« Home « Kết quả tìm kiếm

Phát triển kinh tế biển bền vững nhằm nâng cao công tác quản lý, bảo vệ môi trường vùng biển Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Tiểu luận môn học Khoa học bền vững Phát triển kinh tế biển bền vững nhằm nâng cao công tác quản lý, bảo vệ môi trường vùng biển Việt Nam Học Viên: Nguyễn Văn Thành Email: [email protected] Mở đầu Các hệ sinh thái vùng biển và ven bờ nhiệt đới có năng suất và đa dạng sinh học cao.
- Sự đa dạng về nguồn tài nguyên đã thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh chóng.
- Vấn đề cấp thiết trong quản lý là tìm ra mối liên kết giữa phát triển kinh tế biển bền vững và môi trường vùng biển và ven bờ.
- Trên thực tế, trong bối cảnh mới của thế giới với nhiều biến động lớn cả về môi trường tự nhiên và xã hội, thì mối liên hệ giữa biển, việc thực thi các chiến lược, chính sách về biển của các quốc gia để đảm bảo phát triển bền vững cần được nhìn nhận một cách thấu đáo hơn.
- phân tích làm rõ sự phát triển bền vững kinh tế biển và quản lý biển.
- từ đó nêu lên kết luận về phát triển kinh tế biển bền vững ở Việt Nam.
- Nhận thức chung về biển Tầm quan trọng của biển đối với sự sống và đối với phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được thừa nhận rộng rãi.
- Hệ quả là, mối liên hệ đặc biệt giữa biển và vấn đề phát triển bền vững, nhất là ở các nước đang phát triển ven biển, ở chừng mực nhất định vẫn chưa được chú ý đánh giá cho thật đầy đủ.
- Chính sách của các nước, nhất là các nước đang phát triển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã ghi nhận rằng, nếu không giám sát một cách lâu dài với tầm nhìn dài hạn đối với các hệ thống sinh thái toàn cầu, thì các nhà lập chính sách sẽ không thể có được các thông tin hữu ích phù hợp để từ đó đưa ra các quyết sách đúng đắn phục vụ phát triển bền vững.
- Các nhà lãnh đạo thế giới đã thừa nhận sự cần thiết phải khởi động và điều phối, duy trì một mạng lưới quan trắc toàn cầu về các vấn đề môi trường và phát triển bền vững.
- 1 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững Những diễn biến mới đây cho thấy, các quốc gia đã có sự nhất trí cao hơn nữa khi chia sẻ nhận thức chung về biển và các mục tiêu phát triển [1].
- Sự ra đời mới của các tổ chức bảo vệ môi trường biển, hợp tác kinh tế biển và các diễn đàn đối thoại giữa các quốc gia về phát triển kinh tế biển bền vững phần nào cho thấy các vấn đề về biển đang thực sự được quan tâm.
- Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, yêu cầu phải tiếp cận tới biển, các nguồn lực của biển và các hoạt động kinh tế, xã hội khác đã tạo ra sức ép rất lớn tới các hệ thống sinh thái biển - từ đánh bắt cá quá mức đến khai thác tài nguyên biển thiếu bền vững, hủy hoại các vùng bờ biển và vấn đề ô nhiễm môi trường, v.v..
- Phát triển bền vững kinh tế biển và quản lý biển Trong những năm gần đây, khi Liên Hợp Quốc và các quốc gia thành viên có những động thái mạnh mẽ hơn, đưa ra các cam kết rõ ràng hơn về các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có mục tiêu liên quan tới biển thì vấn đề phát triển bền vững biển đã được nhìn nhận một cách nghiêm túc.
- Thực tế thì các mục tiêu phát triển của Liên Hợp Quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương cũng đã từng bước được cụ thể hóa trong chiến lược biển của nhiều quốc gia.
- Kinh tế biển và quản lý biển là các nội hàm quan trọng để các quốc gia thực thi chính sách phát triển bền vững.
- Về kinh tế biển, thời gian gần đây, trên thế giới thường được nhắc tới bằng thuật ngữ nền “kinh tế xanh” (blue economy) trong tương quan với “tăng trưởng xanh dương” (green growth), với hàm ý nhấn mạnh tới tính bền vững và bảo vệ môi trường.
- Tuy đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất thế nào là kinh tế biển.
- Kinh tế biển hướng tới mở rộng giới hạn kinh tế của các quốc gia ven biển vượt ra ngoài lãnh thổ trên đất liền.
- Kinh tế biển có hàm ý là một nền kinh tế bền vững dựa vào môi trường biển cùng hệ sinh thái biển liên quan tới đa dạng sinh học, các nguồn gen của sinh vật biển và các nguồn tài nguyên biển.
- Một khái niệm khác cho rằng, kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế theo ngành và liên ngành liên quan tới biển, đại dương và các đường bờ biển.
- Kinh tế biển còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cần thiết đối với sự vận hành của các ngành nghề này được bố trí ở bất kỳ đâu, có thể ngay ở các quốc gia không có biển.
- Trên thực tế, đã và đang có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế biển, nhưng với bối cảnh phát triển mới hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có sự đồng thuận về một quan điểm, một tầm nhìn chung.
- đó là phải chú trọng hơn tới phát triển kinh tế (biển) xanh.
- Khái niệm kinh tế biể n xanh về bản chất là trùng hợp với kinh tế biển nhưng nhấn mạnh hơn tới trụ cột môi trường, được các quốc gia công nhận là giải pháp phát triển bền vững biển và từng bước trở thành yêu cầu bắt buộc trong các chiến lược, chính sách phát triển.
- Kinh tế biển xanh được hiểu là “sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, đại dương nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cải thiện sinh kế, đồng thời bảo tồn sức khỏe của các hệ sinh thái biển, đại dương” [6].
- Kinh tế biển đã thực sự trở thành nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược biển của các quốc gia.
- Thống kê sơ bộ cho thấy, giá trị của kinh tế biển trên toàn thế giới được ước tính lên tới 6 nghìn tỷ USD mỗi năm và hơn 3 tỷ người đang sinh sống ven biển, coi biển và 2 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững vùng ven biển là môi trường sống quan trọng hàng đầu của mình.
- Các ngành kinh tế biển (xem bảng 1), trong đó các ngành mới nổi là những ngành kinh tế biển, tuy mới hình thành trong thời gian chưa lâu, nhưng đang có tốc độ phát triển rất nhanh dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu công nghệ mới nhất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Đây cũng là những ngành nghề đáp ứng tốt hơn yêu cầu về phát triển bền vững.
- Bảng 1: Các ngành kinh tế biển [7] Các ngành truyền thống Các ngành kinh tế biển mới nổi - Đánh bắt cá - Nuôi trồng thủy sản trên biển - Chế biến hải sản - Khai thác dầu và khí vùng biểu sâu và rất - Cảng biển sâu - Đóng tàu và sửa chữa tàu biển - Năng lượng gió ngoài biển - Khai thác dầu khí ngoài biển - Năng lượng tái tạo từ biển - Xây dựng và chế tạo ngoài biển - Khai thác mỏ dưới đáy biển - Du lịch biển và bờ biển - An toàn và giám sát hàng hải - Nghiên cứu và Triển khai và giáo dục hàng - Công nghệ sinh học biển hải - Dịch vụ và sản phẩm biển công nghệ cao - Nạo vét luồng lạch biển - Một số ngành nghề khác Trong số các ngành nghề gắn với kinh tế biển, thì đánh bắt cá vẫn là hoạt động có truyền thống lâu đời và phổ biến nhất.
- Báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) [3] ước tính rằng hơn 60 triệu người trên thế giới đang trực tiếp làm việc trong lĩnh vực đánh bắt cá và nuôi trồng hải sản, trong đó phần lớn làm việc trong các cơ sở quy mô nhỏ tại các nước đang phát triển.
- Ngoài các lĩnh vực kinh tế biển truyền thống như đánh bắt cá thì lĩnh vực mới nổi là nuôi trồng hải sản trên biển cũng tăng trưởng nhanh và nhờ đó đảm bảo tính bền vững, phần nào hạn chế tình trạng khai thác, đánh bắt quá mức đang diễn ra khá phổ biế n, nhất là ở các nước đang phát triển.
- Ngoài các ngành nghề truyền thống thì định hướng phát triển của các quốc gia hiện nay đã hướng tới các lĩnh vực kinh tế biển mới như năng lượng tái tạo, dịch vụ biển công nghệ cao hoặc du lịch biển.
- Về quản lý biển, để có được nền kinh tế biển xanh bền vững cũng được đặt ra như một yêu cầu quan trọng hàng đầu.
- Trước thực trạng này, Liên Hợp Quốc thông qua các cơ chế đa phương cũng đã đề xuất một khuôn khổ chung cho công tác quản lý biển của các quốc gia với các yêu cầu chủ yếu bao gồm: (1) lợi ích về kinh tế và xã hội cho các thế hệ hiện tại và tương lai, đóng góp cho an ninh lương thực, xóa nghèo, bảo đảm sinh kế, thu nhập, việc làm, sức khỏe và ổn định chính trị.
- (3) sử dụng các công nghệ sạch, phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo sự ổn định kinh tế và xã hội cùng việc khai thác, sử dụng các nguồn lợi từ biển trong giới hạn cho phép.
- Các mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) mà Liên Hợp Quốc đặt ra trong giai đoạn trước đây hầu như không nhắc tới vấn đề biển và phát triển bền vững.
- Phát triển kinh tế biển bền vững ở Việt Nam 3.1 Tiềm năng Với bối cảnh chung của thế giới và khu vực khi nhận thức về biển, tầm quan trọng của biển và kinh tế biển đang ngày càng gia tăng và định hình rõ hơn, thì vấn đề kinh tế biển của Việt Nam cũng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan Đảng và Nhà nước.
- Cần phải nhìn nhận rằng, Việt Nam là một quốc gia biển với hàng nghìn năm lịch sử phát triển gắn với biển.
- Nước ta có lợi thế rất lớn trong phát triển kinh tế biển và giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó Biển Đông đóng vai trò “cầu nối” quan trọng, là cửa mở với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
- có các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước đang được đầu tư phát triển mạnh.
- có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có giá trị làm mũi nhọn để phát triển.
- 4 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững Tiềm năng nổi bật của kinh tế biển Việt Nam là nguồn tài nguyên dầu khí, trữ lượng ước tính khoảng 3,0-4,5 tỷ m3 quy dầu quy đổi, chủ yếu là khí (chiếm trên 50%) và tập trung chủ yếu ở thềm lục địa.
- [9] Về nguồn lợi hải sản, Việt Nam có mặt trong danh sách 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và danh sách 20 vùng biển có lợi ích kinh tế lớn nhất toàn cầu do hải sản đem lại.
- Đến nay ở vùng biển Việt Nam đã phát hiện được chừng 12.000 loài sinh vật với trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế.
- khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có các loài có giá trị kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60-70 nghìn tấn/năm)…[8] Về du lịch và kinh tế hải đảo, với bờ biển dài 3260 km cùng hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và hàng trăm bãi tắm cát trắng trải dài từ Bắc vào Nam, Việt Nam có điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển du lịch biển, đảo, trong đó có những bãi, biển, vịnh đẹp nổi tiếng thế giới như Hạ Long, Nha Trang, Đà Nẵng được Tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh… Ngoài ra, còn nhiều khu vực biển có tiềm năng lớn đã và đang được đầu tư như: vịnh Hạ Long – Hải Phòng – Cát Bà.
- Đặc biệt, Việt Nam sở hữu nhiều khu vực ven biển có rừng ngập mặn (rừng ngập mặn Cà Mau, rừng ngập mặn cần Giờ…) cùng nhiều làng nghề, lễ hội độc đáo nên tạo điều kiện rất tốt cho phát triển du lịch.
- Hệ thống đảo Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội cả nước nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng.
- Với vị trí phân bố đặc thù, hệ thống đảo có lợi thế rất lớn về phát triển kinh 5 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững tế biển, đảo.
- [4] 3.2 Thành tựu Đánh giá về thực trạng kinh tế biển thời gian qua cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
- Thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam hiện nay cho phép nhận diện một số kết quả quan trọng đã đạt được như sau: Thứ nhất, kinh tế ven biển và thuần biển đã có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của cả nước, và cùng với đó, thu nhập bình quân của người dân ven biển đang tăng nhanh.
- Ngoài ra, đóng góp của kinh tế thuần biển cũng đạt khoảng 10% GDP cả nước.
- Đặc biệt, du lịch biển và kinh tế đảo đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn cả trong nước và nước ngoài, góp phần nâng cao một bước chất lượng hạ tầng kinh tế biển và tăng doanh thu từ các hoạt động này.
- Việc phát triển tốt kinh tế hải đảo còn có đóng góp quan trọng cho đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
- Thứ hai, các tỉnh, thành phố ven biển đã có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và hình thành các hoạt động kinh tế biển gắn với thu hút mạnh đầu tư và du lịch.
- Thứ ba, đã hình thành và phát triển được nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển để tạo động lực mạnh hơn nữa cho phát triển kinh tế biển.
- Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết đến hết năm 2017, cả nước đã có 17 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 845 nghìn hécta.
- Kinh tế biển gắn với phát triển các ngành công nghiệp đã góp phần quan trọng đảm bảo tính bền vững và đem lại giá trị đóng góp thực cho nền kinh tế.
- Có những chuyển biến đáng chú ý trong kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2010 – đến nay, theo đó tỷ lệ đóng góp vào GDP của các vùng biển phía Bắc và biển miền Trung có xu hướng tăng nhẹ.
- Ở chiều ngược lại, kinh tế biển vùng Đông Nam Bộ lại giảm, cho dù đây được coi là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước.
- Dù vậy, số liệu vẫn chỉ mang tính minh họa, do đây là vùng kinh tế lớn nhất cả nước và nhiều hoạt động kinh tế chưa được tách bạch để xác định có thuộc kinh tế biển hay không.
- Nhưng vấn đề căn bản nhất được nêu ra là viê ̣c kinh tế biển kém phát triển do những hạn chế về hạ tầng trên bộ, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn nữa cho tuyến hành lang kinh tế biển phía Tây (khu vực Rạch Giá - Hà Tiên của tỉnh Kiên Giang) và tuyến hành lang kinh tế ven biển phía Đông (từ Gành Hào - Bạc Liêu đến Năm Căn - Cà Mau).
- Các thông tin chính thức về việc xây dựng đảo Phú Quốc (Kiên Giang) trở thành trung tâm kinh tế lớn của vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (với một loạt các dự án đầu tư hạ tầng về sân bay, cảng 6 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững biển du lịch quốc tế, v.v.) được kỳ vọng sẽ tạo ra bước phát triển đột phá của kinh tế biển khu vực này.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn đã làm gia tăng rất mạnh lượng tiêu thụ xăng dầu.
- Lợi ích kinh tế dẫn đến tình trạng khai thác dầu quá mức.
- Phát triển nóng các không gian biển Cùng với sự phát triển kinh tế, các mảnh đất sát biển được coi là mảnh đất vàng.
- Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển đó là nhiều bất cập.
- 7 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững Đầu tiên là các công trình này làm giảm quyền được tiếp cận của người dân tới biển khi các công trình ven biển hiện nay phần lớn phục vụ cho mục đích du lịch, phát triển công nghiệp… Trong khi đó, một trong những nguyên tắc được công nhận đó là tài nguyên biển là tài nguyên chia sẻ, việc độc chiếm không gian ven biển của các khu công nghiệp, khu resort, sân gofl… làm nảy sinh nhiều khó khăn cho người dân khi muốn ra biển.
- Thứ hai, việc phát triển ồ ạt các khu vực ven biển sẽ tác động đến môi trường, ảnh hưởng trước tiên là làm chết các sinh vật đáy, mất đi môi trường sinh sống, đẻ trứng của các loài thủy sinh, ngoài ra còn ảnh hưởng đến dòng chảy dẫn đến sạt lở ở các vùng xung quanh.
- Thêm nữa, việc phát triển nóng các không gian ven biển còn tạo ra trầm tích lơ lửng trong nước.
- Hệ thống cảng được quy hoạch phục vụ cho sự phát triển của kinh tế.
- Định hướng phát triển bền vững kinh tế biển Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra nhiều chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển.
- Khoảng 10 năm tiếp theo, các nội dung lớn trong Chiến lược biển Việt Nam đã từng bước được hiện thực hóa với các tiến triển tương đối đồng bộ xét từ góc độ đảm bảo an toàn, an ninh trên biển để phát triển bền vững dựa vào biển, phát huy thế mạnh của một quốc gia có diện tích biển lớn gấp khoảng 3 lần diện tích đất liền.
- Ngay trong lĩnh vực kinh tế biển, một trong những biện pháp rất quyết liệt được đề ra là việc ban hành và thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.
- Nghị định đã quy định về nhiều biện pháp hỗ trợ về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác nhằm phát triển thủy sản với trọng tâm là đầu tư cho các đội tàu được đóng mới, nâng cấp phục vụ khai thác hải sản, đánh bắt xa bờ.
- Trong các lĩnh vực khác, như phát triển các khu kinh tế ven biển, đô thị biển, du lịch biển, v.v., cũng đã có nhiều chính sách lớn được thực hiện, mà điển hình là Quyết định số 351/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/3/2018 phê duyệt Chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn .
- Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế biển, vấn đề khai thác tổng hợp kinh tế biển là một yêu cầu vô cùng cấp bách do môi trường biển là một môi trường thống nhất, không chia cắt và rất nhạy cảm dưới tác động của con người.
- Việc khai thác không hợp lý dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp.
- Do đó, để phát triển kinh tế biển bền vững, cần ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển chủ lực dựa trên cách tiếp cận dài hạn, bền vững và đồng bộ và gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Riêng với ngành tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, cần phát triển ngành dầu khí đồng bộ, trở thành bộ phận quan trọng của an ninh năng lượng quốc gia và hướng tới việc khai thác bảo đảm nhu cầu trong nước và có dự trữ bảo đảm cho phát triển dài hạn.
- Bên cạnh đó, cần phát triển ngành dựa trên nguyên tắc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên.
- lấy mục đích cuối cùng và yêu cầu của kinh tế thị trường để tiến hành triển khai các hoạt động tìm kiếm thăm dò khai thác, chế biến.
- Với ngành vận tải biển, cảng biển, cần phát triển vận tải biển theo hướng hiện đại hóa với chất lượng ngày càng cao, chi phí hợp lý, an toàn, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng.
- Còn với ngành du lịch biển, cần phát triển du lịch biển phải đặt trong tổng thể Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam gắn chặt với sự phát triển của các địa phương vùng ven biển.
- Phát triển du lịch biển có phân khúc, có trọng tâm, hướng tới sự bền vững và có chất lượng, đồng thời phát triển du lịch biển kết hợp chặt chẽ với mục tiêu bảo đảm quốc phòng – an ninh.
- Trong khi đó, ngành khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản cần phát triển phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể của ngành nông nghiệp trên cơ sở khai thác, sử dụng hiệu quả lợi thế tiềm năng, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
- Bên cạnh việc phát triển các ngành kinh tế biển chủ lực, cần thực hiện song song các giải pháp về bảo vệ môi trường, bảo vệ bờ biển và quy hoạch biển để thúc đẩy kinh tế biển phát triển bền vững.
- Trong bối cảnh mới, khi đòi hỏi về phát triển bền vững biển ngày càng tăng lên ở cả cấp độ quốc gia và toàn cầu, thì Việt Nam vẫn tiếp tục phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thay đổi cách làm để có tiếp cận tổng thể, toàn diện hơn tới biển và khai thác, sử dụng bền vững các nguồn lực từ biển.
- Nói cách khác, để phát triển bền vững, phát triể n Việt Nam cầ n phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triể n gần hơn và phát triể n xa hơn trong tiếp cận tới biển.
- Để phát triể n xa hơn, phải có tầm nhìn dài hạn, nâng cao năng lực mọi mặt để có thể vươn ra xa hơn nữa ra ngoài đại dương, khai thác những nguồn lực to lớn hơn phục vụ phát triển đất nước, mà trước hết là phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển.
- Quy hoạch sử dụng biển Việt Nam.
- Kết luận Biển và yêu cầu phát triển bền vững đang là chủ đề nhận được sự quan tâm sâu rộng của rất nhiều quốc gia trên thế giới.
- Hệ sinh thái biển khỏe mạnh, vùng bờ biển được bảo vệ tốt, sử dụng hợp lý luôn đóng vai trò quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế bền vững, xóa nghèo đói, tạo việc làm cho người dân ven biển.
- Việc khai thác tài nguyên biển không hơ ̣p lý (nhất là đánh bắt cá quá mức, xả thải ra biển, gây ô nhiễm biển bằng chất thải nhựa khó phân hủy, năng lực quản lý biển yếu kém, v.v.) đang là những thách thức to lớn đối với việc duy trì sự gắn kết giữa biển và vấn đề phát triển bền vững trên thế giới.
- 10 Tiểu luận môn học Khoa học bền vững Việt Nam là một quốc gia biển, có rất nhiều lợi thế từ biển.
- Động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tương lai có một phần hết sức quan trọng là từ biển.
- Đảng và Nhà nước Viê ̣t Nam đã sớm nhận thức được điều này và đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, xã hội dựa vào biển và đảm bảo quốc phòng, an ninh trên biển.
- Những thành tựu phát triển kinh tế biển ban đầu cho thấy chúng ta đang khai thác hiệu quả tài nguyên biển.
- Sự liên kết giữa phát triển kinh tế bền vững và quản lý môi trường biển là sự hài hòa về lợi ích kinh tế và môi trường dựa trên sự nhất quán về mặt pháp lý và nhận thức của xã hội