BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
CHẤT ĐỘC DA CAM Ở VIỆT NAM
Lisa C. Toohey
L Toohey, 'Boi Thuong Thiet Hai Do Chat Doc
Da Cam O Viet Nam' (2006) Nghien Cuu Lap Phap
(Journal of Legislative Studies, the Official Journal of
the National Assembly of Vietnam).
CITE AS:
TÓM TẮT
Bài viết này tìm hiểu tranh chấp giữa Mỹ và Việt Nam về những
thiệt hại mà người dân Việt Nam phải gánh chịu do hậu quả của
việc sử dụng hoá chất diệt cỏ, Chất độc màu da cam trong cuộc
chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Bài viết sẽ chỉ ra những vấn
đề pháp lý của tranh chấp giữa các bên và không tán thành việc
quá tập trung vào quá trình tố tụng, đồng thời cho rằng các hình
thức giải quyết tranh chấp quốc tế khác sẽ tạo ra một cơ chế
hữu hiệu hơn cho việc giải quyết tranh chấp.
Lisa Toohey là giảng viên Luật tại trường đại học tổng hợp
Queensland, Australia. Trước đây bà đã từng làm việc với tư
cách là luật sư nước ngoài tại Việt Nam và đã từng phục vụ cho
một số tổ chức và các uỷ ban quốc tế về luật nhân đạo. Các
nghiên cứu của bà tập trung vào lĩnh vực luật quốc tế và phát
triển và giải quyết tranh chấp quốc tế.
Bồi thường thiệt hại do chất độc màu da cam tại Việt Nam
Lisa C. Toohey*
“Quá khứ nếu như không được giải quyết thích đáng thì không
những không biến mất hay nằm xuống và ngủ yên mà còn quay trở
lại làm ta xấu hổ và ám ảnh ta một cách dai dẳng”.
Desmond Tutu, người đạt giải Nobel hoà bình.
Giới thiệu
Trong cuộc chiến tranh được nhiều người biết tới với cái tên cuộc
chiến tranh Việt Nam hay cuộc chiến tranh chống Mỹ, quân đội Hoa
Kỳ đã rải 72 triệu lít thuốc diệt cỏ trên diện tích khoảng 4,5 triệu hec
ta ở miền Nam Việt Nam, chủ yếu là loại hoá chất được biết tới với
cái tên “Chất độc màu da cam”. Mặc dù loại hoá chất này được rải
chủ yếu ở Việt Nam song một số vùng của Campuchia và Lào cũng
đã là mục tiêu do tuyến đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua hai nước
này.[1] Bảy năm sau khi Chất độc màu da cam được sử dụng lần
đầu trong cuộc chiến, quân đội Hoa Kỳ đã ngừng sử dụng hoá chất
này khi có những tài liệu được công bố cho thấy trong điều kiện
phòng thí nghiệm, việc tiếp xúc chất độc này có thể dẫn đến những
dị tật bẩm sinh.[2] Các nghiên cứu tiếp sau đó cũng đưa ra các bằng
chứng thuyết phục rằng các thành phần trong Chất độc màu da cam
cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh ung thư khác cũng như các
bệnh như rối loạn chuyển hoá gây tử vong, tổn thương hệ thần kinh
và rối lọan chức năng da.[3]
Hiện nay, phần lớn sự quan tâm cả về mặt chính trị và khoa học đều
tập trung vào những thương tổn mà các cựu chiến binh Mỹ và Úc, ở
một mức độ nhỏ hơn, phải gánh chịu.[4] Tranh chấp xung quanh vấn
đề trách nhiệm của Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất Chất độc
da cam đã được các cựu chiến binh Mỹ khởi xướng, những người
thông qua các hành động cá nhân cũng như tập thể, đã đòi bồi
thường cho những thiệt hại mà họ gánh chịu (“the US Class
Action”)[5]. Thế nhưng hầu như chưa có sự bồi thường thiệt hại nào
và mức độ chăm sóc về y tế dành cho những nạn nhân Việt Nam,
Campuchia hay Lào là hết sức ít ỏi. Tuy nhiên, vào năm 2002, các
nhà nghiên cứu Mỹ phát hiện một bộ phận dân số Việt Nam những
người đã chịu đựng việc tiếp xúc nhiều với loại hóa chất này có hàm
lượng dioxin cao hơn mức trung bình 33 lần và cao gấp 206 lần đối
với một số cá nhân.[6] Tại một số làng, cứ mười đứa trẻ em thì có
một bị dị tật bẩm sinh, bao gồm cả chậm phát triển cả về thể chất và
trí tuệ, mất hoặc biến dạng chi, hoặc gặp phải các bệnh khác như là
gai đôi cột sống và bại não.[7] Ngoài ra có rất nhiều giai thoại về
hậu quả của Chất độc màu da cam và bất kỳ một ai đến Việt Nam
đều có thể dễ dàng nhận thấy tình trạng dị tật bẩm sinh ở trẻ em rất
cao, nhất là ở miền Trung và các tỉnh phía Nam Việt Nam. Rõ ràng
cả về mặt vật chất và chính trị, di sản của cuộc chiến tranh vẫn như
một bóng ma tiếp tục ám ảnh người dân Việt Nam.
Kể từ khi kết thúc chiến sự, Việt Nam đã nhiều lần tính đến khả
năng đòi Chính phủ Mỹ bồi thường, nhưng đến tận năm 2004, đòi
hỏi chính thức mới được đưa ra. Một hành động tập thể (“the
Vietnamese Class Action”) được một nhóm các nguyên đơn Việt
Nam tiến hành trên đất Mỹ nhằm kiện các nhà sản xuất chất độc da
cam của Mỹ song nó đã bị bác bỏ ngay trong năm tiếp theo.
Bài viết này sẽ kiểm chứng nguồn gốc của Hành động Tập thể Việt
Nam, xem xét diễn biến của vụ tranh chấp về trách nhiệm Chất độc
màu da cam, và phân tích tại sao qúa trình tố tụng, được tiến hành kể
cả ở trong nước hay quốc tế, sẽ rất khó giải quyết. Phần cuối của
bài viết gợi ý rằng thay vào đó, cần tính đến một vài giải pháp không
mang tính xét xử cho vấn đề bồi thường thiệt hại. Bài viết cho rằng
việc chỉ tập trung vào một giải pháp dựa trên quá trình tố tụng là sai
lầm vì các vấn đề pháp lý mấu chốt của tranh chấp là hết sức phức
tạp và không một diễn đàn duy nhất nào có thể giải thích rõ ràng
nguyên nhân hành động trong khi có thể đưa ra được phương thức
giải quyết mà các nạn nhân mong muốn. Bài viết kết luận rằng các
nỗ lực đang được thực hiện trong việc theo đuổi việc đòi bồi thường
thiệt hại và giải quyết vấn đề hiện nay phải hướng tới một hình thức
2
giải quyết tranh chấp quốc tế mà bao gồm cả các yếu tố mang tính
tư vấn và hỗ trợ.
Phần thứ nhất – Diễn biến của tranh chấp bồi thường
thiệt hại do chất độc màu da cam
1.1 Việc sử dụng chất độc da cam ở khu vực Đông Nam Á và tác hại
của nó tới sức khoẻ con người
Các nguyên nhân và hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam đều đã
được đông đảo mọi người biết tới mặc dù những sự kiện chính xác
dẫn tới việc leo thang chiến tranh vẫn còn hoàn toàn không rõ
ràng.[8] Chiến tranh chưa hề được tuyên bố trong suốt thời gian
chiến sự; hơn thế nữa, phía Mỹ dựa vào các thoả thuận điều ước với
chính quyền Nam Việt Nam để “leo thang” một cách đơn thuần mức
độ dính liú của Mỹ, tăng cường số quân đồn trú tới mức chưa từng
có ở đây theo Hiệp định về hỗ trợ quân sự chung ở Đông Dương
năm 1950. Còn có các vấn đề khác nảy sinh như quy chế của miền
Bắc và miền Nam Việt Nam với tư cách quốc gia có chủ quyền và
quy chế của du kích và các lực lượng kháng chiến khác theo luật
nhân đạo quốc tế.
Mọi người đều biết các chiến thuật quân đội Mỹ đã sử dụng trong
chiến tranh, đặc biệt là việc sử dụng Chất độc màu da cam. Chất độc
da cam là tên được đặt cho một loại hoá chất diệt cỏ do khoảng hơn
chục nhà máy hoá chất sản xuất, kể cả các công ty như Dow
Chemical Co. và Monsanto Co., và đã được đưa vào sử dụng trong
cuộc chiến tranh Việt – Mỹ trong các thùng không đánh dấu mà chỉ
có thể nhận diện bằng các dải màu được mã hoá. Mặc dù có hàng
loạt các loại thuốc diệt cỏ không đánh dấu được sử dụng trong suốt
cuộc chiến, nhưng các Chất màu xanh nước biển, Chất màu xanh lá
cây, Chất màu hồng, Chất màu tím và Chất màu trắng đã không
được dùng một cách rộng rãi hay bị phát hiện là có nhiều độc tố như
Chất độc màu da cam.[9] Chất độc màu da cam được cấu tạo bởi 2
phân tử n-butyl ester, 2,4 D và 2,4,5 T. Việc sản xuất ra 2,4,5 T vô
tình đã sản sinh ra chất gây ô nhiễm được biết tới với tên hoá học
TCDD[10], thường được gọi là dioxin. Từ những năm 1950 người ta
đã biết dioxin là sản phẩm phụ của chất phênon khử trùng như 2,4,5T và đây là một trong những chất độc hại nhất con người từng chế
ra.[11]Dioxin là một loại lipid có thể hòa tan và vì vậy nó tập trung ở
một mức độ cao trong các hệ sinh vật, nhất là trong cơ thể động vật
và người. Nó cũng có thể được truyền qua sữa của các bà mẹ đang
thời kỳ cho con bú.
Cần phải nhớ rằng chất 2,4,5-T không phải được sản xuất ra hay sử
dụng riêng cho mục đích chiến tranh – “rất nhiều công thức của
2,4,5-T được sử dụng rộng rãi để diệt cỏ trên đường đi, cánh đồng,
vùng đất đồi và đường cao tốc trên khắp thế giới”.[12] Ngược lại,
dioxin không chỉ được sản xuất ra từ 2,4,5-T, nó còn là sản phẩm
phụ trong quá trình sản xuất các sản phẩm nhựa PVC và tẩy rửa chất
khử trùng, chúng cũng có thể bị thải ra thiên nhiên từ các nhà máy
sản xuất bột giấy và giấy, từ việc đốt các phế liệu, các sản phẩm
magiê và đốt cháy nhiên liệu pha chì.[13]
3
Ngoài việc phá huỷ lớp nguỵ trang rừng cây để có thể phát hiện kẻ
thù dễ hơn, Chất độc màu da cam còn được dùng để phá huỷ mùa
màng của đối phương. Trong suốt chiến dịch quân sự Operation
Ranch Hand[14], chất độc màu da cam đã được trộn với các loại dầu
như dầu diesel và được rải từ máy bay, máy bay trực thăng, thuyền,
bình bơm xách tay xuống khu vực rừng già, các cánh đồng, sông,
rừng đước và các làng mạc.[15] Như được đề cập ở phần dưới đây,
việc sử dụng chất độc màu da cam như vậy có thể coi đã tạo ra một
cuộc tấn công vào các mục tiêu dân sự và do đó đã vi phạm luật nhân
đạo quốc tế.
Viện Y học Mỹ đã khẳng định có đủ bằng chứng về mối liên hệ giữa
TTDD và các chuỗi u bưóu mềm, bệnh máu trắng Hodgkin, bệnh
Hodgkin và có những bằng chứng còn hạn chế hoặc mang tính gợi ý
về mối liên hệ giữa dioxin với các bệnh như:
- Ung thư tuyến hô hấp (phổi/phế quản, thanh quản, khí quản);
- Ung thư tiền liệt tuyến;
- Bệnh tra u tuỷ;
- Bệnh bạch cầu cấp dòng tuỷ;
- Bệnh da do tãng porphyrin biểu hiện muộn;
- Tiểu đường nhóm 2;
- Bệnh gai đôi cột sống ở con của các cựu chiến binh; và
- Bệnh dây thần kinh ngoại biên thoáng qua cấp tính và bán cấp ở
con của các cựu chiến binh. [16]
Ngoài ra, vẫn còn nhiều loại bệnh khác mà nguyên nhân không được
chứng minh hoặc bị bác bỏ, nhất là những dị tật bẩm sinh ở thế hệ
con cái của các cựu chiến binh và các bệnh liên quan khác như xẩy
thai, thai lưu, sinh con không đủ trọng lượng[17]. Bộ Các vấn đề
cựu chiến binh của Mỹ đã đưa ra một danh sách các bệnh, nếu các
cựu binh Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam (dù trong thời gian ngắn)
mắc phải, được cho là có nguyên nhân từ việc tiếp xúc với Chất độc
màu da cam.[18] Những bệnh này nhìn chung đều ứng với những
“bằng chứng đầy đủ về mối liên hệ” và ‘những bằng chứng còn hạn
chế hoặc mang tính gợi ý về mối liên hệ” như Viện Y học Mỹ đã
đưa ra.
Mặt khác, các nghiên cứu về tác hại của dioxin ở Đông Nam Á lại
khá hạn chế, các nghiên cứu của Việt Nam thường bị chỉ trích là
không có giá trị hay không chính xác theo tiêu chuẩn nghiên cứu của
phương tây. Theo Portier, “phần nhiều các nghiên cứu của Việt Nam
đều không được công bố và chúng tôi chỉ nghe về các nghiên cưú
này ở dạng sơ thảo hoặc từng phần”.[19] Vẫn chưa có một nghiên
cứu toàn diện nào về những thiệt hại do dioxin gây ra đối với sức
khoẻ và môi trường ở Việt Nam. Có một vài lý do của việc này: song
4
quan trọng nhất là chi phí cho một nghiên cứu và phân tích toàn diện
hoàn toàn nằm ngoài khả năng tài chính của một nước đang phát
triển với tổng thu nhập quốc nội hàng năm là 420 đô la Mỹ/đầu
người.[20] Ngoài ra, tính nhạy cảm chính trị đối với vấn đề dioxin
rất cao, nhất là người ta lo ngại nếu thế giới quá quan tâm đến vấn
đề này ở Việt Nam thì sẽ ảnh hưởng xấu đến quan hệ song phương
vẫn còn mong manh với Mỹ, tác động đến du lịch và cũng như đe
doạ đến việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nếu như các thiệt
hại về môi trường được công bố sẽ tác động xấu đến các sản phẩm
xuất khẩu như thủy sản.[21] Lào và Campuchia có ít cơ sở hạ tầng y
tế công cộng hơn Việt Nam, và cũng dễ bị tổn thương với các yêu
cầu chính trị không kém.[22]
Nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế cho thấy chất độc màu da
cam thực sự đã gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ đối
với người dân Việt Nam. Vào đầu năm 2002, dân cư ở các khu vực
đã phải tiếp xúc nhiều với loại hóa chất này cho thấy có hàm lượng
dioxin cao gấp 33 lần trung bình, và một số trường hợp cá thể cao
hơn gấp 206 lần.[23] Tại một số làng, cứ mười đứa trẻ em thì có
một bị dị tật bẩm sinh, bao gồm cả chậm phát triển cả về thể chất và
trí tuệ, mất hoặc biến dạng chi, hoặc các bệnh khác như là gai đôi cột
sống và bại não.[24] Một nghiên cứu thực địa năm 1995 do một
chuyên gia Mỹ, tiến sĩ Arnold Schecter, đã so sánh giữa các làng
không bị ảnh hưởng của Chất độc màu da cam ở miền Bắc và các
làng chịu ảnh hưởng ở miền Nam và cho thấy tại các làng chịu ảnh
hưởng, lượng dioxin trong máu của người dân cao khoảng từ 25 đến
170 lần so với các làng ở phía Bắc.[25] Nghiên cứu thực địa tại Lào
và Campuchia cũng đã bắt đầu được thực hiện nhằm xác định mức
độ ảnh hưởng của dioxin đến sức khoẻ người dân.[26]
1.2 Diễn biến của việc kiện tụng
Tranh chấp xung quanh vấn đề bồi thươờng thiệt hại diễn ra khá
chậm chạp và chỉ bắt đầu sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hoá
quan hệ vào thập kỷ 90. Trước thời điểm này, Chính phủ Việt Nam
chỉ chủ yếu tập trung vào đánh giá mức độ thiệt hại mà người dân
Việt Nam phải gánh chịu chứ chưa phải để đòi đền bù. Ví dụ, Uỷ ban
liên bộ 10-80[27] của Việt Nam đã được thành lập năm 1980 để điều
tra tác động của các loại hoá chất như Chất độc màu da cam đối với
người dân, nhưng rõ ràng là không phải để nhằm giải quyết về trách
nhiệm hay đòi bồi thường thiệt hại.
Tương tự, chính phủ Mỹ cũng đã khá thận trọng trong vấn đề này
cho dù năm 2002 Đại sứ Mỹ Raymon Burghardt đã thừa nhận vấn đề
Chất độc màu da cam là “một bóng ma lớn” trong quan hệ ViệtMỹ.[28] Mặc dù chưa có một đối thoại công khai nào về vấn đề bồi
thường thiệt hại nhưng dù sao đã có những thảo luận nhất định trong
một chừng mực nhất định về vấn đề này. Vào tháng 3/2002, Việt
Nam và Mỹ đã ký bản ghi nhớ về thiết lập khuôn khổ nghiên cứu
chung về tác động của Chất độc màu da cam và các chất làm rụng lá
khác, mặc dù việc tiến hành nghiên cứu chủ yếu về mặt khoa học
chứ không mang tính chính trị.[29]
5
Trong suốt quá trình ‘bình thường hoá’ quan hệ ngoại giao và
thương mại với Việt Nam, Mỹ đã đưa ra một danh sách khá toàn
diện các yêu cầu[30] nhưng lại từ chối giải quyết vấn đề bồi thường
cho các nạn nhân chiến tranh của Việt Nam.[31] Trên thực tế, bình
luận của người phát ngôn của Đại Sứ quán Mỹ tại Hà Nội ám chỉ rõ
ràng việc Mỹ xem xét bình thường hoá quan hệ thương mại với Việt
Nam là để đổi lại việc Việt Nam từ bỏ đòi hỏi về vấn Chất độc màu
da cam:
“Quan hệ Mỹ-Việt Nam đã được bình thường hoá năm 1995 sau khi
Việt Nam đã từ bỏ yêu cầu đòi giải quyết/bồi thường chiến tranh”.
“Vào thời điểm bình thường hoá quan hệ, cả việc bồi thường hay
giải quyết hậu quả chiến tranh đều đã không được xét đến hay chấp
nhận xem xét trong tương lai”… [Và khi được hỏi liệu quan điểm
này có thay đổi nếu có kết quả của việc nghiên cứu] “Tôi nghĩ bản
thân lời tuyên bố đã nói lên tất cả”.[32]
Tuy nhiên, tiếp theo việc ký Hiệp định thương mại song phương
giữa 2 nước năm 2001, việc theo đuổi đòi bồi thường thiệt hại thông
qua quá trình tố tụng đã ngày càng các được các giới chính trị và
luật gia Việt Nam nói tới.[33]
Phần thứ II- Hành động tập thể Việt Nam và các biện pháp
không mang tính tố tụng khác
2.1 Hành động tập thể Việt Nam
Cuối cùng, vào tháng 1/2004, Đơn kiện tập thể theo Luật đòi bồi
thường thiệt hại cho người nước ngoài (Alien Tort Claims Act) đã
được đệ trình lên Toà án Liên bang Mỹ, Quận Tây Niu Oóc. Hành
động này nhằm kiện 35 công ty và có điều khoản yêu cầu xác định rõ
thêm các công ty bị kiện nhưng không trực tiếp nói đến chính phủ
Mỹ.[34]Bên nguyên đơn gồm các nông dân ở thung lũng A Lưới và
gia đình họ (một vùng được biết đến là bị nhiễm Chất độc màu da
cam nặng nề nhất); một bác sĩ từng là giám đốc một bệnh viện dã
chiến gần đường mòn Hồ Chí Minh và hậu quả là đã thường xuyên
bị xảy thai; một cựu chiến binh miền Bắc Việt Nam và những người
con của anh ta, những người đang bị ung thư và bị dị dạng bẩm sinh;
một cựu Bộ trưởng Y tế của Chính quyền lâm thời miền Nam Việt
Nam, người đã thường xuyên phải đi lại và tiếp xúc với các vùng bị
nhiễm Chất độc da cam và hậu quả cũng đã bị xảy thai nhiều lần, bị
bệnh tiểu đường và ung thư, và một nguyên đơn khác có con trai
chết lúc 8 tháng tuổi do bị dị dạng bẩm sinh quá nặng. Đơn kiện đã
đề xuất việc hợp thành nhóm tuỳ theo mức độ bị ảnh hưởng và dự
tính một nhóm có khoảng trên 3 triệu dân Việt Nam.
Đơn kiện được xây dựng trên nhiều cơ sở pháp lý khác nhau, theo
cả luật pháp của Mỹ về vấn đề trách nhiệm đối với sản phẩm, vấn
đề gây thiệt hại và tổn thương và luật pháp quốc tế, cho rằng các bị
đơn đã âm mưu cùng với chính phủ Mỹ có hành động cấu thành tội
ác chiến tranh, tội ác chống loài người, tội diệt chủng và tra tấn.
Tuy nhiên, Hành động tập thể của Việt Nam đã không tồn tại được
lâu do Weinstein J đã ủng hộ yêu cầu của các bị đơn bác bỏ đơn
6
kiện.[35] Dựa vào phán quyết năm 2004 trong vụ Sosa v. AlvarezMachain,[36] toà án đã cho rằng các nguyên nhân bên trong của hành
động là đối tượng của Điều khoản bảo vệ nhà thầu của Chính phủ
vốn áp dụng đối với các yêu cầu theo luật nội dung của liên bang và
các bang, và cho rằng một nhà thầu của chính phủ không phải chịu
trách nhiệm về những sai sót trong các phương tiện quân sự mà
được làm ra phù hợp với các yêu cầu về chủng loại của chính
phủ.[37]
Mặc dù toà án bác bỏ khả năng áp dụng điều khoản bảo vệ nhà thầu
chính phủ đối với các tranh chấp theo luật quốc tế.[38] Toà án cũng
bác bỏ việc bên bị kiện đề nghị xem xét khả năng áp dụng Học
thuyết vấn đề chính trị đối với các tranh chấp theo luật quốc tế, cho
rằng:
“Việc người đứng đầu chính phủ tiến hành ủy quyền cho một bị đơn
cá nhân không phải là một tấm séc trắng để làm hại các cá nhân khác
với việc vi phạm luật pháp quốc tế. Trong Đệ tam quốc xã, tất cả
quyền lực nhà nước đều tập trung vào Hít le; nhưng mệnh lệnh của
ông ta đã không được sử dụng như là một công cụ để bào chữa trước
Tòa án Nuremberg. Tính chất hợp pháp không thể bị loại bỏ do khả
năng liên hệ với quyền hành pháp thậm chí ngay cả trong chiến
tranh”.[39]
Tuy nhiên, toà án đã bác bỏ yêu sách theo luật quốc tế với lý do là
không có một nghĩa vụ pháp lý hoặc thực tiễn mang tính tiêu chuẩn
phủ nhận việc dùng thuốc diệt cỏ trong chiến tranh, và vì vậy không
có cơ sở để khẳng định sự tồn tại một tập quán quốc tế liên quan
đến việc sử dụng các Chất độc màu da cam. Bằng cách lập luận như
vậy, quan điểm của toà án là khi xem xét việc vi phạm nguyên tắc
tương xứng của luật nhân đạo quốc tế “sức mạnh của sự giáng trả lại
hành vi đã xảy ra đã được nâng lên thành một rào cản đối với việc
tìm ra trách nhiệm”.[40] Weinstein J cũng bác bỏ lập luận của các
nguyên đơn liên quan tới tội diệt chủng, thừa nhận Mỹ không hề có
ý định phạm tội ác diệt chủng.[41] Lý luận của toà án dựa trên bản
Giải trình do chính quyền Hoa kỳ đệ trình khi trở thành bên ký kết
Công ước về Diệt chủng. Bản Giải trình này cho rằng Điều 2 của
Công ước về tội diệt chủng (điều định nghĩa về Diệt chủng), đòi hỏi
“ý định cụ thể nhằm huỷ diệt toàn bộ hay một phần lớn một quốc
gia, một nhóm dân tộc, sắc tộc hay tôn giáo”. [42]
Toàn bộ phán quyết thì quá lớn không thể đề cập hết trong bài này,
và lại có thể là chủ đề của việc kháng cáo. Đối với mục đích hiện
nay, việc vụ kiện bị bác bỏ đã thúc đẩy việc tìm kiếm các giải pháp
thay thế để giải quyết tranh chấp. Các vấn đề lớn nảy sinh đối với
các bị đơn trong vụ kiện này là việc chứng minh các vấn đề cần phải
được giải quyết để đạt được một kết quả như mong muốn thông qua
quá trình tố tụng.
2.2 Các biện pháp không mang tính tố tụng khác
Về mặt lý thuyết, có thêm 2 cách khác để dẫn đến việc tiến hành tố
tụng song mỗi cách này đều có những khó khăn cản trở. Đó là: thứ
nhất, khởi kiện các công ty hoá chất của Mỹ tại toà án Việt Nam;
7
thứ hai là hành động của chính phủ Việt Nam khiếu nại chính phủ
Mỹ tại một diễn đàn quốc tế. Mỗi hình thức này đều có những khó
khăn rất lớn. Cũng được xem xét trong phần này là một số vấn đề
khác mà có thể làm phức tạp thêm Hành động của phía Việt Nam
nếu như họ vẫn tiếp tục theo kiện chứ không bỏ kiện.
Có những cản trở lớn đối với việc tiến hành vụ kiện ở các toà án
Việt Nam. Trước hết là theo các nguyên tắc quốc tế kể cả học thuyết
về sự lịch thiệp, một toà án ở Việt Nam sẽ không có quyền tài phán
để nghe vụ việc chống lại phía Mỹ. Thêm vào đó, mặc dù Công ty
Hoá chất Dow International và Monsanto đều có văn phòng ở thành
phố Hồ Chí Minh, bất kể phán quyết nào đều có thể đòi hỏi phải
được thi hành ở Mỹ và không có khả năng một phán quyết của Việt
Nam được toà án của Mỹ chấp nhận là có hiệu lực và có thể được thi
hành.
Tương tự, thực tế việc Mỹ không còn chấp nhận quyền tài phán bắt
buộc của Toà án quốc tế[43] sẽ đòi hỏi (khó có thể) bước đi từ phía
Mỹ tự nguyện chấp nhận quyền tài phán của Tòa án quốc tế để có
thể đưa vụ việc tranh chấp giữa Mỹ và Việt Nam ra một diễn đàn
quốc tế.
Xác định và chứng minh các nguyên nhân của hành động đều rất khó
cho dù ở bất kỳ diễn đàn nào. Hành động tập thể của Mỹ và hành
động tập thể của Việt Nam đều một phần dựa vào một loạt các yêu
cầu về bồi thường thiệt hại do việc làm thiếu tinh thần trách nhiệm,
vi phạm quy định về việc cảnh báo, hành vi gây thiệt hại có chủ định
và vấn đề giới hạn trách nhiệm. Nội dung chính của đơn kiện là việc
tạo ra và sản xuất ra Chất độc màu da cam của các công ty hoá chất
là một sai sót do mức độ độc hại của dioxin đã được sinh ra trong
quá trình sản xuất, các công ty hoá chất đã vi phạm nghĩa vụ của họ
khi không thông báo cho bên nguyên đơn về những nguy hiểm gắn
liền với sản phẩm của họ, và việc chính phủ Mỹ sử dụng chất độc da
cam đã được lờ đi. Hành động tập thể Việt Nam thực tế phức tạp
hơn nhiều Hành động tập thể của Mỹ vì các lý do sẽ được trình bày
dưới đây, và thêm vào đó cũng cần nhớ là Hành động tập thể của Mỹ
đã được giải quyết ngay trước phiên toà và do đó vụ việc đã không
bao giờ được xem xét trên thực tế của nó. Bởi vậy, khả năng thành
công là rất khó mà có thể tính toán được.
Cơ sở thứ hai trong Khiếu kiện của Việt Nam dựa trên cơ sở vi
phạm luật pháp quốc tế. Mặc dù nội dung của Công ước về Vũ khí
sinh học năm 1972 và Công ước về Vũ khí Hoá học năm 1992 không
được toà án chấp nhận trong Hành động tập thể của Việt Nam song
có thể tranh luận một cách chắc chắn rằng, chúng là biểu hiện của các
quy phạm quốc tế chống lại việc sử dụng vũ khí hóa học trong chiến
tranh[44]. Cũng có nhiều bằng chứng khác cho thấy, thậm chí ngay
vào thời điểm chiến sự, các nguyên tắc quốc tế lâu đời cũng đã cấm
sử dụng các chất như Chất độc màu da cam trong chiến tranh.[45]
Tương tự như vậy, hậu quả của chiến tranh Việt Nam đã khiến cộng
đồng quốc tế phải đưa thêm Điều 35 và 55 vào Nghị định thư Bổ
sung lần thứ nhất đối với các Công ước Giơnevơ năm 1977.[46]
Cũng tương tự như vậy, Công ước về việc cấm sử dụng các công
nghệ làm biến đổi môi trường trong các cuộc xung đột quân sự và
8
các xung đột vũ trang khác được mở ký năm 1997 cũng cấm sử
dụng chiến tranh môi trường, với việc các quốc gia nhất trí không
được “tham gia vào các hoạt động quân sự hay các hoạt động thù
địch khác sử dụng kỹ thuật biến đổi môi trường tác hại trên diện
rộng, lâu dài và nghiêm trọng như các biện pháp hủy diệt, tàn phá
hay gây thương tích”. Một lần nữa, những công ước này không có
hiệu lực hồi tố – tuy nhiên chúng có thể được nhìn nhận một cách
đơn giản là việc pháp điển hóa các nguyên tắc đã được thừa nhận
của luật pháp quốc tế.
Tính chất của cuộc chiến đã làm phức tạp thêm quan điểm theo luật
pháp quốc tế. Tất cả các nguyên nhân hành động như đã nói trên đòi
hỏi, ở những mức độ khác nhau, việc xác định quy chế pháp lý của
cuộc chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ. Quyết định của Weinstein J
không xác định địa vị của 27 nguyên đơn cá nhân và liệu họ có thể
tập hợp thành một nhóm được không. Hành động tập thể của Mỹ
cũng thể hiện khó khăn trong việc xác định và phân nhóm lập nhóm
nguyên đơn. Những điều này phức tạp hơn trong hành động của Việt
Nam khi mà các nguyên đơn khác nhau được cho là đã phải gánh
chịu những mức độ thiệt hại khác nhau do các lý do khác nhau.
Những nguyên đơn này gồm có: thành viên của Quân đội miền bắc
Việt Nam trước đây và Việt Cộng (đối với những người này có thể
đưa ra lập luận rằng luật về phòng vệ áp dụng[47]), các nhân viên
Việt Nam làm việc cho chính phủ Mỹ tham gia vào việc chuyển chất
độc da cam trong Chiến dịch Operation Ranch Hand (như vậy khiếu
kiện của những người này giống với các cựu chiến binh Mỹ), binh
lính miền Nam Việt Nam những người đã thực hiện lệnh của Mỹ,
thường dân của các nước không phải là đồng minh tình cờ bị tổn
thương do việc trôi dạt của các đám mây chất diệt cỏ, hay những
người có đất bị rải chất độc phá huỷ mùa màng, và rất nhiều các
‘nhóm” có thể được nhận diện khác, và các thế hệ hậu duệ (cả thế hệ
thứ 2 và thứ 3) của mỗi nhóm nói trên. Nhóm nguyên đơn sẽ phức
tạp thêm khi có thêm sự có mặt của các nạn nhân Lào và Campuchia.
Trong khi hầu hết các nhóm nguyên đơn đều có mặt trong Hành
động tập thể Việt Nam ở một mức độ nào đó, đề xuất của các
nguyên là nhằm tổ chức thành một hành động tập thể không phải dựa
vào quy chế pháp lý của nguyên đơn trong chiến tranh mà theo mức
độ thương tổn họ phải chịu đựng.
Bất kỳ một hành động trong tương lai nào cũng đòi hỏi phải nhận
diện được đúng các bị đơn. Nhận diện đúng bị đơn là một yếu tố
quan trọng nhưng cuối cùng việc này đã không bao giờ được kiểm
chứng tại phiên toà do việc giải quyết vấn đề Hành động tập thể của
Mỹ. Do chất độc màu da cam được đóng trong các thùng không
đánh dấu, nên không phân biệt được các sản phẩm của các công ty
khác nhau, và mỗi sản phẩm của mỗi công ty lại có hàm lượng
dioxin khác nhau. Tính không chắc chắn liên quan đến nhân thân của
các bị đơn đã được thừa nhận trong đơn khiếu nại đã được sửa đổi
trong Hành động tập thể Việt Nam bằng việc chỉ ra một số các bị
đơn giả tưởng là Công ty hoá chất ABC 1-100 mà theo đơn kiện đã
được sửa đổi đại diện “ tên thật và số lượng …các thực thể….mà các
nguyên đơn không biết tới… sản xuất và cung cấp chất diệt cỏ để
sử dụng trong chiến tranh Việt Nam từ 1961 đến 1975, hoặc là
9
những công ty kế thừa quyền lợi của họ trong vấn đề trách
nhiệm”.[48]
Trong Hành động tập thể Việt Nam, toà án đã không giải quyết đơn
kiện cá nhân cho rằng không có mối liên hệ với việc sử dụng thuốc
diệt cỏ do vụ án đã bị bác bỏ, và bất kỳ quá trình tố tụng nào trong
tương lai đều có thể gặp khó khăn trong vấn đề này, nhất là khi liên
quan đến việc phân bổ trách nhiệm.
Còn có những phức tạp khác xung quanh vấn đề quy chế pháp lý của
cuộc chiến. Như Hành động tập thể của Việt Nam đã chỉ rõ, các hành
động gây thiệt hại đã được loại bỏ nhằm chống lại các công ty sản
xuất Chất độc màu da cam do điều khoản bảo vệ nhà thầu của Chính
phủ. Mặc dù, trong mối liên hệ với chính phủ Mỹ, rất khó hình thành
bất cứ một yêu cầu thực tế bồi thường thiệt hại nào bởi những
người vốn là kẻ thù trong cuộc chiến, nhưng điều này còn phụ thuộc
vào đặc tính của cuộc chiến. Nếu như cuộc chiến được coi là chiến
tranh thì sau đó trong một hành động gây thiệt hại, có khả năng là
bên bị có thể không phải chịu bất cứ một trách nhiệm nào đối với
các nguyên đơn là kẻ thù và cũng có thể là họ chỉ phải chịu trách
nhiệm đối với các thường dân kẻ thù hoặc thậm chí là các thường
dân là đồng minh của Mỹ. Tuy nhiên, có thể nó rằng cũng phải có
trách nhiệm đối với những người làm việc trong các căn cứ quân sự
của Mỹ và những người đã tiếp xúc với Chất độc màu da cam trong
quá trình làm việc của họ.
Tuy nhiên, các còn có nhiều cách giải thích khác nhau. Giờ đây mọi
người đã hiểu hành động được cho là đã dẫn đến Nghị Quyết về
Vịnh Bắc bộ của Mỹ không phải là ‘hành động xâm lược trên vùng
biển quốc tế’ và thực thế là điều đó hoặc đã không xảy ra hoặc là
hành động trả đũa của Bắc Việt Nam nhằm đáp lại một loạt các chiến
dịch bí mật và việc xâm phạm liên tục của Mỹ và chính quyền Nam
Việt Nam vào lãnh thổ Bắc Việt, điều này cho thấy lịch sử phương
tây coi Bắc Việt là kẻ xâm lược là không chính xác.[49] Sự có mặt
của quân đội Mỹ ở Việt Nam được biện minh là hỗ trợ cho quân đội
pháp theo Hiệp định về hỗ trợ quân sự chung ở Đông Dương năm
1950.[50] Các bên ký kết Hiệp định này [51] đã, ngoại trừ những
điều khác, nhất trí “tiếp nhận trong phạm vi lãnh thổ của mình các
nhân viên quân sự Mỹ trong trường hợp được yêu cầu và nhằm mục
đích của Hiệp định này, dành cho các nhân viên quân sự đó mọi sự
thuận lợi để họ có thể thực hiện các trách nhiệm đã được giao của họ
một cách tự do và đầy đủ nhất.[52] Chính phủ Mỹ đã coi Hiệp định
này là “văn kiện điều chỉnh vấn đề quy chế pháp lý của các nhân
viên và cơ sở quân sự của Mỹ ở Việt Nam”.[53] Các hành động của
Mỹ có thể được xếp là ‘hành động sen đầm’ với việc Nam Việt Nam
tuyên bố tình trạnh khẩn cấp năm 1964 và chiến tranh năm 1965.
Bắc Việt Nam đã cho rằng cuộc xung đột đơn thuần là xung đột
trong nước, trong khi Mỹ lại giữ lập trường Bắc Việt Nam là kẻ xâm
lược trong một cuộc xung đột vũ trang quốc tế. Giải quyết vấn đề
này không những phức tạp về mặt pháp lý mà còn hết sức nhạy cảm
về mặt chính trị, nhưng có khả năng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến các
quyền pháp lý của các nguyên đơn trong vụ kiện chính phủ Mỹ.
10
Tóm lại rõ ràng là sự phức tạp của các vấn đề pháp lý, thực tế là
nhiều vấn đề không được kiểm chứng về mặt pháp luật và chi phí
khổng lồ cho việc khiếu kiện là những nhân tố làm cho vụ kiện này
không phù hợp nếu giải quyết thông qua các hình thức xét xử mặc
dù có khả năng hoặc thành công khi kháng cáo, hoặc có một quyết
định của toà án có lợi ở Việt Nam hay Mỹ, hoặc thậm chí có một
hình thức giải quyết trước cả khi ra toà có thể đạt được. Tuy vậy,
Khiếu kiện tập thể của Việt Nam đã nêu ra vấn đề trách nhiệm, và đã
tạo ra nền tảng cho cả hai chính phủ tìm ra các phương thức xác định
khác nhau và giải quyết tranh chấp.
Phần III- Xem xét các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế
khác
Phần này sẽ tìm hiểu cách giải thích một số vấn đề liên quan đến các
thực thể được gọi là ‘các bên tranh chấp’ cũng như nêu lên một số
cá lợi ích then chốt, nhu cầu và quan điểm có thể tác động đến các
biện pháp giải quyết tranh chấp.
Mặc dù bài viết nói đến các bên liên quan là ‘Việt Nam’ và ‘Mỹ’
nhưng không hề có ý ám chỉ các thực thể đều thuộc một nhóm hay
không thể thay đổi. Thực tế lại ngược lại, vì mặc dù rất nhiều cá
nhân hay các nhóm lên tiếng đại diện cho mỗi quốc gia nhưng mỗi
đại diện đều mang những quan điểm cá nhân, tổ chức mà sẽ tác động
đến quan điểm của họ. Ví dụ Tổng thống, một nhân viên sứ quán hay
một nghị sĩ tất cả có thể phát ngôn một cách hợp pháp hay đàm phán
‘thay mặt đất nước’ nhưng mỗi một người lại có những quan điểm,
ưu tiên và quan tâm riêng. Vì vậy sự hiện diện các đại diện các bên
có thể dẫn đến các kết quả khác nhau, và điều này phải được xem
xét khi chọn lựa các cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp.[54]
Tuyên bố về lợi ích do chính phủ Mỹ đưa ra trong Khiếu kiện tập
thể của Việt Nam nêu bật ý nghĩa chính trị của bất kỳ giải pháp nào
đạt được thông qua hoạt động tố tụng đối với vấn đề này:
Các đơn kiện của bên nguyên đơn có tác động to lớn vì chúng (nếu
được chấp thuận) sẽ mở tung cánh cửa toà án của hệ thống luật pháp
Mỹ cho các cá nhân và binh lính của một nước trước đây vốn là kẻ
thù của Mỹ. Cuối cùng quá trình tố tụng này sẽ là thách thức đối với
các biện pháp mà Mỹ đã theo đuổi cuộc chiến tranh Việt Nam, và
không tránh khỏi việc đưa đến vấn đề quyền tổng chỉ huy theo Hiến
pháp của Tổnt thống và tạo điều kiện cho thiên hạ phê phán lại các
quyết định tiến hành chiến tranh của Tổng thống.[55]
Rõ ràng là Mỹ và các công ty hoá chất sẽ chống đối mạnh mẽ bất kỳ
quá trình tố tụng nào, trước hết là do mối lo ngại một quyết định bất
lợi sẽ mở ra một luồng các khiếu kiện khác từ Afghanistan, Irac và
vác quốc gia khác mà Mỹ đã từng dấy chiến tranh tại đó. Điều này
cho thấy sự cần thiết có một biện pháp giải quyết tranh chấp thay
thế khác. Theo Astor và Chinkin,
…tranh chấp không chỉ được xem xét một cách riêng rẽ hoặc bởi
bản thân những người tranh chấp hoặc những người tham gia khác.
Những vấn đề tưởng như xa lạ với tranh chấp thực tế và những
11
người tranh chấp sẽ tác động đến thành công của bất kỳ một quá
trình tìm kiếm giải pháp nào, phần do những người không chấp
đóng vai trò, và giải pháp cho tranh chấp.[56]
Quá trình giải quyết tranh chấp không dựa trên hoạt động tố tụng có
thể được lựa chọn nhằm tận dụng sự ủng hộ và hỗ trợ cho Việt Nam
của một số nhóm người ở Mỹ. Ví dụ, các cựu chiến binh, các nhà
hoạt động nhân quyền, các tổ chức môi trường ở Mỹ có thể gây ảnh
hưởng chính trị mạnh mẽ đối với lập trường của Mỹ cũng như đối
với truyền thông và dư luận quốc tế. Các nhóm vận động hành lang
đã hoạt động tích cực ở Mỹ, với các tổ chức như Hội cựu chiến binh
Việt Nam của Mỹ đã có vai trò mang tính công cụ trong việc thúc
đẩy các hội nghị khoa học chung và ủng hộ việc:
Chính phủ Mỹ và các công ty hoá chất đã bán hóa chất [Chất độc
màu da cam] phải có trách nhiệm đạo đức đền bù cho những người
Việt Nam đã phải chịu đựng do việc tiếp xúc với chất làm rụng lá
trong chiến tranh Việt Nam.[57]
Hành động tập thể Việt Nam cũng đã không tính đến thực tế là Việt
Nam không phải là nước duy nhất bị thiệt hại do Chất độc da cam
trong chiến tranh Việt Nam-Mỹ khi mà một lượng lớn chất độc cũng
được rải ở Lào và Campuchia. Việc kết hợp với hai nước này vào
có thể tạo ra một tinh thần liên minh và quyết tâm mạnh mẽ hơn,
một sự liên kết chắc chắn hơn và có thể gánh đỡ bớt chi phí của việc
kiện tục. Việc này cũng có thể làm cho Mỹ có thêm động cơ để giải
quyết tranh chấp thông qua việc tạo cơ hội cho các yêu sách nảy sinh
từ cuộc chiến tranh Mỹ- Việt Nam được giải quyết một cách đồng
thời.
Tuy nhiên, các nước liên quan ở Đông Nam Á cũng cần nhận thức
được các lợi ích và quan điểm khác nhau giữa họ, và cũng phải ý
thức được sự căng thẳng giữa các quốc gia và khả năng Mỹ đang
tính đến chiến lược ‘chia để trị’ trong quá trình đàm phán. Những
đau thương trong lịch sử có thể tác động đến mối quan hệ giữa các
nước này là “tranh chấp lãnh thổ đã có nguồn gốc lịch sử và dân tộc
lâu đời, dai dẳng” giữa Việt Nam và Campuchia. Điều này đứng độc
lập với những tính toán ngắn hạn dưới những cái tên như lợi ích,
nhu cầu hay cùng ý thức hệ.[58]
Vấn đề danh dự và ‘thể diện’ quốc tế cũng là những động lực quan
trọng cho cả Việt Nam và Mỹ. Theo Farrell khẳng định “danh tiếng
là một nhân tố xuất phát từ mong muốn của Việt Nam là nhằm tạo ra
một bản sắc dân tộc và nhằm có được sự công nhận và thừa nhận về
vị thế đã thay đổi của họ [là một thực thể đã lớn mạnh và độc
lập]”[59]. Lịch sử đấu tranh, cả về ý thức hệ và thực chất, giữa các
bên đã làm cho vấn đề thể diện đặc biệt quan trọng. Fisher và Ury
coi “giữ thể diện liên quan tới việc làm hài hoà giữa một thoả thuận
với các nguyên tắc và hình ảnh của bản thân những người đàn phám.
Không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của việc này.” [60]
Có thể thấy một mức độ thực dụng cao trong kiện cáo của Việt Nam
về chất độc da cam. Thay vì xem xét khả năng trừng phạt hay đòi hỏi
công lý như các nhà hoạt động nhân quyền phương Tây như Tatchell
12
cổ vũ,[61] Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề đền bù. Theo Việt
Nam lập luận, cái giá của việc khôi phục công lý quá cao khi mà các
gia đình nạn nhân đều không có nguồn tài chính để chi trả cho các
nhu cầu y tế cơ bản của các nạn nhân. Ngược lại, tính nhậy cảm của
Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam, mặc dù không còn mạnh mẽ như
trong các thập kỷ trước, cũng có thể cản trở thành công của tiến trình
gải quyết vụ việc theo hướng hoà giải. Không có sự nhận diện của
các bên liên quan với mục tiêu đạt được một quá trình giải quyết
tranh chấp, khả năng thành công sẽ ở mức độ thấp nhất. Chính vì lý
do này mà cơ chế nhằm khôi phục lại công lý như là hoà giải mang
tính chuyển tiếp hoặc các uỷ ban theo hướng hội đồng hội đồng hoà
giải đều không được xét tới trong bài viết này.
Các tính toán tài chính là hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Các
bước được coi là theo thông lệ của một hệ thống khiếu kiện như tìm
hiểu, giữ người làm chứng và các bước đàm phán đòi hỏi chi phí rất
cao. Khiếu kiện tập thể của Mỹ đã đưa ra mức chi phí có thể đạt
được – phí trước phiên toà lên đến 40 triệu đôla, khoản này bằng với
0,12% GDP hàng năm của cả Việt Nam.[62] Người Việt Nam coi
khoản tiền đó là không biện minh được, và chi phí cho kiểm tra khoa
học không nằm trong tính toán của họ. Một nạn nhân chất độc da
cam cho biết “để kiểm tra một gia đình tốn tới 1000 đôla Mỹ…. Nếu
như chúng tôi có số tiền như thế thì cho các gia đình chẳng tốt hơn
sao?”[63] Bởi vậy quan tâm chính của Việt Nam (và các nước Đông
Nam Á khác) là cơ chế giải quyết tranh chấp phải tốn ít chi phí càng
tốt.
3.1 Đàm phán
Theo đã trình bày ở trên, hành động pháp lý có vai trò thúc đẩy các
bên đi đến đàm phán với nhau. Có hai khả năng cho việc đàm phán
ad hoc: một là các bên đàm phán thực chất nhằm giải quyết vấn đề;
thứ hai, các bên đàm phán để thoả thuận về một mô hình giải quyết
tranh chấp mang nhiều tính tổ chức (structured) như Điều tra hay
Trọng tài. Do không tồn tại các quy định về quyền tài phán mang
tính chất bắt buộc áp đặt cứ bên nào phải tham gia vào việc giải
quyết tranh chấp nên đàm là một nhân tố không thể thiếu trong bất
kỳ một cơ chế giải quyết tranh chấp khác mà các bên có thể sử
dụng.
Lợi ích của một giải pháp thông qua đàm phán là bản thân quá trình
này không đòi hỏi bất kỳ một nền tảng nào dưới hình thức cơ bản
như các thoả thuận hay cơ quan xét xử và nó cho phép các bên liên
quan có hoàn toàn chủ động đối với vấn đề thời gian và nội dung
đàm phán. Một lợi ích quan trọng khác trong vụ kiện hiện nay là một
giải pháp có được nhờ đàm phán có thể tránh được một tuyên bố về
trách nhiệm, và do đó sẽ cho phép cả 2 bên giữ được thể diện. Đàm
phán là một nhân tố phổ biến trong quan hệ giữa các quốc gia, được
thực hiện thông qua các kênh ngoại giao, các cuộc tiếp xúc giữa các
chính phủ và các tổ chức quốc tế. Trong trường hợp Việt Nam và
Mỹ, phần lớn việc đàm phán về bồi thường thiệt hại do Chất độc
màu da cam đã diễn ra thông qua các kênh ngoại giao và khi nào
cũng vậy, vấn đề này chỉ được thảo luận trong một nhóm các vấn đề
chính trị khác như cựu binh Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA),
13
nhân quyền, hỗ trợ kinh tế và cơ cấu lại các khoản nợ. Đây là biểu
hiện của quyền lực mà theo truyền thống Mỹ đối xử với VN trong
quan hệ của mình với nước này. Để bảo đảm việc có tiến bộ trong
đàm phán giả quyết tranh chấp, Việt Nam cần phải đảm bảo rằng
đàm phán ngoại giao chỉ gói gọn trong vấn đề giải quyết hậu quả
chất độc da cam.
Đàm phán thông qua ‘Môi giới’ và Đàm phán cấp cao là hai hình
thức đàm phán khác nữa. Việc sử dụng môi giới về bản chất có thể
tận dụng vị trí trung lập mà bên thứ 3 đưa ra, người mà có thể có vai
trò như nhà đàm phán con thoi trong một số hòan cảnh nhất định.
Điều này cho phép các bên liên quan giữ được thể diện trong một số
hoàn cảnh mang nặng tính tình cảm. Đàm phán cấp cao bao gồm các
cuộc tiếp xúc giữa các nguyên thủ quốc gia có thể được dùng cho
nhiều lý do, trong đó có việc tạo ra niềm tin vì lợi ích của cộng
đồng. Đây cũng là một nhân tố ‘giữ thể diện’ bằng cách cho thấy
giải quyết tranh chấp một cách ép buộc là không cần thiết và các bên
liên quan có mối liên hệ công tác mạnh mẽ với nhau. Theo Merrills
nhận xét:
ngoại giao cấp cao có thể tạo thuận lợi cho thỏa thuận bằng cách cho
phép các thủ tục hành chính được bỏ qua ở một mức độ nhất định
trong khi đưa ra một giải pháp để thỏa thuận dưới hình thức nâng cao
danh tiếng cho các nhà lãnh đạo có liên quan. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng ngoại giao cấp cao thường là đỉnh cao của rất nhiều cuộc đàm
phán thông thường khác và ít nhất trong một số trường hợp phản
ánh không gì khác ngoài mong muốn tạo ra lợi ích chính trị từ một
thoả thuận vốn đã được định sẵn.[64]
Ngoài ra, Astor và Chinkin cũng nhận xét
thực tế bao trùm của đàm phán quốc tế là việc liên tục gửi các thông
điệp chung và cá nhân và kiểm tra lập trường của các bên trong quá
trình giao tiếp chính thức và không chính thức Có nhiều mục đích
cho việc liên lạc và không phải lúc nào các mục đích cũng được định
hình trước chứ chưa nói đến có thể dẫn đến giải quyết được tranh
chấp.[65]
Cho dù cách xử sự có được tính toán trước hay không, thì thông điệp
chính thức và cá nhân rõ ràng mà Mỹ gửi đi cho thấy việc giải quyết
thông qua đàm phán sẽ hạn chế cơ hội thành công. Nếu để ý đến tinh
thần trong tuyên bố trích ở phần trước của nhân viên Sứ quán Mỹ và
các hình thức đàm phán trước đây, có vẻ như đàm phán ad hoc hay
cấp cao sẽ có rủi ro là không thúc đẩy được tranh chấp tiến tới một
giải pháp mà độc lập với các vấn đề chính trị khác. Các nhà đàm
phán ngoại giao cũng có trách nhiệm nặng nề đối với những người
ủng hộ họ, những người ở nước ngoài bao gồm cả cộng đồng người
di tản và những người làm ăn với phía bên kia. Quan hệ thương mại
được cả hai bên đánh giá cao và bởi vậy điều quan trọng đối với các
nhà ngoại giao là không được làm tổn hại đến mối quan hệ đang
manh nha giữa hai quốc gia, và cũng không được làm phương hại
tới những lợi ích trong nước của các công dân nước mình. Điều này
có thể dẫn tới việc tránh đi chứ không giải quyết những lĩnh vực
tranh chấp quan trọng. Đây là vấn đề thực sự được quan tâm trong
14
trường hợp quan hệ Việt Nam-Mỹ, trong đó các kênh ngoại giao đều
khá mới nhưng đã có một lượng lớn các vấn đề ngoại giao đòi hỏi
phải thảo luận.[66]
Mặc dù đàm phán với tư cách là phương thức duy nhất giải quyết
tranh chấp nhưng dường như không hoàn toàn phù hợp cho tranh
chấp này nhưng đàm phán có thể tiếp tục giải quyết các vấn đề thủ
tục nhằm xác định hình thức một cơ chế giải quyết tranh chấp mang
tính tổ chức. Merrills đã chỉ ra rằng phương thức này có những lợi
ích đáng kể khi mà một bên được đòi hỏi phải nhượng bộ một cách
đáng kể đáp ứng, như trong vụ tranh chấp Hồ Lanoux trong đó “thoả
thuận cuối cùng của các bên giải quyết tranh chấp dựa vào trọng tài
đã mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia trong việc giải quyết dứt
điểm vấn đề đã được đàm phán suốt 40 năm và trong việc xoá bỏ
được một vấn đề hết sức gai góc giữa Pháp và Tây Ban nha”.
[67]Các biện pháp các bên liên quan có thể dựa vào gồm trọng tài,
hoà giải, trung gian và điều tra.
3.5 Trọng tài
Hầu hết các trọng tài quốc tế thường được đề cập tới một tòa trọng
tài trên cơ sở một điều khoản giải quyết tranh chấp mang tính bắt
buộc trong một hiệp định quốc tế. Tuy nhiên, vẫn có cơ hội cho
tranh chấp như vấn đề bồi thường thiệt hại do Chất độc màu da cam
được đưa ra tòa trọng tài trên cơ sở sự nhất trí của các bên. Trọng tài
là một biện pháp giải quyết tranh chấp phổ biển và dễ hiểu đối với
cả Mỹ và Việt Nam và cho phép các bên quyết định phạm vi điều tra,
các kết quả giải quyết tranh chấp có thể có và tính chất của trọng tài.
Theo Merril, Vụ Beagle Channel[68] đã cho thấy việc lựa chọn một
hội đồng trọng tài đã có thể đưa tới một giải pháp mà cả 2 cùng
thắng vì trong vụ đó một bên muốn giải quyết vụ việc bằng con
đường xét xử bằng Tòa án quốc tế nhưng đã không đáp ứng yêu cầu
của phía bên kia muốn vụ việc được xét xử bằng trọng tài bao gồm
các luật gia.
Một số các tổ chức quốc tế đã dự thảo các quy tắc về việc hoạt động
của trọng tài và đã thông qua một số các quy tắc nhằm tránh các bất
đồng về thành phấn và quy tắc trọng tài tiến hành. Một trong các
hình thức trọng tài trọng tài được sử dụng phổ biến nhất là quy tắc
trọng tài UNCITRAL được thông qua năm 1976.[69] Các thể chế
như Tòa trọng tài thường trực quốc tế có thể cung cấp địa điểm cho
trọng tài ở nước thứ 3.
Tòa trọng tài giả quyết yêu sách bồi thường Mỹ-Iran là một hình
mẫu giá trị về hệ thống trọng tài mang tính thể chế được thành lập
để nghe các yêu sách của cá nhân và nhà nước. Tòa trọng tài này
được thành lập năm 1981 theo Tuyên bố về giải quyết các yêu sách
và đã giải quyết xấp xỉ 4000 yêu sách kể từ khi được thành lập.
Một trong những ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp này là
cả tranh chấp Nhà nước-Nhà nước và tranh chấp Nhà nước-cá nhân
đều có thể được giải quyết theo một hệ thống các quy tắc được
chính thức hóa, sử dụng việc kết hợp luật của cả mỗi nước. Sau khi
nhất trí về nguyên tắc các điều khoản của việc bồi thường[70], mỗi
15
cá nhân hoặc các gia đình có thể được coi là một tranh chấp riêng lẻ
và được giải quyết theo từng trường hợp cụ thể. Trong khi điều này
tránh được các vấn đề hành động tập thể đi cùng với các hành động
riêng trong nước Mỹ, một vấn đề tồn tại là địa điểm cho trọng tài và
các chi phí đi cùng với việc tham dự và đại diện của các bên Việt
Nam.
Trọng tài sẽ là một trong nhiều hình thức giải quyết tranh chấp được
các bên ủng hộ nếu mà các bên có khả năng đạt được một thỏa thuận
sơ bộ và nếu như họ tìm kiếm một giải pháp cuối cùng, có thể được
thi hành, mang tính tổ chức cho các yêu sách và một biện pháp bảo
đảm rằng việc bồi thường thiệt hại được phân bổ trong các thành
viên của các nhóm nạn nhân trên cơ sở từng cá nhân một. Bất tiện
lớn nhất sẽ là vấn đề chi phí đi kèm với việc nge từng vụ ciệc và các
khó khăn trong việc thi hành các biện pháp bảo đảm việc nge tranh
tụng là công bằng và có thể chấp nhận được với cả 2 bên.
3.3 Hội đồng Hoà giải
Hội đồng Hoà giải, giống như trọng tài, là phương pháp giải quyết
tranh chấp trên cơ sở đồng thuận khi mà thẩm quyền của các tổ
chức giải quyết tranh chấp được các bên trao cho thông qua thỏa
thuận của các bên.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ với mức độ tự chủ dành cho các bên
tranh chấp, Hội đồng trọng tài hoàn toàn khác biệt với Trọng tài.
Khi mà một trọng tài viên chỉ có thể đưa ra phán quyết phù hợp với
mong muốn mà các bên tìm kiếm, phạm vi vai trò của Ủy ban Hòa
giải không phải là việc phân xử và quyết định trong bất cứ trường
hợp nào không bị hạn chế trong các yêu cầu mà các bên tìm kiếm.
Điều này tạo ra cơ hội cho một giải pháp cùng thắng hơn là giải
pháp bên được bên thua vốn được coi là kết quả của trọng tài hoặc
quá trình tố tụng.
Như Raiffa đã chỉ ra nhấn mạnh, hoà giải viên đóng một số vai trò
và tạo ra một cơ chế có ý nghĩa cho các bên trong việc giữ thể diện
và hạn chế sự khác biệt của họ vào các vấn đề nội dung hơn là các
vấn đề mang tính thủ tục. Một số vai trò của hoà giải mà Raiffa gợi
ý bao gồm:
- Giúp việc trao đổi thông tin (trước đàm phán, ngoại giao con thoi);
- Thăm dò nhu cầu đàm phán ở cấp thâp hoặc bằng cách không
chính thức;
- Giúp tạo các thuận lợi, tóm tắt các tranh chấp, chuẩn bị các văn
kiện đưa ra công khai;
- Giúp thiết lập quan hệ, ổn định và kiểm soát tình cảm của những
người chủ chốt, tạo điều kiện xoá bỏ các tranh cãi mang tính cá nhân
và cách ly con người khỏi vấn đề;
16
- Tạo điều kiện bằng việc can thiệp có tính chất phân tích trong việc
giải quyết vấn đề, tìm hiểu các cơ hội không chác chắn, dự đoán, sử
dụng các mô hinh bơỉ các chuyên gia trung lập, giúp đỡ các bên xây
dựng các nô hình mẫu mà có thể được sử dụng một cách riêng lẻ hay
tập thể;
- Tạo điều kiện chuẩn bị các thoả thuận mang tính thoả hiệp, khai
thác các khác biệt trong việc đánh giá về khả năng xảy ra của một sự
việc, việc không thích mạo hiểm, các thỏa hiệp tạm thời và giá trị
của chung và các nhu cầu mang tính hình thức khác.[71]
Cũng giống như trọng tài, Hội đồng hoà giải được đưa ra dưới sự
bảo trợ của nhiều tổ chức, bao gồm Toà trọng tài thường trực.
UNCITRAL cũng đã dự thảo quy tắc cho Hội đồng hoà giải và đã
được hoàn tất vào năm 1980 mà cũng giống như quy tắc trọng tài, có
các lợi thế của việc cần thiết phải thảo luận về các vấn đề thủ tục
bằng cách thông qua một mô hinh mẫu mang tính quốc tế được chấp
nhận.
Merrils cũng chứng minh một số các ví dụ thành công của hình thức
hội đồng hòa giải ad hoc bao gồm Ủy ban hoà giải Pháp – Xiêm năm
1947, và đặc biệt là ví dụ về Ủy ban Hòa giải Bỉ – Đan Mạch năm
1952. Trong Vụ giữa Bỉ- Đan Mạch, Chính phủ Đan Mạch đã yêu
cầu chính phủ Bỉ bồi thường thiệt hại do mất 2 tàu buôn trong thời
gian chiến tranh khi Bỉ bị Đức xâm lược.Vấn đề pháp luật khá phức
tạp là xác định tính chất của tranh chấp, nhưng hội đồng hòa giải đã
bị chia rẽ đối với cách tiếp cận vấn đề pháp lý phù hợp. Điều đó đã
được xử lý khi Hội đồng bỏ qua những vấn đề chưa được giải quyết
này và đề xuất một giải pháp tổng thể có tính đến những vấn đề
không rõ ràng về mặt pháp lý.[72] Có rất nhiều điểm giống nhau
giữa vụ tranh chấp Bỉ- Đan Mạch và vụ tranh chấp giữa Mỹ- Việt
Nam và vụ việc cho thấy khả năng sử dụng thủ tục hội đồng hòa
giải. Cuối cùng một ưu điểm khác của hội đồng hòa giải là nó có thể
kết hợp rất tốt với các thủ tục khác để tạo ra một thủ tục mang tính
kết hợp như Hội đồng hòa giải – trọng tài (được đề cập dưới đây).
3.4. Hoà giải
Hoà giải có thể được coi như là một hình thức đàm phán có định
hướng hay có tổ chức (structured) với người hoà giải đóng vai trò
làm bên thứ 3 trung lập trong việc tạo thuận lợi hoặc định hướng cho
các bên nhằm đạt tới một giải pháp cho tranh chấp của họ. Trên
trường quốc tế, rất nhiều tổ chức quốc tế như là Liên hợp quốc, Hội
chữ thập đỏ quốc tế đề xuất việc thực hiện vai trò của người hoà
giải; vai trò người hòa giải cũng có thể do một quan chức nhà nước
cao cấp của một quốc gia trung lập thứ 3 đảm nhiệm. Giống như
đàm phán, bản chất thoả thuận của hoà giải làm cho việc các bên
tham dự đầy đủ vào quá trình trở thành hết sức cần thiết nếu như
tranh chấp được giải quyết.
Phẩm chất cá nhân của người hoà giải đóng vai trò then chốt trong
tiến trình hoà giải do công việc hết sức quan trọng của người hòa
giải là thiết lập mối quan hệ với tất cả các bên và khuyến khích họ
bày tỏ lợi ích, thực hiện việc nhân nhượng, xem xét các đề xuất và
17
các phản đề xuất về giải pháp cho tranh chấp. Một chức năng quan
trọng khác của người hoà giải là kiểm tra thực tế bất cứ một giải
pháp nào được đưa ra nhằm bảo đảm rằng các bên sẽ tự nguyện và
có khả năng thực hiện thỏa thuận của mình – điều này đặc biệt quan
trọng khi mà bản thân những nhà hoà giải không có thẩm quyền ép
buộc các bên phải giữ quyết định và ở cấp độ quốc tế không có việc
đưa ra một toà án do sự vi phạm thoả thuận về giải quyết tranh chấp.
Boule[73] đã xác định 4 loại hoà giải khác nhau, trong mỗi loại đó
các nhà hoà giải sẽ đóng các vai trò khác nhau:
Hoà giải nhằm giải quyết: tập trung vào việc tìm ra một giải pháp
thỏa hiệp giữa các quan điểm đã được ấn định và thông thường chỉ
liên quan riêng đến việc bồi thường thiệt hại mang tính chất tiền tệ;
Hoà giải mang tính chất hỗ trợ trong đó hoà giải viên “tiến hành
việc hoà giải theo một giới hạn chặt chẽ nhằm xác định vấn đề một
cách toàn diện, tập trung vào nhu cầu và lợi ích của các bên và cố
gắng xây dựng một giải pháp mang tính đột phá mà các bên có thể áp
dụng vào giải quyết vấn đề”;[74]
Hoà giải mang tính liệu pháp: tập trung chủ yếu vào vấn đề bên
trong quan hệ giữa các bên mà gây ra tranh chấp. Loại hình này
thường được đề cập tới như là hình thức hoà giải chuyển tiếp; và
Hoà giải mang tính chất đánh giá: trong đó chuyên môn cá nhân của
nhà hoà giải được sử dụng để “định hướng và đưa ra lời khuyên”
cho các bên. Hoà giải mang tính chất đánh giá thường được tiến
hành bởi các luật sư hoặc cách chuyên gia về lĩnh vực tranh chấp,
những người có khuynh hướng sử dụng sự phán đoán của họ về các
kết quả có thể xảy ra tại trọng tài hoặc quá trình tố tụng để hướng
các bên tới một giải pháp.
Như đã được nêu ở phần đầu của phần này, tập trung chính của Việt
Nam chủ yếu là trên vấn đề bồi thường thiệt hại, do việc công lý
được phục hồi về thực chất được xem là một việc làm quá tốn kém.
Cũng tương tự như vậy, dường như có một nhận thức mang truyền
thống văn hóa và lịch sử như là những cân nhắc mang tính lâu dài và
không có một nhận thức giống nhau là quan hệ cần được hàn gắn –
hơn là quan hệ tự nó sẽ được hàn gắn qua thời gian. Điều này hoàn
toàn trái ngược với nhận thức của Phương tây là việc “khép lại”
xung đột là hoàn toàn cần thiết và mối quan hệ cần được khôi phục
lại một cách tích cực. Vì những lý do này, dường như việc hòa giải
mang tính liệu pháp có thể không thích hợp trong bối cảnh. Ở một
khía cạnh khác, việc tập trung vào đòi bồi thường thiệt hại không có
nghĩa là việc giải quyết thông qua hòa giải là một lựa chọn thích
hợp. Nếu như đề xuất một hòa giải viên, các bên cần lưu ý là tư
cách cá nhân của hòa giải viên, mức độ tin cậy của người này với
bên kia và có hay không việc hòa giải do hòa giải viên đó tiến hành
phù hợp với ý tưởng của các bên về việc họ muốn tranh chấp được
giải quyết thế nào.
3.5 Uỷ ban điều tra:
18
Đặc điểm chính của một Uỷ ban điều tra để phân biệt nó với các loại
hình xét xử khác là phạm vi vai trò của Uỷ ban điều tra:[75] dù là
lâm thời hay mang tính thể chế, vai trò các thành viên uỷ ban được
giới hạn trong việc tìm hiểu thực tế hơn là đưa ra một quyết định
giải quyết tranh chấp. Nhìn chung, uỷ ban không có quyền quyết
định bất cứ vấn đề pháp luật hoặc quyết định chính thức bất cứ hình
thức trách nhiệm nào, mặc dù Bar Yaacov giải thích rằng thuật ngữ
điều tra đã không được sử dụng một cách đồng nhất trong cả thực
tiễn lẫn trong việc nghiên cứu, ghi nhận rằng một loạt các hoạt động
tìm hiểu thực tế do Liên hợp quốc (hoặc Hội quốc liên trước đây)
tiến hành thường được đề cập tới như là “hoạt động điều tra”.[76]
Ví dụ về sự thành công của Ủy ban điều tra bao gồm Nhóm điều tra
tình hình Hungary (1956), Uỷ ban đặc biệt về chính sách Apertheid
của chính phủ Cộng hoà Nam phi (1961), Uỷ ban điều tra của Liên
hợp quốc về các sự kiện biên giới Hy Lạp (1946), về các xung đột
biên giới giữa Honduras và Nicaragua (1957), Panama và Cu Ba
(1958), và giữa Venezuela và Cộng hoà Dominicana (1960).
Các quy định pháp lý chính được pháp điển hóa về Ủy ban điều tra
được phát triển từ các Công ước La Hay về Giải quyết hoà bình các
tranh chấp quốc tế năm 1899 và 1907. Quy tắc thủ tục lựa chọn cho
Ủy ban điều tra về tìm hiểu sự thật của của Toà trọng tài thường trực
đã được thông qua năm 1997 và một lần nữa được dựa trên quy tắc
UNCITRAL.
Tác giả bài viết cho rằng một Uỷ ban điều tra là hình thức hoàn toàn
thích hợp cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do Chất
độc màu da cam giữa Việt Nam-Hoa Kỳ. Cụ thể, việc thiết lập một
uỷ ban với đại diện từ cả 2 nước và với một chủ tịch uỷ ban là người
trung lập sẽ cho phép việc xem xét và thẩm định thiệt hại mà không
động chạm đến vấn đề pháp lý và vấn đề trách nhiệm. Điều này là
có lợi cho cả hai bên vì nếu xét từ quan điểm của Việt Nam, các
tranh cãi pháp lý tốn kém và những hành động tạm thời có thể tránh
được, còn đối với phía Mỹ, vấn đề trách nhiệm sẽ không được thảo
luận. Trong khi điều này một thập kỷ trước đây có thể không phải là
một nhân tố mang tính thúc đẩy mạnh mẽ cho phía Mỹ nhưng do kết
quả của việc ngiên cứu gần đây ở Mỹ, người ta đã thừa nhận rằng:
“Chính phủ và những nhà sản xuất Chất độc màu da cam không nghi
ngờ gì đã biết trước khi Chất độc mau da cam được rải là dioxin là
một chất rất độc hại có thể đưa đến những nguy hiểm cho những
người tiếp xúc…. Cũng có những lý do để tin rằng ca chính phủ lẫn
những nhà sản xuất đều không thực hiện trách nhiệm tiến hành
những thí nghiệm và kiểm tra thích hợp trước khi sản xuất và sử
dụng hóa chất, tiết lộ nhanh chóng về các nguy hiểm và thi hành các
biện pháp đề phòng cần thiết thông qua việc cảnh báo và các việc
làm tương tự”.[77]
Thêm vào đó, các tài liệu trước đây được coi là bí mật vào thời điểm
ban hành Nghị quyết về vấn đề Vịnh Bắc Bộ đã được công bố và
cho thấy các lý do mà Chính phủ Mỹ cho rằng các hành động xâm
lược đã diễn ra, thực tế, đã được tô vẽ một cách cẩu thả nhằm phục
vụ mục đích chính trị.[78]Các phản ứng trong nước và quốc tế về
19
việc Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác là đáng kể và
việc thảo luận vấn đề này trong bối cảnh cuộc chiến Việt Mỹ và vấn
đề trách nhiệm của Mỹ sẽ tạo thêm các phản ứng tiêu cực từ phía dư
luận.
3.6 Các thủ tục mang tính kết hợp:
Bản chất thỏa thuận của các thủ tục giải quyết tranh chấp có nghĩa là
các cũng có thể đưa ra một hình thức giải quyết tranh chấp mang
tính kết hợp, theo đó các bên thỏa thuận trước việc chuyển từ thủ tục
này sang thủ tục khác trong trường hợp không đạt được giải pháp
cho tranh chấp.
Một số thủ tục mang tính kết hợp có khả năng đáp ứng các nhu cầu
và lợi ích của các bên bao gồm:
Kết hợp giữa hoà giải-trọng tài: đây là một hình thức phổ biến cho
việc giải quyết tranh chấp trong nước do nó cho phép các bên cơ hội
đạt được một thoả thuận thông qua việc đồng thuận, nhưng họ được
bảo đảm rằng một thỏa thuận mang tính ràng buộc cuối cùng sẽ được
một Hội đồng trọng tài đưa ra trong trường hợp việc hòa giải không
đưa tới giải pháp cho tranh chấp. Các bên cũng có thể muốn thỏa
thuận về tính chất của Hội đồng trọng tài trước khi đưa ra hoà giải
hoặc họ cũng có thể tìm kiếm việc chỉ định một Hội đồng trọng tài
như là kết quả cuối cùng của việc hoà giải. Việc kết hợp này cho
phép cả 2 bên cơ hội thiết lập quan hệ giữa các bên (thông qua hoà
giải) với việc tin tưởng là tranh chấp cuối cùng sẽ được giải quyết
vào thời điểm kết thúc của quá trình giải quyết tranh chấp với một
quyết định trọng tài có thể được thi hành.
Kết hợp giữa Hội đồng hòa giải – trọng tài: Có các đặc điểm tương
tự như việc kết hợp giữa hoà giải – trọng tài được nêu trên, hình
thức này là một lựa chọn cho phép tranh chấp được giải quyết thông
qua Hội đồng duy nhất mà vai trò của Hội đồng sẽ được chuyển từ
là người tạo điều kiện thuận lợi sang người xét xử nếu như thỏa
thuận không đạt được ở thủ tục thứ nhất (Hội đồng hòa giải).
Kết hợp giữa hòa giải – Hội đồng hòa giải: Thủ tục này có một số
điểm tương tự như thủ tục Hội đồng hòa giải- trọng tài nêu trên
ngoại trừ việc các bên giữ một quyền kiểm soát về phạm vi của giải
pháp và xem xét một loạt các giải pháp trong phạm vi lớn hơn do
Hội đồng đưa ra.
Kết hợp giữa điều tra – đàm phán: thủ tục này có lợi thế là tránh
được vấn đề trách nhiệm hoặc việc áp đặt một giải pháp thông qua
xét xử đối với các bên. Sử dụng Uỷ ban điều tra có thể tuyên bố về
các vấn đề thiệt hại chính và các bên sau đó có thể tự đàm phán về
một thoả thuận giữa họ.
Kết hợp giữa điều tra – trọng tài: như đã được trình bày ở trên, thủ
tục này cũng như các thủ tục khác có lợi thế trong việc tránh đề cập
vấn đề trách nhiệm. Tuy nhiên, nó khác là một biện pháp được ấn
định cho việc phân bổ và phân xử các yêu sách cá nhân được quyết
định và do đó được quyết định một cách duy nhất bằng bên thứ 3.
20
KẾT LUẬN
Thiệt hại do chất độc màu da cam chỉ là một trong nhiều loại thiệt
hại mà cuộc chiến tranh Việt Nam gây ra cho con người, môi trường
cũng như quan hệ giữa các quốc gia. Trong khi rất nhiều các vết
thương tình cảm cần thời gian để hàn gắn một cách đầy đủ, cơ hội
nắm bắt vấn đề thiệt hại đối với con người và môi trường ở Việt
Nam không nên bị bỏ qua hoặc phải chờ đợi bởi các tính toán chính
trị không cần thiết.
Hành động tập thể Việt Nam có thể có thế mạnh khi kháng cáo, tuy
nhiên mục đích của bài viết này cho rằng việc chỉ tập trung vào
kháng cáo có thể là sai lầm. Có các bằng chứng hết sức thuyết phục
và mạnh mẽ về các thiệt hại ở Việt Nam là do Chất độc màu da cam
gây ra bất kể chúng có được coi là thích hợp cho quá trình tố tụng
hay không. Trong khi quá trình tố tụng đòi hỏi các nguyên đơn phải
cung cấp một số loại chứng cứ nhất định, các biện pháp giải quyết
tranh chấp mang tính thay thế khác có khả năng chấp nhận những
thực tế này, với thực tế là hai bên sẽ phải bỏ ra một chi phí lớn hơn
nhiều lần số tiền tranh chấp thực tế để chứng minh yêu sách của
mình. Nói một cách đơn giản, hàng triệu đô la để chứng minh và
phản lại các chứng minh về nguyên nhân thiệt hại ở Việt Nam có thể
được sử dụng một cách hữu hiệu và dễ dàng hơn ở Việt Nam để
giảm nhẹ các nỗi đau mà người dân ở đây phải gánh chịu và phần
nào đó có thể bù đắp cho những thiệt hại về môi trường.
Phần thứ III của bài viết này giới thiệu một loạt các cơ chế khá tiết
kiệm mà có khả năng giải quyết vấn đề theo cách thích hợp cả về
mặt chính trị và pháp lý. Mục đích của bài viết này không phải là gợi
ý một biện pháp duy nhất nào mà thay vào đó giới thiệu một loạt các
biện pháp giải quyết tranh chấp hiện có. Việc lựa chọn thận trọng
trong số các biện pháp này sẽ không những thoả mãn các nhu cầu và
lợi ích thiết yếu của các bên mà còn cho phép giả quyết tranh chấp
và các vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đồng thời tạo động lực
cho việc phát triển hơn nữa quan hệ Việt – Mỹ.
* Giảng viên và nghiên cứu viên tại Trung tâm luật công, luật ưuốc
tế và luật so sánh, Trường Luật TC Beirne, Trường đại học tổng hợp
Queensland, Australia. Email: l.toohey@law.uq.edu.au. Tác giả xin
chân thành cám ơn giáo sư Camille Cameron, trường đại học
Melbourne vì sự dộng viên và chỉ dẫn mang tính xây dựng của bà
đối với bài viết này.[1] Bài viết này chủ yếu chỉ tập trung vào Việt
nam, tuy nhiên, các cơ chế giải quyết tranh chấp được thảo luận
trong bài viết cũng hoàn toàn phù hợp cho Lào và Campuchia. Các
vấn đề liên quan tới một hành động tập thể của 3 nước sẽ được giời
thiệu tóm tắt ở phần sau.
[2] Viện Y học, Cựu chiến binh và chất độc màu da cam, các tác
động sức khoẻ của hoá chất diệt cỏ được sử dụng ở Việt Nam,
(1994), Washington., D.C., National Academy Press, at 74,
extracting Bionetics Research Labaratories (1968), Evaluation of
Carcinogenic, Teratogenic, and Mutagenic Activities of Selected
Presticides and Industrial Chemicals.
21
[3] Institute of Medicine, Updated Summary of Findings in
Occupational, Enviromental and Veterans Studies Regarding the
Association between Specific Heath Outcomes and Exposure to
Herbicides (2000), at 3.
[4] Có một số bằng chứng, mặc dù còn chưa đầy đủ về việc
Australia đã sử dụng Chất độc màu da cam ở một số khu vực xung
quanh, kể cả vùng Núi Đất. Xin xem Dux, J. and Young, Agent
Orange: The Bitter Harvest. (1980). Toronto, Hodder and
Stoughton).
[5] In Re Agent Orange Production Liability 611 F. Supp. 1396
(E.D.N.Y. 1985) sub norm. Michael F. Ryan at al, Plaitiffs, v. Dow
Chemical Company, et al, Defendants. MDL No. 381. 79-C-747, In
Re Agent Orange Product Liability 611 F. Supp. 1267 (E.D.N.Y.
1985), aff’d, 818 F.2d 187 (2d Cir), petition for cert. filed sub nom.
Lombardi v. Dow Chem. Co., 56 USL. W. 3249 (No. 87-436, Dec.
15, 1987).
[6] Brunnstrom, D. Vietnam Blood Dioxin Levels “Startling”- US
Expert (2002). Reuters News Service.
[7] Satchell, M. Questions in a Village (1999), US News and World
Report,.126: 62
[8] Có một quan điểm được thừa nhận chung về các sự kiện cho
thấy một cuộc xung đột do miền Bắc Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ,
mặc dù sau đó Tổng Thống Johnson được cho là đã bình luận “ với
tất cả những gì tôi biết thì hải quân chúng ta đã bắn vào các con cá
heo ở đó”. Xem Burner, Divid, Bernhard, Virginia and Kutler,
Stanley. Firsthand American: A History of the United States. Volume
2, 4th ed. (st. James, NY: Brandywine Press, 1966), at 952.
[9] Các nghiên cứu đã được thực hiện ở 3 loại chất này. Tuy nhiên,
Dux và Young cho rằng Chất màu hồng, Chất màu xanh lá cây và
Chất màu tía cũng chứa một hàm lượng cao chất TCĐ. Xem Dux, J.
and Young, P. J, footnote số 4.
[10] An Abbreviation for tetrachlorodibenzodioxin
[11] [11]. Xem Johson, B.L. Congressional Testimony by the
Assistant Surgeon General on the Public Heath Implication of Dioxin
(1992). Subcommittee on Human Resources and Intergovernmental
Relations
Committee
on
Government
Operations.
http://www.atsdr.cdc.gov/test-06-10-92.htm.
[12] Như trên
[13]. EPA’s Dioxin Limits.(1990), 3 Alkaline Paper Advocate.
http://palimpsest.stanford.edu/byorg/abbey/ap/ap03/ap03-6
22
[14] Chiến dịch Operation Ranch Hand là một chiến dịch do Không
quân Mỹ tiến hành như là một phần trong chiến dịch lớn hơn
Operation Trail Dust.
[15] Dux, J and Young, note 4 nêu trên, trang 13 và 28.
[16] Institute ò Medicine, note 3 nêu trên
[17] Như trên
[18] US Department of Veterans Affairs, Agent Orange-Herbicide
Exposure
(1991).
http://
http://www.vba.va.gv/bln/21/benefits/herbicide/AOno3.htm.
[19] Christopher Portier, Chủ tịch Hội nghị quốc tế về Chất độc màu
da cam ở hà Nội nam 2002. Trích trong US. Vietnam Discuss Effects
of Agent Orange (2002). Reuters News Agency.
[20] Projected 2002 statistic. Nguồn: Vietnam Economic and Trade
Information of the Australian Department of Foreign Affairs and
Trade. Để so sánh, thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Mỹ là
36,300 & và của Australia là 21,000 &.
[21] Jones, O. B. Vietnam ForgivesBbutCan’t Forget, (2000). The
Guardian. Lon don. Những lo ngại là hoàn toàn có cơ sở: nông
nghiệp đóng góp ¼ tổng thu nhập của Việt Nam và sử dụng một
lượng lớn dân số. Hơn thế nữa, việc kết luận về mức độ dioxin đã
được những người phản đổi việc xuất khẩu cá bas a vào Mỹ sử dụng
(mặc dù không có các căn cứ khoa học). Xem Brunnstrom, note 6
nêu trên. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng dioxin không được cây cối hấp
thụ cũng như hoà tan trong nước
[22] Lào có mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người là 333 $,
Campuchia là 260 $. Nguồn: Vietnam Economic and Trade
Information of the Australia Department of Foreign Affairs and
Trade (2001 data).
[23] Brunnstrom, note 6. Xem them Hatfield Consultants Ltd, Report
to the Vietnamese National Committee for the Investigation of the
Consequence of the Chemicals Used during the Vietnam War (10-80
Committêee ), Preliminary Assessment of Environmental Impacts
Related to Spraying of Agent Orange Herbicide During the Vietnam
War, (1998), Vancouver.
[24] Satchell, M, note 7 nêu trên.
[25] Reported in Cayo, D. Children of Agent Orange (2000) United
Nations Development Programme Vietnam, http:// http://www.undp.
Org.vn/dmu/events/Events-2000/000420a.
[26] Schecter, A., Payuk, M., et al. Update on Agent Orange and
Dioxin Findíng in Vietnam. Laos and Cambodia. ( Paper presented at
the 130th Annual Meeting of APHA, Philadelphia, 2002. and Scheter,
23
A., My Samedy, et al. Agent Orange in Cambodia: Dioxin Blood
Levels in Cambodián in 1999. (Paper presented at the 128th Annual
Meeting of ÂPH, Boston, 2000.
[27] Uỷ ban này được biết tới với cái tên Uỷ ban điều tra hậu quả
chất độc màu da cam ở Việt Nam.
[28] Brunnstrom, D. HanoiMeeting Probes “Last Ghost” of Vietnam
War (2002). Reuters News Service.
[29] Sứ quán Mỹ tại Hà Nội, Việt Nam- Mỹ ký Thoả thuận về việc
nghiên cứu Chất độc màu da cam/Dioxin (2002). http://
usembassy.state.gov/Vietnam/wwwh020310ii.html.
[30] Những vấn đề này bao gồm: giải quyết vấn đề người tị nạn,
kiểm kê đầy đủ số tù binh chiến tranh và những người mất tích
trong chiến tranh, trả nợ quốc gia, các vấn đề an ninh, việc thâm
nhập thị trường Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ và vấn đề hợp tác
thi hành pháp luật nói chung. Xem, Manyin, M. E., TheVietnam- US
Normalization Process: Issue Brief for Congress, Congressional
Rearche Service, (2002), Washington, D.C.
[31] Ghi nhận rằng không chỉ bao gồm các nạn nhân Chất độc màu
da cam, mà còn cả các nạn nhân do mìn và các gia đình người Việt
Nam có thân nhân mất tích trong chiến tranh.
[32] Brunnstrom, D., note 28 nêu trên.
[33] Blagov, S. U.S. Far from Settling “Agent Orange” Score in
Vietnam (1999). Asia Time Online. Copy Available at
http://www.twnside.org.sg/title/1883-cn.htm. Và tác giải cũng đã các
cuộc phỏng vấn với một số học giả và những người làm công tác
pháp lý ở Hà Nội vào cuối năm 2002.
[34] The Vietnam Association for Victims of Agent Orange/Dioxin,
et al. v. The Dow Chemical Company, Monsanto Copany, et al.
Complaint filed 30 January 2004.
[35] In Re Agent Orange Product Liability: The Vietnam Association
for Victims of Agent Orange/Dioxin et al v, The Dow Chemical
Company; Monsanto Company et al. MDL No 381 04-CV-400 US
District Court (EDNY 2005), at 11-15
[36] 124 S.Ct 2739
[37] In Re Agent Orange Product Liability: The Vietnam Association
for Victims of Agent Orange/Dioxin et al v, The Dow Chemical
Company; Monsanto Company et al. MDL No 381 04-CV-400 US
District Court (EDNY 2005), at 11-15.
[38] Như trên, trang 141
[39] Như trên, trang 99
24
[40] Như trên, trang 129
[41] Như trên, trang 180-181
[42] Như trên, trang 180
[43] Do vụ Nicaragua, Mỹ đã không còn chấp nhận quyền tài phán
bắt buộc của Tòa án Quốc tế
[44] Thực tế, cuộc chiến tranh Việt Nam đã là một động lực cho đàm
phán những công ước này, đặc biệt là Công ước về vũ khí hóa học
mà việc đàm phán công ước này đã được bắt đầu vào năm 1969.
[45] Trong Tuyên bố La hay về ngăn cấm việc sử dụng khí gas gây
ngạt năm 1899, các bên ký kết nhất trí “tránh việc sử dụng phóng ra
các vật thể mà có thể khuyếch tán khí gas gây ngạt thở hoặc khí gas
độc”. Việc ngăn cấm này đã được mở rộng tại Hội nghị Hòa bình La
hay lần thứ hai năm 1907, bao gồm cả “chất độc và vũ khí chứa chất
độc” và được thay thế bằng Nghị định thư Geneva về ngăn cấm việc
sử dụng các khí gas gây ngạt thở, chất độc và các loại khí gas khác
trong chiến tranh” năm 1925 được thông qua tại Hội nghị quốc tế
được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội quốc liên. Xem them Mathew,
R. J. a. M., Tomothy L. H “The Influence of Humanitarian Principles
in Negotiation of Arms Control Treaties”. (1999), 834 International
Review of the Red Cross 331.
[46] Điều 35 quy định rằng “Nghiêm cấm việc sử dụng các biện
pháp hoặc các phương pháp chiến tranh mà đã có chủ định hoặc đã
dự tính trước gây tổn hại nghiêm trọng, lâu dài và trên diện rộng đối
với môi trường”. Việc nghiêm cấm này đã được đề cập cụ thể trong
2 phần của điều 55.
[47] Tuy nhiên một vấn đề cấp thiết hơn là tỷ lệ dung Chất độc màu
da cam chống lại Việt Nam- Trong Vụ Nicaragua, Tòa án Quốc tế đã
tuyên bố “có một nguyên tắc cụ thể theo đó việc phòng vệ chỉ có thể
biện hộ cho các biện pháp tương xứng với việc tấn công bằng vũ khí
và cần thiết để đáp trả nó, một nguyên tắc đã được thừa nhận trong
luật quốc tế
[48] In re Agent Orange Product Liability Litigation, Amended Class
Action, filed September 10, 2004, at 2.
[49] Xem Richter, B. Tonkin Incident Might Not Have Occurred
(2002). San Antonio Express. San Antonio: Online Edition. And
Burner, D., Bernhard, V., et al., First Hand America: A History of the
US. (1998). New York, Brandywine Press, Incorporated. Burner,
Bernard et al quote President Johnson as saying “For all I know, our
navy was shooting at whales out there”. (at 952).
[50] Prugh, G. S., Law at War, Vietnam, 1964-1973. (1975).
Washington, Dept. of the Army, at 87.
25
[51] Các bên ký kết gồm: Pháp. Mỹ, Việt Nam, Lào và Campuchia.
Hiệp định này đã được đăng ký với Tổng Thư ký Liên hợp quốc
theo Điều 102 Hiến chương của Liên hợp quốc.
[52] Điều IV của Hiệp định
[53] Prugh, G. S, note 50 ở trên, trang 88.
[54] Điều này đặc biệt gắn với việc sử dụng các cuộc đàm phán
ngoại giao- xem phần dưới.
[55] Statement of Interest of the United State, In re Agent Orange
Litigation, at 4-5.
[56] Astor, H. and Chinkin, C. Dispute Resolution in Australia.
(2002).Sydney, Lexis Nexis Butterworths, at 390-1
[57] Brunnstrom, D. Vets Say Vietnam Dioxin Victims Should Be
Helped (2002). Reuters News Service.
[58] Cooke Farrell, E., The Socialist Republic of Vietnam and the
Law of the Sea. (1998). The Hague, Martinus Nijhoff Publishers, at
186-7.
[59] Như trên, trang 9
[60] Fisher, R., W. Ury, et al., Getting to Yes: Negotiating an
Agreement whithout Giving In . (1999). London, Random House
Business Books, at 31.
[61] Xem Leonard, M and Blackhurst, R., I Don’t Think Anybody
Thought Much About Whether Agent Orange Was against the Rules
of War. (2002). The Observer, London.
[62] Vietnam Economic and Trade Information,
Department of Foreign Affairs and Trade (2001 data).
Australia
[63] Quoted in Dreyfuss, R. Apocalypse Still (2000) Mother John
Website
[64] Merrills, J. G., International Dispute Settlement. ( 1998).
Cambridge; New York, Cambridge University Press, at 9.
[65] Astor, H. and Chinkin, C. note 56 nêu trên, trang 406.
[66] Một khối lượng lớn các thảo luận có thể dẫn đến một công việc
mệt mỏi cho những nhà đàm phán và thiếu một mục đích đưa vấn đề
tranh chấp nên bàn thảo luận
[67] Merrills, J.G, note 64 như trên, trang 12.
[68] Argentina v. Chile (1977), 52 International Law Reports 93.
26
[69]
Xem
website:
http://www.unicitral.org/english/texts/arbitration/arb-rules.htm.
[70] Thỏa thuận này có thể đạt được bằng cách hoặc là thông qua
đàm phán, hòa giải hoặc các biện pháp mang tính quyết định khác,
tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính kết hợp. Xem
phần dưới về các biện pháp mang tính kết hợp. Thỏa thuận sơ bộ
cần đạt được về các vấn đề như quyền tài phán của trọng tài, luật áp
dụng, thành phần của trọng tài và luật điều chỉnh họat động của trọng
tài.
[71] Raiffa, H., “Analytical Barriers” in K. Arrow, R, Mnookin, L.
Ross, A. Tversky and R. Wilson, Eds. Barriers to Conflict Resolution
(1995) New York, W.W. Norton & Co. at 132.
[72] Merrills, J.G, note 64 như trên, trang 67
[73] Boulle, L., Mediation: Principles, Process, Practice. (1996).
Sydney, Butterworths, at 29-30.
[74] Như trên, trang 14
[75] “Ủy ban” trong nghĩa này được đề cập tới một hội đồng xét xử.
[76] Bar-Yaacov, N. The Handling of International Disputes by
Means of Inquiry. (1974). London; New York, Published for the
Royal Institute of International Affairs by Oxford University Press, at
5-17
[77] In Re Agent Orange Production Liability 611 F. Supp. 1267
(E.D.N.Y. 1985), aff’d, 818, F. 2d. 187 (2d Cir.), petition for cert.
filed sub nom. Lombardi v. Dow Chem. Co., 56 USL. W. 3249 (No.
87-436, Dec. 15, 1987).
[78] Prugh, G. S., như note 50 ở trên.
27