« Home « Kết quả tìm kiếm

Tối ưu mô hình tính độ bão hòa nước cho tầng chứa Miocene, khu vực Đông Bắc bể Cửu Long, Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 7 - 2021, trang 16 - 22 ISSN 2615-9902 TỐI ƯU MÔ HÌNH TÍNH ĐỘ BÃO HÒA NƯỚC CHO TẦNG CHỨA MIOCENE, KHU VỰC ĐÔNG BẮC BỂ CỬU LONG, VIỆT NAM Nguyễn Văn Hoàng, Hoàng Việt Bách, Nguyễn Trung Dũng, Lê Trung Tâm, Trần Văn Hà, Hoàng Thị Thu Trang Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Email: [email protected] https://doi.org/10.47800/PVJ Tóm tắt Độ bão hòa nước (Sw) là thông số vỉa quan trọng cần xác định để xây dựng mô hình địa chất, mô hình khai thác và tính toán trữ lượng.
- Một số mô hình xác định thông số Sw cho kết quả không phù hợp hoặc khác biệt rất lớn so với thông số Swi xác định từ mẫu lõi.
- Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định mô hình tính toán độ bão hòa nước tối ưu nhất cho các vỉa chứa tầng Miocene phía Đông Bắc bể trầm tích Cửu Long, Việt Nam.
- Các tài liệu giếng khoan được sử dụng cho các mô hình gồm tài liệu địa vật lý giếng khoan (wireline logging) được kết hợp với tài liệu địa chất, mẫu lõi để hiệu chỉnh kết quả tính hàm lượng sét, độ rỗng và cuối cùng là độ bão hòa nước áp dụng cho cùng các thông số đầu vào liên quan như mật độ xương đá, mật độ dung dịch khoan, điện trở vỉa sét, điện trở dung dịch… cho các mô hình.
- Bản chất của các tập sét này là kết quả lắng đọng của khoáng vật sét (clay) và sét bột (silt) trong môi trường năng lượng thấp.
- Như vậy, độ dẫn điện hay điện trở suất sẽ được đóng góp chủ yếu bởi 2 thành phần là điện trở suất của nước vỉa (Rw) và điện trở suất của nước trên bề mặt sét (Rwb).
- Kết quả tính toán độ bão hòa nước tại tầng Miocene cho thấy độ bão hòa nước tính bằng mô hình Dual-water có giá trị tiệm cận nhất với giá trị độ bão hòa nước ban đầu trong vỉa (Swi) so với kết quả của các mô hình Simandoux, Indonesia và mô hình Archie.
- Từ cách tiếp cận trên, kết quả của nghiên cứu này có thể áp dụng cho minh giải tầng chứa Miocene ở phía Đông Bắc bể Cửu Long, Việt Nam.
- Từ khóa: Độ bão hòa nước, mô hình Dual-water, mô hình Simandoux, mô hình Indonesia, Miocene, bể Cửu Long.
- Giới thiệu suất thực, ảnh hưởng tới kết quả của độ bão hòa nước, hay chính xác hơn là làm tăng giá trị độ bão hòa nước và Bể Cửu Long có nhiều mỏ nhỏ, cận biên nên trữ lượng làm mất đi vỉa sản phẩm.
- Hiểu rõ ảnh hưởng của sét lên dầu khí của mỏ phải được tính toán chính xác để bảo đảm độ dẫn điện hay điện trở suất của đất đá [2], các mô hình hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư.
- Giá trị độ bão hòa nước tính độ bão hòa nước dựa trên công thức Archie lần lượt Sw là thông số đầu vào cho mô hình động và mô hình ra đời để hiệu chỉnh ảnh hưởng của sét như công thức tĩnh, từ đó tính trữ lượng tại chỗ của cấu tạo để đưa ra mô Simandoux, Waxman-Smith (Waxman và Smith, 1968), hình khai thác, dự báo sản lượng khai thác cho mỏ.
- Archie [1] dựa vào mối quan hệ giữa đường cong điện trở Trong tập trầm tích Miocene ở bể Cửu Long nói chung suất nước vỉa, điện trở suất thực và độ rỗng thành hệ.
- Tuy và khu vực Đông Bắc bể nói riêng có các tầng chứa sản nhiên, đây là mô hình cát sạch, không đề cập tới sự hiện phẩm dầu khí quan trọng với đặc điểm chung về địa chất diện của sét.
- Các cation thành các lớp cát sét xen kẹp, có độ rỗng tương đối tốt từ cũng là một kênh dẫn điện, góp phần làm giảm điện trở 18 - 20% tại các tập cát kết.
- Tuy nhiên, điện trở suất thực tế các vỉa chứa dầu khí ở các giếng khoan chủ yếu rất thấp, Ngày nhận bài: 8/3/2021.
- ở các vỉa chứa có thể là nguyên nhân gây ra điện trở suất 16 DẦU KHÍ - SỐ 7/2021 PETROVIETNAM thấp, ảnh hưởng trực tiếp lên kết quả tính độ bão hòa giếng khoan không có vỉa cát sạch 100% mà có sự tồn tại của nước tại các vỉa chứa sản phẩm trong Miocene.
- Hình 1 cho thấy nếu thành hệ là cát sạch thì đường xu thế có điểm xuất phát từ giá trị Co = 0, nhưng Với việc so sánh kết quả độ bão hòa nước từ với thành hệ cát sét xen kẹp thì giá trị độ dẫn sẽ không phải là nghiên cứu mẫu lõi và tính toán từ các mô hình tính đường thẳng tuyến tính xuất phát tại điểm 0.
- Chứng tỏ sự thay độ bão hòa nước để chọn ra mô hình tối ưu nhất cho đổi này do ảnh hưởng của sét.
- Qua nghiên cứu này cho thấy kết quả tính toán Kết quả trên Hình 1 đã cho thấy trong các vỉa chứa điển độ bão hòa nước bằng mô hình Dual-water có ít sai hình không thể tồn tại cát sạch 100% mà bao giờ cũng xen lẫn số nhất so với kết quả của mẫu lõi.
- Các mô hình tính độ bão hòa nước.
- Mô hình cát sạch (Clean sand formation) Trong đó: Archie [1] thực hiện nghiên cứu thực nghiệm Co: Độ dẫn đất đá bão hòa 100% nước, (Ohm.m-1.
- với một số lượng lớn mẫu lõi (core) bão hòa nước Cw: Đỗ dẫn của nước vỉa, (Ohm.m-1.
- Như vậy, với đá bão hòa nước 100% như sau: trong không gian rỗng của sét tồn tại vật dẫn ion và chất điện phân.
- Các ion trên bề mặt của sét như là Mg, Ca, Na… có thể ∅ Trong đó: trao đổi với với các cation khác.
- Ro: Điện trở suất đất đá bão hòa 100% nước.
- Rw: Điện trở suất nước vỉa (Ohm.m).
- Jakosky, Wyckoff và Leverett về sự thay đổi của điện trở do sự thay đổi của tỷ lệ nước trong vỉa.
- quan sát sự thay đổi của điện trở do sự thay đổi của tỷ Một thành hệ sét có tổng khối lượng trao đổi cation là Qv phần nước trong mẫu lõi, Archie biểu diễn mối quan chứa trong không gian rỗng.
- hệ giữa độ tỷ phần nước Sw và điện trở trên đồ thị Logarit.
- Công thức tính độ bão hòa nước được biểu Co diễn như sau: kẹp Đới xen Đới t sét (2) tuyến ẫ n cá.
- không tính Độ d ạch tuyến cát s tính ẫn Trong đó: C exce ss Độ d n: Hệ số mũ bão hòa nước.
- C w/f Rt: Điện trở suất thực của vỉa (Ohm.m).
- C o= Sw: Độ bão hòa nước vỉa.
- Một số mô hình hiệu chỉnh ảnh hưởng của sét BQv Trên thực tế, các vỉa chứa dầu khí bắt gặp trong Hình 1.
- DẦU KHÍ - SỐ 7/2021 17 THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ Bảng 1