ đó, tăng mức phúc
30
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
lợi cho người dân. Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng này đã không thực
hiện được mặc dù tỷ lệ chi tiêu chính phủ tăng. Các nguyên lý của nền
KTTTXH đã không được tuân thủ khi mà có quá nhiều sự can thiệp của
nhà nước. Cùng với khủng hoảng dầu khí thế giới đầu thập kỷ 1970,
một loạt các vấn nạn kinh tế ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn như
gia tăng nợ công, thị trường tiền tệ bất ổn diễn ra tại Đức…
Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Helmut Kohl, nền kinh tế trở về
tuân thủ nhiều hơn các quy luật thị trường, hạn chế can thiệp chính phủ
(Zacher, 2013). Việc giảm nợ công, giảm thuế, tạo điều kiện tư nhân
hoá, giảm các thủ tục đã tạo tiền đề kinh tế quan trọng cho việc hợp
nhất nước Đức.
Trong giai đoạn thứ 3, sau khi nước Đức thống nhất năm 1990,
việc theo đuổi mô hình kinh tế nào vẫn được thảo luận sôi nổi. Bài viết
này không nhằm giải quyết câu hỏi đó nhưng sẽ đưa ra sự so sánh với
một số mô hình kinh tế khác ở Phần 3. Hầu hết các ý kiến, ví dụ như
Hassel (2010), cho rằng đó là vẫn là một mô hình KTTTXH với sự linh
hoạt và tính thích ứng cao trước những thách thức sau thống nhất của
Đức và thay đổi lớn của nền kinh tế thế giới. Hassel (2010) cũng cho
rằng nền kinh tế Châu Âu nói chung và Đức nói riêng có những bước
chuyển biến về phía nhiều tự do hơn.
Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ đi sâu vào cuộc tranh luận xung
quanh khái niệm Kinh tế thị trường xã hội là gì.
31
3
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
XÃ HỘI LÀ GÌ?
3.1. ĐỊNH NGHĨA “KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI”
Những người “cha đẻ” của mô hình KTTTXH như Ludwig Erhard, Walter
Eucken và Müller-Armack đã không đưa ra một định nghĩa hay mô tả chi
tiết về mô hình KTTTXH. Thay vì thế họ đưa ra công thức, đó là “nhằm
mục đích hướng đến kết hợp tự do trên thị trường với sự ổn định xã hội”
. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng, thậm chí có thể nói là mang
tính sống còn của dân tộc Đức trong bối cảnh lúc bấy giờ. Mặt khác, đã
có quá nhiều bài học lịch sử cho thấy chú trọng vào phát triển kinh tế mà
quên đi “con người” sẽ gây ra hệ quả nghiêm trọng. Các vị cha đẻ nhấn
mạnh rằng phát triển kinh tế là nhằm phục vụ con người, lấy trọng tâm là
con người. Vì vậy, cần phải tìm ra mô hình dung hòa giữa mục tiêu kinh
tế và mục tiêu xã hội, phải tìm ra “con đường thứ ba”.
Câu hỏi quan trọng đặt ra là: Đâu là điểm cân bằng hợp lý giữa
thị trường tự do và sự can thiệp của nhà nước? Lý thuyết Tự do trong
Trật tự cho rằng nhà nước nên đóng vai trò tối thiểu trong nền kinh tế
(Glossner & Gregosz, 2011). Nhà nước nên xây dựng và bảo vệ trật tự
kinh tế thay vì can thiệp vào nền kinh tế. Thứ nhất, nhà nước cần tuân
33
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thủ tối đa nguyên lý thị trường và, trong trường hợp bất khả kháng cần
can thiệp, sự can thiệp diễn ra theo hướng hỗ trợ sự vận hành của thị
trường. Một nền kinh tế thị trường tuân thủ quy tắc và ít bị nhà nước
can thiệp có khả năng làm tối thiểu hóa sự mất mát nguồn lực đến từ
các quyết định tồi tệ bằng cách gửi tín hiệu chỉnh sửa cần thiết một cách
nhanh chóng để phòng chống rủi do biến mất khỏi thị trường (Franke
and Gregosz, 2013). Thứ hai, lấy cạnh tranh lành mạnh, hệ thống giá
và động cơ sở hữu tài sản tư nhân làm bàn đạp tăng trưởng kinh tế. Thứ
ba, các mục tiêu kinh tế cần được xây dựng trong tầm nhìn trung và dài
hạn. Toàn dụng lao động trong ngắn hạn chưa hẳn là điều tốt nếu một
trật tự kinh tế không được thiết lập.
Trong khi đóng vai trò tối thiểu trong điều hành kinh tế, nhà nước
cần tập trung vào các nhiệm vụ xã hội, đảm bảo các thành quả kinh tế
được phân bổ công bằng và hiệu quả. Cấu thànhxã hội trong thuật ngữ
KTTTXH đề cập đến vai trò của nhà nước trong việc hiện thực hóa các
giá trị tự do, công bằng xã hội, phân cấp trách nhiệm và đoàn kết.
Một điều đáng lưu ý là cần tránh nhầm lẫn giữa ý nghĩa của từxã
hội trong thuật KTTTXH và xã hội chủ nghĩa. Xã hội trong ngữ kinh tế
thị trường xã hội không hàm ý quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, kế hoạch
hóa tập trung, sở hữu tập thể, phân phối theo nhu cầu, kế hoạch hóa qua
một ủy ban của nhà nước như trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại, mô hình KTTTXH đề cao vai trò của sở hữu tư nhân, vai trò
của hệ thống giá và cạnh tranh hiệu quả.
3.2. SO SÁNH VỚI MỘT SỐ MÔ HÌNH KHÁC
Mô hình KTTTXH ra đời sau khi rất nhiều những lý thuyết kinh tế thời
cận đại đã được thử nghiệm với cả thành tựu và thất bại. Tại Đức, một
số mô hình kinh tế cũng đã được thử nghiệm trước đó, đem lại bài học
xương máu cho thế hệ sau này và tất nhiên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cách nhà kinh tế học Trường phái Freiburg.
Theo Tôn Thất Thông (2017), các nhà kinh tế học Trường phái Freiburg
phê phán cả nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mô hình Liên Xô cùng những
34
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ?
biến thể của nó dưới thời Weimar và thời Quốc xã, nền kinh tế tự do thuần túy
(laissez-faire) và cả nền kinh tế hỗn hợp trường phái Keynes.
Dưới thời Weimar, các chính sách kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi chủ nghĩa Marx. Họ tăng cường vai trò của nhà nước trong kinh tế
thông qua quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp nặng, đưa ra mệnh lệnh
giá cả sai lệch và có những hoạt động thoả thuận nhằm duy trì vị thế kinh
tế. Hệ quả là sự tập trung tài sản và nguồn lực vào tay thiểu số. Eucken phản
đối hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tập trung, cưỡng bức như vậy. Ông
đánh giá cao vai trò của sở hữu tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và sự
phân phối nguồn lực phi tập trung trong phát triển kinh tế.
Sau khi thời đại Weimar sụp đổ, Hitler đã đưa ra các biện pháp tín
dụng và các siêu dự án táo bạo nhằm giải quyết nạn thất nghiệp. Thật
vậy, chỉ sau bốn năm thì nạn thất nghiệp được xoá bỏ nhưng nền kinh tế
quốc gia không thể đủ để trang trải các loại phí tổn phát sinh. Quốc xã
đã trang trải chi phí ấy bằng các biện pháp cưỡng chế bên trong (như ép
buộc ngân hàng, tập đoàn bảo hiểm cho nhà nước vay tiền, tịch thu tài
tài sản tư nhân) và đi xâm lược, cướp đoạt bên ngoài.
Eucken cũng phản đối mô hình kế hoạch hoá tập trung Liên Xô.
Mô hình Liên Xô không những hạn chế quyền tự do cá nhân, dẫn đến
tập trung quyền lực trong tay nhóm nhỏ mà hiệu quả kỳ vọng của nó
còn được chứng minh là không tưởng. Trước hết, mô hình này cho phép
các cơ quan nhà nước và chính trị quyết định ai sẽ là người sản xuất và
sử dụng cái gì, ở đâu, bằng cách nào. Tất cả những người tham gia nền
kinh tế đều phải tuân theo các mệnh lệnh chính trị, gạt sang một bên lợi
ích của bản thân và phục vụ cho các mục tiêu đặt ra bởi nhà nước. Nói
cách khác, các cá nhân bị buộc phải đồng nhất với các mục tiêu chính
trị của nhà nước mà không được quyền lựa chọn.
Thứ hai, như Tôn Thất Thông (2017) nhận xét, cách vận hành
như vậy dẫn đến tập trung quyền lực toàn diện: “Quyền lực kinh tế
tập trung trong tay nhà nước, quyền lực chính trị tập trung trong tay
đảng cầm quyền, hậu quả là mọi quyền lực khác trong xã hội dần dần
tập trung trong tay một thiểu số thậm chí một cá nhân. Chế độ toàn trị
là hệ quả tất yếu”.
35
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ ba, như nhiều nghiên cứu chỉ ra, không có một cá nhân nào, tổ
chức nào có thể nắm bắt, phân tích, cân nhắc sự vận động của hàng ngàn
thị trường xuyên suốt thời gian để đưa ra quyết định hợp lý về giá, số
lượng, phân công nhân sự, phân phối sản phẩm… Hayek (1948) giải thích
rằng những tri thức quý giá này vốn dĩ được chia sẻ trong toàn bộ người
dân lao động, mà không thể tập trung vào một cá nhân hay tổ chức nào
. Nói cách khác, những mệnh lệnh của nhà nước sẽ không mang đến
hiệu quả kinh tế và phân bổ như cơ chế thị trường tạo ra.
Ngược lại với mô hình kinh tế tập trung là mô hình kinh tế thị trường.
Nó cho phép tất cả các đơn vị kinh tế đưa ra quyết định kinh tế trên cơ sở
kiến thức của bản thân họ. Tiến trình phân công lao động sẽ phục vụ cho
mục tiêu của các cá nhân thay vì mục tiêu chính trị của nhà nước. Cơ chế
thông tin sẽ giúp họ tiếp cận với thông tin dưới dạng có thể hiểu được cho
phép đưa ra quyết định đúng đắn hơn. Nguồn thông tin quan trọng đến từ
hệ thống giá cả. Nguồn thông tin này có tính liên tục và có độ tin cậy cao
về chủng loại, phương hướng và mức độ của các biến động kinh tế mà
tất cả mọi người đều phải đối mặt và tìm cách thích nghi. Tiến trình hình
thành và điều chỉnh giá cả diễn ra ở hàng ngàn các thị trường trên từng
thời điểm. Marktanner (2010) nhận xét rằng vai trò của cá nhân trong
KTTTXH không kém quan trọng hơn nhà nước như trong chủ nghĩa xã
hội mà, ngược lại, nhà nước kém quan trọng hơn các cá nhân.
Mặc dù công nhận tính hiệu quả của mô hình kinh tế tự do, Eucken
cũng phê phán mô hình này vì nó cho phép các doanh nghiệp tự do cấu
kết, hình thành các tập đoàn lớn, tài sản tập trung vào một nhóm nhỏ tư
nhân và khoảng cách giàu nghèo lớn dần nghiêm trọng. Điều này không
chỉ dẫn đến việc người tiêu dùng có ít lựa chọn hơn mà còn có thể dẫn
tới bất ổn xã hội khi bất bình đẳng quá lớn.
Các hình thái của mô hình kinh tế tập trung và mô hình kinh tế tự do
hoàn toàn kể trên đều dẫn tới hệ quả tập trung quyền lực, hạn chế tự do
con người và dẫn đến bất công xã hội. Để phòng tránh những hệ quả tập
trung quyền lực kinh tế ấy, một trong những bước đi đầu tiên của Eucken
là ban hành Bộ luật Chống hạn chế cạnh tranh, cổ vũ sở hữu tư nhân và
tạo môi trường chính sách thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
36
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ?
Cuối cùng, không thể không kể đến trường phái Keynes – một liều
thuốc được nhiều quốc gia dùng để chữa trị cuộc Đại Khủng hoảng đầu
thập niên 1930. Trường phái Freiburg và Trường phái Keynes chia sẻ điểm
chung ở việc cho phép nhà nước có sự can thiệp nhất định vào nền kinh tế,
nhưng lại khác nhau rõ rệt ở cách thức can thiệp. Trường phái Freiburg phê
phán tính ngắn hạn trong các chính sách can thiệp của Trường phái Keynes.
Các biện pháp can thiệp của chủ nghĩa Keynes, ví dụ, thông qua các gói
kích cầu hay tác động vào chính sách tiền tệ (vốn được giao phó cho ngân
hàng trung ương độc lập), có tác dụng giảm tỷ lệ thất nghiệp, kích thích
tăng trưởng kinh tế nhưng lại gây ra lạm phát và không tạo ra một trật tự
kinh tế ổn định lâu dài. Trong khi đó, Trường phái Freiburg cho rằng nhà
nước cần can thiệp thông qua “xây dựng môt khung trật tự nhằm thúc đẩy
phát triển và tự động xử lý những tiêu cực do quá trình hoạt động kinh tế
gây nên, mà không cần sử dụng quyền lực nhà nước”, hướng tới sự tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn. Khung hoạt động đó được xây dựng thông
qua hệ thống pháp luật làm nền tảng cho mọi hoạt động kinh tế và chính nó
cũng phải kiểm soát cả quyền lực của nhà nước.
Như vậy, mô hình KTTTXH có vừa có liên hệ chặt chẽ với kinh tế
học tự do cổ điển, thể hiện qua quan điểm đặt cơ chế thị trường làm cơ sở
phát triển kinh tế và đặt vai trò của nhà nước ở mức tối thiểu, vừa có điểm
giống với nền kinh tế Keynes, thể hiện qua việc cho phép sự can thiệp nhất
định của chính phủ, lại vừa mang đặc thù riêng ở cách thức vận hành.
3.3. CHỈ SỐ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Như đã đề cập ở phần trên, mô hình KTTTXH vốn không phải được áp
dụng một cách cứng nhắc mà đã trải qua các giai đoạn mà mức độ cũng như
cách thức can thiệp của nhà nước ở mỗi giai đoạn thay đổi. Nhằm cung cấp
một cái nhìn rõ ràng hơn cho nhận định này, xin trình bày kết quả nghiên
cứu của một số tài liệu chấm điểm mức độ áp dụng mô hình KTTTXH.
Dựa vào các nguyên lý nền tảng, Viện Bertelsmann đã xây dựng
Chỉ số kinh tế thị trường xã hội hiện đại (MSOME) và tính toán cho
tám nước phát triển (Hình 2). Thụy Điển dẫn đầu bảng xếp hạng, cho
37
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thấy các thể chế mạnh mẽ nhất quán trong tất cả mười một nguyên lý
của MSOME. Do tầm quan trọng của sự tương tác và liên hệ lẫn nhau
của các nguyên tắc, ngay cả Đức, đứng thứ hai, cho thấy sự cần thiết phải
cải thiện trong một số lĩnh vực trước khi nó hoàn toàn có thể được coi là
một nền KTTTXH hiện đại. Ví dụ, trong việc mở cửa thị trường lao động
, Đức là một trong số ít các quốc gia trong nghiên cứu đã thất bại trong việc
thiết kế luật nhập cư hiện đại tập trung vào lợi ích kinh tế của mình và cung
cấp một số điều khoản để thúc đẩy nhập cư của những người lao động tay
nghề cao. Trong khi đó, Thụy Điển nhắm mục tiêu nhập cư lao động kỹ
năng cao với các chính sách được khác biệt hóa cho từng đối tượng.
Mặt khác, Tây Ban Nha, liên tục đạt điểm thấp, thường là hậu quả
của các thể chế và cơ chế thực thi yếu kém để thay vì thiếu các quy tắc
và thủ tục chính thức. Hầu hết các quốc gia đã thể hiện rất nhiều sự khác
biệt giữa các nguyên tắc, điều này cho thấy rằng để thực sự tái hiện các
nền kinh tế thị trường xã hội hiện đại, cải cách thể chế sẽ được yêu cầu
trong những lĩnh vực có điểm số thấp.
Hình 2. Chỉ số kinh tế thị trường xã hội Hiện đại năm 2012
Nguồn: Chọn lọc từ Viện Bertelsmann (2012)
Chú thích: Chỉ số MSOMEcó giá trị từ 0 tới 10, trong đó 10 thể
hiện quốc gia đó tuân thủ chặt chẽ mười một nguyên lý nền tảng của
nền KTTTXH hiện đại.
Một nền kinh tế thị trường xã hội trong các thời điểm khác nhau có
thể có mức độ tự do của thị trường/can thiệp của chính phủ khác nhau.
Chỉ số MSOME của Viện Bertelsmann chỉ được xây dựng trong một
năm nên không cung cấp dữ liệu định lượng cho khẳng định này. Một
38
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI LÀ GÌ?
số chỉ số khác được các nhà nghiên cứu xây dựng là Suntum, Böhm,
Oelgemöller & Ilgmann (2011) và Helfer (2015).
Tham khảo chỉ số do Helfer xây dựng, chúng ta có thể thấy chỉ số
KTTTXH (SOME) khác nhau giữa các quốc gia và dao động nhỏ qua từng
năm (Hình 3). Ngoài ra có thể thấy các quốc gia thuộc Liên Xô cũ (Nga,
Ba Lan, Belarus) có chỉ số SOME thấp hơn đáng kể ba quốc gia còn lại. Ba
Lan là một trường hợp đặc biệt đã trải qua biến đổi thể chế mạnh mẽ sau
Chiến tranh Lạnh. Sự biến đổi này đã giúp cho Ba Lan tiến gần hơn đến
một nền KTTTXH. Helfer (2015) đã chỉ ra rằng, không chỉ Ba Lan, các
quốc gia cộng sản cũ mà hiện tại thuộc EU có chỉ số SOME cao hơn so với
các nước cộng sản. Lấy ví dụ như nước Nga, trong giai đoạn 2005-2010,
chỉ số đạt mức cao nhất ở 5.61 năm 2009. Chỉ số SOME của Việt Nam vào
năm 2010 là 5.468, thấp hơn SOME của các nước phát triển rất nhiều.
Hình 3. Chỉ số Kinh tế thị trường xã hội, 2005 - 2010
Nguồn: Chọn lọc từ Helfer (2015)
Chú thích: Chỉ số SOME nằm trong khoảng từ 0 tới 10 trong đó 10
thể hiện quốc gia đó tuân thủ chặt chẽ các tiêu chí về nền KTTTXH đề
xuất trong Helfer (2015). Đối với chỉ số SOME cho các quốc gia khác,
tham khảo thêm nghiên cứu của Helfer.
Tóm lại, phần này đã mô tả sơ lược đặc điểm của nền KTTTXH, so
sánh với một số mô hình kinh tế nổi bật khác và cung cấp số liệu về một
số chỉ số đo lường mức độ tuân thủ các nguyên lý của mô hình. Phần
tiếp theo sẽ trình bày về các giá trị cốt lõi của mô hình. Chính những giá
trị này là tinh thần, là mục tiêu mà mô hình theo đuổi.
39
4
GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Trước khi trình bày giá trị cốt lõi của mô hình KTTTXH, nhóm tác giả
cho rằng cần hiểu sơ lược giá trị cốt lõi của xã hội nước Đức vì bất cứ mô
hình kinh tế – xã hội nào cũng (cần) tuân thủ chúng. Những giá trị này
được thể hiện rõ nét qua Luật Cơ bản – văn bản được coi là Hiến pháp
nước Đức. Lúc đầu, vốn chỉ coi là một bộ luật được phác thảo tạm thời,
nhưng thực tế là sau bảy thập kỷ, các điều khoản của Luật Cơ bản, và
thậm chí cả cái tên, vẫn được giữ lại vì giá trị của nó. Luật Cơ bản trải qua
một số lần sửa đổi theo hướng mở rộng các quyền cho công dân.
Trong Luật Cơ bản có hai “điều khoản vĩnh viễn”, đó là Điều 1 về
nhân phẩm con người và Điều 20 về quy tắc lập hiến. Được đặt ở vị trí
đầu tiên, Điều 1 thể hiện giá trị đầu tiên và quan trọng nhất mà người
Đức bảo vệ: nhân phẩm con người. Điều 1 trong Luật Cơ bản có viết
“Nhân phẩm con người là bất khả xâm phạm”. Tôn trọng nhân phẩm
con người bất kể nguồn gốc, đặc điểm cá nhân của họ là bài học rút ra từ
những đau thương thời kỳ Quốc xã gây ra (Weigelt, 2008). Điều khoản
này có ý nghĩa vô cùng lớn lao bởi lẽ nó thể hiện rằng nước Đức đặt con
người (chứ không phải chế độ) làm trung tâm. Như vậy, sự tồn tại của
bộ máy nhà nước, thể chế chính trị và các sản phẩm khác của dân tộc
Đức là để phục vụ cho toàn thể công dân.
41
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Một số hệ tư tưởng được xây dựng thiếu sự tôn trọng điều này dẫn
đến những hệ quả tồi tệ. Lấy ví dụ, dưới thời Quốc xã, chủ nghĩa yêu
nước cực đoan đã dẫn đến một loạt cách hành động vô nhân đạo, đỉnh
điểm là nạn diệt chủng người Do Thái. Một ví dụ khác là chủ nghĩa tập
thể. Nhằm mục tiêu làm sao để gia tăng sự đồng đều, các chính sách của
chủ nghĩa tập thể sẽ dẫn đến tình trạng cưỡng ép, lấy đi những tự do lựa
chọn, động lực cuộc sống sâu thẳm nhất của cá nhân và vi phạm nhân
phẩm con người. Nhất quán với điểm này, mô hình KTTTXH không
nhằm mục đích giáo dục con người hay thay đổi giá trị của họ; nói cách
khác, không hướng đến xây dựng “công dân tốt”. Các quy tắc được đặt
ra theo cách mà hệ thống vẫn hoạt động tốt ngay cả khi con người hành
động tư lợi (Wolfgramm, 2010).
Từ việc chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người, các
giá trị tự do, công bằng và đoàn kết được củng cố. Mỗi người, bất kể
nguồn gốc xuất thân, đều được hưởng các quyền tự do quy định từ Điều
2 đến Điều 19 trong Luật Cơ bản. Họ được đối xử công bằng và bình
đẳng trước pháp luật. Bên cạnh quyền bầu cử và quyền tự do chính trị,
người dân hoàn toàn có quyền khởi kiện các cơ quan, nhà nước lên toà
án. Người dân Đức xây dựng một nhà nước pháp quyền, luật pháp là tối
thượng chứ không phải bất cứ một tổ chức nào (bao gồm cả nhà nước).
Bên cạnh đó, xuất phát từ sự thấu cảm với người khác mà sự giúp đỡ,
tương trợ lẫn nhau (dù không được quy định trong Luật Cơ bản) cũng
trở nên dễ dàng hơn.
Điều khoản vĩnh viễn thứ hai là Điều 20 – quy định Đức là một quốc gia
dân chủ, tổ chức theo mô hình liên bang và có sự phân chia tam quyền phân lập
. Phân chia quyền lực chính trị được thực hiện theo cả chiều dọc và
chiều ngang nhằm đảm bảo quyền lực không bị tập trung vào một
nhóm nhỏ.
Luật Cơ bản bảo vệ các giá trị chung của dân tộc Đức còn trên thực
tế, các tư tưởng chính trị khác nhau thực hiện việc bảo vệ các giá trị đó
theo những cách khác nhau tuân theo hệ tư tưởng cụ thể của họ. Với
nguồn gốc ra đời đặc biệt, bị ảnh hưởng bởi bối cảnh ra đời hậu chiến
42
GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
tranh thế giới thứ II, chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tự do trong Trật tự
và của đạo đức Thiên chúa giáo, mô hình KTTTXH là sự tổ chức xã hội
trong hiện thực để bảo vệ các giá trị tự do, công bằng, phân cấp trách
nhiệm và đoàn kết.
4.1. TỰ DO
Không thể phủ nhận tự do là quyền cơ bản của tất cả mọi người.
Thảo luận xoay quanh tự do đã không còn là một chủ đề mới. Các triết gia
như John Locke, Jean-Jacques Rousseau, Immanuel Kant và Karl Marx
đều có những bài luận sắc sảo về định nghĩa và về phương pháp để hiện
thực hóa tự do. Theo Wörsdörfer (2010), Eucken cũng đồng tình rằng
tự do là một cấu thành của sự tồn tại của con người: “Không có tự do,
không có hành động cá nhân tự phát, con người không còn là con người”
(Eucken, 1948).
Tự do không có nghĩa là không có giới hạn hay hỗn loạn; tự do cá
nhân của người này không được xâm phạm tự do của người khác và mỗi
người có trách nhiệm trước hành động của mình. Tự do kinh tế trong mô
hình KTTTXH được thể hiện trên nhiều khía cạnh như tự do cạnh tranh,
hệ thống giá, quyền tự do ký kết hợp đồng, tự do tài sản, tự do trong thương
mại quốc tế. Tự do trong kinh tế cũng đi cùng với việc chịu trách nhiệm,
thể hiện qua sự tái phân phối liên tục của nguồn lực trong thị trường
đến với chủ thể kinh tế hoạt động hiệu quả hơn. Chỉ số Tự do Kinh tế
(Index of Economic Freedom) của tổ chức The Heritage Foundation cho
thấy Đức nằm trong nhóm quốc gia có tự do kinh tế cao (mostly free).
Năm 2019, Chỉ số Tự do Kinh tế của Đức là 73.5/100.
Bàn về giá trị tự do của Đức trong những thập niên gần đây,
Gombert và cộng sự (2009) nhận xét rằng định nghĩa về tự do ngày
càng liên hệ chặt chẽ hơn với các lý thuyết được phát triển gần đây, ví
dụ như thuyết cân nhắc năng lực (capabilities) của Amartya Sen. Theo
trường phái này, tự do đã vượt ra khỏi giới hạn như một quyền cơ bản
chỉ trên danh nghĩa trở thành một quyền mà nhà nước có trách nhiệm
đảm bảo cho công dân của mình. Mô hình KTTTXH nhấn mạnh vào vai
43
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trò của nhà nước đối với việc hiện thực hóa quyền tự do kinh tế. Nhà
nước cần tạo ra trật tự kinh tế, tức là thông qua hệ thống luật pháp tạo
điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra tự do, trôi chảy và hiệu quả.
4.2. CÔNG BẰNG
Bên cạnh tự do thì công bằng (justice) là một trong những giá trị
xã hội cao nhất trong những hệ thống xã hội dân chủ và có trách nhiệm
xã hội. Theo Quaas (2008), những nhà sáng lập ra nền KTTTXH đòi
hỏi phải có công bằng xã hội trong điều kiện sở hữu phân tán rộng rãi
và người dân có điều kiện sống thỏa đáng. Giống như tự do, ý nghĩa
đặc biệt của giá trị công bằng xã hội dựa trên sự công nhận tính đa dạng
đặc thù của bức tranh con người trong xã hội. Mặc dù còn nhiều tranh
luận trên lý thuyết về định nghĩa “công bằng”, các nghiên cứu trước đây
đồng tình rằng xã hội không thể đạt được tự do đích thực trong sự tồn
tại của bất công (Gombert và cộng sự, 2009) và rằng các giá trị tự do,
nhân phẩm và công bằng có mối liên hệ chặt chẽ (Wörsdörfer, 2010).
Suy cho cùng thì các câu hỏi về công bằng quy tụ ở vấn đề phân bổ
hàng hóa hữu hình (như nhà cửa, máy móc thiết bị) và hàng hóa vô hình
(như bản quyền). Một trong những ý tưởng cơ bản về chính sách kinh tế
trong nền kinh tế thị trường có trách nhiệm xã hội là phải có được chính
sách công bằng trong phân bổ thu nhập, tài sản và quyền lực.
Vậy phân bổ thu nhập, tài sản và quyền lực xã hội thế nào là công
bằng? Theo quan điểm KTTTXH, giá trị công bằng xã hội có thể đạt
được bằng sự kết hợp và cân đối giữa các thành phần công bằng khác
nhau (Quaas, 2008; Gombert và cộng sự, 2009). Trong đó cần phải hạn
chế tối đa những ảnh hưởng mà toàn xã hội không mong muốn. Theo
Gombert và cộng sự (2009), ba thành phần của công bằng là:
Thứ nhất là công bằng đóng góp (hay công bằng kết quả)
. Công bằng đóng góp đòi hỏi thành quả xã hội phải được phân bổ tương
xứng với đóng góp (hay năng lực của) cá nhân cho xã hội. Ở đây, khả
năng lựa chọn dành cho kẻ mạnh, kẻ có đóng góp nhiều hơn. Ví dụ,
44
GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
những người nào cống hiến nhiều cho xã hội hơn thì mức phúc lợi xã
hội (bảo hiểm thất nghiệp và lương hưu) nhận được cao hơn. Những
người theo chủ nghĩa tập thể hẳn sẽ phản đối chính sách này và ủng hộ
việc san bằng thành quả xã hội.
Từ công bằng đóng góp có thể luận hiểu được nguyên lý công bằng
trao đổi. Công bằng trao đổi nghĩa là các đối tác trao đổi có cùng điểm
xuất phát, không bên nào chiếm được lợi thế khi trao đổi các thứ có giá
trị tương đồng. Điều này sẽ giúp hoạt động thị trường đi đúng hướng,
tạo ra và duy trì những động lực đóng góp của cá nhân.
Trong các nghiên cứu về công bằng thì nguyên tắc thứ hai – công
bằng nhu cầu – luôn song hành và bổ trợ cho nguyên tắc thứ nhất kể
trên. Nếu công bằng đóng góp được cho là khả năng lựa chọn dành cho
kẻ mạnh thì công bằng nhu cầu là dành cho kẻ yếu. Công bằng nhu cầu
tạo điều kiện cho những thành viên, mà vì lý do nào đó trong cuộc sống
bị hạn chế khả năng đóng góp, có thể có được một mức sống nhất định
mà xã hội cho phép thông qua sự phân phối lại về vật chất, các quyền ưu
đãi và các cơ hội. Ví dụ như một số người cần có sự chăm sóc đặc biệt
(người khuyết tật, người khiếm thị…) mà người khỏe khoắn không cần
đến. Chính sự công bằng này sẽ mang lại cơ hội, tiềm lực cho nền kinh
tế khi các đối tượng ấy có thể quay lại tiếp tục đóng góp cho cộng đồng.
Nếu có quá nhiều nhu cầu cần thiết không được đáp ứng, dẫn đến
sự mất cân đối một cách nghiêm trọng trong xã hội thì mục tiêu tiến
bộ và tăng trưởng kinh tế lâu dài là không thể đạt được, thậm chí tạo ra
các mâu thuẫn lớn. Dưới thời Bismarck, hệ thống an sinh xã hội được
giới thiệu có lẽ cũng vì mục đích ổn định xã hội. Thời điểm đó, tầng
lớp lao động chiếm đa số và các tư tưởng cánh tả đang lan tràn khắp thế
giới. Nếu không có thay đổi trong chính sách nhằm phân phối phần nào
quyền lợi đến với người dân lao động thì có lẽ khó tránh khỏi bạo động.
Kể từ đó, qua các giai đoạn khác nhau mà mức hỗ trợ ngày càng lớn và
mở rộng tới nhiều đối tượng hơn.
Thứ ba là công bằng về cơ hội, đánh dấu một sự chuyển biến trong
cuộc thảo luận triết học không ngừng về công bằng. Thuật ngữ “công bằng
cơ hội” được sử dụng lần đầu trong thời kỳ Brandt và được sử dụng phổ
45
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
biến kể từ đó không chỉ bởi những người trong đảng SPD Đức. Khái niệm
này công nhận sự tồn tại của sự thiếu công bằng xã hội, một người không
đóng góp được nhiều có thể là vì họ đã chưa có được cơ hội như những
người khác ngay từ đầu. Một đứa trẻ sinh ra trong gia đình khó khăn có
ít cơ hội tiếp cận với giáo dục tốt so với đứa trẻ sinh ra trong gia đình khá
giả. Các cơ hội trong xã hội có liên hệ trực tiếp tới sự phân bổ của nguồn
lực vật chất và phi vật chất. Vì vậy, những cơ hội, vốn có tính hữu hạn như
nguồn lực, cần được phân bổ một cách công bằng. Đại biểu xây dựng nền
KTTTXH cho rằng cần có biện pháp để phân phối lại cơ hội đến với mọi
người, vì một xã hội “phồn thịnh cho tất cả”.
4.3. PHÂN CẤP TRÁCH NHIỆM
Phân cấp trách nhiệm là một nguyên tắc quy định thứ tự ưu tiên trong việc
đưa ra quyết định mà ở đó cấp thấp hơn có được quyền ưu tiên lớn hơn.
Nguyên tắc này được áp dụng trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trước hết,
đối với các nhiệm vụ mà các cá nhân có thể tự mình làm được thì các cấp
cao hơn (nhóm người, chính quyền địa phương hay trung ương) không có
thẩm quyền, nhiệm vụ làm điều đó. Nguyên tắc này cũng được áp dụng
trong việc phân cấp trách nhiệm trong quản lý. Đối với những quyết định
mà cấp địa phương có khả năng đưa ra hoặc đưa ra tốt hơn cấp trung ương
thì cấp địa phương có thẩm quyền toàn quyền quyết định và chịu trách
nhiệm trước quyết định của mình. Ví dụ, luật môi trường của liên bang
thường đưa ra các quy định chung vì sự khó khăn trong việc cân nhắc tới
yếu tố đặc thù của từng địa phương. Trong khi đó, tùy vào đặc thù tự nhiên,
kinh tế và xã hội của từng bang mà các bang đưa ra các văn bản cụ thể hơn.
Việc ưu tiên cấp quyết định là cấp phía dưới và cụ thể tới từng
người hoặc nhóm người giúp việc tìm ra người chịu trách nhiệm dễ
dàng hơn. Nguyên tắc này cũng được thể hiện trong chính sách lao
động; bản thân mỗi cá nhân chịu trách nhiệm đầu tiên và lớn nhất cho
cuộc sống của mình. Eucken nhấn mạnh rằng trong các trường hợp khó
khăn, tự bản thân vươn lên là điều cần được thực hiện trước khi tìm đến
sự giúp đỡ từ người khác hay nhà nước.
46
GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
4.4. ĐOÀN KẾT
Eucken là một tín đồ của đạo Thiên chúa giáo, ông coi trọng giá trị
đoàn kết giữa người với người (Wörsdörfer, 2010; Marktanner, 2010).
Một số nghiên cứu như Wolfgramm (2010) và Marktanner (2010) chỉ ra
rằng đoàn kết trong quan điểm của Eucken là sự giúp đỡ những người
yếu thế để giúp họ có được các điều kiện sống căn bản. Trong trường
hợp này, khái niệm đoàn kết rất gần với khái niệm công bằng nhu cầu.
Theo quan điểm của Gombert và cộng sự (2009), khái niệm đoàn kết
tại nước Đức có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là là sự gắn kết,
phụ thuộc và giúp đỡ lẫn nhau, là sự sẵn sàng của mọi người đứng lên
giúp đỡ lẫn nhau và giúp đỡ người khác, giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa
các thế hệ và giữa các dân tộc.
Walzer (1997) chỉ ra rằng đoàn kết có thể trở thành thứ nguy hiểm
khi nó chỉ là một cảm xúc thay vì là sự phản chiếu của sự hợp tác đúng
nghĩa. Đoàn kết có thể có dạng thức độc quyền và phân biệt đối xử, ví
dụ như tinh thần đoàn kết trong một nhóm và muốn loại bỏ các nhóm
khác. Trong một xã hội dân chủ được xây dựng trên nền tảng cởi mở,
thấu hiểu và tôn trọng sự đa dạng của xã hội thì hình thức đoàn kết kể
trên tạo ra mối đe dọa to lớn. Chính vì vậy, giá trị đoàn kết theo đúng
nghĩa của nó không thể đạt được trong một xã hội sự tôn trọng nhân
phẩm con người và sự chịu trách nhiệm.
Những giá trị đoàn kết, công bằng nhu cầu, công bằng cơ hội góp
phần củng cố hệ thống phúc lợi của Đức. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là mô hình KTTTXH ủng hộ mô hình nhà nước phúc lợi. Trong
mô hình KTTTXH, nguyên tắc phân cấp trách nhiệm đã chỉ ra rằng vai
trò của cá nhân và sự tự chịu trách nhiệm đặt lên đầu, chứ không phải
dựa dẫm vào sự trợ giúp từ tập thể, cấp cao hơn hay nhà nước.
Để có thể đạt được các giá trị kể trên, các nhà kinh tế học chủ nghĩa
Tự do trong Trật tự đã xác định toàn bộ mô hình phải dựa trên một số
nguyên lý nền tảng căn bản. Các nguyên lý ấy đề cập đến các yếu tố
nhằm tạo ra trật tự kinh tế để các tiến trình kinh tế diễn ra công bằng và
hiệu quả, ổn định đời sống xã hội và bảo vệ môi trường.
47
5
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Các nguyên lý ban đầu được xây dựng bởi Walter Eucken được
Suntum & Ilgmann (2014) tóm tắt lại thành mười một nguyên lý,
được chia làm hai nhóm. Bảy nguyên lý đầu tiên được nhóm thành các
nguyên lý mang tính cấu thành, bốn nguyên lý còn lại được xếp vào
nhóm nguyên lý điều tiết. Cụ thể như sau:
(1) Hệ thống giá vận hành (functioning price system): Như đã đề
cập, một trong những việc làm đầu tiên của Eucken là huỷ bỏ chế độ
khẩu phần, cho phép giá cả tự hình thành trên thị trường. Giá cả phản
ánh thực chất quy luật cung cầu và làm tín hiệu cho các chủ thể kinh tế.
Ông cho rằng cấu trúc thị trường phi tập trung của thị trường cạnh tranh
hoàn hảo là điều kiện tiên quyết của một hệ thống giá vận hành đầy đủ.
Quan điểm ủng hộ cạnh tranh hoàn hảo của Eucken trái ngược với quan
điểm cạnh tranh động của trường phái kinh tế học Áo được phát triển
bởi Hayek và Schumpeter.
Sự tối ưu của trật tự tiền tệ (primacy of the monetary order):
Nguyên lý thứ hai hàm ý tầm quan trọng của việc ổn định giá trị tiền tệ,
chống lạm phát. Eucken cho rằng các biện pháp kích thích tăng trưởng
trong ngắn hạn có thể mang lại tác động tích cực trong ngắn hạn (như
giảm tỷ lệ thất nghiệp) nhưng lại mang đến tác động tiêu cực lớn trong
49
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
dài hạn. Điều này trái ngược với quan điểm cho phép chính phủ đưa ra
các chính sách tác động vào nền kinh tế nhằm tăng trưởng nhanh của
trường phái Keynes.
(2) Thị trường mở (open market): Nguyên lý thị trường mở hàm ý
loại bỏ các loại thuế quan, rào cản phi thuế quan, các hình thức hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước nhằm thúc đẩy thương mại tự do trong nước
và quốc tế.
(3) Tài sản tư nhân (private property): Nguyên lý thứ tư nhấn mạnh
tầm quan trọng của tài sản tư nhân trong phát triển kinh tế và xã hội. Thứ
nhất, một hệ thống pháp luật củng cố và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân tạo
động lực cho chủ thể kinh tế tham gia hoạt động kinh tế vì họ có thể yên
tâm rằng tài sản của mình sẽ không bị cưỡng đoạt. Thứ hai, bảo vệ quyền
tư hữu cũng là một cách nâng cao quyền tự do vì người sở hữu tài sản
(hữu hình hay vô hình) được tự do lựa chọn cách tài sản của mình được
sử dụng (bởi họ hoặc bởi bên thứ ba). Thứ ba, trên thị trường cạnh tranh
tự do, lành mạnh và chính sách chống độc quyền hiệu quả, tài sản sẽ được
phân bổ công bằng và thường được phân bổ phi tập trung. Điều này vừa
nâng cao hiệu quả kinh tế do nguồn lực được phân bổ về nơi nó được
dùng hiệu quả nhất vừa góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo.
(4) Tự do hợp đồng (freedom of contract): Các chủ thể kinh tế được
quyền tự ký kết hợp đồng với điều kiện không vi phạm các nguyên lý
còn lại. Người lao động được tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi làm việc
cũng như người tuyển dụng được tự do lựa chọn người lao động thích
hợp. Các chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn đối tác, đàm phán, kí kết
hợp đồng. Nhưng các hoạt động kinh tế này không vi phạm các nguyên
tắc khác. Ví dụ, nguyên lý điều chỉnh cung cao động bất thường không
cho phép sử dung lao động trẻ em hay lạm dụng sức lao động cho dù các
bên có tự nguyên. Nguyên lý chống hạn chế cạnh tranh không cho phép
hình thành các-ten, tạo ra thế độc quyền cho các (nhóm) doanh nghiệp.
(5) Chịu trách nhiệm (liability): Nhìn chung, nguyên lý này hàm
ý các chủ thể tham gia kinh tế cần chịu trách nhiệm với các quyết định
của mình, không nên tìm đến hay dựa dẫm vào sự giúp đỡ của bên thứ
50
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
ba. Chủ thể càng sở hữu nhiều tài sản thì trách nhiệm gánh vác càng
lớn. Eucken đặt biệt quan tâm đến việc phân bổ trách nhiệm trong luật
doanh nghiệp. Eucken không ủng hộ hình thức trách nhiệm hữu hạn mà
cho rằng các cổ đông lớn cần chịu trách nhiệm tuyệt đối trước các rủi ro
của doanh nghiệp mặc dù điều này sẽ triệt tiêu động lực thành lập doanh
nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp vừa vả nhỏ.
(6) Tính liên tục của chính sách kinh tế (continuity of economic
policy): Tính liên tục của chính sách kinh tế hàm ý các chính sách kinh
tế cần định hướng trong trung – dài hạn và có cơ sở hợp lý với các tín
hiệu đưa ra đủ lâu trước khi được thực thi nhằm cung cấp thông tin cho
các bên tham gia thị trường.
(7) Chính sách chống độc quyền (antitrust policy): Eucken cho
rằng độc quyền nhà nước hay độc quyền tư nhân đều không mang lại
kết cục tốt cho nền kinh tế cũng như cho xã hội. Nhà nước cần có các
chính sách chống hạn chế cạnh tranh, không cho phép hình thành các
doanh nghiệp độc quyền hoặc ít nhất là kiểm soát hành vi của các doanh
nghiệp đó trên thị trường. Quan điểm này cơ sở hình thành Luật chống
hạn chế cạnh tranh của Đức năm 1957.
(8) Chính sách thu nhập (income policy): Cũng giống như hầu hết
các quốc gia và học giả trên thế giới, Eucken ủng hộ hệ thống thuế thu
nhập lũy tiến trong chính sách thu nhập. Sử dụng nguồn thu này đầu
tư vào tài sản công như hệ thống y tế, giáo dục làm giảm khoảng cách
giàu nghèo, phù hợp với các giá trị công bằng theo nhu cầu, công bằng
cơ hội và đoàn kết.
Điều chỉnh các tác động ngoại lai (correction of externalities): Các
hoạt động kinh tế thường có tác động tiêu cực nhất định đến môi trường.
Eucken cho rằng nhà nước cần có các biện pháp điều tiết nhằm giảm
các tác động này và quy kết đúng trách nhiệm tới đúng bên gây ra. Tuy
nhiên, ông vẫn chưa chỉ ra phương pháp để làm điều này. Cho đến nay,
đối với các vấn đề môi trường, các biện pháp giải quyết chủ yếu được
áp dụng vẫn mang tính thụ động, giải quyết các vấn đề sau khi phát sinh
thay vì ngăn chặn trước khi xảy ra.
51
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Điều chỉnh cung lao động bất thường (correction of anomalous
labor supply): Trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi cung lao động quá dồi
dào và cầu lao động ít, dễ phát sinh vấn đề lạm dụng sức lao động.
Eucken cho rằng nhà nước cần đưa ra các quy định nhằm điều chỉnh thị
trường lao động để bảo vệ người lao động, ví dụ quy định về thời gian
làm việc tối đa trong ngày và mức lương tối thiểu.
Trước những biến chuyển của thời gian, nền kinh tế vận động
không ngừng và các lý thuyết kinh tế được thay đổi, phát triển trở nên
chiết trung và có tính định hướng chính sách hơn. Viện Bertelsmann
(2012) đã nghiên cứu, mở rộng các nguyên lý trên, phù hợp với bối
cảnh ngày nay tại Đức và đặt tên là “các nguyên lý nền tảng của nền
kinh tế thị trường xã hội hiện đại”.
Hình 4 tổng kết mối quan hệ giữa các giá trị cốt lõi, nguyên lý nền
tảng và khung chính sách của mô hình kinh tế thị trường xã hội hiện
đại. Các giá trị cốt lõi đóng vai trò là mục tiêu kinh tế - xã hội hướng
đến của quốc gia, dựa trên đó mà các nguyên lý của mô hình được xây
dựng làm nền tảng cho thiết kế chính sách. Các nguyên lý của mô hình
KTTTXH hiện đại được chia làm bốn nhóm, như sau:
Hình 4. Mô hình nền Kinh tế Thị trường Xã hội Hiện đại
Thị trường hiệu quả và có sức
cạnh tranh
Quyền tài sản hiệu quả
Sự bền vững kinh tế và sinh
thái
Dung hợp xã hội
Các chính sách kinh tế – xã hội – môi trường Vai trò của nhà nước – thị trường – xã hội dân sự
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
52
Di động xã hội
Thị trường lao động hiệu quả
Đoàn kết
Bảo vệ môi trường
Tính ổn định của chính sách
Sự ổn định tài chính
Chịu trách nhiệm
Phân cấp trách nhiệm
Quyền tự do giao kết hợp đồng
Quyền tài sản hiệu quả
Cạnh tranh
Công bằng xã hội
Thị trường mở
Hệ thống giá hữu hiệu
Tự do
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
5.1. THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ CÓ SỨC CẠNH TRANH
Chủ nghĩa Tự do trong Trật tự ủng hộ phân bổ nguồn lực phi tập trung
trên thị trường. Phân bổ phi tập trung được củng cố thông qua hệ thống
giá hữu hiệu, cạnh tranh lành mạnh và thị trường mở. Vì vậy, ba nguyên
lý này được gộp chung vào nhóm “Phân bổ thị trường hiệu quả và có
sức cạnh tranh”1.
Nguyên lý 1: Hệ thống giá hữu hiệu
Nguyên lý hệ thống giá hữu hiệu của mô hình KTTTXH hiện đại không
có sự thay đổi so với mô hình sơ khai. Nguyên lý này được đặt vào vị
trí trung tâm của một nền kinh tế thị trường hiệu quả. Eucken cho rằng
nếu không có cơ chế này không được đảm bảo thì các nguyên lý khác
trở nên vô ích. Giá cả của hàng hóa và dịch vụ được xác định và tự điều
chỉnh thông qua các quyết định của lực lượng cung và cầu. Về bản chất,
hệ thống giá cả không bị điều hành bởi bất cứ cơ quan tập trung nào. Hệ
thống giá hữu hiệu là hệ thống giá mà trong đó giá cả thực hiện tốt vai
trò đưa ra thông tin, tín hiệu về giá trị của hàng hóa và dịch vụ phục vụ
cho các quyết định kinh tế (Dickertmann và Piel, 2005).
Nguyên lý này phản đối các hình thức bóp méo giá cả như đặt giá
tối thiểu, tối đa, trợ cấp đến từ chính phủ (để theo đuổi các mục tiêu
chính trị) hay thỏa thuận giá cả giữa các doanh nghiệp (nhằm củng cố vị
thế trên thị trường). Sự can thiệp này sẽ dẫn đến hệ quả là làm rối loạn
chức năng thông tin của giá cả, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả phân bổ.
Không những thế, không ai có thể đảm bảo hay chắc chắc chắn rằng sự
can thiệp vào giá của chính phủ sẽ đem lại kết quả như mong muốn ban
đầu vì giá cả có khả năng tự vận hành và điều chỉnh. Vì vậy, công cụ tốt
hơn để theo đuổi các mục tiêu xã hội là chính sách thu nhập thay vì can
thiệp giá cả (Viện Bertelsmann, 2013).
1
Nguyên gốc là “Competitive and Efficient Markets”. Nhóm tác giả lựa chọn dịch là
“Thị trường hiệu quả và có sức cạnh tranh”.
53
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyên lý 2: Thị trường mở
Nguyên lý thị trường mở được mở rộng trong mô hình KTTTXH hiện
đại. Không chỉ ủng hộ tự do thương mại quốc tế, mô hình KTTTXH
hiện đại còn đề cập đến tính dễ dàng gia nhập và rời bỏ thị trường.
Trên khía cạnh thương mại quốc tế, nguyên lý thị trường mở hàm ý
tự do thương mại và dịch chuyển các yếu tố sản xuất bao gồm vốn, lao
động, sản phẩm và dịch vụ qua biên giới. Mặc dù không thể phủ nhận
rằng việc mở cửa thị trường có thể gây ra một số tác động tiêu cực nhất
định, các nghiên cứu từ lâu đã chỉ ra rằng lợi ích của nó lớn hơn. Rỡ bỏ
các rào cản thương mại sẽ giúp các tư liệu sản xuất được phân bổ về nơi
được sử dụng hiệu quả nhất. Câu hỏi đã không còn là có nên hay không
nên mở cửa, mà là làm cách nào để việc mở cửa mang lại lợi ích lớn
nhất trong bối cảnh toàn cầu hóa cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Eucken
định hướng nền kinh tế Đức trở thành một nền kinh tế xuất khẩu.
Ủng hộ tự do thương mại, ngay từ năm 1957, Đức đã cùng năm
quốc gia khác thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu, tiền thân của EU.
Các nước thuộc EU đồng thuận về tự do lưu thông hàng hóa, tự do lưu
chuyển vốn, tự do dịch vụ và tự do đi lại và cư trú trên toàn lãnh thổ của
Liên minh. Điều này giúp xóa bỏ biên giới hải quan để hàng hóa, dịch
vụ và sức lao động tự do lưu thông, thúc đẩy thương mại và điều hòa
các chính sách kinh tế xã hội của các nước thành viên.
Trên khía cạnh tiếp cận thị trường, mô hình KTTTXH cho rằng
các quốc gia nên hạn chế các rào cản gia nhập – rời khỏi thị trường của
doanh nghiệp. Các rào cản ấy có thể là rào cản tự nhiên, như rào cản
kỹ thuật hay thói quen của người tiêu dùng, hoặc là rào cản nhân tạo,
ví dụ thủ tục và yêu cầu khắt khe từ luật doanh nghiệp hay các doanh
nghiệp có bước đi cố tình nhằm cản trở sự thành lập doanh nghiệp mới.
Hệ thống pháp luật cần hạn chế các rào cản phi tự nhiên. Điều đó thúc
đẩy sự hình thành của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm và phân
bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
54
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Nguyên lý 3: Nguyên lý cạnh tranh
Đồng tình với Eucken, mô hình KTTTXH đánh giá cao vai trò của cạnh
tranh với tư cách là động lực của tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ
thực hiện các chức năng tự nhiên của mình và thông qua đó tạo ra một
nền kinh tế hiệu quả. Theo Seitel (2005), cạnh tranh thực hiện các chức
năng kiểm soát quyền lực, chức năng tĩnh và chức năng động. Trước
hết, cạnh tranh giới hạn quyền lực của nhà nước đối với tư nhân. Những
người chơi trên thị trường hầu hết là tư nhân nhưng nguồn lực của họ
thường không thể mạnh bằng của nhà nước. Một hệ thống pháp luật xây
dựng môi trường cạnh tranh công bằng sẽ hạn chế quyền lực nhà nước,
đào thải các doanh nghiệp bất kể hình thức sở hữu (tư nhân hay nhà
nước) khỏi thị trường nếu doanh nghiệp đó không đủ sức cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn hạn chế sức mạnh của kinh tế tư nhân. Khi
nhận thấy khả năng sinh lời, các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường,
khiến thị phần được chia sẻ và không tập trung lại một vài chỗ. Chính
vì vậy, trong môi trường cạnh tranh hiệu quả khó có thể hình thành độc
quyền.
Các chức năng tĩnh bao gồm: (i) cạnh tranh giúp các sản phẩm
được tạo ra phù hợp tối đa với các nhu cầu của người mua về số lượng,
sự đa dạng chủng loại, chất lượng và giá cả; (ii) cạnh tranh tạo động lực
cho các doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí thông qua tối ưu hóa việc sử
dụng các yếu tố sản xuất khan hiếm (lao động, đất đai, vốn); (iii) cạnh
tranh còn là phương tiện để phân phối thu nhập công bằng vì thu nhập
được phân phối đến nơi tạo ra giá trị tương xứng.
Chức năng động của cạnh tranh là kích thích đổi mới, nâng cao
phương pháp sản xuất hay cách quản lý mới. Những thành quả tri thức
này được cho là có lợi cho cả những bên không tham gia cạnh tranh như
cộng đồng, thậm chí cho cả các đối thủ trên thị trường thông qua hiệu
ứng lan tỏa (spillover effect). Như vậy cạnh tranh, thông qua thực hiện
chức năng kinh tế, cũng góp phần thực hiện chức năng công bằng xã
hội thông qua việc tái phân bổ các yếu tố sản xuất và hiệu ứng lan tỏa.
55
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trên thực tế, trong những trường hợp nhất định, sự can thiệp
của chính phủ là cần thiết. Trước hết, sự can thiệp hợp lý của “bàn
tay hữu hình” đóng vai trò kiến tạo môi trường cạnh tranh công
bằng. Các thành viên trên thị trường luôn tìm cách thoát khỏi áp lực
cạnh tranh thường trực bằng cách hợp tác với đối thủ thông qua sáp
nhập hoặc hình thành các-ten. Trong trường hợp này, nhà nước cần
có biện pháp chống lại các hành vi này, ví dụ thông qua Luật chống
hạn chế cạnh tranh, xây dựng cơ quan giám sát cạnh tranh, và đảm
bảo tự do truyền thông. Thứ hai, nhà nước có thể can thiệp nhằm
hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của cạnh tranh đối với bên thứ ba,
ví dụ tác động môi trường. Hệ thống pháp luật đảm bảo các doanh
nghiệp gây ra tác động tiêu cực chịu trách nhiệm. Việc cho phép sự
can thiệp nhất định của nhà nước là một trong những đặc điểm khác
biệt với chủ nghĩa tự do thuần túy.
Tuy nhiên, khác với quan điểm của Eucken, mô hình KTTTXH
hiện đại cho rằng không nhất thiết phải có cạnh tranh hoàn hảo hay
tiến gần đến hình thức cạnh tranh ấy. Có những trường hợp mà độc
quyền hay độc quyền nhóm là chấp nhận được. Ví dụ, một doanh
nghiệp độc quyền tự nhiên, dưới áp lực đáng kể từ hàng hóa thay
thế, có thể có những hành vi cạnh tranh mạnh mẽ hơn cả một công
ty trong vị thế độc quyền nhóm ổn định. Khi đánh giá tình hình cạnh
tranh của các thị trường, cấu trúc thị trường và kết quả thị trường
đóng vai trò quan trọng hơn là quyền lực thị trường của một (vài)
đối tượng nào đó.
5.2. Quyền tài sản hiệu quả
Các nguyên lý quyền tài sản, tự do hợp đồng, và chịu trách nhiệm
được xếp vào nhóm “Quyền tài sản hiệu quả”. Quyền tài sản hiệu quả
cũng đóng vai trò quan trọng trong mô hình KTTTXH hiện đại; chúng
không chỉ quan trọng đối với hiệu quả kinh tế mà còn là biểu hiện của
quyền tự do.
56
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Nguyên lý 4: Quyền tài sản
Đảm bảo quyền tài sản vật chất và tài sản trí tuệ là một trong những
nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế.1 Trong khi chủ
nghĩa Tự do trong Trật tự truyền thống nhấn mạnh vào quyền tư hữu
với vai trò một phương thức phân chia quyền lực thì các lý thuyết
kinh tế hiện đại lựa chọn phạm vi rộng hơn. Phạm vi đó bao gồm các
quyền và nghĩa vụ khác nhau có liên quan đến tài sản tư và cả các
tài sản khác.
Về tư hữu, các nghiên cứu như Franke & Gregosz (2013) chỉ ra
rằng sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất luôn hiệu quả hơn sở hữu tập thể,
giúp tạo ra nhiều của cải hơn vì sở hữu tư nhân khiến người ta quản lý
tài sản của mình một cách cẩn thận và có trách nhiệm hơn. Tư hữu tạo
động lực cho người ta tổ chức và sử dụng các nhân tố sản xuất trong
nền kinh tế một cách linh hoạt, tạo ra lượng cung sản phẩm và dịch vụ
đủ về số lượng và chất lượng cho nền kinh tế. Trong một hệ thống pháp
luật có quyền tư hữu hiệu quả, nhà đầu tư cũng như người tiêu dùng sẽ
có độ tự tin trước các quyết định kinh tế cao hơn. Và nếu tư hữu tư liệu
sản xuất được phân bố rộng rãi, không phải chỉ dồn trong tay một vài
nhà tài phiệt thì ngay cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có tài sản
riêng, giúp cho người lao động tại các doanh nghiệp này có được sự tự
do tương đối trong việc lựa chọn hay thay đổi nơi làm việc.
Những lý thuyết phản đối sở hữu tư nhân lập luận rằng sở hữu tư
nhân có thể dẫn đến sự tập trung tư liệu sản xuất vào tay một vài người
nhất định. Tuy nhiên, rủi ro này bị hạn chế nhờ nguyên lý cạnh tranh và
nguyên lý chịu trách nhiệm trong nền kinh tế thị trường. Như đã chỉ ra,
cạnh tranh khiến tài sản khó có thể chỉ tập trung vào một vài tổ chức bởi
những đối thủ tiềm năng dễ dàng gia nhập thị trường và tài sản sẽ về tay
họ khi họ mang lại giá trị lớn hơn. Trong khi đó, nguyên lý trách nhiệm
đảm bảo rằng sở hữu càng nhiều thì nghĩa vụ càng lớn.
1
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữ quyền tài sản và tăng trưởng
như Acemoglu, Johnson & Robinson (2005).
57
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Không thể phủ nhận được tầm quan trọng của tư hữu nhưng có
lẽ các nhà kinh tế học Tự do trong Trật tự cổ điển đã quá tập trung
vào quyền sở hữu tư nhân mà “quên” đi các quyền tài sản khác trong
khi quyền tài sản còn đóng vai trò như một quyền tự nhiên của con
người.1 Nghiên cứu của Viện Bertelsmann (2012) cho rằng mấu chốt
nằm ở việc xác định rõ các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến quyền
tài sản, thay vì tập trung vào thúc đẩy quyền tài sản tư nhân. Việc xác
định rõ này sẽ góp phần ngăn chặn hay giảm các hiệu ứng ngoại lai
và rủi ro đạo đức, nếu không sẽ ảnh hưởng đến phân bổ hiệu quả và
tự do xã hội.
Nguyên lý 5: Quyền tự do giao kết hợp đồng
Quyền tài sản chỉ là điều kiện cần cho những quyền tư hữu hiệu
quả. Quyền tài sản hiệu quả còn đòi hỏi sự tự do ký kết hợp đồng cùng
với sự tự chịu trách nhiệm. Quyền tự do ký kết hợp đồng cho phép các
pháp nhân được hình thành hợp đồng hợp pháp, tự nguyện mà không có
bất kỳ sự cưỡng ép nào từ bên thứ ba. Thông qua quyền này, các bên tự
nguyện giao kết hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác, tự do thỏa thuận nội
dung giao kết, tự do thỏa thuận thay đổi nội dung hợp đồng trong quá
trình thực hiện, tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện
hợp đồng, và tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh
chấp hợp đồng.
Tự do ký kết hợp đồng cũng là một trong các quyền tự do kinh tế.
Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng cũng phải tuân thủ luật pháp và có ràng
buộc với các nguyên lý còn lại. Ví dụ, nhà nước có thể can thiệp trong
trường hợp các công ty có thỏa thuận hay ký kết hợp đồng nhằm hạn
chế áp lực cạnh tranh trên thị trường.
Nguyên lý 6: Chịu trách nhiệm
Theo Suntum và Ilgmann (2014), chịu trách nhiệm nghĩa là mỗi cá
nhân, tổ chức phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình và về những
1
Theo Franke and Gregosz (2013), hiến pháp dân chủ và tự do nhấn mạnh quyền tài
sản như một quyền cơ bản của con người.
58
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
hậu quả mà hành vi đó gây ra. Cụ thể, ai gây tổn thương đến khoảng tự
do hợp pháp của một người khác thì phải lĩnh lấy trách nhiệm đối với
thiệt hại về vật chất, phi vật chất hoặc tổn thương cơ thể. Trong trao đổi,
khi đã ký kết vào một hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm hoàn toàn việc
thực hiện các nghĩa vụ cam kết của anh ta. Nếu không thì đối tác hợp
đồng đòi hỏi anh ta khoản bồi thường thiệt hại.
Mối liên quan giữa hành vi và hậu quả của hành vi có thể ít rõ
ràng nên xảy ra trường hợp một chủ thể phải chịu trách nhiệm trước lỗi
không phải do mình gây ra. Một doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận hoặc
phải rời khỏi thị trường có thể do chủ doanh nghiệp lơ là trong việc
quản lý công ty nhưng cũng có thể do đối thủ cạnh tranh mới tung ra sản
phẩm vượt trội và có đặc quyền phát minh nên doanh nghiệp chịu thiệt
hại dù chủ doanh nghiệp đã nỗ lực hết mình. Điều tương tự cũng xảy ra
ở người lao động. Người lao động bị sa thải có thể do vi phạm các nghĩa
vụ lao động nhưng cũng có thể do doanh nghiệp tái cơ cấu, hợp lý hóa
sản xuất nên họ bị sa thải dù nỗ lực hết mình. Do đó, mỗi cá nhân buộc
phải tự gánh chịu mọi hậu quả về các hoạt động kinh tế của mình, và
thậm chí ngay cả khi người đó không phải là người có lỗi.
Khi không thể quy lỗi lên cá nhân hay tổ chức cụ thể, lập luận rằng
trách nhiệm của xã hội là phải cứu vớt doanh nghiệp là một sai lầm. Xã
hội chỉ có thể nhận trách nhiệm về thất bại đó của mỗi cá nhân trên thị
trường bằng cách san sẻ mọi gánh nặng hậu quả sinh ra từ đó cho các
cá nhân còn lại. Thông thường các cá nhân còn lại sẽ không tự nguyện
làm điều đó, do vậy xuất hiện biện pháp cưỡng chế nhưng điều này xâm
phạm đến tự do của các cá nhân. Vậy nên tự do cá nhân rộng rãi của
mọi công dân chỉ có thể được duy trì khi nó đi liền với một trách nhiệm
bao trùm tương ứng đối với từng số phận. Vì thế, trong chế độ kinh tế
thị trường, mỗi cá nhân phải gánh chịu toàn bộ hậu quả của các hành vi
kinh tế của mình ngay cả khi anh ta nỗ lực hết mình.
Trong giai đoạn đầu của nền KTTTXH, Eucken có sự chú trọng
đặc biệt tới tính áp dụng của nguyên lý này lên các doanh nghiệp. Ông
có quan điểm cực đoan rằng các cổ đông lớn cần chịu trách nhiệm toàn
59
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
bộ. Eucken tỏ ra hoài nghi về các công ty trách nhiệm hữu hạn do hình
thức này dễ phát sinh vấn đề ông chủ - người đại diện (principal-agent
problem) hơn. Mặc khác, nếu không có hình thức trách nhiệm hữu hạn
thì sẽ không có lượng đầu tư lớn cần thiết cho một nền kinh tế công
nghiệp hiện đại đến từ khối doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay.
Vấn đề cần tranh luận chính là tìm ra các nguyên tắc để cân bằng giữa
trách nhiệm bắt buộc và sự chấp nhận rủi ro, cả hai điều cần thiết cho
một nền kinh tế. Nói cách khác, vấn đề đặt ra trong nền kinh tế hiện đại
không phải là có cho phép hay không, mà là trong những trường hợp
nào thì cho phép người không trực tiếp chịu chi phí và rủi ro được đưa
ra quyết định.
5.3. SỰ BỀN VỮNG KINH TẾ VÀ SINH THÁI
Nhóm thứ ba đề cập đến sự bền vững tài chính, chính trị và sinh thái.
Nguyên lý 7: Sự ổn định tài chính
Nguyên lý sự ổn định tài chính bao hàm hai ý chính: tính ổn định
trên thị trường tài chính và sự ổn định giá cả. Có thể thấy nguyên lý “sự
tối ưu của trật tự tiền tệ” trong mô hình sơ khai được nhóm vào nguyên
lý “sự ổn định tài chính” của mô hình hiện đại. Nguyên nhân là vì để
tiến tới mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền thì cần có một ngân hàng trung
ương độc lập chịu trách nhiệm duy trì mức lạm phát thấp. Quyết định
của các ngân hàng nói chung và ngân hàng trung ương nói riêng gây
ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường tài chính.
Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu, sự ổn định tài chính “là một
trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài chính, thị
trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và
những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả
năng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn có tác động tiêu cực đối
với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư”.1
1
Xem thêm tại https://www.ecb.europa.eu/ecb/tasks/stability/html/index.en.html
60
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
Thị trường tài chính giống như bánh xe của nền kinh tế do nó liên
đới tới tất cả các thị trường khác. Ổn định thị trường tài chính sẽ giúp
nền kinh tế trong và ngoài nước vận hành trơn chu, phân bổ tiết kiệm và
đầu tư hiệu quả. Sự bất ổn tài chính có thể không dẫn tới khủng hoảng
nhưng do mối quan hệ liên đới phức tạp của thị trường tài chính tới các
thị trường khác mà những rối loạn dễ dàng lan tỏa và cộng hưởng, gây
ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự bất ổn tài chính như tự do hóa quá nhanh chóng của ngành tài chính,
chính sách kinh tế không tốt và bất ổn, sự giám sát tài chính lỏng lẻo,
công tác kế toán và kiểm toán kém hiệu quả, sự vận hành lộn xộn trên
thị trường tài chính.
Cần lưu ý rằng các nhiễu loại trên thị trường tài chính hay tại một
số tổ chức tài chính đơn lẻ nào đó không nhất thiết trở thành mối đe dọa
đối với sự ổn định tài chính, nhất là khi chúng không có vẻ là sẽ gây
ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế. Trên thực tế, các vấn đề như
việc đóng cửa một tổ chức tài chính nào đó hay sự tăng tính biến động
trong giá tài sản có thể chỉ là kết quả của cạnh tranh, qua đó thì các tổ
chức hiệu quả hơn tồn tại thông qua cơ chế tự điều chỉnh của thị trường.
Trong trường hợp đó thì các “rối loạn” được coi là tốt cho nền kinh tế.
Như đã đề cập, trong nền kinh tế thị trường, giá cả đảm nhiệm
chức năng điều tiết và báo hiệu. Nếu xảy ra lạm phát, các doanh nhân sẽ
không biết được rõ ràng mặt hàng nào thực sự khan hiếm và cần đầu tư
mới vào những lĩnh vực nào. Lạm phát cao làm chức năng quan trọng
của cạnh tranh hiệu quả trong việc phân bổ các nguồn lực không thể
thực hiện được. Lạm phát tạo ra hiện tượng khan hiếm hàng hóa giả và
các yếu tố sản xuất sẽ bị hướng vào những mục đích sử dụng sai lầm.
Lúc đó sẽ xảy ra tình trạng rối loạn chức năng xác định giá cả. Trong
thời kỳ đó, các nguồn lực thường không được đầu tư vào các tư liệu
sản xuất ví dụ như máy móc mới, mà vào bất động sản và các hàng hóa
khác tương đối “an toàn” khi đồng tiền mất giá. Lạm phát tác động đến
những người nghèo trước tiên và mạnh mẽ nhất, điều đó khiến cho việc
thực hiện các chức năng xã hội của nhà nước trở nên rất khó khăn.
61
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quan điểm cho rằng lạm phát tạo thuận lợi cho việc làm và tăng
trưởng có thể đúng trong ngắn hạn; còn trong trung hạn và dài hạn,
những tác dụng tích cực về việc làm là không đạt được vì người lao
động sẽ đòi hỏi lương cao hơn phù hợp với tình trạng lạm phát. Trên
lý thuyết, ổn định giá chỉ thực sự có khi tỉ lệ lạm phát ở mức 0%. Tuy
nhiên trên thực tế, các quốc gia khác nhau có những mục tiêu lạm phát
khác nhau nhằm hài hòa mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Ví dụ như Ngân
hàng trung ương châu Âu đặt mục tiêu tỉ lệ lạm phát dưới 2%.
Nguyên lý 8: Tính nhất quán trong chính sách kinh tế
Nguyên lý này chỉ ra rằng cần phải có các cam kết về sự nhất quán của
các chính sách kinh tế trong dài hạn. Sự ổn định trong chính sách kinh tế
sẽ tạo sự an tâm và cung cấp thông tin hữu ích cho các quyết định kinh
tế của các chủ thể kinh tế, ví dụ như các doanh nghiệp. Thông thường
các doanh nghiệp sẽ không có xu hướng đầu tư, đặc biệt là đầu tư dài
hạn, ở một nền kinh tế có chính sách thay đổi liên tục vì đầu tư ban đầu
bỏ ra thường rất lớn. Nếu không có sự tự tin quyết định, đầu tư sẽ giảm
dẫn đến hạn chế tăng trưởng kinh tế và, vì vậy, phúc lợi xã hội cũng
giảm, đến một thời điểm sẽ gây ra xung đột.
Nguyên lý này không dễ đạt được do chính phủ thường có xu hướng
(và có đủ quyền lực để) thay đổi các quyết sách của mình sau khi thấy
các lợi ích được tạo ra. Cái giá cho hành động này là mất tín nghiệm từ
không chỉ nhà đầu tư, người tiêu dùng mà còn cả người dân; điều này
tạo ảnh hưởng xấu tới các chính trị gia nhiệm kỳ sau và cả thế hệ sau.1
Nguyên lý 9: Bảo vệ môi trường hiệu quả
Mô hình KTTTXH đòi hỏi định hướng các mục tiêu phát triển
không chỉ dừng lại ở tăng thu nhập đầu người, đảm bảo an sinh xã hội
Vấn đề nhất quán về mặt thời gian (time consistency) cũng được thảo luận sôi nổi
1
trong nhiều nghiên cứu trước đây như Calvo (1978), Persson, Persson & Svensson
(1987), và Halevy (2015).
62
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
mà còn chú trọng tới môi trường (phát triển bền vững). Các chính sách
môi trường có thể được sử dụng để ngăn chặn các hoạt động gây hại
môi trường, cải thiện công bằng xã hội, tăng thu công để trang trải chi
phí khu vực công.
Các công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường cần phải vừa hiệu quả
vừa tạo động lực kinh tế trong cả ngắn hạn và dài hạn. Nếu các công
cụ bảo vệ môi trường yếu, các hoạt động kinh tế sẽ gây ra tác hại tới
môi trường ngay lập tức và/hoặc trong dài hạn. Điều này gây tổn hại tới
công bằng xã hội do chi phí môi trường chưa được tính toán này sẽ bị đổ
dồn lên những người không gây ra nó. Mặt khác, nếu các công cụ bảo
vệ môi trường được thiết kế quá khắt khe thì sẽ làm giảm động lực kinh
tế của các doanh nghiệp do chi phí sản xuất tăng. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa, chính sách môi trường càng trở nên quan trọng. Sự phân chia
trong chuỗi giá trị, chuyên môn hóa và sự khác biệt trong các mục tiêu
tăng trưởng đã khiến phần lớn sản xuất được thực hiện ở các nước đang
phát triển, nơi mà các chính sách về môi trường tỏ ra kém hiệu quả.
Vấn đề đặt ra là nên sử dụng công cụ nào để bảo vệ môi trường.
Trên thực tế các chính trị gia thường giải quyết vấn đề môi trường thông
qua luật dân sự và can thiệp trực tiếp nhiều hơn. Lý do thứ nhất là vì khó
có thể đo lường chính xác tác động môi trường đặc biệt trong dài hạn.
Lý do thứ hai là vì chi phí phí môi trường làm giảm động lực đầu tư của
doanh nghiệp ở mức độ nào đó. Vì vậy, sự can thiệp trực tiếp như lệnh
cấm và quy tắc được sử dụng nhiều trên thực tế hơn. Tuy nhiên, sự can
thiệp trực tiếp này có những khuyết điểm như sau: thứ nhất, phương án
này vi phạm quyền tự do cá nhân vì các cá nhân không được quyền lựa
chọn từ đầu. Thứ hai, chính sách này thường bị cho là không công bằng
vì nó có xu hướng phân biệt giữa các hoạt động có cùng ảnh hưởng lên
môi trường. Thứ ba, các công cụ thị trường, cùng với các biện pháp
phân bổ trực tiếp, tạo ra hiệu quả bảo vệ môi trường cao hơn với chi phí
cơ hội thấp hơn và việc đó diễn ra trên cơ sở tự nguyện.
Theo Viện Bertelsmann (2012), các nhà kinh tế thường ưu tiên
sử dụng các công cụ thị trường để khắc phục và phòng tránh các hiệu
63
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
ứng ngoại lai gây ra cho môi trường. Chi phí môi trường phụ thuộc
vào chi phí cơ hội của việc phòng tránh gây hại môi trường và của các
phương án thay thế khả thi. Các chi phí cơ hội này không thể đo lường
được bằng các thể chế chính trị mà được đo lường tốt hơn qua cơ chế
thị trường. Vì vậy phương án tối ưu là sử dụng các công cụ hợp lý như
chứng nhận thải khí các-bon hay thuế môi trường.
5.4. DUNG HỢP XÃ HỘI
Trong tất cả các nguyên lý thì các nguyên lý về an sinh xã hội là
có nhiều sự thay đổi nhất kể từ thời Eucken. Ngày nay, hòa nhập xã hội
được định nghĩa rộng hơn đáng kể, bao gồm sự hòa nhập về văn hóa và
các quyền lợi hợp pháp quan trọng thay vì chỉ cải thiện nhu cầu tồn tại.
Xu hướng này có tính tự củng cố bởi vì phần thu nhập đến từ phúc lợi
xã hội của công dân càng nhiều thì khả năng gây sức ép của họ càng lớn,
họ càng đòi hỏi nhiều hơn. Điều này trái với dự báo của Ludwig Erhard
rằng các câu hỏi xã hội sẽ ít quan trọng hơn khi người ta giàu có hơn
(Suntum & Ilgmann, 2014).
Nguyên lý 10: Thị trường lao động hiệu quả
Theo Suntum và Ilgmann (2014), không có một công thức đơn
giản nào cho thị trường lao động hiệu quả. Căn bản mà nói, các nhà
kinh tế học theo trường phái Tự do trong Trật tự tỏ ra hoài nghi về mô
hình các-ten tiền lương và còn nghi ngờ hơn về tiền lương tối thiểu, bởi
vì trong cả hai trường hợp, mức lương cạnh tranh cân bằng đều bị kiềm
hãm. Mặt khác, họ cùng tìm thấy lý do để ủng hộ sự can thiệp vào thị
trường lao động trong một số trường hợp, ví dụ như khi có cung cao
động bất thường, mức lương của người lao động sẽ thấp ở mức không
thể chấp nhận được.
Ngày nay càng có nhiều nguyên nhân ủng hộ cho sự can thiệp vào
thị trường lao động, ví dụ như cầu lao động độc quyền, phân biệt đối xử
và bất cân xứng thông tin. Như đã đề cập, nền KTTTXH không chỉ hiệu
64
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
quả về mặt kinh tế mà còn công bằng xã hội và tôn trọng nhân phẩm
con người. Tôn chỉ này cũng giải thích cho trật tự thị trường lao động.
Theo Kleihenz (2005), thị trường lao động được xây dựng trên 5
trụ cột chính. Trụ cột thứ nhất quy định về vấn đề thương lượng tập thể.
Theo nguyên tắc phân cấp trách nhiệm được đồng thuận trong Hiệp ước
Maastricht, những tiêu chuẩn tối thiểu trong hợp đồng lao động cá nhân
được phép quy định qua quá trình thương lượng giữa giới sử dụng lao
động (các hiệp hội người sử dụng lao động) và đại diện của người lao
động (các tổ chức công đoàn). Ở đây, các quyền lợi tối thiểu của người
lao động được bảo vệ, ví dụ như cấm lao động trẻ em, quy định về số
giờ làm việc tối đa, mức lương tối thiểu, phương án khi xảy ra các rủi
ro như ốm đau, tàn phế, tuổi tác, thất nghiệp…
Trong quá trình thương lượng tập thể tất nhiên sẽ phát sinh mâu
thuẫn thuẫn về lợi ích. Vậy nên các bên thương lượng có quyền tự do
tương tác, thậm chí có thể bãi công hay đóng cửa nhà máy, miễn là
không bạo động. Những thỏa thuận tập thể là bắt buộc phải tuân theo
đối với các thành viên của các tổ chức đã thỏa thuận, những xê dịch chỉ
được phép thực hiện nếu đó là vì quyền lợi của người lao động. Việc
tiến hành đàm phán mang tính tập trung hay phi tập trung phụ thuộc vào
các mục tiêu và các điều kiện tổ chức của các công đoàn, các hiệp hội
người sử dụng lao động và quyền hiệp thương tập thể.
Trụ cột thứ hai nhằm củng cố vị thế của người lao động, thay vì
chỉ coi họ là công cụ cho doanh nghiệp. Người lao động còn phải được
quyền đồng quyết thông qua người đại diện của mình, được quy định
trong pháp lệnh xí nghiệp. Khác với mối quan hệ trong hiệp thương tập
thể, mối quan hệ giữa Hội đồng xí nghiệp và lãnh đạo doanh nghiệp
là mối quan hệ hợp tác dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Thỏa thuận xí
nghiệp có thể có tác dụng bổ sung cho những quy định của hiệp thương
tập thể để nó trở nên đầy đủ (“quy chế mở”), phù hợp với những đòi hỏi
của từng doanh nghiệp cụ thể.
Bên cạnh những chuẩn mực được quy định trong hiệp thương tập
thể, trụ cột thứ ba là những chuẩn mực bảo vệ người lao động, nhằm
65
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
đảm bảo để những chuẩn mực hiệp thương tập thể hoặc những lĩnh vực
lao động không có tổ chức được triển khai xuống các cấp độ thấp hơn.
Ví dụ như các quy định đối với người tàn tật, trẻ em, thanh thiếu niên,
phụ nữ; chống sa thải, bảo hộ lao động, số ngày nghỉ phép tối thiểu, bảo
vệ sức khỏe và bảo vệ đặc biệt nguy hiểm.
Trụ cột thứ tư là Cơ quan Lao động Liên bang, một cơ quan phụ
trách các vấn đề về thị trường lao động. Cơ quan này cung cấp thông tin,
tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm và thúc đẩy các biện pháp đào
tạo nghề nghiệp và trợ giúp lao động. Thông qua đó hỗ trợ cho việc khắc
phục những trở ngại trong cân đối cung – cầu trên thị trường lao động.
Trụ cột thứ năm là bảo hiểm thất nghiệp. Nó giúp ngăn chặn sự trượt
dốc về mặt xã hội của những người bị thất nghiệp bằng cách đảm bảo cho
người thất nghiệp các khoản vay thế lương hợp lý và còn đóng tiếp cho
người thất nghiệp các khoản phí bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm y tế.
Trong thị trường lao động hiệu quả, quyền lợi giữa chủ doanh
nghiệp và người lao động được cân bằng. Ví dụ, công đoàn có đặc
quyền riêng của họ thì cũng cần có quyền lực đối trọng cần thiết từ phía
chủ doanh nghiệp để đảm bảo rằng thỏa thuận đạt được là công bằng
và hữu nghị.
Nguyên lý 11: Sự di động xã hội
Theo Viện Bertelsmann (2012), việc giảm bớt những khó khăn kinh tế
thuần túy tỏ ra không đủ để giảm bất bình đẳng và đạt được những cơ
hội bình đẳng trong xã hội. Sự di động xã hội không chỉ là biểu hiện của
giá trị đoàn kết mà còn là yếu tố chính của một xã hội công bằng – cho
phép phân phối kết quả không bình đẳng nhưng không cho phép phân
phối cơ hội không bình đẳng. Ví dụ, dịch chuyển xã hội được củng cố
nếu tất cả trẻ em có cơ hội công bằng để phát triển khả năng của mình,
không phụ thuộc vào địa vị xã hội và chủng tộc của gia đình chúng.
Mặc dù những người theo chủ nghĩa Tự do trong Trật tự truyền thống
không đặc biệt nhấn mạnh điểm này, nhưng ngày nay chắc chắn họ sẽ
66
NHỮNG NGUYÊN LÝ NỀN TẢNG
đồng ý với nó, nhất là vì một nền giáo dục tốt thường đi cùng với các
yếu tố bên ngoài tích cực ủng hộ tăng trưởng và phúc lợi cao hơn cho
toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế, bất bình đẳng ở một mức độ nào đó là có thể chấp
nhận được. Nhưng các lý thuyết kinh tế và cả các nghiên cứu thực tế
đều không thể đưa ra đề xuất rõ ràng nào cho mức độ ấy. Bài nghiên
cứu này không nhằm tìm ra điểm chấp nhận mà câu hỏi quan trọng hơn
là về công cụ hợp lý để đạt được mục tiêu phân phối. Như đã đề cập,
can thiệp vào cơ chế thị trường không phải là phương thức tối ưu. Chủ
nghĩa Tự do trong Trật tự nhìn chung ưu tiên các biện pháp gián tiếp, cụ
thể là các phương pháp nhằm nâng cao khả năng của người nhận để họ
có thể tự cải thiện tình hình và giảm thiểu sự dựa dẫm vào chính quyền
để tồn tại. Thật vậy, Eucken đã đề cập rõ ràng để nguyên tắc tự thân
(self-help) và nguyên tắc phân cấp trách nhiệm như là hai nguyên tắc
bổ sung cho các nguyên lý nền tảng chính của mình. Các chính sách hỗ
trợ cần áp đặt yêu cầu công việc đối với người nhận hỗ trợ chứ không
nên hỗ trợ vô điều kiện.
Tóm lại, mô hình KTTTXH Đức nhằm mục đích xây dựng một xã
hội thịnh vượng cho tất cả mọi người trong tầm nhìn trung và dài hạn.
Tự do kinh tế cùng trách nhiệm xã hội làm động lực phát triển kinh tế.
Nhà nước có hai vai trò quan trọng. Một là thiết lập trật tự kinh tế, thiết
kế hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng.
Trong tiến trình ấy cần hạn chế tối đa sự can thiệp vào thị trường. Hai là
thực hiện nhiệm vụ tái phân bổ thành quả xã hội sao cho củng cố các giá
trị công bằng theo nhu cầu, công bằng cơ hội và đoàn kết. Trách nhiệm
xã hội được thực hiện trên nguyên tắc phân cấp trách nhiệm và nguyên
tắc chịu trách nhiệm. Các nguyên lý được tổng kết phía trên đóng vai
trò làm cơ sở xây dựng mối quan hệ nhà nước – thị trường – xã hội và
thiết kế khung chính sách cho quốc gia.
67
6.
MÔ HÌNH THỰC TIỄN
VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
Trên thực tế, không phải bất cứ nguyên lý nào cũng được tuân thủ chặt
chẽ. Bản thân tính đúng đắn của các nguyên lý cũng như của mô hình đều
là những vấn đề gây tranh cãi. Trong xã hội dân chủ và tự do, các ý kiến
thường đa dạng và thường khó để khẳng định chắc chắc sự đúng sai của các
ý kiến đó. Ngay cả nếu như mọi người thống nhất đồng ý một quan điểm
nào đó, việc thực hiện cũng luôn có khoảng cách với lý thuyết. Phần này sẽ
mô tả nội dung chính của những chính sách kinh tế - xã hội tại Đức.
Các chính sách có thể thay đổi theo thời gian, chịu tác động của nhiều
yếu tố. Yếu tố mang tính quyết định việc thành lập, thực thi và đánh giá
chính sách là mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội dân sự. Ba
thành tố ấy đóng vai trò như ba trụ cột của cấu trúc xã hội. Chúng có tầm
ảnh hướng lớn, có thể củng cố, kiểm soát và/hoặc triệt tiêu lẫn nhau.Phần
tiếp theo mô tả bức tranh tương tác giữa ba trụ cột này trong xã hội Đức.
6.1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC – THỊ TRƯỜNG – XÃ HỘI
DÂN SỰ
Trước hết, chúng ta hãy cùng xem xét sơ lược mô hình chính quyền ở
Đức. Luật Cơ bản quy định về đặc điểm của mô hìnhchính quyền Đức.
69
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chính quyền tồn tại là để phục vụ con người, chứ không phải phục vụ
chính quyền. Khác với quan điểm phân biệt giai cấp đề cập trong chủ
nghĩa xã hội, sự phân biệt trong xã hội Đức là giữa con người và hệ
thống chính trị. Hệ thống đó được tạo ra nhằm thiết lập trật tự và các
nguyên tắc (pháp luật) để bảo vệ một số giá trị mà xã hội đó đồng thuận.
Khi hệ thống tỏ ra không hiệu quả, hệ thống đó có thể bị thay đổi thông
qua cơ chế dân chủ.
Mô hình chính quyền Đức được thiết kế theo nguyên tắc phân chia
quyền lực, pháp quyền và dân chủ (Currie, 1993; Stockmann, 2001;
Waarden, 2015). Hệ thống bao gồm nhiều trung tâm quyền lực nhỏ hơn
đối trọng và kiểm soát lẫn nhau.Sự phân chia quyền lực chính trị tại
Đức có thể nhìn thấy theo chiều ngang và chiều dọc (Stockmann, 2001).
Theo chiều ngang là sự phân biệt cổ điển giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp1. Điều 20 khoản 3 trong Luật Cơ bản có viết “Tất cả các cơ quan
nhà nước có nguồn gốc từ người dân. Nó sẽ được thực thi bởi người
dân thông qua bầu cử và các hình thức bầu khác và qua các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp cụ thể”.2
Một hệ thống tư pháp độc lập là điều tối quan trọng để đảm bảo
tính công bằng trong xã hội.3Điều 97 khoản 1 trong Luật Cơ bản có
viết “Các thẩm phán phải độc lập và đưa ra quyết định căn cứ vào pháp
luật”. Thẩm phán được lựa chọn bởi Quốc hội dựa trên năng lực của họ.
Điều này cũng gây ra tranh cãi vì một mặt, việc Quốc hội chỉ định khiến
việc chỉ định khó tránh khỏi tính chính trị trong đó; mặt khác, có ý kiến
ủng hộ phương thức này vì Quốc hội, ít nhất trên lý thuyết, đại diện cho
tiếng nói của người dân.Trong Báo cáo Đánh giá Sức cạnh tranh Toàn
1
Xem thêm thảo luận về ưu điểm và nhược điểm của phân chia quyền lực tại các
nghiên cứu như Calabresi, Berghausen & Albertson (2015).
2
Nguyên gốc tiếng Anh “All state authority is derived from the people. It shall be
exercised by the people through elections and other votes and through specific
legislative, executive and judicial bodies.”
3
Xem thêm thảo luận về sự cần thiết của sự độc lập tư pháp tại các nghiên cứu như
Kaufman (1980) và Cross (2003).
70
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
cầu (2019) của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Đức được đánh giá là quốc
gia có mức độ độc lập tư pháp ở mức khácao: chỉ số độc lập tư pháp là
5/7, đứng thứ 33 trên thế giới.The Heritage Foundationcũng đánh giá hệ
thống tư pháp của Đức có mức độ hiệu quả cao với số điểm 75.4/100.
Cơ chế bầu cử của Đức không những đảm bảo quyền lực không tập
trung được vào đảng1 nào mà còn thúc đẩy sự liên kết giữa các (nhóm) đảng
do những đảng nhỏ lẻ sẽ rất khó có được phiếu bầu. Chức năng cơ bản của
phân chia quyền lực kể trên là nhằm bảo vệ các cá nhân khỏi sự tập trung
không kiểm soát và không thể kiểm soát được của quyền lực chính trị.
Theo chiều dọc là sự phân chia quyền lực giữa liên bang, bang và
chính quyền thành phố.Như đã đề cập, Điều 20 và Điều 79 của Luật Cơ
bản chỉ ra rằng dù hiến pháp có thay đổi thì mô hình liên bang vẫn sẽ
được áp dụng cho Đức.Hệ thống cũng đồng thời chủ trương phân tách
các quyền lực kinh tế trong tay nhà nước, ví dụ như bằng cách phân tách
chức năng ngân sách của các nhánh quyền lực. Thực tế, tổng số ngân
sách của các địa phương các bang cao hơn nhiều so với ngân sách liên
bang. Ở cấp độ liên bang, bên cạnh các cơ quan cấp bộ còn có nhiều
các cơ quan chuyên biệt có quyền tự trị theo các mức độ khác nhau như
Ngân hàng Trung ương Liên bang, Cục quản lý các-ten, Cục giám sát
các thể chế tín dụng, các công ty bảo hiểm liên bang vàCụcQuản lý Việc
làm, An sinh Xã hội của Người lao động Liên bang.
Nhà nước Đức được xây dựng theo nguyên tắc pháp quyền2. Nghĩa
là mọi cá nhân cho dù với xuất thân và địa vị nào trong xã hội đều
phải tuân thủ pháp luật, không có một nhóm lợi ích nào đủ mạnh để
thống trị những nhóm lợi ích khác và pháp luật là để phục vụ cho tất cả
mọi người chứ không phải là công cụ của một (vài) nhóm lợi ích nào.3
1
Xem Phụ lục “Các đảng nổi bật tại Đức”.
2
Xem thêm các thảo luận về nhà nước pháp quyền, so sánh với nhà nước pháp trị tại
Raz (2005) và Bellamy (2010).
3
Ngược lại với chế độ pháp quyền là chế độ pháp trị. Trong chế độ pháp trị, pháp
luật là công cụ của giới cầm quyền, phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào
đó và họ lại không bị ràng buộc bởi pháp luật mà họ tạo ra.
71
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Theo Chỉ số Pháp quyền (Rule of Law index) của tổ chức World Justice
Project, Đức nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số pháp quyền cao nhất
trên thế giới. Cụ thể, chỉ số của Đức là 0.84/1.0 năm 2019, đứng thứ 6
trên thế giới.
Bên cạnh đó, quyền lực của nhà nướccũng được chế ngự thông qua
trách nhiệm giải trình và vai trò lớnmạnh của xã hội dân sự.Theo dữ liệu
của Ngân hàng Thế giới1, Đức nằm trong nhóm quốc gia có trách nhiệm
giải trình và tiếng nói của xã hội dân sự caovàthực hiện các quyền tự do
dân sự, bao gồm tự do lập hội, hộp hội và thể hiện quan điểm. Dưới áp
lực từ truyền thông và xã hội dân sự, nhà nước thực hiện giải trình bên
trong (hay giải trình chéo) và giải trình bên ngoài.Trong một hệ thống
chính trị có trách nhiệm giải trình cao, công chúng có thể trực tiếp giám
sát hoạt động quyền lực của nhà nước thông qua các cơ chế dân chủ trực
tiếp như bầu cử và trưng cầu dân ý. Các tổ chức xã hội dân sự được coi
là một trong ba trụ cột cơ bản của xã hội, cùng với cộng đồng kinh tế và
cộng đồng chính trị (Howard, 2003).
Mô hình KTTTXH đòi hỏi phải có một nhà nước có sức mạnh,
nhưng trong vấn đề can thiệp vào thị trường cần phải tuân theo hai
nguyên tắc (Stockmann, 1991). Thứ nhất, nguyên tắc phân cấp trách
nhiệm chỉ ra rằng một giải pháp có sự tham gia của nhà nước thông
thường chỉ là giải pháp ưu tiên thứ hai nếu như có một sự thay thế
khả thi từ cơ chế thị trường. Thứ hai, nguyên tắc tuân thủ thị trường
nghĩa là trong trường hợp phải can thiệp thì cần phải tuân thủ càng
nhiều càng tốt hệ thống thị trường. Câu hỏi thứ hai chỉ được trả lời khi
câu hỏi thứ nhất đã có có câu trả lời. Đối với bất kỳ sự can thiệp nào
vào cơ chế thị trường phải được cân nhắc một cách thận trọng từng
trường hợp. Vai trò chính của nhà nước được nhấn mạnh là tạo không
gian pháp lý để các quy luật thị trường diễn ra và xây dựng hệ thống
an sinh xã hội chất lượng cao, thay vì điều hành, kiểm soát hay tham
gia vào thị trường.
1
72
Xem cụ thể tại https://www.theglobaleconomy.com/rankings/wb_voice_accountability/
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
6.2. CHÍNH SÁCHTIỀN TỆ – TÀI KHOÁ
Chính sách tiền tệ – tài khoá của Đức nhấn mạnh vào sự ổn định giá
trong trung và dài hạn. Chính sách tiền tệ được quyết định bởi NHTƯ
châu Âu1. Theo dữ liệu từ Quỹ Tiền tệ Thế giới, lãi suất trong khu vực
EU đã xấp xỉ 0% thậm chí âm kể từ năm 2014. Nguyên nhân là vì
NHTƯ Châu Âu cắt giảm lãi suất nhằm khuyến khích các khoản vay.
Nền kinh tế đã liên tục được cải thiện kể từ khi kết thúc cuộc khủng
hoảng tài chính 2007-2008. Tuy nhiên, kể từ cuối năm 2018, triển vọng
kinh tế chung đã trở nên có phần ảm đạm hơn. Nguyên nhân có thể
đến từ tranh chấp thương mại Mỹ-Trung Quốc, Mỹ-Châu Âu và Brexit
– các sự kiện gây ra những cú sốc trên thị trường và sự bất an cho các
nhà đầu tư. Kể cả trong trường hợp nền kinh tế ảm đạm hơn thì NHTƯ
Châu Âu cũng khó có thể tăng lãi suất đáng kể vì cần duy trì mục tiêu
bảo vệ giá trị đồng euro.
Liệu quyết định của NHTƯ Châu Âu có độc lập2 không còn là một
vấn đề gây tranh cãi. Smaghi (2008) đã phân tích về mức độ độc lập của
ngân hàng trung ương trên luật pháp và chỉ ra các trường hợp cụ thể về
những tình huống ngân hàng trung ương của một số quốc gia nội khối châu
Âu vi phạm quy định đảm bảo tính độc lập của ngân hàng trung ương. Ông
cho rằng một hệ thống pháp luật đầy đủ củng cố tính độc lập của ngân hàng
trung ương mới chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ để có ngân hàng trung
ương độc lập là văn hóa tôn trọng tính độc lập (và cả nhược điểm của tính
độc lập) của ngân hàng trung ương đến từ các bên có liên quan.
Kloten (1991) mô tả khá cụ thể hoạt động của NHTƯ Liên bang
Đức. Trước hết, NHTƯ Liên bang Đức có sự độc lập lớn trong các
1
Kể từ năm 1999, NHTƯ Liên bang Đức được thiết lập là một phần của hệ thống
đồng euro. Hệ thống đồng euro và NHTƯ một số quốc gia khác hình thành nên
NHTƯ Châu Âu.
2
Berger, Haan, & Eijffinger (2008) đã tổng kết các lý thuyết và bằng chứng về sự ảnh
hưởng của mức độ độc lập của NHTƯ lên lạm phát. Nghiên cứu kết luận rằng mối tương
quan âm giữa sự độc lập của ngân hàng trung ương và lạm phát là tương đối mạnh.
73
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
quyết định của mình khỏi sự chỉ đạo từ chính phủ và quốc hội; không
một cơ quan nào được chỉ định hoạt động của NHTƯ Liên bang Đức.
Điều này bảo vệ chính sách tiền tệ khỏi mục tiêu ngắn hạn của các chính
trị gia và do vậy là một điều kiện thiết yếu cho việc định hướng trung
hạn chính sách tiền tệ và tính nhất quán của nó1.
Như đã chỉ ra ở trên, một đặc điểm quan trọng của mô hình KTTTXH
là quyền lực lớn tương ứng với trách nhiệm lớn và sự tồn tại của các quyền
lực đối trọng. Điều này cũng được áp dụng trong trường hợp của NHTƯ
Liên bang Đức. Ngay cả khi NHTƯ Liên bangđược hưởng cơ chế tự trị,
chính sách tiền tệ vẫn là một bộ phận thống nhất của tiến trình ra quyết
định chính trị phức tạp. Các thành viên của chính phủ được phép tham
gia vào quá trình thảo luận ra quyết định của Ban Giám đốc NHTƯ Liên
bangvà có quyền trì hoãn các quyết định của Ban Giám đốc trong một
khoảng thời gian hạn chế (ví dụ cho tới cuộc họp sau của Ban Giám đốc).
Bên cạnh đó, chính phủ có thể mời Thống đốc NHTƯ Liên bangtham gia
vào các cuộc thảo luận về các vấn đề có ý nghĩa quan trọng với chính sách
tiền tệ. Tại Đức, các nghị sĩ Cộng hòa Liên bang khẳng định rõ ràng rằng
NHTƯ Liên bangvà chính phủ Liên bang sẽ thảo luận về các khác biệt
trong quan điểm một cách công khai nếu cần thiết và rằng họ sẽ xin ý kiến
Quốc hội, các nhóm xã hội, các liên đoàn và viện nghiên cứu.
NHTƯ Liên bang chịu áp lực từ truyền thông, xã hội dân sự và tòa
án; vì vậy,NHTƯ Liên bangthực hiện trách nhiệm giải trình rất tốt. Ví
dụ, họ công bố trước mục tiêu tiền tệ thường niên. Tất nhiên việc tuyên
bố mục tiêu định lượng tiền tệ không phải không có rủi ro.Nghiên cứu
Dumiter (2014)đã tổng kết các chỉ số về mức độ độc lập, minh bạch và
trách nhiệm giải trình của ngân hàng trung ương của một số nước. Kết
quả cho thấy NHTƯ Liên bang Đức nằm trong nhóm nước có các chỉ
1
Theo Kloten (1991), sự độc lập của NHTƯ Liên bang không nhất thiết là bất biến,
mặc dù điều đó được pháp luật bảo vệ. Nó phải được liên tục điều chỉnh. Sự độc lập
đó chỉ bền vững nếu chính sách tiền tệ đạt được sự thành công trong nhiều năm và
cùng lúc đó, sự đồng thuận chính trị rộng rãi về vai trò của chính sách tiền tệ chiếm
ưu thế trong xã hội.
74
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
số về mức độ độc lập, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình cao nhất
trên thế giới.
Việc ổn định giá trước hết và trên hết do ngân hàng trung ương
liên bang đảm nhiệm. Chức năng chính của NHTƯ Liên banglà điều
tiết lượng cung tiền tệ và tín dụng, qua đó bảo vệ đồng nội tệ. Việc hỗ
trợ chính sách kinh tế của Chính phủ Liên bang nhìn chung chỉ là chức
năng thứ hai và được thực thi tùy thuộc vào sự phù hợp của nó với các
chức năng ổn định giá. Ngân hàng liên bang có các công cụ đa dạng và
phức tạp phục vụ việc kiểm soáttổng lượng tiền tệ trên thị trường, xác
định tỷ lệ lãi suất ngân hàng, và xác định lượng dự trữ tối thiểu mà các
ngân hàng thương mại phải duy trì.
Tuy vậy, ổn định tiền tệ không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn của
các chính sách tiền tệ. Nếu các chính sách ngân sách ở các cấp độ liên
bang và bangcho phép chi tiêu ngân sách lớn, dẫn đến thâm hụt ngân
sách trầm trọng thì một mình NHTƯ Liên bangkhông thể ngăn ngừa mà
chỉ có thể làm giảm bớt lạm phát.
Sự tự trị của ngân hàng trung ương đòi hỏi phải có một hội đồng
quản trị và năng lực của các thành viên của hội đồng phải tương xứng
với vị thế đặc biệt của thể chế này. Họ không chỉ phải thể hiện các phẩm
chất chuyên môn đặc biệt mà còn cả nhân phẩm có sức thuyết phục và
khả năng độc lập cao. Các thành viên phải có các nhiệm kỳ đủ dài, ví dụ
như 8 năm đối với các thành viên của Ban Lãnh đạo của NHTƯ Châu
Âu. Vấn đề tái nhiệm, mặc dù còn được tranh luận sôi nổi, hiện vẫn
đang được quy định là không được phép tái nhiệm1. Để loại trừ sự lạm
dụng quyền lực, một thành viên chỉ có thể từ chức trong các điều kiện
cụ thể và phải được sự chấp thuận của Hội đồng.
Các quốc gia nội khối Châu Âu đã hy sinh chính sách tiền tệ qua việc
sử dụng đồng tiền chung. Vì vậy, chính sách tài khóa đóng vai trò quan
trọnghơn trong ổn định các chu kỳ kinh doanh quốc gia (Tenhofen, Wolff
& Kristen, 2010). Các quốc gia thuộc EU ký Hiệp ước Ổn định và Tăng
1
Xem thêm tại https://www.ecb.europa.eu/ecb/orga/decisions/eb/html/index.en.html
75
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trưởng kể từ 1997. Hiệp ước này yêu cầu các quốc gia thành viên đưa
ngân sách quốc gia gần ngưỡng cân bằng trong trung hạn và, để đạt được
điều đó, đặt các mục tiêu ràng buộc cho chính họ. Ngoài ra, hiệp ước đặt
giới hạn trần trong mức thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ. Theo báo cáo của
Bộ Tài chính Liên bang Đức (2019), Đức tiếp tục đạt được hoàn toàn các
nguyên tắc trong hiệp ước trong năm 2018. Đức không những thành công
trong việc giữ mức thâm hụt danh nghĩa dưới mức giới hạn (3% GDP) mà
có được mức thặng dư ngân sách từ 0.5% đến 1.7% GDP kể từ năm 2014.
Bên cạnh mức tăng trưởng GDP mạnh mẽ, thặng dư ngân sách những
năm gần đây góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ nợ. Trong năm 2018, tỷ lệ
nợ trên GDP giảm 3.6 điểm phần trăm xuống còn 60.9% GDP.
Ngoài ra, các quốc gia thành viên khu vực đồng euro phải tuân thủ các
nguyên tắc tài khóa trong Hiệp ước Ổn định, Phối hợp và Quản trị trong
Liên minh kinh tế và tiền tệ. Nó đòi hỏi ngân sách quốc gia đạt ở mức cân
bằng hoặc thặng dư. Quốc gia thành viên nào có tỷ lệ nợ trên GDP ở giá thị
trường thấp hơn mức 60% và có rủi ro thấp trong tính bền vững dài hạn của
tài chính công được phép tăng tỷ lệ thâm hụt đề cập trong mục tiêu trung
hạn với mức tối đa là 1% GDP. Với Chương trình Ổn định của mình, Đức
vẫn duy trì mục tiêu thâm hụt cơ cấu dưới 0.5% GDP.
Cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính Liên bang Đức (2019), chính
phủ Đức đang theo đuổi chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy giáo dục,
nghiên cứu và đổi mới nhằm tăng năng suất lao động và tiềm năng tăng
trưởng. Một mục tiêu quan trọng khác mà chính phủ theo đuổi là tăng
cường công bằng xã hội và tăng cường sự gắn kết xã hội. Để đạt được
điều này, chính phủ có các hỗ trợ với nhóm và gia đình có thu nhập thấp
và trung bình. Kinh phí xây dựng nhà ở xã hội đang tăng lên. Ngoài ra,
sẽ có thể nguồn tài trợ cho việc tái hòa nhập người thất nghiệp trở lại thị
trường lao động. Mức chi tiêu xã hội cao của Liên đoàn phản ánh ưu tiên
cho lĩnh vực này: chi tiêu xã hội chiếm hơn 50% ngân sách liên bang và,
ở cấp độ chính phủ nói chung, chiếm khoảng 24% GDP năm 2018.
Dựa vào các số liệu đánh giá tình hình tài khóa của các quốc gia
xây dựng bởi The Heritage Foundation, có thể so sánh tình hình tài khóa
76
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
của Đức với các quốc gia khác. Về thuế, Chỉ số Gánh nặng Thuế (Tax
Burden)1của Đức có số điểm 60.8/100 năm 2019, đứng thứ 165 trên
thế giới. Chỉ số này hàm ý mức thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp cao so với hầu hết các nước trên thế giới. Ví dụ, thuế thu
nhậpmức cao nhất là 47.5% năm 2019 (bao gồm 5.5% phụ phí). Thuế
doanh nghiệp liên bang cao nhất là 15.8% (con số này lên đến hơn 30%
khi cộng với các loại thuế khác). Gánh nặng về thuế nhìn chung vào
khoảng 37.6% tổng thu nhập quốc nội.
Trong khi đó, Chỉ số Chi tiêu Chính phủ2 là 42.3/100 điểm năm
2019, đứng thứ 156 trên thế giới. Chỉ số này hàm ý mức chi tiêu chính
phủ rất cao so với các quốc gia khác trên thế giới. Như vậy, từ số liệu
kể trêntừ The Heritage Foundation và từ Bộ Tài chính về chi tiêu chính
phủ Đức,có thể thấy Đức đặt các mục tiêu xã hội ở vị trí quan trọng so
với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Điều này nhất quán với tôn chỉ
của giá trị đoàn kết và công bằng về nhu cầu, công bằng về cơ hội của
mô hình kinh tế thị trường.
1
Gánh nặng Thuế là một chỉ số tổng hợp phản ánh mức thuế suất cận biên đối với
thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp và mức thuế chung (bao gồm cả thuế trực
tiếp và gián tiếp được áp đặt bởi tất cả các cấp chính phủ) theo tỷ lệ phần trăm của
GDP. Điểm thành phần được lấy từ ba yếu tố: (i) Thuế suất cận biên cao nhất đối
với thu nhập cá nhân, (ii) Thuế suất cận biên cao nhất đối với thu nhập của công ty
và (iii) Tổng gánh nặng thuế tính theo phần trăm GDP.
2
Chi tiêu Chính phủ là chỉ số thể hiện gánh nặng do chi tiêu của chính phủ, bao gồm
tiêu dùng của nhà nước và tất cả các khoản thanh toán chuyển khoản liên quan đến
các chương trình khác nhau. The Heritage Foundation cho rằng, mặc dù rất khó xác
định mức chi tiêu chính phủ tối ưu, thì chi tiêu chính phủ đến một điểm nào đấy sẽ
trở thành một gánh nặng tất yếu vì tăng trưởng trong quy mô và phạm vi của khu
vực công dẫn đến việc phân bổ nguồn lực sai lệch và giảm hiệu quả kinh tế. Chỉ
số Chi tiêu Chính phủ lấy chi tiêu mức 0 là điểm chuẩn, dẫn đến việc các quốc gia
đang phát triển có năng lực chính phủ thấp có thể sẽ có chỉ số này cao. Vì vậy, để
đánh giá về hiệu quả của chính phủ cần xem xét cả các chỉ số khác như quyền tài
sản, tự do tài chính và tự do đầu tư.
77
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Mặt khác,Đức vẫn duy trì Chỉ số Sức khỏe Tài khóa1rất tốt, 91.8/100
điểm năm 2019, đứng thứ 45 trên thế giới; hàm ý sự quản lý ngân sách
chính phủ tốt, thể hiện ở gánh nặng thâm hụt và nợ ngày càng nhỏ.
Tóm lại, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá của Đức thể hiện
sự tuân thủ khá chặt chẽ các nguyên lý ổn định giá trị tiền tệ và nguyên
lý di động xã hội. Các chính sách nhắm đến mục tiêu trung - dài hạn là
bình ổn giá trị đồng tiền, duy trì tỷ lệ lạm phát thấp. Chính sách tài khoá
tập trung vào nhiệm vụ nâng cao đời sống xã hội cho công dân. Mặc dù
gánh nặng thuế và nợ công còn khá lớn, chính phủ vẫn có quản lý tốt thu
chi ngân sách và đạt được các cam kết về tăng trưởng ổn định.
6.3. QUYỀN TÀISẢN
Chính sách về quyền tài sản không chỉ là động lực thúc đẩy các chủ thể
kinh tế mà còn là phương thức phân chia quyền lực trong xã hội, tạo ra
quyền tự chủ lớn cho mỗi thành phần xã hội. Trong các quyền tài sản,
quyền tư hữu thường bị hạn chế tại các quốc gia theo chủ nghĩa tập thể.
Đặt vào bối cảnh bấy giờ tại Đức khi vừa trải qua mô hình kế hoạch hoá
tập trung trước, trong và bốn năm hậu chiến cùng với sự mở rộng của tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, Eucken cùng những người ủng hộ ông đã phải
đấu tranh liên tục để đưa ra và thực hiện quyền tư hữu.
Theo Franke& Gregosz (2013), sở hữu tư nhân có thể bị xâm hại
không chỉ bởi trộm cắp và cướp giật; các mối đe dọa nghiêm trọng có thể
1
Theo The Heritage Foundation, nợ là sự tích lũy thâm hụt ngân sách theo thời gian.
Trên lý thuyết, nợ tạo ra bởi chi tiêu công có thể đóng góp tích cực cho đầu tư sản
xuất và cuối cùng là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc gia tăng nợ công do thâm
hụt ngân sách kéo dài, đặc biệt là chi tiêu chỉ làm tăng tiêu dùng của chính phủ hoặc
thanh toán chuyển khoản, thường làm suy yếu tăng trưởng năng suất và cuối cùng
dẫn đến đình trệ kinh tế thay vì tăng trưởng. Điểm số của Chỉ số Sức khỏe Tài khóa
dựa trên hai yếu tố, được tính trọng số như sau khi tính điểm tổng thành phần: (i)
thâm hụt trung bình tính theo phần trăm GDP trong ba năm gần đây (80% điểm) và
(ii) Nợ tính theo phần trăm GDP (20% điểm số).
78
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
bắt nguồn từ chính chính phủ. Hình thức chủ yếu lại không phải là việc
tịch thu sung công bởi vì việc này bị luật pháp giám sát chặt chẽ. Các vấn
đề ở đây thường phức tạp và kém rõ ràng hơn nhiều, như những thay đổi
đột ngột không báo trước trong hệ thống pháp luật cũng có thể ảnh hưởng
vô cùng lớn đến các doanh nghiệp đang vận hành trên thị trường. Lấy ví
dụ, nếu một cơ quan lập pháp bất ngờ tăng thuế bảo vệ môi trường thì
một lượng lớn lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm đi, người tiêu dùng
sẽ phải trả giá cao hơn cho sản phảm hoặc cầu cho sản phẩm đó sẽ giảm.
Tất nhiên, người ta chỉ có thể thông qua những đạo luật mới khi có lý do
hợp lý nhưng cần phải báo trước hoặc có những giai đoạn chuyển tiếp và
các quy định pháp lý tạm thời cho phép các doanh nghiệp điều chỉnh để
thích nghi. Vấn đề ở đây là tính nhất quán trong các chính sách của chính
phủ như được đề cập trong nguyên lý Tính nhất quán trong chính sách.
Tài sản tư nhân đại diện cho một vị trí rất quan trọng trong số tất
cả các quyền cá nhân được cấp cho công dân Đức. Theo tổ chức The
Heritage Foundation (2019), chỉ số Quyền Tài sản của Đức là 80/100,
hàm ý mức độ bảo vệ quyền tài sản cao. “Luật pháp Đức bảo vệ đầy
đủ quyền sở hữu cho cả công dân Đức và người nước ngoài. Quyền
lợi được đảm bảo trong tài sản, bao gồm cả tài sản cố định và tài sản
di động, được công nhận và thực thi. Đức tự hào có một chế độ bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ mạnh. Tư pháp độc lập và quy tắc pháp quyền được
áp dụng phổ biến. Trường hợp tham nhũng công hiếm khi xảy ra (ví dụ,
trong lĩnh vực xây dựng) nhưng các hành vi tham nhũng thường bị truy
tố và trừng phạt”1 (The Heritage Foundation, 2019). Mặc dù vậy, Đức
có một số luật hạn chế tự do sử dụng tài sản sức lao động. Tồn tại một
số rào cản như kinh nghiệm, sức khoẻ trong các ngành như thủ công,
1
Nguyên gốc: “German law fully protects property rights for German citizens and
foreigners. Secured interests in property, both chattel and real, are recognized and
enforced. Germany boasts a robust regime to protect intellectual property rights.
The judiciary is independent, and the rule of law prevails. Rare cases of public
corruption occur (for example, in the construction sector), but corrupt acts are
typically prosecuted and punished.”
79
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
các ngành kỹ năng cơ giới (mechanical art)1, thương mại quy mô nhỏ.
Những quy định này được cho là nhằm đảm bảo chất lượng của các
ngành kể trên và cho an toàn người lao động. Chính vì quy định khắt
nghe này mà Đức luôn tự hào mang lại những sản phẩm tinh tế, giúp
cho ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thị trường ngách cũng
kinh doanh hiệu quả.
Về đất đai, tài sản tư nhân của đất đai được bảo vệ bởi hiến pháp
mà còn bởi hệ thống pháp luật của Đức. Theo Điều 14 trong Luật Cơ
bản và Mục 903 trong Bộ luật Dân sự ở Đức các quyền sở hữu đất đai
ở Đức được gọi là tuyệt đối và có tính loại trừ. Một chủ sở hữu tuyệt
đối có quyền kiểm soát hoàn toàn đất đai và tài sản bất động sản khác
trên đất.
Những tiến triển gần đây trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ như bản
quyền tác giả, bí quyết sản xuất, bản quyền, đòi hỏi chính phủ phải có
biện pháp cân bằng quyền lợi của các tác giả lẫn các bên khác như đối thủ
cạnh tranh của họ hay chính công chúng. Tài sản trí tuệ được hưởng lợi từ
sự bảo vệ mở rộng ở Đức đặc biệt là với giá trị thương mại của nó. Trong
số các luật sở hữu trí tuệ có Luật Bản quyền, Luật Sáng chế, Luật Thương
hiệu rất quan trọng đối với các công ty Đức, Luật Thiết kế và Luật Mô
hình Tiện ích. Bộ luật Dân sự Đức cũng có các quy định về bảo vệ sở hữu
trí tuệ. Một luật khác có tầm quan trọng lớn đối với việc bảo vệ sở hữu trí
tuệ ở Đức là Luật chống hạn chế cạnh tranh. Ở cấp độ quốc tế, Đức cũng
là thành viên ký kết của nhiều công ước và hiệp ước quy định việc bảo vệ
sở hữu trí tuệ, tiêu biểu như Hiệp ước Bản quyền của WIPO (Tổ chức Sở
hữu Trí tuệ Thế giới) và Hiệp ước Luật Thương hiệu.
Đối với tài sản công, quyền và trách nhiệm theo dõi, quản lý được
giao cho những pháp nhân cụ thể. Khi có vấn đề gì xảy ra hoàn toàn có
thể quy trách nhiệm và có những chế tài xử nghiêm minh. Nguyên tắc
để đưa ra các quyết định về tài sản công là nguyên tắc phân cấp trách
nhiệm, nghĩa là cấp địa phương có thể có quyền quyết định ở thứ tự ưu
tiên lớn hơn cấp trung ương.
1
Nhóm tác giả tạm dịch “mechanical art” là các ngành kỹ năng cơ giới.
80
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
Tóm lại, quyền tài sản nói chung và quyền tư hữu nói riêng được
công nhận và thực thi nghiêm khắc tại Đức, tuân thủ nguyên lý quyền
tài sản. Đối với tài sản công, việc quản lý ưu tiên phân cho cấp thấp hơn
quản lý theo nguyên tắc phân cấp trách nhiệm.
6.4. CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH
Mục tiêu cơ bản của chính sách cạnh tranh là tạo ra môi trường cho
cạnh tranh diễn ra lành mạnh. Stockmann (1991) cho rằng các mối đe
dọa đối với cạnh tranh hiệu quả đến từ cả khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân. Thứ nhất, phải thừa nhận rằng bất cứ khi nào chính phủ hoạt
động trên cùng một cấp độ với các doanh nghiệp tư nhân đều có thể làm
xuất hiện các mối đe dọa, đặc biệt khi chính phủ tự tách bạch mình với
tư cách là người mua hoặc người bán. Khi đó sẽ xuất hiện những mối đe
dọa do nhà nước gây ra trong vài trò của một lãnh chúa đầyquyền lực.
Cạnh tranh cũng bị ảnh hưởng xấu khi chính phủ lạm dụng vị trí chi
phối của mình trong hoạt động ngoại thương, ví dụ như áp dụng các biện
pháp bảo hộ cho doanh nghiệp trong nước. Mặc dù vậy, bảo hộ vẫn là một
vấn đề gây tranh cãi hiện nay. Thông thường tranh cãi không nằm ở việc
có nên áp dụng các biện pháp bảo hộ hay không mà ở mức độ bảo hộ.
Những mối đe dọa tới cạnh tranh hiệu quả cũng đến từ chính khu
vực tư nhân. Người chơi trên thị trường có xu hướng trốn tránh cạnh
tranh thông qua các thỏa thuận chính thức hoặc phi chính thức. Các thỏa
thuận này được hình thành theo chiều ngang – giữa những đối thủ cạnh
tranh với nhau hoặc theo chiều dọc – giữa người cung cấp và người
mua. Các đối thủ cạnh tranh có thể hình thành các-ten và có những thỏa
thuận như bán giá sản phẩm ở cùng mức giá hay phân chia địa bàn. Đối
với thỏa thuận theo chiều dọc thì người cung cấp có thể buộc các đối
tác bán lẻ bán sản phẩm ở cùng mức giá cố định. Những hạn chế khác
trong khu vực nhân đối với cạnh tranh bao gồm sáp nhập, tẩy chay, lạm
dụng vị trí chi phối thị trường.
Đạo luật đầu tiên nhằm xây dựng cạnh tranh hiệu quả là Luật chống
hạn chế cạnh tranh (1957). Trên thực tế, các hành động như biện pháp bảo
81
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
hộ của nhà nước, hình thành các-ten, sáp nhập của doanh nghiệp đều hợp
pháp ở mức độ nào đó. Ví dụ các-ten, nhà nước vẫn có thể cân nhắc cho
phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành các-ten nhằm cạnh tranh
hiệu quả hơn với các doanh nghiệp lớn hơn trên thị trường miễn là hiệu
quả hỗ trợ cạnh tranh lớn hơn tác động hạn chế mà chúng mang lại.
Các cơ quan chuyên biệt như Ủy ban chống độc quyền, Cục quản
lý Các-ten, Bộ kinh tế liên bang và bang chịu trách nhiệm bảo vệ và
khuyến khích cạnh tranh hiệu quả. Cục quản lý các-ten liên bang dù
trực thuộc Bộ kinh tế liên bang nhưng lại hoạt động một cách độc lập
như một tòa án phúc thẩm. Các quyết định do một ban hội thẩm gồm
ba người thuộc một trong số chín phòng của Cục đưa ra. Cục này giải
quyết hai loại án: hành chính và bán hình sự. Cục không có quyền áp
dụng các hình phạt hình sự, cũng không thể bỏ tù nhưng quyền hạn điều
tra lại rất rộng. Cục có thể lắng nghe các nhân chứng, các chuyên gia,
lục soát và thu giữa tài liệu. Tất cả các phán quyết của Cục quản lý cácten liên bang có thể bị kháng án lên Tòa án phúc thẩm Béc-lin, các phán
quyết của nó không dẫn đến việc hình thành lý lịch hình sự của bên bị.
Theo Mundt (2018) và Budzinski và Stöhr (2018), công tác chống
hạn chế cạnh tranh trong những năm gần đây gặp phải thách thức lớn từ
sự phát triển trên thị trường kỹ thuật số. Nhờ sự phát triển của số hóa mà
các mô hình kinh doanh mới như thị trường nền tảng điện toán hay thị
trường dựa trên dữ liệu đã xuất hiện và phát triển. Thị trường kỹ thuật số
thường rất năng động và có tính đổi mới cao; đồng thời, thường xuyên
có mức độ tập trung cao. Nhiều thị trường kỹ thuật số bị chiếm lĩnh bởi
một vài doanh nghiệp lớn. Google, Faceboook, Amazon là những ví dụ
điển hình. Trên thị trường kỹ thuật số mới mẻ và hiện đại, các hình thức
hạn chế cạnh tranh trở nên phức tạp và khó xác định hơn. Những sự thay
đổi này thách thức tính áp dụng của chính sách cạnh tranh truyền thống.
Cạnh tranh còn bị ảnh hưởng bởi nhiều chính sách khác chứ không
chỉ mình Luật chống hạn chế cạnh tranh vì các chính sách có tính liên
đới lẫn nhau. Ở đây xin đưa ra hai ví dụ. Thứ nhất, nếu chính phủ hay
các doanh nghiệp lớn chi phối truyền thông, khiến các thông tin không
82
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
độc lập và đa dạng, thì các doanh nghiệp có ý định gia nhập thị trường
hay doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động sẽ khó có thể tồn tại được. Thứ
hai là chính sách cơ cấu. Với chính sách cơ cấu vùng, Đức đưa ra các
quy định nhằm giảm thiểu bất lợi về địa điểm cho những khu vực nông
thôn, cách khu vực chịu thiên tai v.v... thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng và
kích thích, hỗ trợ đầu tư. Chính sách như vậy có thể đi ngược với cạnh
tranh nhưng có lại củng cố mặt an sinh xã hội. Khi xảy ra những xung
đột về mục tiêu chính sách thì cần có sự cân nhắc thận trọng để đưa ra
giải pháp phù hợp.
Tóm lại, có thể nói chính sách cạnh tranh của Đức đã thành công
trong việc tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh thông qua hệ thống luật
pháp chặt chẽ và các cơ quan chuyên biệt có quyền lực lớn. Tuy nhiên,
trước thềm số hoá, công tác chống hạn chế cạnh tranh cũng gặp những
thách thức lớn, đòi hỏi tính năng động và sự đổi mới.
6.5. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC
Chính sách giáo dục là một trong những trọng tâm nhằm đạt được
giá trị công bằng về cơ hội tại Đức. Nhằm mục đích tạo điều kiện cho
mỗi trẻ em có được chất lượng giáo dục tốt bất kể nguồn gốc của chúng,
chính quyền đã đưa ra nhiều hỗ trợ trong giáo dục. Ví dụ như các trường
công miễn học phí từ tiểu học cho tới cấp ba và, cho tới thời điểm hiện
tại, hầu hết các trường đều miễn học phí cho cả bậc học cử nhân và bậc
học sau đại học. Ngoài ra các gia đình có con đi học được hỗ trợ giảm
gánh nặng thuế cũng như tạo các đãi ngộ cho phụ nữ trong quá trình
mang thai và nuôi dạy con.
Mặt khác, chính phủ định hướng hệ thống giáo dục phải thực hiện
sao cho ít tốn kém nhất, nghĩa là ít nguồn lực nhất có thể.Một số trường
học bắt đầu thu học phí bậc đại học nhưng hầu hết vẫn chỉ giới hạn là
thu từ sinh viên quốc tế (sinh viên Đức vẫn được miễn học phí). Năm
2015, chi tiêu dành cho giáo dục ở Đức chiếm 4.8% GDP, tỷ lệ này vẫn
thấp hơn tỷ lệ của Việt Nam nhưng Đức được cho là một trong những
quốc gia có nền giáo dục tốt nhất trên thế giới.
83
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tuân theo nguyên tắc phân cấp quyết định, hệ thống giáo dục ở Đức
có sự khác biệt rõ rệt giữa các bang do các bang có toàn quyền quyết định
mô hình và chương trình giáo dục của mình. Trẻ em có quyền đi học mẫu
giáo nhưng không bắt buộc. Các trường mẫu giáo không được miễn phí
nhưng thu phí dựa trên mức thu nhập của phụ huynh. Sau đó, tất cả trẻ
em bước vào giai đoạn học giáo dục bắt buộc trong chín năm. Có ba cấp
học chính là tiểu học, trung học, đại học. Giáo dục bậc tiểu học từ bốn
đến sáu năm, bậc trung học từ năm đến chín năm, tùy theo quy định của
bang và loại trường trung học. Trường trung học cũng được chia làm năm
loại bao gồm Hauptschule1, Realschule2, Gymnasium3, Gesamtschule4 và
Berufsschule5. Các trường này có chức năng khác nhau mà học sinh có
thể tự do lựa chọn phù hợp với định hướng của mình. Các chương trình
đào tạo nghề được đánh giá là có chất lượng rất tốt.Chương trình học đại
học thường kéo dài bốn năm, sau đó là chương trình thạc sĩ trong khoảng
hai năm và tiến sĩ trong từ ba đến năm năm.
1
Bất cứ học sinh tốt nghiệp tiểu học nào tại Đức cũng có thể học ở đây. Trong khi đó,
học sinh cần có điểm số tốt để vào trường Realschule hay Gymnasium. Hầu hết các
trường Hauptschule cũng dạy các môn như Realschule hay Gymnasium nhưng với tốc
độ chậm hơn. Chương trình học tại Hauptschule thường kết thúc khi học sinh khoảng
15 đến 17 tuổi.
2
Realschule có mức độ khó nằm giữa Hauptschule và Gymnasium. Chương trình
học tại Realschule thường kết thúc khi học sinh khoảng 16 đến 17 tuổi. Học sinh
kết thúc chương trình học tại Realschule có thể tiếp tục học tại Gymnasium chuyên
nghiệp hoặc Gymnasium tổng quát nếu điểm số tốt hoặc đi thực tập, đi làm…
3
Gymnasium là trường tiên tiến nhất trong ba loại trường trung học Đức, tập trung vào đào
tạo hàn lâm. Học sinh hoàn thành chương trình ở Gymnasium vào lúc 18 đến 19 tuổi.
4
Gesamtschule là sự trộn lẫn của Hauptschule và Realschule. Học sinh hoàn thành
tốt Gesamtschule đến lớp 9 sẽ nhận được chứng chỉ Hauptschule, trong khi những
học sinh hoàn thành việc học đến lớp 10 sẽ nhận được chứng chỉ Realschule.
5
Berufsschule kết hợp việc học tập và học việc bán thời gian. Học sinh hoàn thành
chương trình học nghề sẽ được cấp chứng nhận nghề trong một lĩnh vực công việc
cụ thể. Các trường này khác với các loại trường khác ở chỗ nó không thuộc kiểm
soát của chính quyền địa phương hay bang, mà của chính phủ liên bang, ngành
công nghiệp và các công đoàn.
84
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
Một trong những tranh cãi về chính sách giáo dục của Đức nằm ở
vấn đề liệu nhà nước có nên trao nhiều quyền và trách nhiệm cho các
trường học hơn và chỉ nên xác định những điều kiện chung để trong đó
các trường cạnh tranh với nhau. Hiện nay, nhà nước vẫn được xem là
“người đỡ đầu” hệ thống giáo dục và thực hiện đúng với tư cách đó.
Hậu quả là phần lớn các trường học bị đặt dưới nhiều điều tiết, dự kiến
phát triển theo dự kiến của nhà nước thay vì hoạt động theo quy luật thị
trường. Tuy nhiên, xu hướng cho thấy nhà nước đã bắt đầu giảm thiểu
vai trò điều hành trực tiếp, thay vì thế đóng vai trò bảo vệ và khuyết
khích quyền lợi giáo dục của công dân.
6.6. CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG
Chính sách việc làm đóng vai trò quan trọng do hầu hết thu nhập của
cá nhân đến từ tiền lương. Khả năng hoạt động của thị trường lao động
chịu tác động bởi các hệ thống luật lệ phức tạp, trước hết là bởi quyền
thỏa thuận hiệp thương, pháp lệnh xí nghiệp và quyền đồng quyết, các
quy chế chống sa thải và các quy định về hỗ trợ thất nghiệp và trợ cấp
xã hội.
Như đã trình bày ở trên, Đức có sự can thiệp mạnh mẽ vào thị
trường lao động. Sự can thiệp theo hướng tăng cường và bảo vệ quyền
lực của các tổ chức đại diện cho người lao động (các liên hiệp, công
đoàn) hơn là các quy định thuận lợi cho doanh nghiệp.Theo số liệu
củaThe Heritage Foundation, Chỉ số Tự do Lao động1 của Đức năm
1
Theo The Heritage Foundation, Tự do Lao động là một thước đo định lượng xem
xét các khía cạnh khác nhau của khung pháp lý và điều tiết của thị trường lao động
của mỗi quốc gia, bao gồm các quy định về tiền lương tối thiểu, luật pháp ngăn
chặn sa thải, yêu cầu thôi việc và các hạn chế hợp pháp về thuê nhân sự và thời gian
làm việc. Sáu nhân tố được xem xét và đánh trọng số như nhau bao gồm: (i) tỷ lệ
tiền lương tối thiểu trên giá trị gia tăng trên mỗi công nhân trung bình, (ii) rào cản
thuê thêm công nhân, (iii) sự cứng nhắc của thời gian làm việc, (iv) cản trở trong
việc sa thải nhân viên dư thừa, (v) thời hạn thông báo bắt buộc về mặt pháp lý, (vi)
trợ cấp thôi việc bắt buộc.
85
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2019 là 52.8/100 điểm, thuộc nhóm “gần như không có tự do”. Ví dụ,
mức lương tối thiểu theo luật định tại Đức bắt đầu có hiệu lực kể từ
01/01/2015 ở mức €8.50 một giờ sau thuế. Mức lương tối thiểutăng
lên€9.19 một giờ năm 2019. Thời gian tối đa để thuê người lao động
tạm thời là mười tám tháng, sau chín tháng thì được quyền trả bằng
lương nhân viên lâu dài và không được phép thay thế nhân viên bãi
công bằng nhân viên tạm thời.Cải cách Hartz cũng đã gây ra phân hoá
mạnh mẽ hơn trên thị trường lao động.
Theo Soltwedel (2005), chính sách thị trường lao động có thể được
chia làm hai loại. Loại thứ nhất, chính sách thị trường lao động thụ động,
đặt mục tiêu chính là cải thiện thu nhập của người thất nghiệp. Công cụ
của nó là tiền thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, tiền lao động thời vụ, tiền
hỗ trợ phá sản, tiền nghỉ đông. Loại thứ hai,chính sách thị trường lao động
chủ động, đặt mục tiêu chính là đưa người thất nghiệp khó khăn trở lại một
quan hệ lao động bình thường, nghĩa là tạo thuận lợi cho thời kỳ chuyển
giao sang một công việc mới và rút ngắn thời kỳ thất nghiệp.Công cụ của
nó là các biện pháp tạo việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề, các biện pháp tập
huấn, ủng hộ việc tư vấn và môi giới việc làm, hỗ trợ lưu động, hỗ trợ
hòa nhập, hỗ trợ làm nghề tự do, khắc phục thất nghiệp dài hạn và tài trợ
cho các biện pháp điều chỉnh cơ cấu.Cả hai yếu tố trên của chính sách thị
trường lao động đều được luật hóa trong Luật hỗ trợ lao động tại Đức. Việc
áp dụng vào thực tiễn là nhiệm vụchính của Cơ quan Lao động Liên bang.
Một trong những tranh cãi là về thời hạn và mức độ các khoản hỗ
trợ. Sự hỗ trợ này không những ảnh hướng tới thái độ của người lao động
mà còn của các bên hiệp thương. Để tránh việc lạm dụng các hỗ trợ, giảm
ý thức và tinh thần thích nghi thì mức độ hỗ trợ cần tương xứng với cống
hiến mà người lao động đã tạo ra và phù hợp với tình hình tại thời điểm
đó. Thực tế cho thấy, an sinh xã hội tối thiểu ở Đức ở mức cao so với
hầu hết các quốc gia trên thế giới đi kèm với mức thuế thu nhập luỹ tiến
cao, có thể lên đến 40% thu nhập ở bậc cao nhất sau khi cộng các phí.
Mặt khác, nhà nước cũng đã nỗ lực nhất định trong việc tạo động lực cho
người dân đi làm thay vì dựa dẫm vào các hỗ trợ xã hội, ví dụ, thông qua
việc hợp nhất hỗ trợ an sinh xã hội và hỗ trợ thất nghiệp làm một.
86
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
Bên cạnh các công cụ của chính sách lao động, cần có các biện
pháp thúc đẩy sự thành lập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ
sở không phân biệt đối xử. Đây là một trong những phương thức hiệu
quả nhất trong việc tạo việc làm.Doanh nhiệp vừa và nhỏ tại Đức chiếm
99% tổng số doanh nghiệp và tạo ra 60-70% tổng số việc làm. Cần lưu ý
là nếu chính phủ tạo điều kiện trên cơ sở phân biệt đối xử, chỉ nhằm bảo
vệ việc làm trong một nhóm doanh nghiệp (nhà nước hay tư nhân) vận
hành không hiệu quả thì đây là biện pháp không hiệu quả, phản cạnh
tranh và không phù hợp với nền kinh tếthị trường. Các doanh nghiệp
làm ăn không hiệu quả phải rời khỏi thị trường để cho phép có một sự
tái phân bố các nguồn lực hiệu quả hơn bao gồm lao động. Những người
bị mất việc làm được hưởng trợ cấp thông qua hệ thống an sinh xã hội
cần phải được giúp đỡ để tìm việc làm mới.
Tóm lại, nhà nước Đức có sự can thiệp lớn vào thị trường lao động
theo hướng bảo vệ quyền lợi của người lao động. Các liên hiệp và công
đoàn có sức mạnh lớn và quyền đồng quyết được tôn trọng. Cơ quan
Lao động Liên bang và các cơ quan khác thực hiện cả chính sách thị
trường lao động chủ động và thụ động.
6.7. CHÍNH SÁCH TRUYỀN THÔNG
Chính sách truyền thông có liên quan trực tiếp đến việc thực thi quyền
tự do và công bằng. Truyền thông là một công cụ vô cùng mạnh, tác
động đến tất cả khía cạnh của xã hội. Xét riêng trên khía cạnh kinh tế,
thông tin tốt không chỉ mở rộng sự lựa chọn cho các chủ thể kinh tế mà
còn giúp họ đưa ra quyết định đúng đắn hơn. Như đã phân tích, chính
sách truyền thông còn liên quan trực tiếp đến chính sách cạnh tranh.
Theo báo cáo của Trung tâm Đa nguyên Truyền thông và Tự do
truyền thông (2016), đa nguyên truyền thông ở Đức chịu rủi ro thấp đến
trung bình. Cụ thể, về đa nguyên thị trường, các đài phát thanh công và
ba đài thương mai lớn nhất chiếm đến 88% thị phần. Sự tập trung quyền
này đem lại rủi ro nhất định đến tính đa nguyên truyền thông. Về độc
lập chính trị, các đài phát thanh và báo chịu phần nào ảnh hưởng của
87
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
các đảng chính trị do họ sở hữu một phần cổ phần. Các rủi do vừa nêu,
tuy nhiên, vẫn ở mức thấp. Rủi ro cao được thấy trong tính dung hợp xã
hội của truyền thông. Các nhóm thiểu số (khoảng 0.3% dân số) không
có sự tiếp cận với thời gian phát song trên tivi hay radio.
Hội đồng Báo chí Đức – một tổ chức tự điều hành của các hiệp hội
nhà báo và các hiệp hội nhà xuất bản in ấn – đã thành lập Bộ luật Báo
chí Đức. Các cơ quan quản lý bao gồm Cơ quan Mạng lưới Liên bang,
Văn phòng Các-ten Liên bang và mười bốn Cơ quan Truyền thông Khu
vực hoạt động độc lập và hiệu quả.
Có ba lĩnh vực truyền thông chính là báo chí, điện ảnh và phát
thanh – truyền hình. Kênh truyền thông phổ biến nhất là tivi và radio.
Theo Trung tâm Đa nguyên Truyền thông và Tự do truyền thông (2016),
khoảng 80% dân số Đức trên mười ba tuổi xem tivi và 74% nghe đài
mỗi ngày. Khoảng 46% dân số sử dụng Internet và 33% tiếp cận với
báo in mỗi ngày. Trong ba lĩnh vực đó thì lĩnh vực phát thanh – truyền
hình trên có sự can thiệp rõ ràng nhất của nhà nước do quan niệm rằng
lĩnh vực này có sức mạnh ghê gớm của những hình ảnh sinh động gắn
bó với khả năng truyền đạt tổng hợp của chúng.
Ở Đức vừa có đài tổ chức theo kiểu kinh tế tư nhân, vừa có đài công
cộng luật định.Các đài tư nhân tự trang trải chủ yếu bằng các nguồn thu
quảng cáo hoặc bằng lệ phí cung cấp còn các đài nhà nước có nguồn thu
chủ yếu từ lệ phí phát thanh – truyền hình bắt buộc. Mức lệ phí bắt buộc
ấy được ấn định theo đăng ký sử dụng các đài công cộng. Các đài đó được
kiểm tra bởi một hội đồng chuyên môn về độ tin cậy và được các bang
thông qua trong khuôn khổ của Thỏa thuận Phát sóng giữa các Tiểu bang.
Các đài phát thanh – truyền hình công cộng được tự do xác định
nội dung truyền thông cơ bản. Để duy trì được cục diện tư tưởng rộng
rãi thực sự trong khuôn khổ của chương trình được phát đi, các đài công
cộng được tổ chức theo kiểu đa nguyên – thành phần của hội đồng phát
thanh là đại diện của các nhóm xã hội quan trọng như các đảng phái,
hiệp hội, nhà thờ v.v… Các cục truyền thông bang do các bang thành
lập cũng được tổ chức theo lối đa nguyên theo dõi duy trì những qui
định nội dung của Thỏa thuận Phát sóng giữa các Tiểu bang.
88
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
Thách thức của chính sách truyền thông tại Đức đến từ thời buổi
Internet. Các chính sách truyền thống vốn tập trung vào phát thanh, có thể
sẽ sớm không phù hợp khi Internet ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
6.8. CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG MỞ
Là một nước thành viên củaEU, Đức cam kết bốn tự do kinh tế: tự do di
chuyển của hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn trong phạm vi các nước
thành viên.Cho đến năm 2017, EU đã ký kết 36 hiệp định thương mại tự
do với các nước phi thành viên.Theo số liệu từ WTO (Tổ chức Thương
mại Thế giới),xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước
Đức, chiếm 41% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Đức là nước xuất
khẩu lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Phần lớn xuất khẩu
hàng hóa của Đức được tiêu thụ tại thị trường nội khối EU (khoảng
70%), tại châu Á (16%), tiếp đó là thị trường Mỹ (10%).Vì phụ thuộc
vào ngoại thương nên khi khủng hoảng kinh tế diễn ra tại các nước bạn
hàng của Đức, nền kinh tế Đức bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Mức độ hội nhập thương mại của một quốc gia thường được đo
lường dựa trên tự do di chuyển của hàng hoá, vốn và lao động. Về
thương mại hàng hoá, rào cản thuế quan đã bị dỡ bỏ đáng kể. Theo The
Heritage Foundation, mức thuế suất áp dụng trung bình của Đức vào
năm 2019 là 2%, chỉ số về tự do thương mại1 là 86/100. Tuy nhiên, các
rào cản phi thuế quan lại được áp dụng nhiều, ví dụ như các quy định về
kỹ thuật, quy định về sản phẩm, trợ cấp và hạn mức.
Về chu chuyển vốn, Đức là một trong những quốc gia Chỉ số Mở
cửa Tài chính (Financial Openness Index)xây dựng bởi Chinn-Ito2cao
1
Theo The Heritage Foundation, Tự do Thương mại là một thước đo tổng hợp của
việc không có hàng rào thuế quan và phi thuế quan ảnh hưởng đến nhập khẩu và
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
2
Chỉ số Chinn-Ito là chỉ số đo lường mức độ mở cửa tài khoản vốn của một quốc
gia. Chỉ số này được xây dựng dựa trên biến giả nhị phân thể hiện các hạn chế đối
với giao dịch tài chính xuyên biên giới lấy từ Báo cáo Thường niên của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế về Thỏa thuận Trao đổi và Hạn chế trao đổi. Chỉ số dao động từ -2.35
89
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
nhất. Cụ thể, Chỉ số Mở cửa Tài chính Chinn-Ito năm 2017 của Đức
là 1/1 điểm, hàm ý mức độ chu chuyển vốn xuyên biên giới tự do cao.
TheoThe Heritage Foundation, chỉ số tự do đầu tư1 của Đức là 80/100
điểm, thuộc nhóm “tự do”.
Một trong những chính sách hội nhập được quan tâm nhất là chính
sách đối với dân di cư. Theo Bundeszentrale für politische Bildung, hơn
20% công dân ở Đức có nguồn gốc là dân di cư2. Nước Đức có những
chính sách không phân biệt đối xử với lao động nước ngoài. Tuy nhiên
trên thực tế người di cư không có cùng các cơ hội như người bản địa.
Theo nghiên cứu của Viện Bertelsmann (2012), ở Đức còn thiếu những
quy định việc chu chuyển lao động có tay nghề.Chỉ từ năm 2005, chính
sách thúc đẩy hội nhập lao động mới được coi là một nhiệm vụ của
chính phủ trong Luật Nhập cư.
Trong nguyên lý thị trường mở còn đề cập đến mức độ dễ dàng để
thành lập doanh nghiệp tại Đức. Về điểm này, Đức đã đặt rào cản khá
lớn như thời gian giải quyết lâu, thủ tục phức tạp và yêu cầu về vốn cao.
Tóm lại, Đức là quốc gia có mức độ tự do thương mại quốc tế
cao. Dòng di chuyển của hàng hoá, dịch vụ, vốn được đánh giá là dễ
dàng nhưng dòng di chuyển lao động lại gặp nhiều rào cản. Thành lập
doanh nghiệp ở Đức không dễ dàng vì những yêu cầu pháp lý cao và
thủ tục phức tạp.
đến +2.35. Trong đó, chỉ số càng lớn thể hiện tự do dòng vốn càng lớn. Chỉ số này
được quy về thang 0 đến 1, trong đó 1 là mở cửa dòng vốn tối đa.
1
Theo The Heritage Foundation, một quốc gia tự do về kinh tế sẽ không có ràng
buộc nào về dòng vốn đầu tư. Các cá nhân và công ty sẽ được phép chuyển nguồn
lực của họ vào và ra trong các hoạt động cụ thể, cả trong nội bộ và trên toàn quốc
biên giới, mà không bị hạn chế. Một quốc gia lý tưởng như vậy sẽ nhận được số
điểm 100 về thành phần Tự do Đầu tư của Chỉ số Tự do Kinh tế.
2
Xem thêm tại https://www.bpb.de/gesellschaft/migration/laenderprofile/262812/
integration -and-integration-policies-in-germany.
90
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
6.9. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG
Chính sách môi trường ở Đức được thực hiện theo sự phân chia quyền
hạn như trong bộ Luật Cơ bản. Cụ thể, Liên bang chịu trách nhiệm phần
lớn đối với việc ban hành các điều luật thích hợp. Liên bang đưa ra các
quy định tối đa các chất độc hại được thải ra nhưng không chi tiết ở
mức cân nhắc tới đặc điểm của từng địa phương. Trách nhiệm thi hành
về mặt kỹ thuật của các điều luật là của các bang và các Hội đồng chính
phủ. Ngoài ra còn có hiệp hội các doanh nghiệp (tìm cách bảo vệ môi
trường ở mức tối thiểu nhằm hạn chế sức ép chi phí) và các hiệp hội bảo
vệ môi trường (tìm cách bảo vệ môi trường ở mức tối đa). Chính sách
môi trường tại Đức cũng bị ảnh hưởng bởi quy định chung của EU theo
nguyên tắc phân cấp.
Theo Báo cáo về việc thực hiện các nhiệm vụ môi trường của
Hội đồng Châu Âu (2019), Đức có một bộ chính sách và luật pháp
môi trường toàn diện, thành tích tốt trong việc thực thi luật pháp về
môi trường của EU. Người dân có nhận thức mạnh mẽ về bảo vệ môi
trường1 và đòi hỏi nỗ lực bảo vệ môi trường lớn hơn từ chính phủ2. Mật
độ dân số tương đối cao và cường độ nông nghiệp ngày càng tăng gây
áp lực mạnh mẽ lên hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Là một quốc gia
liên bang, việc thực thi luật môi trường chủ yếu nằm trong tay của từng
bang, dẫn đến sự khác biệt trong việc thực hiện.
Đức đã có những nỗ lực đáng kể trong việc giảm thải CO2. Đức
đã chi 19,185 tỷ EUR (0.6% GDP) cho bảo vệ môi trường năm 2016,
tăng 6,7% so với năm 2015. Trong đó, 27% được phân bổ cho quản
lý chất thải (trung bình ở EU là 49,7%), 23% cho nước thải quản lý
1
Trong khảo sát Special Eurobarometer 468 năm 2017 về thái độ của công dân Liên
minh Châu Âu đối với môi trường năm 2017, 91% số người Đức được hỏi đồng
ý với tuyên bố rằng với tư cách là một cá nhân họ có thể đóng vai trò bảo vệ môi
trường ở đất nước của họ.
2
Nguồn https://www.bmu.de/pressemitteilung/umweltbewusstseinsstudie-2018-bevoelkerung
-erwartet-mehr-umwelt-und-klimaschutz-von-allen-akteuren/
91
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
và 27,7% để giảm ô nhiễm. Khoảng 8.2% chi phí môi trường (571 tỷ
EUR) đã được phân bổ để bảo vệ đa dạng sinh học và cảnh quan. Từ
năm 2012 đến 2016, tài trợ chung của chính phủ cho bảo vệ môi trường
lên tới 88849 tỷ euro, con số cao thứ hai trong EU. Một số chương trình
đã được phát triển để tài trợ cho các dự án liên quan đến bảo vệ môi
trường, thiên nhiên và khí hậu, ví dụ: năng lượng tái tạo và hiệu quả
năng lượng.
Các công cụ thực hiện bảo vệ môi trường quan trọng bao gồm thuế
xanh, mua sắm công xanh, tài trợ và đầu tư môi trường. Báo cáo của
Hội đồng Châu Âu (2019) cũng đưa ra số liệu chính thức về việc sử
dụng các công cụ này tại Đức. Doanh thu từ thuế môi trường của Đức
thuộc loại thấp nhất ở EU, chiếm 1,86% GDP năm 2016 (trung bình
của EU: 2,44%), giảm từ 2% trong năm 2014. Thuế năng lượng chiếm
1,54% GDP, thấp so với mức trung bình của EU là 1,88%. Tỷ lệ doanh
thu từ thuế môi trường trên GDP giảm, chủ yếu là do thuế suất đối với
nhiên liệu động cơ đã không được điều chỉnh kể từ năm 2003.
Chính sách môi trường ở Đức có một số khiếm khuyết nhất định.
Nghiên cứu của Viện Bertelsmann (2012) chỉ ra rằng việc sử dụng các
công cụ thị trường trong chính sách môi trường của Đức còn hạn chế.
Trên thực tế, các quốc gia khác cũng áp dụng các biện pháp can thiệp
trực tiếp sau khi sự vụ đã diễn ra nhiều hơn. Điểm thứ hai là một phần
doanh thu từ thuế môi trường được sử dụng để chi trả cho các khoảng
an sinh xã hội thay vì mục đích bảo vệ môi trường.
Tóm lại, các chính sách của Đức được xây dựng dựa trên sự tôn
trọng nhân phẩm con người, công nhận tư tưởng đa nguyên, củng cố
giá trị tự do, công bằng và đoàn kết. Các chính sách trên thực tế có
khoảng cách so với mô hình lý thuyết, nhưng cũng tiến rất gần với mô
hình KTTTXH. Mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội nhân
sự nhận thấy một sự dung hoà và đối trọng quyền lực. Ba trụ cột đều
vững, vừa củng cố vừa kiểm soát lẫn nhau. Cơ chế thị trường được đặt
là ưu tiên thúc đẩy nền kinh tế, nhà nước hạn chế tối đa sự can thiệp vào
thị trường. Nhà nước đóng vai trò chủ yếu là tạo điều kiện để cơ chế thị
92
MÔ HÌNH THỰC TIỄN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
trường vận hành công bằng, tập trung vào các mục tiêu xã hội. Hệ thống
chính trị được thiết kế phi tập trung, phân chia quyền lực theo chiều dọc
và chiều ngang. Xã hội dân sự có tiếng nói mạnh mẽ, có khả năng gây
áp lực lên quyền lực nhà nước. Về chính sách kinh tế, phát triển kinh tế
lấy cạnh tranh làm cơ chế, quyền tài sản làm động lực, các chính sách
vĩ mô định hướng trung và dài hạn. Về chính sách xã hội, nhà nước xây
dựng hệ thống giáo dục tốt nhằm đảm bảo tính công bằng cơ hội và xây
dựng hệ thống an sinh xã hội tốt nhằm đảm bảo tính công bằng thành
tựu và công bằng nhu cầu. Về chính sách môi trường, Đức đạt được hầu
hết các mục tiêu cam kết đặc biệt là thành tựu giảm thải khí CO2. Chính
sách truyền thông duy trì bảo vệ đa nguyên truyền thông, tạo không
gian thông tin đáng tin cậy, đa chiều. Bên cạnh những thành công cũng
tồn tại những khuyết điểm và thách thức trước bối cảnh toàn cầu hoá,
công nghệ thông tin phát triển và vấn đề di cư.
93
7.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM
Ra đời trong một bối cảnh đặc biệt và tỏ ra thành công, mô hình
KTTTXH được kỳ vọng là sẽ mang lại những bài học giá trị có tính
ứng dụng cao cho các nước đang phát triển. Mô hình KTTTXH ra đời
sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Đức trong tình trạng khởi động
lại, bắt đầu mọi thứ trên đống đổ nát. Nhưng họ không bước vào tương
lai với con số không, mà với cả một nền tảng tư tưởng, văn hóa, lịch sử
cùng khối tài nguyên mà ta gọi là vốn con người và vốn xã hội không
dễ bị hủy diệt.Tính đến thời điểm đó, Đức cũng đã trải qua nhiều giai
đoạn lịch sử và nhiều mô hình kinh tế - xã hội khác nhau, từ kế hoạch
hoá tập trung phục vụ chiến tranh, kế hoạch hoá tập trung hậu chiến đến
chủ nghĩa tư bản, từ thời quân chủ chuyên chế đến thời dân chủ non trẻ
Weimar và thời Quốc xã. Đức đã khao khát tìm con đường thứ ba, một
con đường giải quyết phần nào những khiếm khuyết của các mô hình
kể trên mà vẫn phù hợp với văn hoá, tập tục và những giá trị mà người
Đức gìn giữ. Mô hình KTTTXH đã trở thành lời giải đáp, đem lại thành
công thần kỳ cho nước Đức bại trận đổ nát, đã tỏ ra hiệu quả trong việc
cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Việt Nam cũng tìm kiếm mô hình phát triển cân bằng giữa mục
tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội nhưng lại mang những đặc thù hoàn
toàn khác nước Đức. Việt Nam cũng bắt đầu lại từ đầu chính thức kể
từ sau ngày thống nhất năm 1975, ba mươi năm sau năm độc lập. Sự
95
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
bắt đầu muộn màng ấy kéo theo mười một năm trong thời kỳ bao cấp
theo mô hình Liên Xô đã làm nền kinh tế của Việt Nam dậm chân tại
chỗ. Như những gì đã xảy ra ở Đức trong vài năm sau hậu chiến, nhiều
doanh nghiệp đã phải tìm cách “phá rào” bao cấp, mở màn cho thời kỳ
Đổi Mới.1Như vậy, nền kinh tế Việt Nam mới bắt đầu có những bước
đi chập chững theo mô hình kinh tế thị trường được hơn ba thập kỷ mà
chưa từng có kinh nghiệm trước đó. Bên cạnh đó, những khác biệt trong
thể chế chính thức cũng như phi chính thức khiến việc thay đổi trở nên
khó khăn hơn. Giả sử,các quốc gia kém phát triển có thể bê nguyên thể
chế chính thức của một quốc gia phát triển nào đó về sau một đêm thì
sự thay đổi của thể chế phi chính thức chắc chắn sẽ cần nhiều thời gian
hơn thế, có khi là nhiều thập kỷ hoặc nhiều thế kỷ. Mặc dù có những
khác biệt cố hữu, chúng tôi cho rằng có một số điểm sáng của mô hình
KTTTXH mà Việt Nam có thể học được. Trong phần này, chúng tôi cố
gắng phác thảo ra những bài học lớn.
7.1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC – THỊ TRƯỜNG – XÃ HỘI
DÂN SỰ
Trước hết, điểm nhân văn và nhân bản của mô hình Đức, là toàn bộ
thiết kế xã hội và thể chế được tao ra là nhằm phục vụ con người. Nói
cụ thể hơn, con người chính xác là chủ thể duy nhất của mọi quá trình
xã hội, như được xác định ngay tại Điều 1 của Luật Cơ bản. Con người
ở đây là những con người cụ thể, tức là các thành viên đang hiện hữu
trong xã hội ngay lúc này, chứ không phải con người trừu tượng, chung
chung. Điều ấy cũng hàm ý rằng, hệ thống thể chế và luật pháp cùng
toàn bộ thiết kế xã hội không phải để nhằm phục vụ hay duy trì một
chế độ hay một lý tưởng nào. Ngược lại, các chế độ hay lý tưởng phải
để nhằm phục vụ những con người cụ thể đang sống trong xã hội đó.
Vì thế, toàn bộ thể chế và hệ thống pháp luật đặt con người làm trung
tâm. Như đã phân tích, điều đầu tiên Luật Cơ bản của Đức nhắc đến là
1
Tìm đọc Đặng Phong (2009) để có thêm thông tin về các câu chuyện phá rào của
doanh nghiệp thời bao cấp.
96
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
tôn trọng nhân phẩm con người và toàn bộ Chương I (mười chín điều)
quy định các quyền tự do cơ bản của con người; toàn bộ những giá trị,
nguyên lý trên lý thuyết cũng như những thiết chế chính trị – xã hội trên
thực tế đềunhằm mục đích ấy.
Trong khi đó, toàn bộ mười ba điều Chương I của Hiến pháp Việt
Nam quy định về chế độ chính trị, con người đặt ở phía dưới, phục vụ
cho chế độ. Để có thể học tập được từ mô hình của nước Đức, điều thiết
yếu đầu tiên là học cách đặt con người làm trung tâm, xây dựng luật
pháp, chế độ, thể chế để phục vụ con người.1
Về vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh tế, nhà nước cần
giảm thiểu sự can thiệp vào nền kinh tế. Nhiệm vụ chính của nhà nước
là tạo điều kiện để cơ chế thị trường vận hành hiệu quả, cạnh tranh lành
mạnh và tập trung vào các mục tiêu xã hội. Để làm được điều đó, cần
tạo lập hành lang pháp lý rõ ràng cho quyền tài sản, khuyến khích tư
nhân hoá, cho phép truyền thông độc lập và đa nguyên hơn nhằm cung
cấp thông tin minh bạch, khách quan cho các chủ thể kinh tế. Hiện nay,
nhà nước chi phối sâu vào các hoạt động kinh tế, trong khi tư pháp
không duy trì được tính độc lập tương đối của mình và xã hội dân sự
không đủ mạnh để gây áp lực trách nhiệm giải trình cho chính phủ.
Về mô hình chính quyền, nhà nước cần nâng cao trách nhiệm giải
trình và có các đơn vị đối trọng nhằm kiểm soát quyền lực.Chỉ số về
trách nhiệm giải trình2 của Việt Nam thấp so với mặt bằng chung của
các nước trong khu vực, chỉ nhỉnh hơn Lào và thấp hơn rất nhiều so với
các nước trong ASEAN. Theo Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Khắc Giang,
Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Quang Thái, & Đỗ Thanh Hương (2016)
hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay trên danh nghĩa là một hệ
1
Ở điểm này cần lưu ý, “con người” ở đây hàm ý con người trong thể chế họ sống,
chứ không nhất thiết là người bản địa, tránh sa vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
2
Xem thêm về chỉ số trách nhiệm giải trình (Voice and Accountability) tại
https://govdata360.
worldbank.org/indicators/h762cac3a?
country
=VNM&
indicator=382&countries=LAO,KHM, JPN,DEU,THA,MYS,MMR, IDN&viz=line
_chart&years=1996,2017
97
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
thống chính trị một đảng chuyên chính nhưng trên thực tế lại mang
nhiều nét của một hệ thống chính trị một đảng thống lĩnh. Nếu không
có những biện pháp kịp thời thì hệ thống chính trị của Việt Nam sẽ dễ
rơi vào nguy cơ thoái hóa, chuyển sang những mô hình chính trị một
đảng thống lĩnh không thân thiện với nền kinh tếthị trường và kìm hãm
xã hội dân sự phát triển như đã từng xảy ra ở Ấn Độ và Liên bang Nga
hiện nay. Tại Việt Nam, vai trò của xã hội dân sự còn mờ nhạt. Không
có luật về xã hội dân sự làm hành lang pháp lý. Dự thảo Luật về Hội
năm 2016 là bước đi đầu tiên nhưng lại có nhiều bất cập, được nhận xét
là tạo nhiều rào cản cho việc thành lập hội. Dự thảo Luật về hội không
được thông qua nên cho đến giờ vẫn chưa có Luật về Hội.
Mặc dù Hiếp pháp có chỉ ra rằng tổ chức nhà nước Việt Nam phân
chia quyền lực theo chiều ngang và chiều dọc và là một nhà nước pháp
quyền, nhưng thực tế chưa thấy những đặc điểm này được thực hiện chặt
chẽ. Việc các thành viên quan trọng trong cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp đều là thành viên của một đảng dẫn đến tình trạng che giấu do
tránh làm mất lòng hoặc bao che lẫn nhau. Số lượng đại biểu chuyên
trách còn ít (khoảng 30% tại Đại hội lần thứ XIII năm 2016). Chỉ số Nhận
thức Tham nhũng của Việt Nam chưa bao giờ vượt qua mốc trung bình
và luôn nằm ở nhóm quốc gia tham nhũng nhất trên thế giới.1 Theo The
Heritage Foundation (2019), Chỉ số Minh bạch Chính phủ của Việt Nam
chỉ đạt 34/100 điểm với nhận xét “tham nhũng và gia đình trị tràn lan
trongĐCSVN và trong các DNNN”. Bên cạnh đó, do Quốc hội chỉ họp
hai lần một năm và các chất vấn lại không có tính ràng buộc về thi hành
nên rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội được chất vấn hết năm này đến năm
khác không có nhiều tiến triển. Quốc hội hầu như không có khả năng đảo
ngược lại những định hướng hay quyết định mà Ban Chấp hành Trung
ương ĐCSVN thông qua trước đó. Hệ thống tư pháp không độc lập, bị
kiểm soát bởi ĐCSVN ở mọi cấp. Chỉ số Hiệu quả Tư pháp cũng ở mức
rất thấp 40.3/100 điểm (The Heritage Foundation, 2019).
1
Chi tiết về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI index) xem tại https://www.
transparency.org/research/cpi/overview
98
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Cần nâng cao nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền. Hệ thống
pháp quyền của Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng. Tuy nhiều
bộ luật được ban hành trong những năm qua nhưng chất lượng và khả
năng thực thi chúng còn yếu. Điều này được phản ánh qua Chỉ số Pháp
quyền1 ở mức thấp với yếu tố hạn chế quyền lực nhà nước và yếu tố
kiểm tra hoạt động trong chính phủ thuộc hàng thấp nhất châu Á. Xây
dựng nhà nước pháp quyền chính là yếu tố quan trọng đặc biệt trong
duy trì sự công bằng xã hội mà còn tạo nền tảng cạnh tranh công bằng,
phát triển kinh tế.
7.2. CHÍNH SÁCHTIỀN TỆ – TÀI CHÍNH
Theo Nguyễn Đức Thànhet al. (2014), sau gần 30 năm đổi mới, hệ
thống tiền tệ của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện theo hướng thị
trường. Ngân hàng trung ương đã gia tăng tính độc lập trong việc sử
dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Dòng
chảy tín dụng chịu ngày càng ít sự kiểm soát về đích đến, được dẫn
dắt bởi tín hiệu lãi suất ít méo mó hơn. Tỷ giá được xác lập chủ yếu
bởi cung cầu trên thị trường mà ngân hàng nhà nước can thiệp qua các
công cụ tiền tệ thay vì mệnh lệnh hành chính. Rào cản gia nhập được
giảm dần theo cam kết mở cửa thị trường tài chính khi gia nhập WTO.
Cổ phần hóa ngân hàng và các chính sách phát triển thị trường chứng
khoán không có nhiều tiến triển, trái ngược với sự gia tăng giám sát an
toàn tài chính của ngân hàng nhà nước và ủy ban giám sát hợp nhất.
Mặc dù vậy, chính sách tiền tệ - tài khóa còn nhiều bất cập. Đầu
tiên phải kể đến mức độ độc lập thấp của NHNN trong cả việc xác định
mục tiêu chính sách tiền tệ và trong quản lý tổ chức. Duong Thi Thuy
Nga & Do Van Vinh (2014) đã tính chỉ số độc lập cho NHNN Việt Nam
và kết luận rằng NHNN có mức độ độc lập rất thấp, thậm chí thấp hơn
các quốc gia đang phát triển khác. Trên thực tế,Thống đốc NHNN là
thành viên nội các Chính phủ, được Thủ tướng bổ nhiệm và chịu trách
1
Chi tiết về Chỉ số Pháp quyền (Rule of Law index) xem tại https://worldjusticeproject.
org/news/wjp-rule-law-index-2019-global-press-release.
99
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội thì khó tránh khỏi bị ảnh hưởng
bởi áp lực chính trị.
Việc cổ phần hóa ngân hàng quốc doanh còn chưa được thực hiện
tốt. Cho đến nay, ba trong bốn ngân hàng quốc doanh đã được cổ phần
hóa nhưng tỷ lệ sở hữu của nhà nước vẫn còn cao, bắt buộc trên 65%
theo Nghị quyết số 15/2014 năm 2014. Tỷ lệ tài sản ngân hàng quốc
doanh trên tổng tài sản tài chính của hệ thống ngân hàng là gần 50%
kể từ 2009. Trong khi đó, tỷ lệ sở hữu của nhà nước trong ngân hàng
quốc doanh tại Đức là chỉ nhỉnh hơn 50% (Schmit, Gheeraert, Denuit &
Warny, 2011) và tỷ lệ tài sản ngân hàng quốc doanh trên tổng tài sản tài
chính của hệ thống ngân hàng là khoảng 40% năm 2014 (OECD, 2014).
Về chính sách tài khoá, tỷ lệ chi thường xuyên của ngân sách nhà
nước ngày một lớn, bội chi ngân sách ở mức cao triền miên (5.64%
GDP năm 2016, 3.5% năm 2017)1 , nợ công cao, đe dọa ổn định vĩ mô.
Theo The Heritage Foundation (2019), Chỉ số Sức khoẻ Tài khoá của
Việt Nam là 40.7/100, hàm ý khả năng quản lý và kiểm soát chi tiêu
kém của chính phủ, gây ra gánh nặng nợ công lớn.
Như vậy, nhà nước nên dần dần trao trả sự độc lập trong quyết định
cho NHNN, gây áp lực giải trình và minh bạch thông tin. Cần đặt mục
tiêu duy trì lạm phát thấp lên hàng đầu và giao phó mục tiêu tăng trưởng
cho khu vực sản xuất. Bản thân lạm phát thấp cũng sẽ góp phần vào
tăng trưởng trong trung và dài hạn. Đối với chính sách tài khoá cần tìm
các biện pháp giảm chi tiêu chính phủ (ví dụ như giảm nhân sự trong bộ
máy hành chính nhà nước) và tăng cường minh bạch thông tin.
7.3. QUYỀN TÀI SẢN
Như đã phân tích, quyền tải sản không chỉ là một quyền cơ bản của con
người mà còn là động lực sâu thẳm thúc đẩy con người tham gia vào các
hoạt động kinh tế. Vì vậy, để nền kinh tế - xã hội phát triển thì quyền
tài sản cần được làm rõ, tôn trọng và thực thi. Phạm Đức Trung, Đinh
1
Theo số liệu công bố trên website của Bộ Tài Chính.
100
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Tuấn Minh, Nguyễn Thị Luyến, Nguyễn Đình Cung (2016) đã chỉ ra ưu
điểm và thiếu sót trong pháp luật về quyền tài sản tại Việt Nam. Về ưu
điểm, cho đến nay hệ thống về quyền tài sản công hình thành tương đối
đầy đủ. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề cần đổi mới. Thứ nhất, tài sản công
chưa được định giá theo nguyên tắc thị trường mà chủ yếu theo cơ chế
xincho. Thứ hai, mức độ chuyên nghiệp, chuyên trách trong quản lý tài
sản công còn thấp. Nhiều loại tài sản quan trọng có giá trị lớn được giao
cho các chủ thể vừa có chức năng quản lý, vừa là người sử dụng vừa
có thẩm quyền phân bổ, điển hình là tài sản quyền sử dụng đất và tài
nguyên do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữa. Thứ ba là chưa hình
thành được hệ thống đo lường chi phí và lợi ích từ tài sản công vì vậy
mà chưa có đánh giá đúng về kết quả và hiệu quả quản lý, sử dụng tài
sản công trong nền kinh tế.
Đối với tài sản công là đất đai, quyền sở hữu là sở hữu “toàn dân”
do nhà nước đại diện chủ sở hữu, đồng nghĩa với việc nhà nước là chủ
thể duy nhất có quyền định đoạt đất đai. Luật pháp Đức cũng như ở nhiều
quốc gia khác không tồn tại khái niệm sở hữu “toàn dân” vì khái niệm này
gây ra sự mù mờ. Vì không có quyền sở hữu đất đai, người mua đất chỉ
mua quyền sử dụng đất nhưng, bằng sự so sánh với giá thuê nhà đơn giản,
có thể thấy giá đất là rất cao so với giá của quyền sử dụng đất.
Trên thực tế, quản lý đất đai chung nằm dưới sự kiểm soát của
một số cơ quan và công chức nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất không
theo nguyên tắc cơ chế thị trường mà dưới hình thức mệnh lệnh chính
trị. Điều này dẫn tới hiện tượng việc đất đai trở thành công cụ của nhà
nước để ưu đãi đầu tư chủ yếu cho doanh nghiệp nhà nước và đầu tư
nước ngoài, đồng thời tạo ra những uẩn khúc, ức chế qua các vụ đấu
thầu không công khai. Vì vậy, giá đất có sự phân biệt đối xử rất lớn đối
với các đối tượng khác nhau. Hệ lụy là nguồn lực đất đai không được
phân bổ về nơi mà nó tạo ra giá trị lớn nhất và các doanh nghiệp cũng
chịu rủi ro cao.
Đối với tài sản công là tài nguyên thiên nhiên thì chủ sở hữu cũng
là “toàn dân” do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thực hiện quyền định
101
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
đoạt. Tuy nhiên, hình thức sở hữu có thể thay đổi hoặc mất quyền sở hữu
do thay đổi hình thái vật lý của tài sản. Với đặc điểm này, quyền định đoạt
các tài nguyên thiên nhiên rộng hơn so với quyền định đoạt đất. Chủ thể
chịu trách nhiệm thực thi quyền quản lý tài nguyên thiên nhiên chủ yếu
thuộc về hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước theo cơ chế phân cấp
từ trung ương đến địa phương. Riêng đối với dầu khí, PVB vừa là người
trực tiếp khai thác vừa có quyền phân bổ quyền khai thác dầu khí cho các
tổ chức, cá nhân khác thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi, chào thầu
cạnh tranh và chỉ định thầu. Mô hình thực thi quyền quản lý này cùng
với việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước đã tạo ra lợi
thế thống lĩnh của doanh nghiệp nhà nước trong tiếp cận các nguồn tài
nguyên. Trên khía cạnh quyền định đoạt thì thể chế hiện hành cho phép
chính quyền địa phương định đoạt, nghĩa là nằm trong tay một số công
chức nhà nước. Mô hình này không tạo cơ hội công bằng cho việc phân
bổ tài nguyên theo nguyên tắc và hiệu quả do các giao dịch hoàn toàn
theo mệnh lệnh hành chính chứ không theo nguyên tắc thị trường.
Đối với các tài sản vốn đầu tư của nhà nước thì dễ thấy nhà nước
đang đầu tư vốn vào các doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước, doanh
nghiệp có cổ phần nhà nước và doanh nghiệp có một phần vốn nhà
nước. Tuy nhiên, minh bạch đang là vấn đề lớn, chưa có công bố chính
thức và đầy đủ về tổng giá trị vốn nhà nước. Tài sản công đầu tư vào
doanh nghiệp nhà nước chưa được định giá đúng theo nguyên tắc thị
trường, vì vậy, hiệu quả đầu tư vốn vào khu vực doanh nghiệp nhà nước
có xu hướng thấp.
Về quyền tư hữu, như đã đề cập, không tồn tại quyền tư hữu đất đai
cũng như tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam. Đối với các loại tài sản
hữu hình khác, Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định “mọi người có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức
kinh tế khác”, quyền sở hữu tư nhân được bảo hộ và chỉ bị trưng mua khi
cần thiết và với giá thị trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cơ chế đền
bù, giải tỏa đất đai chưa thỏa đáng, có thể thấy qua các vụ việc như vụ
Thủ Thiêm. Đối với tài sản trí tuệ, hệ thống quyền sở hữu trí tuệ của Việt
102
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Nam còn nhiều khiếm khuyết và việc thực hiện cũng chưa chặt chẽ. The
Heritage Foundation (2019) đánh giá Chỉ số Quyền Tài sản của Việt Nam
là 49.8/100 thể hiện quyền tài sản không được tôn trọng mạnh mẽ.
Dựa vào tình hình thực tế cho thấy cần có những biện pháp cải thiện
luật về tài sản công. Thứ nhất, cần xác lập quyền tài sản công. Về quyền
sở hữu, cần làm rõ cụm từ sở hữu “toàn dân”. Vấn đề quan trọng là phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật làm rõ nội dung, chủ thể, cách thức thực
hiện, chế tài quản lý và chế tài thưởng phạt đối với từng tài sản công. Về
quyền sử dụng và định đoạt, cần có chủ thể rõ ràng và chịu trách nhiệm
giải trình cao. Thứ hai, tài sản công phải được phân loại, đánh giá và định
giá theo nguyên tắc thị trường và tích hợp vào dữ liệu quốc gia. Điều này
sẽ giúp tài sản công được phân bổ hiệu quả. Thứ ba, bộ máy quản lý tài
sản công phải là bộ máy chuyên nghiệp, chuyên trách. Cuối cùng, cần
hoàn thiện hệ thống pháp luật và tôn trọng quyền tư hữu.
7.4. CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH
Để nền kinh tế vận hành hiệu quả, chính sách cạnh tranh cũng cần được
cải thiện. Nguyễn Thị Thu Trang, Đinh Tuấn Minh, Đậu Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Diệu Hồng, Phạm Ngọc Thạch (2016) đã phân tích kỹ
lưỡng khung pháp lý điều phối cạnh tranh, đặc biệt là Luật Cạnh tranh,
tình hình thực tế và nêu giải pháp nâng cao hoạt động cạnh tranh hiệu
quả ở Việt Nam. Cụ thể, tình hình thực tế cho thấy trong gần ba thập
kỷ thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, Việt Nam đã từng bước xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh nói riêng cũng như
chính sách cạnh tranh nói chung, qua đó tạo ra khuôn khổ pháp lý và
môi trường cạnh tranh chung cũng như đặc thù cho các hoạt động kinh
doanh. Cho đến nay, hệ thống pháp luật cạnh tranh và chính sách cạnh
tranh của Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ, tôn trọng quyền
tự do kinh doanh, ít phân biệt đối xử và phù hợp với thông lệ quốc tế
trong các lĩnh vực liên quan, qua đó góp phần tạo thành một môi trường
cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp, phục vụ tốt hơn cho lợi ích của
người tiêu dùng Việt Nam.
103
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Mặc dù vậy, thực tiễn cạnh tranh ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề
vướng mắc, chưa vận hành một cách suôn sẻ, quyền và lợi ích của các
doanh nghiệp, của người tiêu dùng vẫn bị xâm phạm trong nhiều trường
hợp từ những hành vi phản cạnh tranh. Phân tích chi tiết pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam cho thấy một phần nguyên nhân của tình trạng này
là từ những hạn chế của pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là (i) quy định
pháp luật cạnh tranh chưa thực sự phù hợp, do đó tạo ra những lỗ hổng
về pháp lý khiến nhiều hành vi phản cạnh tranh gây thiệt hại cho người
tiêu dùng bị bỏ lọt; (ii) các thiết chế thực thi pháp luật cạnh tranh chưa
đảm bảo tính độc lập, chuyên nghiệp và do đó hiệu quả còn hạn chế.
Giải pháp thứ nhất trong tầm tay là sửa đổi Luật Cạnh tranh. Cần
điều chỉnh hình thức của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (hình thức văn
bản, lời nói, thông điệp điện tử hoặc ngầm định cùng hành động) và cải
thiện các thiết chế xử lý vi phạm các luật cạnh tranh. Ngoài ra, cần điều
chỉnh lại các hành vi hạn chế cạnh tranh mặc nhiên bị cấm theo thông lệ
phổ biến trên thế giới và điều chỉnh lại cách thức xác định hành vi hạn
chế cạnh tranh trở thành đúng bản chất thay vì liệt kê (Nguyễn Thị Thu
Trang & cộng sự, 2016).
Giải pháp thứ hai là nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan chuyên biệt khuyến khích cạnh tranh. Đức có Ủy ban chống độc
quyền, Cục quản lý Các-ten, Bộ kinh tế liên bang và bang chịu trách
nhiệm này. Các cơ quan chuyên biệt này tại Đức có quyền lực lớn và
hoạt động độc lập. Còn ở Việt Nam có Cục Quản lý cạnh tranh nhưng
vai trò của Cục còn mờ nhạt. Cần tăng cường vai trò chủ động củaCục
Quản lý Cạnh tranh trong rà soát các dự thảo văn bản pháp luật cạnh
tranh và trong quyền hạn điều tra.
Cuối cùng, nhà nước cần tạo khung pháp lý hỗ trợ và thúc đẩy
cạnh tranh. Có thể chỉ ra một số điểm như sau. Thứ nhất, các nghiên
cứu trước đây cho thấy khu vực doanh nghiệp nhà nước có kết quả kinh
doanh kém nhưng vẫn tồn tại, kéo dài tình trạng làm ăn thua lỗ. Cần
có biện pháp cởi trói để các doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh công
bằng, tuân theo quy luật đào thải của thị trường. Thứ hai, luật về quyền
tài sản là hết sức quan trọng. Chỉ khi quyền tài sản được định rõ, các
104
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
doanh nghiệp mới có thể yên tâm gia nhập thị trường và các nhóm lợi
ích không thể lạm dụng sự mập mờ của luật về quyền tài sản để chiếm
hữu tài sản. Thứ ba, trước thời buổi công nghệ hóa, tài sản tri thức ngày
càng đóng vai trò quan trọng như một trong những lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy có nhiều loại hình kinh doanh mới
vẫn chưa được đề cập trong luật. Vì vậy, luật về sở hữu trí tuệ cũng cần
được rà soát, thay đổi và xây dựng thêm.
7.5. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC
Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy tỷ lệ chi tiêu công cho
giáo dục trên GDP của Việt Nam (5.7% GDP năm 2013) cao hơn hẳn
nhiều nước trong khu vực, thậm chí so với các nước có trình độ phát
triển kinh tế cao hơn (Đức 4.8% năm 2015, Singapore 2.9% năm 2013,
Malaysia 4.7% năm 2017, Thái Lan 4.1% năm 2013).
Mô hình giáo dục của Việt Nam đạt được những kết quả tích cực
nhất định. Tăng cường phổ cập giáo dục đến hết bậc học phổ thông, xóa
nạn mù chữ, học phí trường công thấp, có các chính sách hỗ trợ cho các
đối tượng yếu thế, số lượng giáo viên tăng và cơ sở vật chất từng bước
được cải thiện và hiện đại hóa, việc mở trường tư là tương đối dễ dàng.
Chỉ số PISA qua các năm cho thấy điểm số các kỹ năng đọc, toán và
khoa học của học sinh 15 tuổi tại Việt Nam là tương đối tốt so với các
quốc gia khác trên thế giới.
Tuy nhiên, ngành giáo dục còn gặp nhiều vấn đề. Thứ nhất, chất
lượng giáo dục ở các trường công còn thấp. Các trường công lập có mức
học phí thấp hơn rất nhiều so với các trường dân lập nhưng dường như
lại có chất lượng kém hơn, thể hiện qua hiện tượng nhiều phụ huynh đổ
xô đưa con vào nhiều trường dân lập.Việccác học sinh có điều kiện tài
chính thì được học trường tốt là bất công trong cơ hội theo quan điểm
của mô hình KTTTXH.
Bên cạnh đó, bệnh thành tích và gian lận trong thi cửdiễn ra trầm
trọng. Kể từ khi kỳ thi đại học bị bãi bỏ và kỳ thi tốt nghiệp trung học
phổ thông đóng vai trò xét tuyển đại học vào năm 2015, một loại các
105
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
tỉnh đã bị phanh phui hàng trăm vụ thay đổi điểm là con cháu hoặc có
mối quan hệ với công chức nhà nước.Một ví dụ điển hình là một thí sinh
ở Hà Giang có điểm số vật lý, hoá, toán lần luợt là 0, 0, 1 trên 10 nhưng
đuợc nâng điểm lên 9, 9,25 và 9,21.Điều nàykhông chỉ là biểu hiện của
bất công mà còn dẫn đến việc phân bổ không hiệu quả, cơ hội vào đại
họcđáng lẽ ra thuộc về một nhóm học sinh có năng lực thì lại thuộc
về nhóm học sinh không có năng lực nhưng có điểm cao.Việc gian
lận trong thi cử dẫn đến bất công trong phân bổ theo quan điểm của mô
hình KTTTXH. Vấn đề phân bố không hiệu quả cũng diễn ra cả sau khi
sinh viên ra trường trở thành lực lượng lao động chính, nhiều vị trí trong
khối hành chính công và doanh nghiệp quốc doanh bị phê phán bởi quy
trình tuyển dụng không hiệu quả vì việc tuyển dụng dựa trên quan hệ
thay vì dựa trên năng lực.
Tự do học thuật còn chưa được chú trọng ngay cả ở bậc đại học
và sau đại học. Các trường học đều phải dạy chương trình sách giáo
khoaxuất bản bởi bộ giáo dục thay vì được lựa chọn sách học phù hợp.
Hầu hết học sinh đều học một chiều, thụ động thay vì rèn luyện tư duy
phản biện và sự sáng tạo. Tự do tiếp cận với tri thức mới, quan điểm
mới cũng bị hạn chế ngay trong giảng đường đại học và sau đại học.
Các môn học trong khung chương trình, nội dung các môn học, nội
dung nghiên cứu đều bị kiểm soát. Tại các trường đại học, công tác
nghiên cứu còn chưa được chú trọng màdường như chỉ tập trung vào
công tác giảng dạy.
Chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị nhằm cải thiện chính sách
giáo dục. Cần mạnh dạn mở cửa cả trong giáo dục, cho phép tự do
học thuật, tiếp cận các tư tưởng mới đặc biệt là các luồng tư tưởng mà
quá trình hội nhập quốc tế đem lại.Chú trọng hơn vào công tác nghiên
cứu, sáng tạo để có thể nâng cao chất lượng học sinh, sinh viên và chất
lượng giáo viên, giảng viên. Thứ hai, cần cải thiện công bằng trong giáo
dục. Cần phải có chế tài xử phạt nghiêm khắccác vi phạm trong giáo
dụckhông chỉ bởi bộ giáo dục mà còn bởi toà án,góp phần đóng góp vào
1
Nguồn:https://tuoitre.vn/thu-khoa-nho-sua-diem-vi-sao-van-an-vi-hoc-ca-nam-troi2019041 7081854498.htm
106
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
công bằng công bằng trong thi cử và cả công bằng trên thị trường lao
động.Ngoài ra, nên cân nhắc việc đổi hình thức thi từ thi giấy sang thi
trên máy tính nhằm giảm bớt tiêu cực trong thi cử.
7.6. CHÍNH SÁCH LAO ĐỘNG
Thị trường lao động ở Việt Nam ngày càng trở nên mềm dẻo và năng
động. Chỉ số Tự do Lao động của Việt Nam là 62.8/100 hàm ý thị trường
lao động tương đối theo cơ chế thị trường (The Heritage Foundation,
2019). Theo Trần Đình Thiên, Lê Văn Hùng, Phạm Thế Anh, Ma Ngọc
Ngà, và Nguyễn Thị Tuyết (2014), sau Đổi Mới năm 1986, thị trường
lao động Việt Nam được cởi trói, ngay cả khi chưa có các văn bản
pháp luật chế định thì trên thực tế người lao động vẫn có quyền tự do
lựa chọn nghề nghiệp, ngành nghề đào tạo và nơi làm việc. Các quy
định về tuyển dụng và sa thải lao động của Việt Nam cũng khá thông
thoáng, tạo điều kiện dễ dàng cho người sử dụng lao động điều chỉnh kế
hoạch kinh doanh. Nhờ vậy, đã có những dịch chuyển đáng kể trên thị
trường lao động từ khu vực có năng suất và thu nhập thấp sang khu vực
có thu nhập cao hơn. Mức độ tự do của thị trường lao động Việt Nam
được đánh giá khá cao so với các nước trong khu vực như Indonesia,
Cambodia, Trung Quốc, Thái Lan nhưng thấp hơn các nước phát triển
như Singapore, Nhật Bản.
Mặc dù có điểm sáng, chính sách lao động còn nhiều bất cập, chưa
có đủ sự bảo vệ quyền lợi của người lao động. Người lao động và người
sử dụng lao động được tự do đàm phán tiền công, tiền lương, chế độ đãi
ngộ tuân thủ theo Luật Lao động nhưng chủ yếu trong phạm vi cá nhân
đơn lẻ thay vì có tổ chức đại diện. Luật Lao động có chỉ ra mức tiền
lương, chế đỗ đãi ngộ tối thiểu nhưng, ngược lại với Đức, mức tiền lương
tối thiểu bị phê phán là thấp hơn nhiều so với nhu cầu tối thiểu. Trần Văn
Tư (2009) chỉ ra rằng mức tiền lương tối thiểu chỉ đáp ứng được 60-65%
nhu cầu cơ bản của người lao động và rất gần với ngưỡng nghèo do chưa
tính đủ tiền nhà. Lương trong khu vực nhà nước thường thấp hơn đáng kể
mức lương ngoài khu vực nhà nước mặc dù Nghị định số 50/2013/NĐ107
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
CP đã cho phép công ty nhà nước tự xây dựng mức lương. Không những
thế, việc điều chỉnh lương trong khu vực nhà nước còn chưa hợp lý vì
lương được trả theo thâm niên thay vì theo giá trị người lao động tạo ra.
Công đoàn là tổ chức đại diện duy nhất, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của người lao động trong quan hệ lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt
động của công đoàn trong các doanh nghiệp chủ yếu là tổ chức các phong
trào xã hội (nghỉ mát, hiểu, hỉ…) hơn là tham gia thương lượng và đàm
phán quyền lợi cho người lao động. Chính vì vậy, quyền lợi của người
lao động không được đảm bảo và dẫn tới tình trạng chảy máu chất xám.
Trong số gần 5000 cuộc đình công xảy ra từ năm 1995 đến năm 2012 liên
quan tới vấn đề về chế độ đãi ngộ và chế độ làm việc của lao động, 100%
các cuộc đình công đó đều không do công đoàn khởi xưởng và lãnh đạo
trừ một vụ duy nhất tại Đồng Nai. Nguyên nhân của việc này là do thủ tục
để thực hiện đình công đúng pháp luật quá phức tạp và niềm tin dành cho
công đoàn của người lao động yếu. Chính vì vậy, khuyến nghị rằng các
thủ tục về đình công cần được thuyên giảm và học hỏi từ quy định chung
của các nước trên thế giới và của Tổ chức Lao động Quốc tế, ví dụ như
đưa ra luật về quyền hiệp thương tập thể. Bên cạnh đó, cho phép mở rộng
quyền hạn và nâng cao vai trò của công đoàn.
“Bắt chước” chính sách lao động của Đức là hoàn toàn không khả
thi bởi chính phủ Đức có đủ nguồn lực tài chính và kinh nghiệm dày dặn
trong việc can thiệp vào thị trường lao động. Tuy vậy, Việt Nam có thể
học tập một số điểm. Thứ nhất, cần có những quy định rõ ràng, thủ tục
đơn giản về việc đình công, bãi công và nâng cao vai trò của công đoàn.
Thứ hai, xây dựng hệ thống luật pháp về quyền đồng quyết của người lao
động. Bảo vệ quyền lợi cơ bản của người lao động là điều cần thiết để
duy trì bình ổn xã hội. Bên cạnh đó, cần tinh giản bộ máy hành chính nhà
nước và cho phép trả lương theo năng lực, tuân theo quy luật thị trường.
7.7. CHÍNH SÁCH TRUYỀN THÔNG
Kể từ sau Đổi mới, truyền thông Việt Nam đã có chuyển biến tích cực
giảm phần nào mục đích tuyên truyền, cho phép trao đổi thông tin,
108
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
tương tác tự do hơn so với trước đó, đặc biệt là trước sự phát triển
không ngừng của công nghệ số và mạng xã hội.
Tuy nhiên, sự kiểm soát trên cả ba lĩnh vực truyền thông chính là
báo chí, phát thanh – truyền hình và điện ảnh vẫn còn rất mạnh mẽ ở
Việt Nam. Điều đó thể hiện rõ qua chỉ số Tự do Báo chí xây dựng bởi
tổ chức Phóng viên Không biên giới (Reporters sans frontiers) rất thấp
của Việt Nam qua các năm. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 176/180, chỉ
hơn Trung Quốc, Eritria, Triều Tiên và Turkmenistan.
Nhà nước cần từng bước thực hiện tự do hóa các kênh truyền thông,
cho phép thực hiện các nhân quyền cơ bản được quy định trong Tuyên
ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948)1 và Điều 25 trong Hiến pháp năm
2013 là “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Như đã chỉ ra, chính sách truyền thông rất
quan trọng trong cả chính trị (tạo ra thông tin minh bạch, đa dạng, góp phần
gây áp lực lên các nhóm quyền lực, tăng cường trách nhiệm giải trình) và
trong cả phát triển kinh tế (củng cố môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo
vệ người tiêu dùng, tác động lên chính sách tiền tệ - tài khoá...).
7.8. CHÍNH SÁCH THỊ TRƯỜNG MỞ
Chính sách thị trường mở của Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực
trong thương mại quốc tế nhưng hạn chế trong lĩnh vực đầu tư và chu
chuyển tài chính. Về thương mại hàng hóa, nhìn chung Việt Nam thực
hiện tương đối nghiêm túc các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa
trong WTO. Về lộ trình thực hiện thì đa số các mặt hàng đều được thực
hiện đúng lộ trình cắt giảm thuế, nhiều nhóm cắt giảm nhanh hơn lộ
trình và chỉ có một số ít cắt giảm chậm hơn lộ trình. Theo The Heritage
Foundation, Chỉ số Tự do Thương mại của Việt Nam là 79.2/100 điểm,
hàm ý mức độ mở cửa khá rộng. Tổng giá trị của xuất khẩu và nhập
khẩu bằng 200,3% GDP. Thuế suất áp dụng trung bình là 2,9%. Tính
đến ngày 30 tháng 6 năm 2018, theo WTO, Việt Nam đã có 80 biện
1
https://www.un.org/en/universal-declaration-human-rights/.
109
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
pháp phi chính phủ có hiệu lực. Hạn chế đầu tư nước ngoài liên quan
đến giao dịch hàng hóa đã được nới lỏng. Nhà nước vẫn can thiệp vào
lĩnh vực tài chính.
Đối với các biện pháp kiểm soát thương mại hàng hóa, trong khi rất
nhiều nước đã sử dụng các biện pháp hàng rào kỹ thuật và các biện pháp
vệ sinh dịch tễ để bảo hộ một cách tinh vi thì Việt Nam thậm chí không
sử dụng chúng phục vụ cho mục tiêu đầu tiên và đúng đắn là bảo vệ sức
khỏe con người và bảo vệ môi trường, chưa nói đến việc sử dụng chúng
làm rào cản nhập khẩu. Tương tự, phòng vệ thương mại (chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ) cũng được cam kết thực hiện bởi Việt Nam
và được ban hành luật, tuy nhiên việc thực hiện còn kém hiệu quả. Sau
hơn mười năm thực hiện, Việt Nam mới tiến hành được ba vụ điều tra
phòng vệ thương mại.Việt Nam cần thay đổi tư duy bảo hộ từ các biện
pháp thuế quan sang các biện pháp phi thuế quan khác.
Về thương mại dịch vụ, ngoài cam kết mở cửa thị trường dịch vụ
trong WTO, phần lớn các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) của Việt
Nam hầu như không có bước mở cửa nào đáng kể hơn. Ngay cả trong
WTO, các cam kết về mở cửa dịch vụ vẫn còn rất dè dặt, hạn chế. Xét
về số lượng, Việt Nam mở cửa 11 trong 12 ngành dịch vụ trong WTO
tuy nhiên về độ sâu của mở cửa trong từng ngành thì còn tương đối hạn
chế. Hệ quả là nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt những lĩnh vực dịch vụ
lâu nay bị độc quyền bởi các DNNN như vận tải, viễn thông, giải trí…
được bao bọc quá lâu, không có áp lực cải thiện năng lực cạnh tranh
nên hoạt động ngày càng kém hiệu quả. Trong tương lai, Việt Nam cần
mạnh dạn hơn trong mở cửa thị trường dịch vụ, tất nhiên với những tính
toán cẩn trọng.
Về đầu tư, các thỏa thuận trong khuôn khổ WTO cũng dược cho
là rộng nhất. Các thỏa thuận song phương về bảo hộ đầu tư và cam kết
trong WTO về đầu tư khá mạnh mẽ trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất
nhưng lại bị giới hạn ở đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ. Theo The
Heritage Foundation (2019), chỉ số Tự do Đầu tư rất thấp, ở mức 30/100
điểm, hàm ý là có rất nhiều hạn chế đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
110
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Về tự do vốn, Việt Nam mới chỉ có Quyết định số 1590/QĐ-TTg phê
duyệt đề án định hướng lộ trình mở cửa dòng vốn, còn chưa có khung
pháp lý cho vấn đề này. Tự do di chuyển nguồn vốn còn quá sơ khai trong
bối cảnh Việt Nam, diễn ra một cách thiếu minh bạch, có thể thấy được
qua chỉ số mở cửa dòng vốn Chinn-Ito rất thấp của Việt Nam (0.41 năm
2016, đứng thứ 99 trên thế giới) trong khi đó Đức là một trong những
quốc gia có độ mở tài chính tuyệt đối. Vì vậy, bước đầu tiên cần làm đó
hoàn thiện khung pháp lý cho di chuyển vốn ra – vào quốc gia.
Việt Nam cũng mở cửa thị trường lao động, chào đón lao động
nước ngoài. Do đặc điểm nền kinh tế nhiều lao động thiếu kỹ năng,
chính sách lao động tập trung vào lao động có tay nghề cao. Các quy
định về lao động nước ngoài đã có tương đối đầy đủ, nhưng vẫn có
nhiều điểm mập mờ, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Xét về tính chủ động, quá trình tự do hóa thương mại quốc tế của
Việt Nam là quá trình tự thân, theo yêu cầu nội tại của nền kinh tế nhiều
hơn là từ sức ép từ bên ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam dường như chưa có
những tính toán đủ thận trọng, mang tính tổng thể và chi tiết khi đưa ra
các cam kết tự do hóa, vai trò tham dự của khối doanh nghiệp/ngành
còn mờ nhạt. Cũng như vậy, các FTA của Việt Nam đã được đàm phán/
ký kết không phải từ những nghiên cứu chủ động mà phần nhiều lại là
những “món quà ngoại giao” mà Việt Nam đưa ra trong những dịp lãnh
đạo hai bên thăm viếng lẫn nhau. Khuyến nghị rằng Việt Nam cần mạnh
dạn mở cửa hơn nữa trong các FTA trong tương lai với sự chủ động lớn
và huy động sự tham gia của doanh nghiệp, đối tượng đầu tiên và quan
trọng chịu tác động của thương mại hóa.
7.9. CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG
Chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam trên cơ bản đã được xây
dựng tuy nhiên khá muộn (được thông qua lần đầu năm 1993) và còn
nhiều bất cập. Việt Nam cũng ký kết các công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường như Công ước CITES, Công ước Bazen, Công ước Bảo vệ
tầng ozone. Tuy nhiên, có thể thấy trong những năm vừa qua, ô nhiễm
môi trường ngày càng trở nên trầm trọng, rung hồi chuông cảnh báo
111
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
cho những chính sách môi trường có nhiều kẽ hở luật pháp và việc thực
hiện kém hiệu quả.
Có thể thấy, sự tăng trưởng kinh tế trong hơn ba thập kỷ qua có sự
trả giá đắt về môi trường. Quy hoạch lộn xộn, thiếu hiệu quả cũng là
một trong những nguyên nhân lớn gây ra các vấn nạn môi trường. Sự
thiếu minh bạch, sự ưu ái các tập đoàn kinh tế nhà nước và thả nổi hoặc
điều phối nền kinh tế tư nhân theo mục tiêu của người cầm quyền và
khung pháp chế về quy hoạch lỏng lẻo, nhiều kẽ hở dẫn đến việc sẵn
sàng xây dựng, thay đổi quy hoạch theo động cơ cá nhân hoặc nhóm lợi
ích. Luật Quy hoạch đầu tiên được thông qua rất muộn vào năm 2017
và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2019.
Các vụ việc gây ra do sả thải từ nhà máy, các núi rác thải không
được xử lý đúng cách, cháy rừng do biến đổi hệ sinh thái, diện tích rừng
ngập mặn suy giảm mạnh mẽ đã được chỉ ra rõ ràng. Lấy ví dụ như vụ
việc ô nhiễm do sả thải ra sông Thị Vải của công ty Vedan trong suốt 14
năm, lên đến đỉnh điểm năm 2008 và vụ ô nhiễm môi trường biển gây ra
cá chết dọc bờ biển và hàng hoạt hệ quả khác do công ty thép Formosa
năm 2018. Trong các vụ việc trên, các công ty đều tỏ ra mình đã tuân
thủ luật pháp, được cấp phép và đóng phí sả thải theo quy định. Điều
đó cho thấy mức phí môi trường được quy định tỏ ra không phù hợp.
Vấn đề nghiêm trọng hơn là ngay cả trong các vụ việc nghiêm
trọng đó, vai trò của luật pháp cũng không được thấy nhiều dẫn đến diễn
ra trong một thời gian dài và có nhiều tranh cãi.Các vụ việc được giải
quyết phần lớn là do áp lực dư luận có thể thấy qua việc công dân trực
tiếp ghi hình làm tài liệu chứng minh và các nhà khoa học vào cuộc.
Công tác bảo vệ môi trường không được quản lý thống nhất, dẫn
đến việc thiếu phối hợp, thậm chí cản trở nhau, đi lòng vòng. Lấy ví dụ
như vụ việc phá một phầnVườn Quốc gia Chư Yang Sin xây thủy điện
Krông K’mar (đã hoàn thành năm 2008)1. Vào năm 2012, một dự án
thủy điện khác được đề xuất cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp
tới Vườn Quốc gia Chư Yan Sin –dự án thủy điện Ea K’tuor. Dự án này
1
Nguồn: https://www.sggp.org.vn/doi-rung-dac-dung-lay-thuy-dien-231057.html
112
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
không được ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk thông qua nhưng Bộ Công
Thương lại khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện1.Một dự án khác là dự án
nhà máy thủy điện Đrăng Phôk, dự kiến xây ngay tại lõi của Vườn Quốc
gia Yok Đôn. Dự án này được đề xuất từ năm 2007 và đã gặp phải nhiều
sự phản đổi của các nhà khoa học và chính quyền địa phương nhưng
mãi tới năm 2016 mới có được chỉ đạo dừng dự án từ trung ương do
việc dừng dự án là thuộc thẩm quyền của các bộ, ngành trung ương2.
Cho đến năm 2020, phần lớnhoặc tất cả các mục tiêu trong chiến
lược bảo vệ môi trường đều không đạt được. Đáng tiếc là tại các cuộc
họp thì tiếng nói phản biện thường là về phía mục tiêu cao hơn, tiêu
chuẩn ngặt nghèo hơn mà không cân nhắc tới tình hình thực tế. Ví dụ
như trong vấn đề áp dụng chuẩn Euro 2 hay chuẩn Euro 4 thì kết luận
yêu cầu Euro 4 để mau chóng có bầu không khí sạch. Nhưng điều này
quá xa rời thực tế vì hầu hết các phương tiện hiện nay chỉ đạt chuẩn
Euro 2 hoặc thậm chí không được3. Chỉ có các phương tiện bán ra kể từ
ngày 01/01/2017 mới được đạt tiêu chuẩn khí thải Euro 4.4
Dựa trên tình hình thực tế và học tập kinh nghiệm từ nước Đức,
một số giải pháp có thể được đề xuất. Thứ nhất, cần đặt hiểu mối quan
hệ giữa môi trường, tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước. Nếu
đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế (đặc biệt là tập trung một
nhóm lợi ích nhất định) sẽ tạo ra bất công và làm tổn hại sự đoàn kết
giữa các thế hệ. Đã đến lúc đưa môi trường vào một trong các tiêu chí
hàng đầu trong việc lập sách. Các quốc gia phát triển thường cũng có
giai đoạn đánh đổi này nhưng thường diễn ra ngắn, như Nhật là trong
khoảng mười năm.
1
Nguồn: https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/thuy-dien-ea-ktuor-tinh-bao-dung-bo-noi-tiep-tuc-20130903112718888.htm
2
Nguồn: https://dantri.com.vn/xa-hoi/dak-lak-muon-dung-du-an-thuy-dien-trongvuon-quoc-gia-yok-don-20160601202317536.htm
3
Nguồn: https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/noi-khong-voi-euro-2-808617.
html
4
Nguồn:
https://baodautu.vn/co-hay-khong-co-chuyen-chay-tieu-chuan-khi-thai-
euro-4-d75593.html
113
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Bên cạnh đó, thay vì tham vọng những mục tiêu phi thực tế, nên
tập trung rà soát lại về luật bảo vệ môi trường. Các chế tài xử phạt cần
rõ ràng và nghiêm minh. Quy hoạch, đấu thầucác dự án cần được minh
bạch hơn, cho phép sự tham gia của giới khoa học và công dân.
Thứ ba, ngoại trừ các mục tiêu chung vềmôi trường, quản lý cần ở
cấp độ địa phương và theo nguyên tắc phân cấp trách nhiệm, nghĩa là
các quyết định mà cấp địa phương có thể quyết định thì sẽ họ sẽ được
quyết định, đồng nghĩa với giảm bớt quyền lực tập trung. Điều này đặc
biệt phù hợp vấn đề môi trường vì mỗi vùng địa phương sẽ có những
đặc điểm môi trường, sinh thái khác nhau và chính cư dân địa phương
đó lại có khả năng theo sát tốt nhất những sự thay đổi.
Cuối cùng, điều quan trọng là nâng cao nhận thức của mọi người
về quyền của họ và cách bảo vệ môi trường. Ví dụ, các chương trình
vềphân loại chất thải và hệ sinh thái có thể được tiến hành miễn phí.
Nhiều người Việt Nam có thể chưa bao giờ nghe về phân loại chất thải
và nội dung này cũngkhông được chú trọngtrong trường học.
114
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu này đã tóm lược bối cảnh lịch sử, phân tích các giá trị cốt
lõi và nguyên lý nền tảng của mô hình KTTTXH và mô tả các đặc điểm
chính trong khung chính sách kinh tế – xã hội – môi trường của Đức. Các
giá trị cốt lõi của mô hình KTTTXH là tự do, công bằng, phân cấp trách
nhiệm và đoàn kết. Nội dung chính của mười một nguyên lý nền tảng xây
dựng mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Cơ chế thị trường được
đặt làm ưu tiên số một, giải pháp đến từ nhà nước là lựa chọn thứ yếu.
Các chính sách kinh tế được thiết lập trên cơ sở đặt ra mục tiêu trung và
dài hạn,kìm chế lạm phát luôn được coi là một mục tiêu quan trọng. Nhà
nước không nên tập trung vào điều hành, can thiệp vào nền kinh tế mà
nên tạo dựng môi trường thuận lợi cho tự do kinh tế và chăm lo đời sống
an sinh xã hội của công dân. Mô hình nhà nước Đức chú trọng kiểm soát
quyền lực nhà nước thông qua các trụ cột là nhà nước pháp quyền, tam
quyền phân lập, xã hội dân sự và truyền thông.
Dựa trên tình hình thực tế của Việt Nam, một số kiến nghị đã được đưa
ra trong bài. Các kiến nghị quan trọng nhất phải kể đến là: thứ nhất, thay đổi
góc nhìn trong mối quan hệ giữa con người và chế độ. Cần đặt con người
làm trung tâm để từ đó xây dựng luật pháp, chế độ, thể chế thay vì đặt chế
độ làm trung tâm. Thứ hai, cần tôn trọng, xây dựng và bảo vệ quyền tài sản
vì quyền tài sản đóng vai trò quan trọng trong tất cả các hoạt động kinh tế
và chính trị.Thứ ba, nền kinh tế cần được cởi trói theo hướng thị trường
nhiều hơn. Nhà nước thay vì trực tiếp điều hành, can thiệp vào nền kinh tế
thì nên tập trung vào nhiệm vụ xây dựng môi trường pháp luật và các chế
tài nhằm thúc đẩy thị trường và tập trung vào nhiệm vụ an sinh xã hội. Các
khuyến nghị khác về chính sách cạnh tranh, giáo dục, truyền thông, hội
nhập và môi trường cũng được đề xuất cụ thể trong bài.
115
PHỤ LỤC
CÁC ĐẢNG NỔI BẬT TẠI ĐỨC
Đức có một hệ thống chính trị liên bang, đa đảng, nghị viện, trong
đó Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo/Liên minh Xã hội Cơ đốc giáo
(CDU/CSU) và Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) và Đảng Dân chủ Thiên
chúa giáo (CDU) đã chiếm ưu thế trong năm thập kỷ qua. Chính
phủ liên bang và tiểu bang ở Đức thường bao gồm một liên minh
trong đó các đảng giành được đa số phiếu bầu đàm phán quyền lực
để đưa các chính sách của họ vào thực tiễn. Trong Quốc hội Đức
(Bundestag), các đại diện được bầu từ các đảng khác nhau chọn một
thủ tướng. Người đó là người nắm giữ chính quyền hành pháp trong
nước và chịu trách nhiệm thành lập một chính phủ. Mỗi đảng Đức
khuyến khích các hệ ý tưởng, ưu tiên và giá trị cụ thể và xuất phát
từ một nền tảng lịch sử cụ thể. Ở Đức, các đảng thường lấy một màu
sắc làm đại diện.1
Đảng CDU
CDU và CSU làm việc cùng nhau trong một nhóm duy nhất trong quốc hội
Đức, với CSU chỉ hoạt động ở bang Bavaria và CDU bao gồm 15 tiểu bang
khác của Đức. Hình 6 cho thấy, liên minh CSU/CDU luôn có số ghế rất lớn,
trên 1/3 tổng số ghế trong quốc hội kể từ 1990. Số ghế mà liên minh này đạt
được tại những kỳ bầu cử trước đó cũng rất lớn. Trong cuộc bầu cử quốc hội
năm 2017, CDU và CSU đã cùng nhau chiếm gần 35% số ghế trong Quốc
hội LB Đức (Hình 5). Màu đen được biết đến là màu của CDU.
1
Nguồn https://handbookgermany.de/en/rights-laws/political-parties.html.
117
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Đảng này được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi các
nhóm và hiệp hội bảo thủ khác nhau đã cùng nhau thành lập một đảng
chính trị thống nhất. CDU, được phân loại là đảng của dân (có nghĩa là
nó có rất nhiều thành viên và người ủng hộ), thu hút các cử tri trên tất cả
các tầng lớp và nhóm xã hội. Hiện tại, bà Annegret Kramp-Karrenbauer
đứng đầu đảng này.
Đảng CSU
CSU nhỏ hơn đáng kể so với CDU. Ông Markus Söder hiện là người
đứng đầu đảng này. Mặc dù nhiều người nhìn thấy trên thực tế hai bên
là một cơ quan chính trị duy nhất, CDU và CSU không thống nhất về
tất cả các vấn đề. Cụ thể, CSU có chính sách nghiêm ngặt về nhập cư.
CSU được biết đến với màu xanh da trời.
Đảng SPD
Đảng SPD từng được biết đến là đảng của giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, SPD đã dần dần chuyển từ một hiệp hội của những người lao
động cánh tả ban đầu sang một đảng sẵn sàng rũ bỏ quan điểm chống
tư bản, ủng hộ việc gia nhập liên minh với các đảng bảo thủ. Hiện tại,
bàAndrea Nahles là người đứng đầu đảng này. Trong cuộc bầu cử quốc
hội năm 2017, SPD chiếm 21% số ghế trong quốc hội (Hình 5). SPD là
đảng chính trị lâu đời nhất của Đức. Bên cạnh CDU, nó được phân loại
là một đảng của người dân.Hình 6 cho thấy mặc dù số ghế trong quốc
hội của đảng này đang có xu hướng giảm những kỳ bầu cử gần đây, nó
vẫn luôn ở mức trên 20% kể từ 1990. Công bằng xã hội và cải thiện cơ
sở hạ tầng xã hội là một trong những phương châm của SPD. Màu đỏ
được biết đến là màu của SPD.
Lần thứ hai liên tiếp, CDU/CSU và SPD liên minh để thành lập
một liên minh lớn. Chính phủ mới nhậm chức vào ngày 14 tháng 3 năm
2018. Thỏa thuận này được đưa ra sau khi CDU/CSU thất bại trong
thiết lập liên minh với đảng Xanh và đảng Dân chủ Tự do để tham gia
118
PHỤ LỤC
vào một “Liên minh Jamaica” do sự khác biệt không thể hòa giải giữa
các bên về di cư và chính sách năng lượng.
Đảng Xanh
Đảng Xanh hiện là một đảng của tầng lớp trung lưu, chỉ có 10% thành
viên dưới 35 tuổi. Đảng ra đời từ các phong trào sau chiến tranh nhằm
bảo vệ môi trường và các quyền xã hội trong thập niên 80. Khi nhiều
trong số những ý tưởng này cuối cùng đã trở thành xu hướng chủ đạo
trong lĩnh vực chính trị, chính Đảng Xanh đã rũ bỏ một số chủ nghĩa lý
tưởng của nó để ủng hộ chủ nghĩa thực dụng và lợi ích chính trị.
Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2017, Đảng Xanh chiếm 9% số
ghế trong quốc hội (Hình 5). Đảng Xanh ủng hộ bình đẳng giới và được
đồng chủ trì bởi một chính trị gia nam và một chính trị gia nữ (hiện tại
là ôngRobert Habeck vàbà Annalena Baerbock). Màu xanh lá cây được
biết đến là màu của đảng này.Hình 6 cho thấy vị thế Đảng Xanh khá
bình ổn, có xu hướng lên ở tốc độ chậm.
Đảng FDP
Đảng Dân chủ Tự do (FDP) được thể hiện bằng màu vàng. Được thành
lập vào năm 1948, FDP được biết đến với các chương trình nghị sự tự
do, thúc đẩy kinh tế thị trường tự do và ủng hộ tư nhân hóa. Là một
đảng ủng hộ doanh nghiệp, cơ sở chính của nó bao gồm các chủ doanh
nghiệp và các nhóm giàu có khác và không có nhiều tầng lớp lao động.
FDP có khoảng 63.050 thành viên (tính đến năm 2017).
Trong cuộc bầu cử liên bang năm 2013, FDP đã chịu một cú sốc
lớn khi thất bại: lần đầu tiên trong lịch sử không đạt được ngưỡng 5%
để đủ điều kiện đại diện danh sách, nhưng năm 2017 nó đã được bỏ
phiếu trở lại (Hình 6). Đảng này hiện chiếm 11% số ghế trong quốc hội
Đức. Hiện tại, ôngChristian Lindner là người đứng đầu FDP.
Đảng Cánh tả
119
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Đảng cánh tả (Die Linke) có nguồn gốc từ Đảng Thống nhất Xã
hội Chủ nghĩa, đảng cầm quyền Cộng hòa Dân chủ Đức trước khi
thống nhất đất nước năm 1990. Giống như đảng Xanh, đảng Cánh tả là
đồng đảng chủ trì bởi một chính trị gia nam và nữ (hiện tại, ôngBernd
Riexinger và bàKatja Kipping). Màu chính thức của nhóm bên trái là
màu đỏ, nhưng màu hồng thường được sử dụng để phân biệt với SPD.
Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2017, đảng Cánh tả chiếm gần
10% số ghế trong quốc hội (Hình 5). Đảng còn lại vẫn phụ thuộc rất
nhiều vào phiếu bầu từ những người sống ở Đông Đức. Ở các quốc gia
phương Tây, như các cuộc thăm dò cho thấy, thường những người trẻ
tuổi bỏ phiếu cho nó để bày tỏ sự bất mãn với các đảng truyền thống.
Đảng Cánh tả, mặc dù có mặt trong chính trị địa phương, tiểu bang và
liên bang, chưa bao giờ là một phần của chính phủ liên minh liên bang.
Đảng AfD
Đảng Lựa chọn mới cho nước Đức1 (Alternative for Germany) ban đầu
được thành lập như một đảng hoài nghi Euro (Eurosceptic) chống lại sự
hỗ trợ của Đức đối với các nền kinh tế thất bại trong EU. Cuối cùng, nó
đã biến thành một đảng chống dân di cư, chống Hồi giáo, dân túy như
ngày nay.
AfD hiện đang được đồng chủ trì bởi ông Jörg Meuthen và
ôngAlexander Gauland. Năm 2015, AfD nhanh chóng trở nên phổ biến
trong các cử tri quan tâm đến chính sách tị nạn của Angela Merkel. Các
cáo buộc hình sự đã được đưa ra chống lại một số quan chức của Đảng
AfD do kết quả của những bài phát biểu thù hấn. Một số người ủng
hộ AfD là thành viên của các nhóm cực đoan cánh hữu, thúc đẩy các
chương trình nghị sự chống hiến pháp. Hiện tại họ đang bị Văn phòng
Liên bang bảo vệ Hiến pháp theo dõi. Đảng này hiện đang xử lý các vụ
kiện và cáo buộc sai phạm tài chính.
1
Tên tiếng Anh của đảng này là “Alternative for Germany”. Tác giả tạm dịch là
“Đảng Lựa chọn mới cho nước Đức”. Các cách dịch khác có thể là Đảng Thay thế
cho nước Đức hay đảng Tân Phát-xít v.v.
120
PHỤ LỤC
Trong cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 24 tháng 9 năm 2017,
AfD đã đạt được gần 13% số phiếu đại cử tri(Hình 5) và, do đó,
lần đầu tiên vào quốc hội liên bang. Màu chính thức của AfD là
màu xanh da trời nhạt, nhưng một số người cho rằng nó nên được
biết đến với màu nâu. Từ năm 1925, màu nâu được coi là màu của
phong trào cánh hữu. Màu nâu từng là màu chính thức và biểu
tượng của Đức quốc xã.
Hình 5. Phân bổ số ghế trong Quốc hội Liên bang Đức vào kỳ Tổng tuyển cử thứ 19
Nguồn:Trang web của Quốc hội Liên bang Đức1
Lưu ý: 42 trong số 48 đảng được thừa nhận đã tham gia tranh cử
tại kỳ bầu cử đại biểu quốc hội liên bang Đức lần thứ 19, năm 2017
(Bundestag election 2017, n.d.). Các đảng có tỷ lệ phiếu bầu dưới 5%
thường không có được ghế trong quốc hội. Tính toán chính thức cuối
cùng của ghế diễn ra phức tạp và có thể mất vài ngày, nhưng về nguyên
tắc, phân bổ ghế sẽ tỷ lệ thuận với tỷ lệ phiếu bầu của mỗi bên trong danh
sách bầu cử hoặc kết quả bầu cử cho đảng (zweitstimme2).
1
2
https://www.bundestag.de/en/parliament/plenary/distributionofseats.
Các lá phiếu mà người Đức nhận được khi họ đi bầu cử không chỉ có một, mà là hai
sự lựa chọn - một cho đại diện quận và một cho một cho đảng. Ở bên trái lá phiếu
(Erststimme) là để bỏ phiếu cho một ứng cử viên, trong cử tri chọn một ứng cử viên
đại diện cho quận của mình trong quốc hội. Ở bên phải của lá phiếu (Zweitstimme)
là để bỏ phiếu cho một đảng chính trị thay vì một ứng cử viên duy nhất.
121
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Hình 6. Tỷ lệ số ghế trong Quốc hội LB Đức của các đảng, 1990-2017
Nguồn: Der Bundeswahlleiter (2018)
Chú ý: Đảng Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ (PDS) có một số phiếu nhất
định vào kỷ Tổng tuyển cử năm 1990, 1994 và 1998 và sau đó không còn
ghế trong Quốc hội LB Đức cho đến nay. Cụ thể, Đảng Chủ nghĩa Xã hội
Dân chủ có 17/662 ghế (2.6%) năm 1990, 30/672 ghế (4.5%) năm 1994,
36/667 ghế (5.4%) năm 1998, và 2/603 ghế (0.3%) năm 2002. Vào năm
2017 có 4 ghế trong Quốc hội thuộc về các thành viên độc lập.
122
ĐẠI BIỂU CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Erhard, Luwig Wilhelm (4/1/1897-5/5/1977)
Erhard đã đóng góp đáng kể vào việc tái
cấu trúc hệ thống kinh tế Đức và sự ra đời của
“phép màu kinh tế”. Chính ông là người đã phổ
biến thuật ngữ “kinh tế thị trường xã hội” ở
Đức. Mục tiêu của ông là “thịnh vượng cho tất
cả” trong một xã hội tự do. Khi làm thủ tướng
liên bang, Erhard đã cố gắng khuyến khích sự
chấp nhận chính trị – xã hội của nền kinh tế thị
trường xã hội. Ông hy vọng rằng với sự hiểu
biết và các thông tin về các vấn đề kinh tế sẽ có
thể ngăn chặn được những sai lầm trong chính sách chế độ. Đây là lý
do tại sao ông thành lập ra một hội đồng gồm các chuyên gia được chỉ
định theo dõi tiến bộ kinh tế nói chung. Khái niệm
về một “xã hội cải cách” – nơi hợp tác và áp lực
cạnh tranh vượt qua lợi ích riêng của một nhóm bất
kỳ theo đuổi.
Nguồn: Klump (2008), ảnh: www.historica.
fandom.com
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Eucken, Walter Kurt Heinrich (17/1/1891-20/3/1950)
“Làm thế nào để nền kinh tế công nhiệp
hiện đại có thể được tích hợp vào một hệ
thống vừa hiệu quả và nhân văn?” Đây là câu
hỏi mà Walter Eucken đặt ra cho chính bản
thân để rồi xuyên suốt quá trình là việc và
nghiên cứu của mình ông đã trả lời câu hỏi đó
bằng việc phát triển quan điểm của Ludwing
Erhard áp dụng và đã mang đến phép màu cho
nền kinh tế Đức sau thế chiến tranh thế giới
thứ II. Eucken xem sự tồn tại của quyền lực
của tư nhân cũng như nhà nước là vấn đề trung tâm của nền kinh tế hiện
đại. Ông cho rằng để kìm chế quyền lực, nhà nước cần có các chính
sách trật tự thể chế đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và phải loại bỏ sự
can thiệp vào quy trình kinh tế.
Nguồn: Gerken (2008), ảnh: www.kas.de
Röpke Wilhelm (10/10/1899-12/1/1966)
Ropke cho rằng mô hình kinh tế thị trường
xã hội bao gồm luật, nhà nước, phong tục, đạo
đức, giác ngộ về chuẩn mực và giá trị và một
trật tự tiền tệ hài hòa. Đó là những cái không tự
dưng nhờ thị trường mà có được, mà ngân hàng
trung ương và chính phủ hằng ngày phải gánh
lấy trách nhiệm. Chế độ kinh tế mà Ropke theo
đuổi được ông gọi là “chủ nghĩa nhân văn kinh
tế” hay “con đường thứ ba”. Ông xây dựng lý
thuyết về các chính sách kinh tế của mình trên
cở sở định đề về tính bất khả xâm phạm về nhân phẩm. Mọi vấn đề với
ông đều xoay quanh mối quan hệ dung hòa một xã hội và một chính
sách mà việc thừa nhận quyền con người phải là giới luật tối cao. Sự
nghiệp của Ropke là một tượng đài của tất cả những ai có tư tưởng về
124
ĐẠI BIỂU CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
một nhà nước tự do, của chủ nghĩa nhân đạo Thiên chúa giáo, vượt lên
trên quy luật cung cầu”. Ông cho rằng để thực hiện các nguyên tắc cơ
bản của nên “Kinh tế thị trường xã hội” luôn cần đến một sự phấn đấu
trường kỳ để giải quyết kịp thời các vấn đề của thời đại.
Nguồn: Krüsselberg (2008)
Müller-Armack (28/6/1901-6/3/1978)
Müller-Armack là đặt nền tảng cho việc xây
dựng khái niệm kinh tế thị trường xã hội. Ông
coi việc thực hiện một hệ thống chính trị tự do và
nhân đạo là một nhiệm vụ quan trọng của chính
sách xã hội mà kinh tế góp phần vào việc thực
hiện chúng.
Nguồn: Quaas (2008)
Rüstow, Alexander(8/4/1885 – 30/06/1963)
“Nếu bạn cần đến một bàn tay cứu giúp, thì xin trước hết hãy tìm
ở phía cuối cánh tay phải của mình”. Câu châm ngôn mà Rüstow hay
dùng ấy diễn tả nhận thức sâu sắc của ông. Theo đó, trên cơ sở quyền
tự do và ý thức trách nhiệm, mỗi cá nhân tùy theo năng lực của mình
phải tự chịu trách nhiệm về việc gây dựng và duy trì cuộc sống bản thân
cũng như về bảo vệ môi trường xung quanh.
Nguồn: Hegner (2008)
125
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
INTRODUCTION
The social market economy model was implemented for the first
time in West Germany in 1948, bringing in the “miracle” that turned
Germany from a collapsed economy after World War II into a prosperous
nation with generous welfare, leading the development of the EU today.
Since then, the model has been applied not only in Germany but also in
a number of other developed countries. This research aims at providing
a comprehensive summary on the theory and practice of the SOME and
then proposing relevant implications for Vietnam.
HISTORICAL CONTEXT
The SOME is not only induced by the German situation after
the World War II (WWII) but also by the ideologies beforehand. The
“market” part of the model is derived from ordoliberalism, also called
as “Freiburg School” which was developed during 1930-1950 by economists and legal scholars of the University of Freiburg. The “social”
part of the model is strongly affected by Christian ethics. The social security system was actually originated back to 1881 under the Chancellor Otto von Bismarck as an effort to prevent the socialism prevalence.
Four years after the WWII (transitory period): Germany was
divided into four regions occupied by the USA, the UK, France and
Soviet Union all of which adopted the post-war centralized economy
model, deteriorating the already-poor economy. To save the situation,
a currency reform was implemented in 1948, marking the beginning of
other policies of the SOME model to be adopted in the Trizone.
127
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
The Federal Republic of Germany (West Germany) was established on 23 May 1949 and the region occupied by the Soviet Union
was established as the German Democratic Republic (East Germany)
on 7 October 1949.
From 1949 to 1990: West Germany applied the SOME while
East Germany was a Soviet-style socialist economy.
During 1949-1966, West Germany witnessed the “economic miracle”. The economy operated along with the lines of market economy
mechanism. However, the economic growth leveled off in the later years.
A significant change in the government was observed in the succeeding period. The Godesberg Program was implemented, marking a
much higher degree of state intervention into the market which aims
at rocketing the economy to provide better social security. However,
that program did not work. After the Brandt period, Helmut Kohl became the Chancellor who reduced the government intervention in the
economy apart from going down in history for enabling and promoting
the German reunification.
West Germany and East Germany were unified in 1990. The
socioeconomic model of East Germany was transformed to implement
the SOME model.
WHAT IS A “SOCIAL MARKET ECONOMY”?
There is no official definition of the social market economy. Its
founding fathers such as Ludwig Erhard, Walter Eucken and MüllerArmack only stated its formula: “The Social Market Economy aims to
combine freedom on the markets with social stability”.
In comparison with the market economy, the SOME model is
closely related but divergent as it allows the state to intervene through
the establishment of an economic order.
Ordoliberalism is different from interventionism because ordoliberalism asserts the minimal government intervention in the economy.
The redistribution of the economic outcome is the main task of the state.
128
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
The Freiburg School and the Keynesian School, though share
the same feature of allowing certain degree of state intervention, differ in the way of intervening. Keynesianism favors interventions that
stimulate the demand side despite the risk of high inflation while the
ordoliberalism aims to keep price stability and low inflation.
A research by Bertelsmann Stiftung (2012) calculating the degree of SOME implementation in eight countries shows that Germany
scored 7.42 out of 10. Another study by Helfer (2015) covering a much
wider range of countries reveals that developed countries such as New
Zealand (8.261 out of 10 in 2010), Germany (7.733), and the USA
(7.621) have significantly higher scores than underdeveloped countries.
Vietnam’s index is noticeably low at 5.468 in 2010, indicating a great
distance from the theoretical SOME.
CORE VALUES
From the Basic Law (the German constitution) it can be seen
that the highest value that German society aims to protect is human’s
dignity. The legal system, institutions and government are all built to
serve the society. The next eighteen articles protect the fundamental
freedom rights.
The four core values of the SOME are freedom, justice, subsidiarity and solidarity.
Freedom is definitely neither chaos nor irresponsible spontaneity, people have to respect each other’s freedom and to be responsible
for their own actions.
The three dimensions of justice are included into the SOME
model. First, achievement-based justice implies that the distribution
of social outcome should grow proportionately with the contribution.
Second, need-based justice permits social outcome to be distributed to
those who in need but unable to obtain due to certain circumstances.
Third, opportunity-based justice argues that the difference in achieve129
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
ments may result from the unequal opportunity at the start. To cope
with that problem, it is important to ensure equal opportunity regarding
access to education.
The principle of subsidiarity is a particular characteristic of the
SOME model. It states that the lower level of authority has the priority
in decision-making over the higher one if the former is either able to
or more efficient to solve the issue. This principle is applied in various
contexts. In the economy, market mechanism is the primacy, any solution by the state, if necessary, is only secondary. In the social context,
the individual is responsible for his own life before looking for any assistance from the third person. In the structure of administrative system,
local government makes decision for the issues in the local area and
take responsibility for its decision before central government. The aim
is to assign the right and responsibility to the smallest unit possible.
Finally, solidarity seems to be the most robust evidence of the
influence of Christian ethics on the model. The social cohesion and mutual assistance among people of different backgrounds, ethnic groups or
generations are highly valued.
FUNDAMENTAL PRINCIPLES
The original model includes eleven fundamental principles being
categorized into two groups. The first group consists of seven constitutive
principles: a functioning price system, primacy of the monetary order,
open markets, private property, freedom of contract, liability, and
continuity of economic policy. The remaining group consists of four
regulative principles: antitrust policy, income policy, correction of
externalities, and correction of anomalous labor supply.
The SOME has been further developed to become more eclectic
and policy-driven. The study of Bertelsmann Stiftung (2012) named it
the principles of modern social market economy. The eleven principles
of the modern SOME can be summarized as follows
130
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
(1) An effective price system allows prices to be established by the
economic laws, not by any centralized authority. Any state intervention
(e.g. subsidies and transfers) violates this principle because it distorts
prices, which hence convey distorted signals to the economic agents
(Dickertmann & Piel, 2005).
(2) Open markets implies not only the free cross-border movement
of production inputs (as in the original model) but also the low barriers
to market entry for potential entrants.
(3) Competition contributes to economic growth and power
decentralization through its classic, stable, and dynamic functions
(Seitel, 2005). Its classic political functions are to limit the impact
of state power on the private market players and to control private
economic power. Its stable functions are to produce the goods and
services according to consumers’ demand, to force enterprises utilize
optimally the factors of production. Lastly, the dynamic function is to
motivate firms to invest in research and development and innovation.
While the original model endorses perfect competition, the modern
SOME accepts the existence of monopoly and oligopoly.
(4) Property rights: Private property has been conclusively proven
to be the key factor for economic growth (Franke & Gregosz, 2013).
The modern SOME model, though, emphasizes on the rights and
responsibilities embedded in the property right instead of concentrating
solely on private property.
(5) Freedom of contract means that people are free to choose their
partners, to discuss, enter a contract and implement it without any force
from a third party.
(6) Liability implies that people are liable of their decisions
(Suntum & Ilgmann, 2014). Eucken has been skeptical of the limited
liability companies; he believes that major shareholders should be fully
liable. However, the modern SOME has been more eclectic, recognizing
different levels of corporate liability.
131
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
(7) Financial stability not only points to the stability on the
financial market but also the price stability. The latter requires that the
central bank is independent from the political pressures.
(8) Consistency of policy concerns the time-inconsistency and the
principle-agent problem in modern economics. Policy changes should
be anticipated and consistent over time so that economic agents are
informed.
(9) Efficient environment protection: While the original model only
mentions the correction of environmental externalities, the modern one
emphasizes on the instruments to protect the environment. Economists
prefer the market instruments but in reality the legislations and
regulations such as sanction and prohibition still dominate.
(10) Effective labor markets: The ordoliberal economists agree
on intervention in labor market regardless of their skepticism about
wage cartels and minimum wage which cause suspended competitive
equilibrium wage.
(11) Social mobility refers to the movement of people along the
socioeconomic status ladder. The modern SOME argues that a highquality education system at low cost for everyone contributes to the
realization of this principle.
POLICY FRAMEWORK
The role of state – market – civil society
In the German society, human is put in the center. Economic activities, political institutions and the state are meant to serve the society.
The state is featured by the separation of power, rule of law and
democracy (Currie, 1993; Stockmann, 2001; Waarden, 2015).
The separation of political power in Germany is formed horizontally and vertically. The horizontal separation is the classic distinc132
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
tion between the legislative, the executive and the judicial. According to
The Heritage Foundation (2019), the German judicial system is highly
effective with a score of 75.4 out of 100. The vertical separation is the
power decentralization from the federal, to state and to city authority.
Regarding rule of law, according to the World Justice Project
(2019), Germany is among the countries with the highest rule of law
index in the world, 0.84 out of 1.0, ranked the sixth in the world.
The state’s power is also controlled through accountability and
strong influence of civil society. According to World Bank data during
1996-2017, Germany is in the group of countries with high accountability, voice of civil society and the exercise of civil liberties.
According to The Economist Intelligence Unit (2018), Germany is one of the countries with “full democracy”, scoring 8.86 out of 10.
The SOME model requires a strong state but minimal government intervention into the market. Two principles must be followed
(Stockmann, 1991). First, the principle of subsidiarity indicates that a
state-participation solution is usually secondary if there is a viable alternative from the market mechanism. Second, the principle of market
conformity means that in case of intervention, it is necessary to comply
with as much as possible the market mechanism.
Monetary and fiscal policy
Monetary policy of Germany aims to maintain price stability.
Monetary policy is assigned to the European Central Bank. Whether
the European Central Bank’s decisions are independent politically is
still controversial.
Meanwhile, the Federal Central Bank of Germany is known to
have great independence in its decisions from the government and parliament and to have great accountability. Dumiter (2014) shows that the
Federal Central Bank of Germany is in the group of highest independence, transparency, and accountability in the world.
133
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
For the case of EU members, fiscal policy plays a more important
role in stabilizing business cycles (Tenhofen, Wolff & Kristen, 2010).
Germany signed the Stability and Growth Pact in 1997 and the
Treaty on Stability, Coordination and Governance, a new stricter version of the Stability and Growth Pact, in 2012.
According to the report of the Federal Ministry of Finance of
Germany (2019), Germany continues to fully achieve the agreements
in these two treaties. Germany has not only succeeded in keeping the
nominal deficit below the limit (3% of GDP) but has also maintained
a budget surplus of 0.5% to 1.7% of GDP since 2014. The high GDP
growth and the budget surplus in recent years have contributed significantly to reducing the debt ratio. In 2018, the debt to GDP ratio
decreased by 3.6 percentage points to 60.9% of GDP.
Regarding government spending, a high level of spending is aimed
to having a positive contribution to increase of social security: social spending accounts for more than 50% of the federal budget and, at the government level in general, accounted for about 24% of GDP in 2018.
According to The Heritage Foundation (2019), Germany has a great
tax burden and high government spending but its financial health is good,
indicating the government’s ability to control its revenues and expenditures.
Property rights
According to The Heritage Foundation (2019), Germany’s
Property Rights index is 80 out of 100, implying a high level of protection for property rights.
The labor freedom is generally guaranteed. Germany has a few
laws that restrict the occupational freedom. These are the high barriers
such as experiences and health concerns for occupations in such industries as crafts and mechanical art (Bertelsmann Stiftung, 2012).
Regarding real estate, private land ownership is protected by the
Constitution and the legal system.
134
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
Germany has strong intellectual property protections.
Public assets, rights and responsibilities on public assets are assigned to specific legal entities according to the principle of subsidiarity.
Competition policy
Competition regulations are documented in the German Act
Against Restraints of Competition (1999).
The enforcement authorities include the Federal Cartel Office,
state cartel authorities, the Monopolies Commission and the Appeal
Court. Both in legal theory and in practice, the Federal Cartel Office is
the most significant authority to inforce competition law. The federal
and cartel agencies have almost judiciary autonomy.
The efficiency of German traditional antitrust practices, though,
have been challenged by the development in the digital market in recent
years (Mund, 2018; Budzinski and Stöhr, 2018).
Education policy
Germany is well-known for high quality education system with
automatic tuition fee waiver. In 2015, government spending on education in Germany accounted for 4.8% of GDP. The education system
appears flexible, creating more choices for students.
In accordance with the principle of subsidiarity, the education
system in Germany is markedly different from state to state and the local authority has great autonomy in deciding their own education models and programs.
Labor market policy
The state interferes strongly in the labor market. Interventions
aim at strengthening and protecting the organizations that represent
135
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
workers such as labor union rather than those represent employers. According to The Heritage Foundation, the German Labor Freedom Index
in 2019 is 52.8 out of 100, belonging to the group that has “mostly
unfree” labor market.
According to Soltwedel (2005), Germany properly implemented both passive labor market policies and active ones. The enforcement
of these policies is the main task of the Federal Employment Agency,
which is an autonomous body with legal capacity and directly answerable to the federal government.
The general statutory minimum wage became effective in Germany on January 1, 2015, and was introduced at a level of €8.50 gross
per hour.
Media policy
Regulatory bodies include the Federal Networking Agency,
the Federal Cartel Office and fourteen regional media agencies, all of
which operate independently and effectively.
Regarding press, the German Press Council – a self-regulatory
organization formed by associations of journalists and associations of
publishing houses – develops and enforces the German Press Code.
The press and film industry largely function along the lines of
market economy principles while the television and radio broadcast sector is characterized by the dual (public and private) broadcasting system.
According to the Center for Media Pluralism and Media Freedom (2016),
about 80% of the German population over the age of thirteen watch television and 74% listen to the radio every day. About 46% of the population
uses the Internet and 33% access the printed newspapers/magazines.
In order to maintain pluralism in broadcasting, public stations
are organized in a pluralistic manner - the composition of the radio assembly is representative for the importance of social groups as political
parties, associations, churches, etc.
136
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
According to a report by the Center for Media Pluralism and
Media Freedom (2016), media pluralism in Germany is at low-to-moderate risk.
Open market policy
Germany commits to free movement of goods, services, workers and capital within EU areas.
Regarding trade of goods, the tariff barriers have been significantly removed. According to The Heritage Foundation (2019), the average German tariff rate is 2% and the trade freedom index is 86 out of
100. However, non-tariff barriers are still intensively applied.
In terms of capital freedom, Germany is among few countries
that have the maximal Chinn-Ito Financial Openness Index (scoring 1.0
out of 1.0) which implies free cross-border capital movement.
Regarding movement of workers, there is a lack of legal regulations on the immigration of skilled labor in Germany (Bertelsmann
Stiftung, 2012).
Regarding barriers to market entry, German law has created
some barriers such as long processing time, complicated procedures
and high capital requirements (Bertelsmann Stiftung, 2012).
Environmental policy
According to a report of European Council (2019), Germany
has a comprehensive set of environmental law and policies which are
implemented efficiently. Further, the citizens have strong awareness on
environmental protection and demand greater efforts in environmental
protection.
Important environmental protection instruments include green
taxes, green public procurement, environmental funding and investments. Germany has made significant efforts in reducing CO2 emissions.
137
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Germany’s environmental tax revenue is the lowest in the EU,
accounting for 1.86% of GDP in 2016 (EU average: 2.44%). Energy tax
revenue makes up 1.54% GDP, lower than the EU average of 1.88%.
Germany spent €19,185 billion (0.6% of GDP) on environmental protection in 2016, an increase of 6.7% (yoy). The government’s
general funding for environmental protection amounted to €88,849 billion during 2012-2016, the second highest in the EU. However, it is
criticized that the government uses a part of environmental tax revenues
to finance social security.
LESSONS FOR VIETNAM
Introduced in aneconomically- and politically-collapsed period of
Germany yet being astonishingly successful, the SOME model is to give
valuable lessons for developing countries. By the end of the Second
World War, Germany had experienced and failed many socio-economic
models and ideologies including the war-served central planning model,
the postwar central planning model, capitalism, tyrannical monarchy,
immature democratic Weimar and Nazism. Germany aspired to find
a way which overcomes fundamental shortcomings of these models
and, at the same time, harmonizes with the country’s preserved culture,
customs and social values. The SOME has proved itself qualified to
these aims and efficient in balancing the economic and social goals at
least until recently.
Vietnam also seeks a development model that not only balances
the economic and social goals but also accepts its distinctive informal
characteristics such as norms and cultures. Due to the war that led to
the the nation unification lately in 1975 and the extremism against
capitalism,Vietnam’s economy remained stagnant in consecutive eleven
years of Soviet central planning economic model. Only since 1986 has
Vietnam begun to take the slow and cautious step in applying the market
economy model while having no prior experience. The entrenchment of
formal and informal institutions makes changes more difficult. Even
138
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
if an underdeveloped country could mechanically imitate the formal
institution of a developed country in one night, the formal institutions
would take much longer than that, maybe decades, centuries or forever.
Therefore, imitating the SOME model for the case of Vietnam seems
impossible and likely to be inefficient. Nevertheless, the SOMEis a
successful exemplar that Vietnam can learn valuable lessons from. This
section aims at depicting those lessons for Vietnam.
The role of state – market – civil society
First of all, the spirit of the SOME model is that the whole social
and institutional design is to serve people. People are precisely the sole
subject of all social processes, as stated in the first article of the Basic
Law. “People” here are specific people that are the members existing in
society in the presence, not the abstract and general man. It also implies
that the institutional system, the law and the whole social design are
not intended to serve or maintain a regime or an ideal. On the contrary,
regimes or ideals must serve the specific people living in that society.
Therefore, the entire institution and the legal system place people at the
center. The first article in the Basic Law protects human dignity and the
entire first chapter (nineteen articles) protects human basic freedoms;
all of the values, theoretical principles and socio-political institutions in
fact serve that purpose.
Different from the Basic Law of Germany, Chapter I (thirteen
articles) of the Constitution of Vietnam refers to the protection of the
political regime. To apply the social market economy, the first significant
lesson is that people should be put in the center in the construction of
society and institution. Human dignity is to be respected and the political
authority is aimed to serve the society, not the other way around.
Regarding the role of state in economic activities, the state should
reduce its interferences in the economy. The main task of the state is to
focus on social objectives while creatingsound conditions for market
operations and fair competition. In order to do that, it is necessary to
139
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
create a clear legal corridor for property rights, encourage privatization
and allow more independent and pluralistic media to provide transparent
and objective information for economic entities. Since the Doi Moi
reform, though being reduced, the state’s interference into the economy
has still been significant.The judiciary does not maintain its relative
independence towards the government and parliament. Civil society is
not strong enough to pressure accountability of the government.
Regarding the state model, the state should improve its
accountability and allow counterbalance authorities to mitigate power
abuse. Vietnam’s Voice and Accountability index is low compared to
other countries in the region, only slightly higher than Laos and much
lower than ASEAN countries. According to Dinh Tuan Minh, Nguyen
Khac Giang, Nguyen Duc Thanh, Nguyen Quang Thai, & Do Thanh
Huong (2016), Vietnam’s current political system is nominally a oneparty political system yet, in fact, has many features of a dominant oneparty political system. The authors warn that without timely measures
Vietnam’s political system easily be at the risk of degeneration in which
the dominant party becomes an obstacle to the market economy and
restraint civilian development as has happened in India and the Russian
Federation. In Vietnam, the role of civil society is still weak. Law on
civil society has not been established yet. The Draft Law on Association
was proposed in 2016 as the first step but the Draft creates barriers rather
than a legal corridor for the establishment of associations. The Draft has
not even been approved. According to the World Bank data during 1996
– 2017, Vietnam’s voice and accountability index is low, only slightly
higher than Laos and much lower than other ASEAN countries.
Although the Constitution clearly demands for the vertical
and horizontal separation of power, the power division is limited in
practice. The legislative, the executive, the judiciary and all vertical
authorities belong to one party, which leads to serious corruption and
low accountability. The Corruption Perception Index of Vietnam has
never surpassed the average and always been among the most corruptive
countries in the world. According to The Heritage Foundation (2019),
140
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
Vietnam’s Government Transparency Index is among the lowest (34 out
of 100) and “corruption and nepotism are rife within the Communist
Party of Vietnam and state-owned companies”.
In the legislative, the proportion of full-time delegates is low (about
30% as of the 13th National Convention in 2016). In addition, because
the National Assembly meets only twice a year and the questions are
not binding on implementation, many socio-economic issues are raised
year after year without noticeable progress. The National Assembly has
almost no possibility of reversing the decisions adopted by the Central
Executive Committee of the Communist Party of Vietnam.
The judicial system is not independent, controlled by the communist
party at all levels. The Judicial Effectiveness Index of the Heritage
Foundation is also low at 40.3 out of 100, making Vietnam an “unfree”
country on this aspect.
Efforts should be made to improve the rule of law. Vietnam’s legal
system is still incomplete and in developing stageof establishment, many
activities are not regulated by any legal documents. Although many laws
have been enacted in recent years, their quality and enforcement power
remain weak. The rule of law index of Vietnam is low, ranked 81 out
of 126 countries, and among the worst countries in Asia (World Justice
Project, 2019). The index shows that the state power is not controlled,
which implies easy power abuse, and government activities are badly
audited and monitored. On another aspect, according to The Economist
Intelligence Unit (2018), the Democracy Index of Vietnam is 3.08 out
of 10, implying that it has been put under an authoritarian regime. The
government should reduce further its interference in the economy and
gradually allow political freedom.
Monetary policy, fiscal policy
According to Nguyen Duc Thanh et al. (2014), after nearly thirty years
since the Doi Moi reform the monetary market of Vietnam is relatively
free. The state bank of Vietnam has increased its independence in using
141
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
monetary policy instruments to control inflation. The credit flow’s
destination is less controlled due to less distorted interest signals. The
exchange rate is mainly set by the supply and demand in the market in
which the State Bank intervenes through monetary instruments rather
than administrative orders as previously. Barriers to entry in financial
market are gradually reduced upon accession to WTO. Bank equitisation
and policies for stock market have not made much progress despite the
increase in the supervision of financial safety of the State Bank and the
National Financial Supervisory Committee.
Nevertheless, monetary policy and fiscal policy are inefficient.
First, there is a lack of central bank independence, which deteriorates
monetary policy’s effects. The independence index for the State Bank
of Vietnam is considerably low, even lower than that of many other
developing countries (Duong Thi Thuy Nga & Do Van Vinh, 2014). The
governor of the State Bank is a member of the cabinet, appointed by
the prime minister and responsible to the government and the National
Assembly. Therefore, the governor’s decision is inevitably affected
by political pressure from the government. The government should
gradually return the independence to the central bank while demanding
its accountability and efficiency. The central bank should be allowed
to perform in its original function of keeping low inflation while the
growth target is entrusted to the production sector.
The state-owned bank equitization has not been well implemented.
Three out of four state-owned banks have been equitized but the state
ownership ratio is still high with a legal requirement of over 65% as
per Resolution No. 15/2014 in 2014. The share of total assets of stateowned bank has been nearly 50% of total assets of all banks since 2009.
In comparison, the state ownership ratio in German state banks was just
slightly higher than 50% (Schmit, Gheeraert, Denuit & Warny, 2011)
and the state-owned bank assets’ share of the total financial assets of the
banking system was about 40% in 2014 (OECD, 2014).
Regarding fiscal policy, the rate of recurrent expenditure is
increasing. Fiscal policy is featured by constantly high budget deficit
142
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
(5.64% GDP in 2016, 3.5% GDP in 2017) and high public debt.
According to The Heritage Foundation (2019), Vietnam’s Fiscal
Health Index is 40.7 out of 100, which implies government’s poor
ability in budget management. Regarding fiscal policy, monitoring
and controlling state budget must be more efficient. The first step is to
enhance accountability and transparency.
Property rights
Property right is not only a basic human right but also a deep motivation
for people to participate in economic activities. Therefore, property
rights need to be clarified, respected and enforced.
Pham Duc Trung, Dinh Tuan Minh, Nguyen Thi Luyen and Nguyen
Dinh Cung (2016) points out that the legal framework of public property
rights has been relatively complete. However, there are many issues
that need to be considered. Firstly, public assets have not been valued
on the basis of supply-demand principles but mainly on the relationship
between the authority and the entity who is granted the right over public
assets. Second, the quality of management and responsibility for public
property are low. A certain governmental authority can be in charge of
many rights over the public assets including the right to manage and to
use and the right to allocate the assets to another entity. Typical examples
are the allocation of land and natural resources prevalently to stateowned enterprises. Thirdly, no systematic measurement of costs and
benefits of exploiting public assets has been founded. Therefore, there
is no proper assessment on the results and efficiency of the projects that
use public assets in the economy.
Public properties (land and natural resources) belong to “all the
people” and are managed by the state. The concept “all the people” is
ambiguous, causing confusion not only in theory but also in practice
which creates loopholes for corruption. Regarding land, many
demonstrations were carried out due to unjustified land appropriation.
In fact, land generally is under the control of certain authorized state
143
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
agencies and officials. Change of land use purpose and transfer of the
right to use land are not based on market mechanism principles but on
political orders. This has led to the fact that land becomes a governmental
tool to create favors for state-owned enterprises and foreign investment,
which causes inefficiencies and unjustified allocation.
Regarding natural resources, the owner is also the “all the people”
represented by the State and exercised by the state. However, the form of
ownership may change or disappear due to the physical morphology of
the property. Featured as such, the right to dispose of natural resources
is wider than the right to dispose land. The entity responsible for
managing natural resources are governmental administrative agencies
from the central to local levels. As for oil and gas, PetroVietnam is
the one who directly exploits and has the right to allocate oil and gas
exploitation rights to other organizations and individuals through open
bidding, competitive bidding and contractor appointment. This model
of exercising management rights, along with establishing the leading
role of the state economy, has created a dominant advantage of stateowned enterprises in accessing resources. In terms of disposition, local
governments are allowed to dispose, that is, the decision is totally in the
hands of a number of specific public officials. This mechanism does not
create an equitable opportunity for the efficient allocation of resources
because transactions are made purely on administrative orders, not
supply-demand principles.
For the state-invested assets, transparency is a severe problem.
There is no official and complete announcement of the total value of
state capital. Public assets invested in state-owned enterprises have not
been properly priced according to market principles, so the efficiency
of capital investment in the state-owned enterprises sector are low.
Regarding private ownership, as mentioned, there is no private
ownership of land and natural resources in Vietnam. For other types
of tangible assets, Article 32 of the 2013 Constitution stipulates that
“everyone has the right of ownership of their lawful income, savings,
houses, living materials, means of production, capital portions invested
144
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
in enterprises or other economic organizations”, private property rights
are protected and only subject to compulsory acquisition and at market
prices. However, the mechanism of land acquisitions and compensation
is not satisfactory, which leads to riots such as the case of Thu Thiem
and Dong Tam.
For intellectual property, the system of intellectual property rights
in Vietnam still has flaws and the implementation is not strict. According
to the Heritage Foundation (2019), Vietnam’s Property Rights Index
stood at 49.8 out of 100, implying poor property rights protection.
It is necessary to take measures to improve the law on public
property. The first action is to establish public property rights.
Regarding ownership, it is necessary to clarify the term of ownership –
“all the people” – that is to clarify the content, subject, implementation
method, management sanctions for each public property. Regarding the
right to use and disposition, it is necessary to specify the subject and
require full accountability. Second, public assets must be classified,
assessed and priced according to market principles, which should be
integrated to national database. This will improve allocation efficiency.
Third, the public asset management apparatus must be professional and
specialized. Finally, there is a need to improve the legal content of the
law and give more respect to private property.
Competition policy
For economic activities to operate effectively, competition policy also
needs to be improved. Nguyen Thi Thu Trang, Dinh Tuan Minh, Dau
Anh Tuan, Nguyen Thi Dieu Hong and Pham Ngoc Thach (2016)
provides a thorough examination of the legal framework, especially
the Competition Law of Vietnam, describes the actual situation and
proposes solutions to improve efficiency of competitive activities.
Specifically after nearly three decades of implementing the economic
reform policy, Vietnam’s competition legal system is considered to
be relatively comprehensive and in accordance with international
145
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
standards, thereby creating a legal framework for general competitive
environment as well as specific business activities.
However, the competitive practices in Vietnam still have many
problems. Businesses and consumers’ rights and interests are violated
due to antitrust behaviors. One of the reasons documented in Nguyen
Thi Thu Trang et al. (2016) is the flaws of the code against antitrust
behavior of Vietnam. The competition law has some legal loopholes
that allow many antitrust behaviors to occur and competition law
enforcement institutions are not independent, professional and effective.
The first solution at hand is to amend the antitrust laws. The form of
anti-trust agreements should be supplemented by including also words
and implicit actions and improve the handling process of violations of
competition laws. In addition, the antitrust practices should be revised
so as to take into account the common practices in other countries.
The antitrust behaviors should be identified by analyzing their natures
instead of comparing to some behaviors listed in the code (Nguyen Thi
Thu Trang et al., 2016).
The second solution is to pressure the role and efficiency of
authorized agencies. Germany has Federal Cartel Office, state cartel
authorities, the Monopolies Commission and the Appeal Court. These
specialized agencies in Germany have great power and independence.
By contrast, the agency in charge, Vietnam Competition Authority, is
dependent and limited in power. The Vietnam Competition Authority
should be granted more independence and play more active roles in
investigating suspected entities.
Finally, the legal framework should support and promote fair
competition. Firstly, state-owned enterprises are documented to suffer
from huge losses but still operating. It is necessary to gradually stop
favoring state-owned enterprises and let them compete fairly, the
self-selection processes then eliminate poorly-performing ones which
improve general productivity of the industries and the economy.
Secondly, as property rights are essential to motivate economic
146
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
activities, property rights should be specific and clear so that businesses
can assure that their properties cannot be appropriated by interest groups
who can exploit the ambiguity of property rights law. Thirdly, due to the
technology advancement knowledge as an asset plays an increasingly
important role as one of the company’s competitive advantages.
Currently legal system has not created proper legal corridor for many
emerging businesses such as shared economy and multinational
enterprises. Therefore, the law on intellectual property also needs to be
reviewed, adjusted and further developed.
Education policy
World Bank figures show that Vietnam’s ratio of public spending on
education to GDP (5.7% of GDP in 2013) is much higher than many
countries in the region, even compared to countries with high economic
development. The proportion of the population in the economy is higher (Germany 4.8% in 2015, Singapore 2.9% in 2013, Malaysia 4.7% in
2017, Thailand 4.1% in 2013).
Vietnam’s education has achieved certain positive results. The
state supports students up to high school by charging low tuition fee,
attempting to eliminate illiteracy, providing better assistanceto disadvantaged people, training more teachers and upgrading infrastructure,
easing the procecss of opening private schools. The PISA index shows
that the scores of reading, math and science skills of 15-year-old students in Vietnam remain relatively good over the years.
However, there are still many problems. Firstly, the quality of education in public schools is still low. Public schools charge much lower
tuition fees than private schools but seem to be of inferior quality, reflected by the fact that many parents try to get slots private schools for
their children. That children who are rich get slots in good school is
unfair in the notion of “justice in opportunity” in the SOME model.
In addition, educational achievement obsession and fraud are serious. Since the university entrance examination was abolished and re147
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
placed by the typically-easier high school graduation exam in 2015,
hundreds of cases have been found cheating such that the scores of
students were changed by certain educational staffs. A stark example is
that a student in Hoa Binh who scored 0 out of 10 in physics, 0 out of 10
in chemistry and 1 out of 10 in mathematics had his respective scores
raised to 9, 9.25 and 9.2 and ranked the third in his cohorts to get to a
university1. More importantly, the students whose scores were lifted up
were typically the descendants or relatives of those who work in the
public service sector. Not only does this situation implies injustice but
also inefficient allocation of opportunities. The fraud in examinations
leads to inequality in distribution in the viewpoint of SOME model.
The ineffective distribution also takes place even after graduates enter
the labour market where recruitment in many positions in public sector
and state-owned enterprises are based on relationship rather than on
competence of candidates.
Academic freedom has not yet been highly respected even at undergraduate and graduate levels. Schools must use the textbook and
follow the curriculum published by the Ministry of Education instead of
being free to choose their preferred books. It is criticized that many students are passive and lack of critical thinking and creativity. Freedom to
politics-sensitive knowledge and new perspectives are restricted even
in university and postgraduate because subjects in the program framework and the content of the subjects are controlled by the Ministry of
Education and other relevant departments. In addition, it seems that
universities are more focused on teaching than on researching.
Some recommendations are as follows. Academic freedom and integrity should be respected. There are new ideas coming along with trade
openness therefore welcoming new perspectives and ideas is increasingly important. Policies to reward research activities should be enhanced.
Sanctions are needed to strictly punish cheating in and after exams and
not only by the Ministry of Education but also by the courts. In addition,
1
Source: https://tuoitre.vn/thu-khoa-nho-sua-diem-vi-sao-van-an-vi-hoc-ca-nam-troi20190417081854498.htm
148
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
the changing the exam mode from paper-based to computer-based is very
likely to decrease cheating in exams. This can be a considerable investment in education therefore gradual transfer is recommended.
Labour market policy
On the one hand, the labour market in Vietnam is becoming more flexible
and dynamic. The Labor Freedom Index of Vietnam is 62.8 out of 100,
which implies a moderately free labor market (The Heritage Foundation,
2019). According to Tran Dinh Thien, Le Van Hung, Pham The Anh,
Ma Ngoc Nga, and Nguyen Thi Tuyet (2014), Vietnam’s labour market
has been liberalized since Doi Moi reform in 1986. People are free to
choose their occupation and workplace. Vietnam’s regulations on hiring
and firing workers are quite open, making it easy for employers to adjust
their business plans. As a result, there has been significant shifts of labour
force from the low – productivity and low – income industries to the high
– productivity and high – income ones. The degree of freedom of labour
market of Vietnam is quite high compared to other countries in the region
such as Indonesia, Cambodia, China and Thailand but lower than such
developed countries as Singapore and Japan.
On the other hand labor policy is not efficient in protecting the
rights of workers. Employees and employers are free to negotiate wages
and remuneration in compliance with the Labor Law but merely on
individual base, the role of trade union is weak. The Labor Law regulates
the minimum wage and remuneration but the minimum wage criticized
is much lower than the basic need. Tran Van Tu (2009) points out that
the minimum wage only meets 60-65% of basic needs of workers and
is very close to the poverty line because it does not take into account
the housing fee. Wages in the public sector are often significantly lower
than those in the non-publicones.Although Decree No. 50/2013/ND-CP
allows state-owned enterprises to set their own salary scales. Thesalary
promotion path in the public sector is not reasonable because wages are
adjusted on tenure basis.
149
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trade union is the only representative organization protecting the
legal rights of employees in Vietnam. However, trade unions are scattered
and inefficient. Their main activities are to organize social events such
as visiting the workers’ family in case of wedding, funeral or accident,
instead of negotiating for the workers’ benefits. Nearly 5,000 strikes
that occurred between 1995 and 2012 were associated with workers’
inadequate compensation and poor working condition. None of these
strikes were initiated or organized by trade unions except for one in Dong
Nai. The reason for this is the complicated procedures for carrying out
legal strikes and the weak belief, if any, of workers towards in labor
union. Therefore, it is recommended that strike procedures be reduced
and simplified.Legal corridor should be clear to improve the role of trade
unions. For example,the right of collective bargaining should be legalized.
“Copying” Germany’s labor policy is essentially not feasible
because the German state has sufficient financial resources and extensive
experience in labor market interventions. However, Vietnam might learn
from Germany. Firstly, there should be clear and simple procedures for
strikes and policies to strengthen the role of trade unions. Secondly,
establishing the legal corridor for workers’ right of co-determination.
Protecting the basic rights of workers is essential to maintaining social
stability. In addition, the state administrative apparatus should be
streamlined and wages should be merit-based or contribution-based
instead of being tenure-based.
Media policy
Vietnam’s media has made positive changesSince Doi Moi reform.
Information is exchanged more freely than before, probably due to the
loosened control of Communist Party of Vietnam and the inevitable
development of digital technology and social networks.
However, control over all three main media areas namely
newspapers, radio – broadcasting and film is still very strong in Vietnam.
The Press Freedom Index, compiled and published by the Reporters
150
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
Without Borders(Reporters sans frontiers), of Vietnam has been low
over the years. Vietnam ranked 176 out of 180 countries in 2019 just
ahead of China, Eritria, North Korea and Turkmenistan. The Law on
Cyber Security which basically serves as a tool to reinforce the power
of the Communist Party of Vietnam on the Internet came into effect in
early 2019. Due to this law, the rights of free speech on the Internet will
be further limited.
The state should gradually liberalize media and communication,
allowing the implementation of the basic human rights stipulated in the
Universal Declaration of Human Rights (1948) and Article 25 of the
2013 Constitution which declares that “the citizen shall enjoy the right
to freedom of opinion and speech, freedom of the press, of access to
information, to assemble, form associations and hold demonstrations.
The practice of these rights shall be provided by the law.” As pointed
out, communication policy is very important both in politics (by
enhancing information transparency and diversity, putting pressure on
power groups, increasing accountability) and in economic development
(by contributing to faircompetition, protecting consumers and effecting
monetary and fiscal policy etc.).
Open market policy
Vietnam’s open market policy has seen many positive changes in
international trade while investment and finance openness are still
limited. In terms of trade in goods, Vietnam generally has implemented
as per its commitments to the World Trade Organization (WTO). The
import tariffs of the majority of commodities are reduced and cut
in accordance with or faster than theagreed tariff-cutting roadmap.
According to The Heritage Foundation, the Free Trade Index of Vietnam
is 79.2 out of 100, implying moderately free interanational-trade market.
The combined value of exports and imports is equal to 200.3% of GDP.
The average applied tariff rate is 2.9 percent. As of June 30, 2018,
according to the WTO, Vietnam had 80 nontariff measures in force.
151
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Foreign investment restrictions related to commodity trading have been
eased. The state remains involved in the financial sector.
Regarding trade of goods, while many countries have used
intensively technical barriers and sanitary measures as a tool to limit
imports of such products as agricultural products, Vietnam does not
even implement them for the purpose of protecting human health and
the environment let alone their use as an import barrier. Similarly, trade
remedies (anti-dumping, subsidy and safeguard) are also committed by
Vietnam and have been enacted by the law, but their implementation is
still ineffective. After more than ten years of implementation, Vietnam
has only conducted three trade defence investigations. Should any
industry be protected, it is necessary to change from tariff measures to
other non-tariff measures.
Regarding trade in services, apart from the commitment to open
the services market in the WTO have most of Vietnam’s Free Trade
Agreements (FTAs) hardly taken any other significant steps. Even within
the WTO, Vietnam’s commitments on service market openness are still very
conservative and limited. In terms of quantity, Vietnam opened 11 of the
12 services sectors in the WTO, but the depth of the opening in each sector
is relatively limited. Consequently, many service industries, especially
those that have long been monopolized by state-owned enterprises such
as transport, telecommunications, entertainment, etc., have been protected
for too long from natural competition pressure, leading to increasingly
inefficient operations. It is recommended that Vietnam be more open in the
service market with thorough plans and analyses.
Regarding investment, the agreements within the framework of
WTO are also considered to be the most significant among all free
trade agreements of Vietnam. Bilateral agreements on investment
protection and WTO commitments on investment are quite strong in
manufacturing industries but limited in service sector. According to
The Heritage Foundation (2019), the Free Investment Index of Vietnam
is profoundly low, at 30 out of 100, implying severe restrictions on
foreign investment in Vietnam.
152
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
Regarding capital market openness, no legal framework has
been settled for capital movement except for the Decision No. 1590/
QD-TTg which approves the schedule of the capital opening process.
The capital free movement is still a very primitive concept in Vietnam
and capital transactions often takes place under the table.The ChinnIto financialopenness index of Vietnam is low (0.41 in 2016, ranked
99 in the world) while Germany is one of the countries with absolute
financial openness. The first step is to complete the legal framework for
capital cross-border transfers.
Vietnam agrees on labor market openness. Cross-border movement
of labour is quite easy in Vietnam. Since skilled workers are lacking,
labor policy focus on attracting skilled workers. The regulations on
worker immigration are relatively complete but not fully instructive and
clear, causing ambiguity for enterprises which want to recruit foreign
workers.
Vietnam’s trade openness is a self-developing process in itself, in
line with the intrinsic demand of the economy rather than from external
pressure. Vietnam does not seem to have sufficiently cautious and
comprehensive plans when entering a free trade agreement with another
country.The participation of enterprises and industry representatives is
still lacking. In addition Most of Vietnam’s free trade agreements which
have been negotiated/ signed are not the results of thorough research
and investigations but of “diplomatic presents” that Vietnam offered to
its partners on their visits (Dau Anh Tuan, Dinh Tuan Minh, Nguyen
Thi Thu Trang, & Pham Ngoc Thach, 2014). It is recommended
that Vietnam be more open to international trade and that the role of
enterprises be stronger in free trade agreement negotiations.
Environmental policy
The Environmental Protection Law of Vietnam has basically been
developed quite recently (first adopted in 1993) and many shortcomings
are observable. Vietnam signed international conventions on
153
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
environmental protection such as CITES, Bazen Convention, Ozone
Layer Protection Convention. However, it is obvious that environmental
pollution has become more serious recently due to the loopholes of the
environmental protection laws and inefficient implementation.
The economic growth over the past three decades has paid a high
price for the environment. Disorganized and inefficient urban planning is
one of the major causes of environmental problems. Another reason is the
lack of transparency in which state-owned enterprises receive privileges.
In private sector, many private companies including foreign-owned ones
do not strictly follow environmental protection law while corrupted
state officials have made it even so common that the incurred cost in
this process is often referred as one type of “lubrication fee”. The first
Planning Law was passed lately in 2017 and came into effect just in 2019.
Information on discharges of toxic waste from factories, improperlyhandled waste mountains, forest fires due to ecosystem change, and
seriously-damaged mangrove areas has been prevalent on news and
media. An example is the discharge of waste of Vedan Company to
Thi Vai River had happened for 14 years, culminating in 2008. Another
disaster was the dead fish along the coast and other environmental harms
caused by the waste discharged by Formosa in 2018. In the above two
cases, the companies proved that they had complied with the law and
that they were licensed and paid the discharge fee as regulated. This
posed an alarming question about the effectiveness of the environmental
law in Vietnam.
One more serious problem observed through these two cases is
that despite its seriousness and obvious documented environmental
damages, the actions of the state in resolving these problems were very
limited. The press pressure and nearby citizens play the main role in
raising the problems and demanding solutions. For example, citizens
have taken photos as the evidence of the huge amount of discharged
waste by Formosa and tons of dead fish on the sea coast. Scientists and
environmental experts raised their voices.
154
EXECUTIVE SUMMARY (ENGLISH)
Environmental protection activities are not well coordinated, which
causes inefficiencies and ambiguity. An example is the destruction of a
part of Chu Yan Sin National Park to build Krông K’mar hydropower
plant. The national park should be protected but that project was actually
passed and completed in 20081. Another hydropower project, the Ea
K’tuor, which potentially destroys Chư Yan Sin National Park was
proposed in 2012. This project was not been approved by the People’s
Committee of Dak Lak province but the Ministry of Industry and Trade
confirmed it would continue to be implemented2. Another one was the
Đrăng Phôk hydroelectric plant project, planned to be built at the core
of Yok Đôn National Park. This project has been proposed since 2007
and has encountered strong objections from environmentalists and local
authorities, but it was not until 2016 that the project was stopped by the
central government. Despite strong objections from environmentalists
and local authorities, it still took nearly ten years because only central
authorities are authorized on monitoring such project.3
By 2020, most (if not all) of the environmental goals has not been
achieved. Attendees in national conventions often aim at higher goals
and stricter standards without considering the actual situation. For
example, Euro 4 emission standard rather than Euro 2 standard was
chosen so as to quickly have a clean atmosphere4. But this is far from
reality as most vehicles meet Euro 2 standard only. Only vehicles sold
since January 1, 2017 meet the Euro 4 standard5.
Based on the actual situation and learning experience from
Germany, some solutions can be proposed. Policy makers should
1
Source: https://www.sggp.org.vn/doi-rung-dac-dung-lay-thuy-dien-231057.html
2
Source: https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/thuy-dien-ea-ktuor-tinh-bao-dung-bo-noi-tiep-tuc-20130903112718888.htm
3
Source: https://dantri.com.vn/xa-hoi/dak-lak-muon-dung-du-an-thuy-dien-trongvuon-quoc-gia-yok-don-20160601202317536.htm
4
Source: https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/noi-khong-voi-euro-2-808617.html
5
Source: https://baodautu.vn/co-hay-khong-co-chuyen-chay-tieu-chuan-khi-thai-euro4-d75593.html
155
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
seriously re-consider the environmental costs of economic growth. This
in turns affects the prices charged on enterprises for their activities. If
the environment is exchanged for economic growth (especially focusing
on a certain group of interests), it will create injustice and damage intergeneration solidarity. Even developed countries also experienced this
trade-off and chose hot economic growth but this usually lasted for a
shorter period, like Japan for about ten years, than in Vietnam.
Besides, instead of setting ambitious and unrealistic goals, the
government should firstly focus on reviewing environmental protection
laws. Sanctions should be clear and rigorous. Planning and bidding of
economic projects should be more transparent, allowing the participation
of scientists and citizens.
Setting general environmental rules and goals can be made at
central government but management should be conducted at the
local level, which is in accordance with the principle of subsidiarity
in the SOME model. This implies that environment-related decisions
that can be decided at the local level. This is particularly relevant
for the environment-related activities because each local region will
have different environmental and ecological characteristics, and it is
the local residents who are the best atunderstanding and monitoring
environmental changes.
Finally, it is important to raise people’s awareness of their rights
and how to protect the environments. For instance, programs on
waste classification and ecosystem can be conducted for free. Many
Vietnamese might never hear about waste classification which is not
emphasized at schools.
156
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abelshauser, W. (2005). The Dynamics of German Industry: Germany’s
Path toward the New Economy and the American Challenge.
Berghahn Books. pp. 146–148. ISBN 9781782387992. Retrieved
9 October 2018.
Acemoglu, D., Johnson S., Robinson J. A. (2005). Institutions as a
Fundamental Cause of Long-Run Growth, Handbook of Economic
Growth, Vol. 1, Part A, Chapter 6.
Bellamy, R. (2010). The Rule of Law as the Rule of Persons. Trong
R. Bellamy, The Rule of Law and the Separation of Powers,
International Library of Essays in Law and Legal Theory - Second
Series, pp. 11-61, Ashgate/Dartmouth, 2005. Available at SSRN:
https://ssrn.com/abstract=1571504
Berger, H., Haan J. D., & Eijffinger, S. C. W. (2008). Central Bank
Independence: An Update of Theory & Evidence. Journal of Economic
Survey, No. 15, Issue 1. https://doi.org/10.1111/1467-6419.00131
Bộ Tài chính Liên bang Đức (2019). German Stability Program 2019.
Berlin.
Boissoneault, L. (2017, July 14). Bismarck Tried to End Socialism’s Grip—By
Offering Government Healthcare. Retrieved from SMITHSONIAN:
https://www.smithsonianmag.com/history/bismarck-tried-endsocialisms-grip-offering-government-healthcare-180964064/
Buckley, R. (1991). Perspectives in environmental management. Berlin: Springer.
Budzinsk, O. & Stöhr A. (2018). Competition policy reform in Europe
and Germany - Institutional change in the light of digitization.
Ilmenau Economics Discussion Papers, Vol. 24, No. 117.
Calabresi, S. G., Berghausen, M. E., & Albertson, S. (2015). The rise
and fall of the separation of powers. Northwestern University Law
Review, Vol. 106, No. 2.
157
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Calvo, G. A. (1978). On the Time Consistency of Optimal Policy in a
Monetary Economy. Econometrica, Vol. 46, No. 6, pp. 1411-1428.
DOI: 10.2307/1913836
Cargill, T., & Tuan Nguyen. (2013). State Bank of Vietnam needs a
single mandate not independence. Central Banking Journal.
Cross, F. B. (2003). Thoughts on goldilocks and judicial independence.
Ohio State Law Journal, Vol. 64, No. 1.
Curie, D. P. (1993). Separation of Powers in the Federal Republic of
Germany. The American Journal of Comparative law, Vol. 41,
Issue 2, https://doi.org/10.2307/840717
Đặng Phong (2009). “Phá Rào” Trong Kinh Tế Vào Đêm Trước Đổi
Mới, Hanoi, NXB Tri Thức.
Đậu Anh Tuấn, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Thị Thu Trang, & Phạm
Ngọc Thạch (2014). Tự do thương mại quốc tế. Trong T. Dinh &
T. Pham, Báo cáo phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam 2014.
Tri Thuc Publishing House.
Davidescu, A. A. (2017). Measuring the social market economy. A
composite index approach for EU countries. Proceedings of the
International Conference on Business Excellence. DOI: 10.1515/
picbe-2017-0024
Dickertmann, D., & Wilpert Piel, V. (2005). Social market economy:
Principles and functioning. Trong R. H. Hasse, H. Schneider & K.
Weigelt, Social Market Economy Principles and Implementation
- Economic Policy from A to Z (2nd ed.). Paderborn: KonradAdenauer-Stiftung.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2019). Báo cáo Sức cạnh tranh Toàn cầu
2019 (Global Competitiveness Report 2019). Geneva, The World
Economic Forum.
Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Khắc Giang, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn
Quang Thái, Đỗ Thanh Hương (2016). Xây dựng hệ thống chính
trị một đảng thống lĩnh thân thiện với thị trường và xã hội dân
sự. Trong T. Dinh & T. Pham, Từ nhà nước điều hành sang nhà
nước kiến tạo phát triển. Tri Thuc Publishing House & Friedrich
Naumann Stiftung.
158
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đinh Văn An (2003). Developing the Socialist-Oriented Market
Economy in Vietnam. Hanoi: The Statistical Publisher.
Dumiter, F. (2014). Central Bank Independence, Transparency and
Accountability Indexes: a Survey. Timisoara Journal of Economics
and Business, Vol. 7, Issue 1, DOI: 10.2478/tjeb-2014-0002.
Duong Thi Thuy Nga & Do Van Vinh (2014). Measuring Central
Bank Independence for Vietnam, Journal of Economics and
Development, Vol.16, No.1, pp. 40-59
Endres, A. (2005). Environmental policy: Instruments. Trong R. Hasse,
H. Schneider & K. Weigelt, Social Market Economy Principles
and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd ed.).
Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Eucken, W. & Eucken, E. (1952). Grundsätze der wirtschaftspolitik.
Fahey, S. (1997). Vietnam and The “Third way”: The nature of socialeconomic transition. Journal of Economic and Social Geography,
Vol. 88, No. 5, pp. 469-480.
Falk, J. (n.d.). Freiheit als Ziel der Sozialen Marktwirtschaft - Soziale
Marktwirtschaft, Konrad-Adenauer-Stiftung [online] Soziale
Marktwirtschaft. Available at: https://www.kas.de/web/sozialemarktwirtschaft/freiheit-als-ziel-der-sozialen-marktwirtschaft
Fforde, A. & Vylder, S. D. (1996). From Plan to Market: The Economic
Transition in Vietnam (1st ed.). New York: Routledge.
Franke, S., & Gregosz, D. (2013). The social market economy: What
does it really mean?. Berlin: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Fritz-Aßmus, D. (2005). Open markets: Market entry, market exit.
Trong R. Hasse, H. Schneider & K. Weigelt, Social Market
Economy Principles and Implementation - Economic Policy from
A to Z (2nd ed.). Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Glossner, C. L. & Gregosz, D. (2010). Sixty Years of Social Market
Economy: Formation, Development and Perspective of a
Peacemaking Formula. Druckerei Franz Paffenholz GmbH,
Bornheim. ISBN 978-3-941904-60-6
Glossner, C. L. (2010). The Making of The German Post-war Economy.
Trong C. L. Glossner & D. Gregosz, Sixty Years of Social
Market Economy: Formation, Development and Perspective of
a Peacemaking Formula. Druckerei Franz Paffenholz GmbH,
Bornheim. ISBN 978-3-941904-60-6
159
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Goldschmidt, N. & Rauchenschwandtner, H. (2007). The Philosophy
of Social Market Economy: Michel Foucault’s Analysis of
Ordoliberalism. Universität Freiburg, Freiburger Diskussionspapiere
zur Ordnungsökonomik. Retrieved 16 March 2013.
Gombert, T., Bläsius, J., Krell, C., & Timpe, M. (2009). Foundations of
Social Democracy. Berlin: Druckerei Brandt GmbH, Bonn.
Gutmann, G. (1991). Social market economy: An economic system for
developing country (2nd ed.). Hans Richarz Publikations-Sevice.
Halevy, Y. (2015). Time Consistency: Stationarity and Time Invariance.
Econometrica, Vol. 83, No. 1, pp. 335-352. DOI: https://doi.
org/10.3982/ECTA10872
Hamburger
Programme
(2007).
Grundsatzprogramm
der
Sozialdemokratischen Partei Deutschlands, agreed at the Hamburg
Party Conference of the SPD, 28 October 2007.
Hasse R. H., Schneider H. & Weigelt K. (2008). Social Market Economy
Principles and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd
ed.). Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Hassel, A. (2010). Twenty years after German unification: The
restructuring of the German welfare and employment regime.
German Politics and Society, Issue 95, Vol. 28, No. 2. doi:10.3167/
gps.2010.280207
Hayek, F. A. (1948). Individualism and Economic Order. University of
Chicago Press.
Helfer, H. (2015). Social market economy: Towards a comprehensive
composite index. Discussion Paper. Center for Interdisciplinary
Economics. ISSN 2191-4419.
Howard, M. (2003). The weakness of civil society in post-communist
Europe. Choice Reviews Online, 41(04). 41-2435-41-2435. DOI:
10.5860/choice.41-2435
Hội đồng Châu Âu (2019). The Environmental Implementation Review
2019. Country report – Germany.
IMF (2018). Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange
Restrictions. Washington, D. C.: IMF.
Kaufman, I. R. (1980). The essence of judicial independence. Columbia
Law Review, Columbia Law Review, Vol. 80, No. 4.
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kleihenz, G. (2005). Labor market order. Trong R. Hasse, H.
Schneider & K. Weigelt, Social Market Economy Principles
and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd ed.).
Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Kloten, N. (1991). The independence of the central bank: Selected
aspects. Trong W. Jung, Social Market Economy: An Economic
System for Developing Countries. Konrad-Adenauer-Stiftung.
Lamberts, Emiel (1997). Christian Democracy in the European Union,
1945/1995: Proceedings of the Leuven Colloquium, 15-18 November
1995. Leuven University Press. p. 478. ISBN 9789061868088.
Lê Xuân Sang (2013). Tái cơ cấu hệ thống giám sát thị trường tài chính
Việt Nam. Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 56.
Lith, U. V. (2005). Education and Research Policy. Trong R. Hasse,
H. Schneider & K. Weigelt, Social Market Economy Principles
and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd ed.).
Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Marktanner, M. (2010). Addressing the marketing problem of the social
market economy. Trong C. Glossner & D. Gregoz, Sixty years of
social market economy: Formation, Development and Perspectives
of a Peacemaking Formula. Konrad-Adenauer-Stiftung, ISBN
978-3-941904-60-6
Mee, S. (2019). Central bank independence and the legacy of the
German past. Cambridge. Cambridge University Press. ISBN 9781-108-49978-1.
Mehta, H. (2018). What ails US-Vietnam trade relationship, The
Business Times, https://www.businesstimes.com.sg/opinion/whatails-us-vietnam-trade-relationship.
Müller-Armack, A. (1947). Wirtschaftslenkung und Marktwirtschaft,
Hamburg.
Mundt, A. (2018). Sixty years and still exciting—the Bundeskartellamt
in the digital era. Journal of Antitrust Enforcement, Volume 6, Issue
1, April 2018, Pages 1–4, https://doi.org/10.1093/jaenfo/jny002.
Nguyễn Đức Thành, Ngô Quốc Thái, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Thanh
Tùng, & Nguyễn Quang Thái (2014). Đổi mới hệ thống tài chính
- tiền tệ theo hướng thị trường. Trong T. Dinh & T. Pham, Báo cáo
phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam 2014. NXB Tri Thức.
161
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nguyễn Thị Thu Trang, Đinh Tuấn Minh, Đậu Anh Tuấn, Nguyễn Thị
Diệu Hồng, & Phạm Ngọc Thạch (2016). Xây dựng môi trường
cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Trong T. Dinh & T. Pham, Từ
nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển. NXB Tri
Thức & Friedrich Naumann Stiftung.
Nicholls, A. J. (2000). Freedom with Responsibility: The Social Market
Economy in Germany, 1918-1963. Oxford University Press. ISBN13: 978-0198204251.
OECD. (2014). OECD Economic Surveys – Germany.
Padgett, S. (2003). Political Economy: The German Model under Stress.
Trong S. Padgett, W. E. Paterson, & G. Smith (Eds.), Developments
in German Politics (pp. 126-127). Duke University Press.
Peerson, M., Persson, T., & Svensson, L. E. O., (1978). Time Consistency
of Fiscal and Monetary Policy. Econometrica, Vol. 55, No. 6, pp.
1419-1431. DOI: 10.2307/1913564.
Phạm Đức Trung, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Thị Luyến, & Nguyễn
Đình Cung (2016). Xây dựng hệ thống quyền tài sản rõ ràng, hoàn
chỉnh, và được bảo vệ chắc chắn đối với tài sản công. Trong T.
Dinh & T. Pham, Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo
phát triển. NXB Tri Thức & Friedrich Naumann Stiftung.
Quaas, F. (2005). Social Justice. Trong R. Hasse, H. Schneider & K.
Weigelt, Social Market Economy Principles and Implementation
- Economic Policy from A to Z (2nd ed.). Paderborn: KonradAdenauer-Stiftung.
Raz, J. (2010). The rule of law and its virtue. Trong R. Bellamy, The rule of law
and the separation of powers, Chapter 3, ISBN-13: 978-0754624639.
Riedel, J. & Comer, B. (1996). Transition to a Market Economy in
Vietnam. Trong W. T. Woo, S. Parker, J. Sachs, Economies in
Transition: Comparing Asia and Eastern Europe. The MIT Press.
Schayan, J. & Giehle, S. (2010). Nước Đức: Quá khứ và Hiện tại, p.45,
NXB Societät. ISBN 978-3-7973-1212-9.
Schlecht, C. O. (2005). Social market economy: Political implementation.
Trong R. H. Hasse, H. Schneider & K. Weigelt, Social Market
Economy Principles and Implementation - Economic Policy from
A to Z (2nd ed.). Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
162
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Schlösser, H. J., Schuhen, M., & Schürkmann, S. (2017). The acceptance
of the Social Market Economy in Germany. Citizenship, Social
and Economics Education, Vol. 16, No. 1.
Schmit, M., Gheeraert, L., Denuit, T., & Warny, C. (2011). Public
Financial Institutions in Europe. Brussels: EAPB.
Seitel, H. P. (2005). Competition. Trong R. H. Hasse, H. Schneider & K.
Weigelt, Social Market Economy Principles and Implementation
- Economic Policy from A to Z (2nd ed.). Paderborn: KonradAdenauer-Stiftung.
Smaghi, L. B. (2008). Central bank independence in the EU: From
theory to practice, European Law Journal, Vol. 14, No. 4, https://
doi.org/10.1111/j.1468-0386.2008.00427.x.
Soltwedel, R. (2005). Labour market policy. Trong R. Hasse, H.
Schneider & K. Weigelt, Social Market Economy Principles
and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd ed.).
Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
Spicka, M. E. (2007). Selling the economic miracle: Economic
Reconstruction and Politics in West Germany, 1949-1957.
Berghahn Books. ISBN-13: 978-1845452230
Steininger, R. (2002). Deutsche Geschichte 2. 1948 bis 1955. Darstellung
und Dokumente in vier Bänden. FISCHER Taschenbuch.
Stockmann, K. (1991). The role of the government in a social market
economy. Trong W. Jung, Social Market Economy: An Economic
System for developing countries (2nd ed.). Konrad-Adenauer-Stiftung.
Suntum, U., & Ilgmann, C. (2014). Walter Eucken`s Principles of
Economic Policy Today. Retrieved 12 August 2019, from https://
ideas.repec.org/p/muc/wpaper/201175.html
Tenhofen, J., Wolff, G., & Kristen, H. F. (2010). The Macroeconomic
Effects of Exogenous Fiscal Policy Shocks in Germany: A
Disaggregated SVAR Analysis, Journal of Economics and
Statistics, Vol. 230, No. 3, pp. 328-355.
Thanh Tùng (2018). Việt Nam được 69 quốc gia công nhận nền kinh
tế thị trường: Cơ hội thúc đẩy thương mại và đầu tư. Báo Đầu
tư Online. https://baodautu.vn/viet-nam-duoc-69-quoc-gia-congnhan-nen-kinh-te-thi-truong-co-hoi-thuc-day-thuong-mai-va-dautu-d76437.html
163
Nền Kinh tế Thị trường Xã hội Đức và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
The Heritage Foundation (2019). Index of Economic Freedom 2019
(Báo cáo Chỉ số Tự do Kinh tế 2019).
Tôn Thất Thông. (2017). Tóm tắt bốn năm hậu chiến. Trong T. T. Thông,
Thần kỳ Kinh tế Tây Đức. Hanoi: NXB Tri Thức.
Trần Đình Thiên, Lê Văn Hùng, Phạm Thế Anh, Ma Ngọc Ngà, & Nguyễn
Thị Tuyết (2014). Phát triển và tự do hóa thị trường lao động. Trong
T. Dinh & T. Pham, Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo
phát triển. NXB Tri Thức & Friedrich Naumann Stiftung.
Trần Ngọc Thơ (2015) Nhận thức mới về kinh tế thị trường định
hướng XHCN?. The Sai Gon Times Available at: https://www.
thesaigontimes.vn/127167/Nhan-thuc-moi-ve-kinh-te-thi-truongdinh-huong-XHCN.html
Trần Thị Thu Hương (2011). Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển
của thị trường lao động Việt Nam, Bản tin Khoa học Lao động và
Xã hội, No. 27, Quarter II-2011.
Trieu Nguyen (2019). Why socialist calculation is always impossible?
Mises Institute, available at https://mises.org/wire/why-socialistcalculation-always-impossible?fbclid=IwAR3G2aL3Gq7fmxn_
caf1DdUx9IjLIHz9-zhS0hVrs14lh_mPbByKFvOdirE
Trung tâm Đa nguyên Truyền thông và Tự do truyền thông (2016).
Media Pluralism Monitor 2016 - Monitoring Risks for Media
Pluralism in the EU and Beyond - Country report: Germany.
Trương Đình Tuyển (2015). Kinh tế thị trường hiện đại theo định
hướng XHCN là gì?. The Sai Gon Times, available at https://www.
thesaigontimes.vn/128900/Kinh-te-thi-truong-hien-dai-theo-dinhhuong-XHCN-la-gi.html
Tư Giang (2014). Cải cách thể chế từ câu hỏi chưa có lời giải, The Sai
Gon Times, available at https://www.thesaigontimes.vn/114301/
Cai-cach-the-che-tu-cau-hoi-chua-co-loi-giai.html
Van Hook, J.C. (2004). Rebuilding Germany: The creation of the social
market economy 1945-1957, Cambridge University Press, 2004,
ISBN 0-521-83362-0, p. 185.
Viện Bertelsmann (2013). A European Social Market Economy? – Index
Results. Policy Brief #2013/03.
164
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Bertelsmann (2012). Index of Modern Social Market economics:
Explorative Study.
Waarden, F. V. (2015). ‘Made in Germany’: What about also its Legal
Institutions?. Trong B. Unger, The German Model - Seen by its
neighbors, SE Publishing, ISBN-13: 978-0992653743.
Walzer, M. (1997). ‘Pluralismus und Demokratie’, trong: Julian NidaRümelin und Wolfgang Thierse (1997).Philosophie und Politik,
1st edition, Essen.
Weigelt, K. (2008). Social market economy: Concept of man. Trong
R. H. Hasse, H. Schneider & K. Weigelt, Social Market Economy
Principles and Implementation - Economic Policy from A to Z (2nd
ed.). Paderborn: Konrad-Adenauer-Stiftung.
World Justice Project (2019). Báo cáo Chỉ số Pháp quyền 2019 (Rule
of Law Index 2019). IBSN (online version): 978-0-9964094-1-4
Wörsdörfer, M. (2010). On the economic ethics of Walter Eucken.
Trong C. L. Glossner & D. Gregosz, Sixty Years of Social
Market Economy: Formation, Development and Perspective of
a Peacemaking Formula. Druckerei Franz Paffenholz GmbH,
Bornheim. ISBN 978-3-941904-60-6
Wrobel, R. M. (2012). The social market economy as a model for
sustainable growth in developing and emerging countries.
Economic and Environmental Studies, 12(1). 47-63.
Zacher, H. F. (2013). Social Policy in the Federal Republic of Germany:
The Constitution of the Social. Trong H. F. Zacher, Social Policy in
the Federal Republic of Germany: The Constitution of the Social.
Springer Heidelberg New York Dordecht London. ISBN 978-3642-22524-6
.
165
Những quy định về công bố thông tin
Chứng nhận của tác giả
Các tác giả sau sẽ chịu trách nhiệm về nội dung của nghiên cứu này,
đồng thời chứng nhận rằng những quan điểm, nhận định, dự báo trong
nghiên cứu này phản ánh ý kiến chủ quan của người viết và không nhất
thiết phản ánh quan điểm của VEPR: Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thị
Hoa và Phạm Thế Anh. Email: nguyen.hoa@vepr.org.vn.
Tài liệu này được thực hiện và phân phối bởi Viện Nghiên cứu Kinh tế
và Chính sách (VEPR), chỉ nhằm mục đích cung cấp tài liệu tham khảo
cho các khách hàng hoặc đối tác đặc biệt của VEPR, không nhằm mục
đích thương mại và xuất bản, dù thông qua báo chí hay các phương tiện
truyền thông khác. Các khuyến nghị trong báo cáo mang tính gợi ý và
không nên coi như lời tư vấn cho bất kỳ cá nhân nào, vì báo cáo được
xây dựng không nhằm phục vụ lợi ích cá nhân.
Các thông tin cần chú ý khác
Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích đều đã được thu
thập, đánh giá với mức cẩn trọng tối đa có thể. Tuy nhiên, do các nguyên
nhân chủ quan và khách quan từ các nguồn thông tin công bố, tác giả
không đảm bảo về tính xác thực của các thông tin được đề cập trong
báo cáo phân tích cũng như không cập nhật những thông tin trong báo
cáo sau thời điểm báo cáo này được phát hành. VEPR có quy trình thủ
tục để xác định và xử lý các mâu thuẫn về lợi ích nảy sinh liên quan đến
nhóm tác giả. Mọi đóng góp và trao đổi vui lòng gửi về: Viện Nghiên
cứu Kinh tế và Chính sách, Phòng 707, Nhà E4, 144 Xuân Thủy, Cầu
Giấy, Hà Nội. Email: info@vepr.org.vn.
• CÁC NGHIÊN CỨU KHÁC
VMM19Q2 Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam, Quý 2 - 2019
VMM19Q1 Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam, Quý 1 - 2019
VMM18Q4 Báo cáo thường thiên Kinh tế Việt Nam, Quý 4 - 2018
NC-33: Tổng quan kinh tế Việt Nam 2013
NC-34: Đại hội 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc: Chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới
CS-14: Đánh giá Luật Quản lý Nợ công tại Việt Nam và một số hàm ý chính sách
CS-13: Tiền lương tối thiểu ở Việt Nam: Một số quan sát và nhận xét ban đầu
CS-12: Đánh giá nhanh về ảnh hưởng của Brexit đến kinh tế thế giới và Việt Nam