Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
Chi tiêu công và phát triển bền vững
TS. Bùi Đại Dũng*
Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 19 tháng 9 năm 2012
Tóm tắt. Nợ công trong ngắn hạn có thể có những ảnh h ng tích cực nhất định. Tuy nhiên, nợ
công mức cao, kéo dài sẽ gây tác động tiêu cực cho sự phát triển bền vững. Những n ớc có mức
nợ công nghiêm trọng đều bắt nguồn từ tình trạng thâm hụt ngân sách không thể kiểm soát mà
nguyên nhân trực tiếp là sự yếu kém của chính phủ và nguyên nhân sâu xa chính là sự yếu kém
của thể chế. Tình trạng chi tiêu công thiếu hiệu quả có các biểu hiện nh : chi tiêu v ợt quá quy mô
tối u, chi sai chức năng, chi sai thứ tự u tiên. Để hạn chế đ ợc nguy cơ này, một giải pháp khả
thi là áp dụng quy trình ngân sách trung hạn, trong đó nhu cầu chi tiêu công trong trung hạn đ ợc
lập kế hoạch và hình thành các dự án. Mỗi dự án cần đ ợc phân tích chi phí - lợi ích để xếp hạng
u tiên. Kế hoạch ngân sách sẽ đ ợc hình thành trên cơ s phạm vi nguồn lực xác định và thứ tự
u tiên này.
Từ khóa: Nợ công, chi tiêu công, quy trình ngân sách trung hạn, nhóm lợi ích.
1. Mở đầu*
tích tụ đủ lớn thì phát sinh khủng hoảng. Tuy
nhiên, câu hỏi khá quan trọng ch a đ ợc nhiều
nghiên cứu quan tâm là: Tại sao những n ớc
có hệ thống pháp lý và chính trị hàng đầu thế
giới, chính phủ các n ớc này vẫn mắc những
sai phạm nghiêm trọng đến mức đ a nền kinh
tế đến b vực khủng hoảng?
Các minh chứng cho thấy những tr ng hợp
nợ công nghiêm trọng luôn đi đôi với thâm hụt
ngân sách không thể kiểm soát và nguy cơ này
trong trung/dài hạn phản ánh sự yếu kém của
chính phủ nói riêng và chất l ợng thấp của thể chế
nói chung. Sửa đổi thể chế mà đặc biệt là những
vấn đề thể chế có liên hệ trực tiếp đối với hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động chi tiêu công là vấn
đề mang tính cấp thiết đối với nhiều n ớc có dấu
hiệu khủng hoảng và là một điều kiện nền tảng
bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
Trong 135 n ớc đ ợc thống kê về nợ công
năm 2011, Việt Nam có mức nợ công là 54,5%
Khủng hoảng nợ công châu Âu đ ợc đánh
giá là một nguy cơ đối với hệ thống tài chính
toàn cầu, khi sự kiện tr nên trầm trọng tại Hy
Lạp đầu năm 2010 và sau đó lan sang Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Italy. Nợ
công không phải là vấn đề mới trong lịch sử
phát triển hiện đại. Thập kỷ 80 của thế kỷ XX
đã ghi nhận sự kiện nợ công trầm trọng tại gần
30 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỷ USD.
Nợ công luôn đi kèm với các hệ quả tai hại nh :
tăng thuế, lạm phát và mất giá đồng nội tệ, tăng
lãi suất nội địa, hạn chế sự phát triển của khu
vực t , và cuối cùng là khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng nợ công có bản chất là thâm
hụt ngân sách lâu dài với những tác động có hại
trực tiếp và gián tiếp đến nhiều lĩnh vực và khi
______
* ĐT: 84-4-37547506 (306)
E-mail: dungbd@vnu.edu.vn
217
218
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
GDP, xếp thứ 45 trên thế giới. Tuy con số nợ
công này ch a mức báo động nh ng xu thế
tăng nợ công của Việt Nam trong vài thập kỷ
gần đây đi kèm mức lạm phát trung bình cao
(đứng thứ 6) là dấu hiệu đáng lo ngại, cần sự
quan tâm, theo dõi và cảnh báo.
2. Nợ công và thâm hụt ngân sách
Nợ công: Theo Ngân hàng Thế giới (WB)
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công theo
nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công,
bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung
ơng, các cấp chính quyền địa ph ơng; của
ngân hàng trung ơng và các tổ chức độc lập
(nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà n ớc
quyết định hay trên 50% vốn thuộc s hữu nhà
n ớc, và trong tr ng hợp vỡ nợ nhà n ớc phải
trả nợ thay).
Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009
của Việt Nam quy định nợ công bao gồm nợ
Chính phủ, nợ đ ợc Chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa ph ơng. Theo đó, nợ Chính
phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay
trong n ớc, n ớc ngoài, đ ợc ký kết, phát hành
nhân danh Nhà n ớc, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký
kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy
định của pháp luật.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của
Chính phủ; khi chi tiêu của Chính phủ lớn hơn
số thuế, phí, lệ phí thu đ ợc, Nhà n ớc phải đi
vay (trong hoặc ngoài n ớc) hoặc phát hành
tiền để trang trải thâm hụt ngân sách. Mỗi giải
pháp vay trong n ớc, vay n ớc ngoài hoặc phát
hành tiền đều có những tác động và hệ quả khác
nhau tùy theo quy mô, mức độ, th i gian của
từng giải pháp.
Thâm hụt ngân sách: Một trong những
nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý ngân
sách nhà n ớc là đảm bảo sự cân đối giữa thu
và chi. Tuy nhiên, do nhiều khả năng dẫn đến
nguồn thu bị hạn chế và tăng tr ng chậm,
trong khi các nhu cầu chi lại tăng nhanh nên
chính phủ có thể chủ tr ơng thực hiện bội chi
ngân sách. Chênh lệch giữa mức thu và chi ngân
sách (th ng đ ợc tính theo năm ngân sách) đ ợc
gọi là thâm hụt ngân sách. Th ớc đo mức độ thâm
hụt ngân sách th ng đ ợc sử dụng là tỷ lệ thâm
hụt ngân sách so với GDP hoặc so với tổng số thu
trong ngân sách nhà n ớc.
Có quan điểm cho rằng chủ động thâm hụt
ngân sách có mức độ là một giải pháp hữu hiệu
để hạn chế khủng hoảng, thúc đẩy tăng tr ng
và giải quyết vấn đề thất nghiệp. Quan điểm đối
lập thì cho rằng chủ tr ơng thâm hụt ngân sách
và bù đắp bằng nợ chính phủ không làm tăng
thu nhập th ng xuyên của các cá nhân mà chỉ
làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang t ơng lai.
Vì vậy, thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ công là
không có lợi cho tăng tr ng kinh tế. Thực tế
cho thấy, thâm hụt ngân sách nhà n ớc có thể
ảnh h ng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh
tế tùy theo tỷ lệ thâm hụt và th i gian thâm hụt.
Nói chung, nếu tình trạng thâm hụt ngân sách
nhà n ớc mức cao trong th i gian dài đều dẫn
đến những ảnh h ng tiêu cực.
Tính rủi ro của nợ công: Trên cơ s lý
thuyết, để khắc phục nợ công, cần thực hiện
đồng th i hoặc t ơng đối đơn lẻ các giải pháp:
(i) Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà n ớc; (ii)
Vay nợ trong n ớc và n ớc ngoài để bù đắp sự
thâm hụt; (iii) Phát hành tiền giấy để bù chi.
Để đạt đ ợc tốc độ phát triển nhanh, chính
phủ một số n ớc chủ tr ơng sử dụng chính sách
tài khóa m rộng, tăng chi tiêu chính phủ nhằm
đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy tăng tr ng kinh
tế. Tuy nhiên, thực hiện chính sách tài khóa m
rộng đồng nghĩa với việc gia tăng thâm hụt ngân
sách, chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt.
Việc sử dụng chính sách tài khóa m rộng trong
th i gian dài sẽ làm gánh nặng nợ lớn dần lên.
Trong tr ng hợp tốc độ tăng thu ngân sách
không theo kịp với tốc độ tăng của các nghĩa vụ
trả nợ, chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp
vay mới để trả nợ cũ. Tình trạng này kéo dài sẽ
dẫn tới nguy cơ mất khả năng trả nợ của chính
phủ, nếu tổng số nghĩa vụ nợ phải trả v ợt quá
khả năng thu của ngân sách.
Nhìn chung, trang trải thâm hụt ngân sách
bằng vay trong n ớc hay vay n ớc ngoài đều có
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
những ảnh h ng bất lợi tới môi tr ng kinh tế
vĩ mô.
các n ớc đang phát triển, thâm hụt
ngân sách th ng đ ợc tài trợ bằng một giải
pháp hỗn hợp giữa vay trong n ớc và vay n ớc
ngoài. Kết cấu hỗn hợp này phụ thuộc vào khả
năng huy động nguồn vốn trong n ớc, lãi suất
và các điều kiện vay n ớc ngoài. Trong tr ng
hợp thâm hụt ngân sách đ ợc tài trợ bằng vốn vay
trong n ớc, khi đó một phần nguồn lực tài chính
của nền kinh tế sẽ đ ợc chuyển dịch từ khu vực t
nhân sang khu vực nhà n ớc thông qua kênh trái
phiếu chính phủ. Việc huy động này sẽ tác động
đến thị tr ng vốn nói chung, làm tăng cầu tín
dụng, đẩy lãi suất lên cao. Lãi suất tăng đến l ợt
nó làm tăng chi phí đầu t , giảm nhu cầu đầu t
của nền kinh tế, có thể dẫn đến hiệu ứng thu hẹp
đầu t t nhân (crowding-out effect).
Trong tr ng hợp thâm hụt đ ợc tài trợ
bằng vay n ớc ngoài, tác động thu hẹp đầu t
có thể đ ợc hạn chế, do chính phủ sử dụng các
nguồn lực bổ sung từ bên ngoài thay vì dùng
các nguồn lực của khu vực t nhân trong n ớc.
219
Việc sử dụng một phần vốn vay n ớc ngoài để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách có thể làm giảm
bớt căng thẳng trên thị tr ng tín dụng trong
n ớc. Tuy nhiên, vay n ớc ngoài lại có những
tác động khác nguy hại đến nền kinh tế. Bên
cạnh những hậu quả về mặt kinh tế, nợ n ớc
ngoài lớn có thể đ a quốc gia đó tới nguy cơ
suy giảm chủ quyền chính trị. Bài học của
Argentina năm 2001 cho thấy một ví dụ cụ thể
về những tác động chính trị khi một quốc gia
lâm vào tình trạng tuyên bố chậm nợ.
Theo Ngân hàng Thế giới thì không có hạn
mức an toàn chung cho các n ớc với điều kiện
kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau. Các tiêu chí
đánh giá mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc
vào chất l ợng thể chế và năng lực chính sách
của mỗi n ớc. Theo h ớng dẫn về chỉ số nợ bền
vững của Ngân hàng Thế giới tháng 2/2009, nợ
công đ ợc phân loại theo ba nhóm. Những
n ớc có chất l ợng thể chế và chính sách tốt có
thể duy trì chỉ số nợ cao hơn những n ớc có
chất l ợng thể chế kém hơn.
Bảng 1. Mức an toàn của nợ công theo chất l ợng thể chế và năng lực chính sách
Chỉ số
Nợ công/GDP
Nợ công/Kim ngạch xuất khẩu
Chất l ợng thể chế, chính sách
Kém
Trung bình
Tốt
30%
40%
50%
100%
150%
200%
Nguồn: Trích từ Bảng 2, Heavily Indebted Poor Countries Capacity Building Program,
World Bank, 2/2009.
3. Thâm hụt ngân sách và khủng ho ng tài
chính - tiền tệ
Những tác động mang tính lý thuyết: Tại
sao những khoản thâm hụt tài chính lớn lại có
thể dẫn khủng hoảng tài chính tiền tệ? Các tài
liệu nghiên cứu nhấn mạnh đặc biệt vào ba
kênh tác động sau:
Kênh thứ nhất đ ợc gọi là “kênh tài khóa
trực tiếp”, có nguồn gốc từ các mô hình nghiên
cứu đổ vỡ tiền tệ thế hệ đầu tiên, mà tiên phong
là Krugman (1979) và Flood và Garber (1984)
thực thiện vào những năm sau khi hệ thống
Bretton Woods sụp đổ. Điểm chính yếu đ ợc
các mô hình này nêu ra là thâm hụt tài chính
đến mức phải tài trợ bằng in tiền, cuối cùng sẽ
dẫn đến một sự sụp đổ của chính sách neo tiền
tệ. Nếu l ợng tiền đ ợc phát hành nhiều hơn so
với mức mà khu vực t nhân sẵn sàng nắm giữ
thì số l ợng tiền v ợt trội sẽ đ ợc đ a vào buôn
bán ngoại hối, dự trữ sẽ tụt giảm. Đó là tác
động nhân quả đằng sau quyết định tài trợ thâm
hụt ngân sách của chính phủ bằng cách in tiền
và ảnh h ng tới dự trữ ngoại hối của họ.
Krugman cho biết ngụ ý trực tiếp của điều này
là cuối cùng sẽ không tránh khỏi một cuộc
khủng hoảng tiền tệ nếu chính phủ chủ tr ơng
thâm hụt tài khóa, bất kể dự trữ ngoại hối ban
đầu lớn đến đâu.
Quan điểm thứ hai mà nhiều nghiên cứu đề
cập là “kênh khủng hoảng ngân hàng” xuất hiện
220
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
sau cuộc khủng hoảng châu Á, đ ợc phát triển
đáng kể b i Corsetti, Pesenti và Roubini
(1999); Burnside, Eichenbaum và Rebelo
(2001). Nh một số nghiên cứu nêu trên phát
hiện, việc tài trợ cho thâm hụt tài khóa bằng
cách in tiền hầu nh không đóng vai trò gì trong
khủng hoảng tiền tệ đối với các đồng tiền mới
nổi của châu Á năm 1997-1998, b i vì nhiều
nền kinh tế trong vùng có thâm hụt tài khóa ít,
hoặc thậm chí thặng d . Thực tế là những
khoản nợ phải trả bất ng và thâm hụt tài chính
tiềm năng liên quan đến những khoản yêu cầu
cứu trợ tiềm ẩn đối với các hệ thống ngân hàng
đang suy sụp chính là ngòi nổ của khủng hoảng
tiền tệ. Nh vậy, hiểm họa bắt nguồn từ chính
sự yếu kém của hệ thống ngân hàng.
Quan điểm thứ ba chú trọng tới “kênh nợ
cấu trúc” mà vấn đề chính đây là tỷ lệ giữa nợ
trong n ớc và nợ n ớc ngoài của chính phủ.
Theo quan điểm này, phần lớn của nợ chính
phủ là nợ n ớc ngoài sẽ khuếch đại tác động
dẫn đến cuộc khủng hoảng tiền tệ từ một mức
thâm hụt tài chính nhất định. Đặc biệt, mô hình
cổ điển của Corsetti và Mackowiak (2005,
2006) và nghiên cứu của Krugman (1979) cho
thấy rằng tỷ lệ nợ n ớc ngoài càng cao thì mức
tác động làm mất giá đồng nội tệ càng lớn. Hơn
nữa, phần nợ n ớc ngoài cao có thể góp phần
làm tăng khả năng khủng hoảng tiền tệ b i việc
rút vốn đầu t n ớc ngoài sẽ kích hoạt dòng
vốn rút ra và gây nên bất ổn tiền tệ.
Các kết quả nghiên cứu thực chứng: Kết
quả nghiên cứu định l ợng về khủng hoảng tài
chính và nợ công với số liệu từ 21 n ớc trong
130 năm (từ năm 1880 đến 2010) của Marcel
Fratzscher và các cộng sự (2011) kiểm chứng
ảnh h ng của nợ công đến khủng hoảng tài
chính thông qua ba kênh tác động cho kết quả
nh sau:
(i) Tác động thông qua kênh tài khóa trực
tiếp. Kết quả đầu tiên theo hồi quy chuẩn so
sánh của nghiên cứu này là một số bằng chứng
về kênh tài khóa trực tiếp. Nh đ ợc làm rõ từ
nghiên cứu của Marcel Fratzscher (2011), thâm
hụt ngân sách cao làm tăng đáng kể khả năng
xảy ra khủng hoảng tiền tệ tại một quốc gia. Tác
động giữa độ co dãn của cân đối tài khóa đối với
logarit của xác suất các vụ đổ vỡ tiền tệ là -0.02/0.03. Nói cách khác, việc giảm 1 điểm phần trăm
GDP trong cân đối tài khóa làm tăng tỷ lệ các vụ
khủng hoảng tiền tệ vào khoảng 2,5%.
(ii) Tác động đi kèm khủng hoảng ngân
hàng. Nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng
mạnh mẽ của tác động đi kèm khủng hoảng
ngân hàng. Những thâm hụt ngân sách lớn kết
hợp với một cuộc khủng hoảng ngân hàng luôn
kéo theo khủng hoảng tiền tệ nh là một hệ quả
chắc chắn. Ý nghĩa kinh tế của việc phối hợp
tác động giữa thâm hụt tài khóa và khủng hoảng
ngân hàng vào khoảng -0.2 điểm phần trăm, tức
là lớn hơn khoảng 7 lần mức ớc tính riêng cho
kênh tài khóa. Theo ớc tính này, việc giảm 1
điểm phần trăm trong trong cân đối tài khóa sẽ
làm tăng khả năng khủng hoảng tiền tệ lên tới
khoảng 18% nếu đi kèm nguy cơ khủng hoảng
ngân hàng.
(iii) Tác động bởi cơ cấu nợ nước ngoài.
Nghiên cứu này cũng tìm thấy một số bằng
chứng về khả năng khủng hoảng tăng lên d ới
tác động của nợ n ớc ngoài. Thâm hụt tài khóa
lớn th ng dẫn đến khủng hoảng các n ớc có
tỷ lệ nợ n ớc ngoài chiếm phần lớn trong nợ
công. Ý nghĩa kinh tế của tác động giữa thâm hụt
tài khóa và nợ n ớc ngoài vào khoảng -0,18 điểm
phần trăm, tức là lớn hơn khoảng 6 lần mức ớc
tính riêng cho kênh tài khóa trực tiếp. Theo ớc
tính này, việc giảm 1 điểm phần trăm trong trong
cân đối tài khóa sẽ làm tăng khả năng khủng
hoảng tiền tệ lên tới khoảng 16% nếu đi kèm nguy
cơ tác động b i nợ n ớc ngoài.
4. Thực tr ng chi tiêu và nợ công trên thế giới
Quy mô chi tiêu chính phủ và nợ công:
Quy mô tối u của việc chi tiêu công cộng đã
chứng minh bằng lý thuyết và đ ợc thừa nhận
khá rộng rãi trong thực tiễn vận hành của nhiều
chính phủ. Stiglitz(1) và nhiều nhà kinh tế học
______
(1)
Stiglitz (1995), Giáo trình Kinh tế học Công cộng,
NXB. Thống kê, Hà Nội.
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
khác đã phân tích kỹ l ỡng điều kiện để quy mô
chi tiêu công là tối u. Việc chi tiêu quá ít hoặc
quá nhiều cho hàng hóa và dịch vụ công sẽ làm
giảm hiệu quả phát triển của toàn xã hội trong
dài hạn. Mức chi tiêu công cộng đem lại lợi ích
221
cao nhất cho nền kinh tế đ ợc gọi là quy mô chi
tiêu công cộng tối u. Trong tr ng hợp đó, chi
tiêu công tạo điều kiện để khu vực t phát triển
mà không chèn lấn hoặc thay thế khu vực t …
Uii
Hình 1. Mối quan hệ giữa quy mô chi tiêu chính phủ và nợ công.
Nguồn: Tác giả tính từ số liệu của World Development Indicators (WDI) 2011.
Số liệu thống kê phản ánh một thực tế thú vị
là tất cả các n ớc rơi vào khủng hoảng hoặc bên
b vực khủng hoảng nợ công đều có quy mô chi
tiêu công lớn và liên tục trong nhiều năm. Hình
1 cho thấy mối quan hệ giữa quy mô chi tiêu
chính phủ và nợ công. Số liệu rút ra từ WDI
2011 (số liệu của 216 n ớc trên thế giới từ năm
2007-2011) đ ợc tính ra chỉ số trung bình cả
giai đoạn. Giữa quy mô chi tiêu công và nợ
công có hệ số t ơng tác thuận chiều khá cao và
mật thiết. Hệ số này vào khoảng 0,2 đối với các
n ớc có số liệu thống kê trong WDI 2011 trong
thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nh vậy, nguyên
nhân chính dẫn đến nợ công hầu hết các n ớc
là do quy mô chi tiêu công quá lớn. Trong giai
đoạn này, những n ớc có quy mô chi tiêu công
tăng lên 1% GDP thì có mức nợ công tăng
khoảng 0,2 điểm phần trăm.
Nh phần lý thuyết đã nêu về mối quan hệ
giữa nợ công và nợ n ớc ngoài, bản chất nợ
n ớc ngoài là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nợ công. Vì thế, hai nhân tố này chắc
chắn có mối liên hệ thuận chiều. Phân tích này
chỉ nhấn mạnh thêm khía cạnh nợ công đ ợc bù
đắp b i ph ơng thức cơ bản là vay nợ vì bị
khống chế phát hành tiền. Điều đáng chú ý
đây là nhóm n ớc có chỉ số lạm phát cao thì
mối liên hệ giữa nợ công và nợ n ớc ngoài có
hệ số liên hệ thấp và thiếu mật thiết hơn nhóm
n ớc có chỉ số lạm phát thấp. Nh vậy, nhóm
n ớc có chỉ số lạm phát thấp, khả năng thể chế
các n ớc ràng buộc không để chính phủ tùy
tiện phát hành tiền, do đó nguồn bù đắp cho
thâm hụt tài khóa chủ yếu là đi vay, trong đó có
vay n ớc ngoài (Hình 2). những n ớc có chỉ
số lạm phát thấp, nợ công càng cao thì phần vay
n ớc ngoài càng lớn. Đây cũng chính là một
kênh tác động với nhiều nguy cơ dẫn tới khủng
hoảng nh đã phân tích phần trên.
222
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
Nguồn: Tác giả tính từ số liệu của WDI 2011.
Hình 2. Mối quan hệ giữa Nợ công và Nợ n ớc ngoài.
6,5% và nợ công trên 40%, gồm 54 n ớc. (iv)
Nhóm IV góc cao bên phải là các n ớc có
mức lạm phát trên 6,5% và nợ công trên 40%,
gồm 20 n ớc.
Nhóm I đ ợc đánh giá là tốt nhất. Nhóm IV
đ ợc đánh giá là kém nhất. Nhóm II và III vị
trí kém hơn Nhóm I theo hai khuynh h ớng
t ơng đối khác biệt. Nhóm II th ng là những
n ớc có thâm hụt ngân sách lớn mà vị thế quốc
tế thấp, khó vay n ớc ngoài trong khi mức sống
ng i dân thấp, không thể tiếp tục vay nội địa
thì có khuynh h ớng phát hành tiền. Đây là một
nhân tố cơ bản dẫn đến lạm phát. Nhóm III
th ng là những n ớc thâm hụt ngân sách lớn
nh ng có thể chế ràng buộc t ơng đối chặt chẽ
về hoạt động tiền tệ, trong đó có việc phát hành
tiền, do vậy giải pháp còn lại của các n ớc này
là đi vay. Các chỉ số vay nợ n ớc ngoài, khối
l ợng phát hành trái phiếu chính phủ có thể
phản ánh tình hình tài chính công các n ớc
thuộc Nhóm III.
Nợ công và lạm phát: Phần phân tích này
tập trung vào khía cạnh phát hành tiền để bù
đắp thâm hụt ngân sách một số n ớc có thể
chế ràng buộc lỏng lẻo đối với giải pháp này.
Hình 3 cho thấy mức nợ công và lạm phát trung
bình trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI đối với
135 n ớc trên thế giới theo thống kê của Cục
Tình báo Trung ơng Hoa Kỳ vào tháng
3/2012.
Nếu lấy điểm giao cắt tại 6,5% của trục lạm
phát (mức trung bình các n ớc) và 40% của
trục nợ công (mức trung bình theo WB, Bảng 1)
làm gốc tọa độ phân loại thì có thể chia 135
n ớc có trong số liệu thống kê thành bốn nhóm.
(i) Nhóm I góc thấp bên trái là các n ớc có
hoạt động tài chính công bền vững với mức lạm
phát d ới 6,5% và nợ công d ới 40%, gồm 36
n ớc. (ii) Nhóm II góc cao bên trái là các
n ớc có mức lạm phát trên 6,5% và nợ công
d ới 40%, gồm 25 n ớc. (iii) Nhóm III góc
thấp bên phải là các n ớc có mức lạm phát d ới
yi
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
223
Nguồn: Tác giả tính từ số liệu https://www.cia.gov/library/publications.
Hình 3. Mối quan hệ giữa nợ công và lạm phát.
Thực trạng khủng hoảng nợ công châu Âu
cho thấy những n ớc đã rơi vào khủng hoảng
đều thuộc Nhóm III và IV. Một số n ớc khác
đang bên b vực của khủng khoảng hiện nằm
trong nhóm III. Điều đáng l u ý là một số n ớc
thuộc nhóm III có thể chuyển sang nhóm IV khi
mà khả năng vay nợ không giải quyết đ ợc
những nhu cầu bức xúc của chính phủ, rất có
thể một số quan chức quyết định làm bất cứ
điều gì để có tiền chi tiêu, kể cả lạm phát có chủ
tr ơng với quy mô lớn.
Khi xem xét nợ công, ngoài các chỉ số nh
tổng nợ, nợ hàng năm phải trả, cơ cấu nợ…, cần
đặc biệt quan tâm tới khả năng trả nợ và tính
bất ổn của nền kinh tế trong t ơng lai. Mức độ
an toàn hay nguy hiểm của nợ công phụ thuộc
chủ yếu vào khả năng phát triển của nền kinh
tế, nghĩa là khả năng trả nợ trong giai đoạn sau.
Điều đặc biệt quan trọng là chi tiêu công quá
lớn luôn để lại hậu quả là kiềm chế sự phát triển
của nền kinh tế, đồng th i tạo nhiều rủi ro, bất
ổn trong giai đoạn sau. Đến l ợt mình, nền kinh
tế bất ổn làm suy giảm nguồn thu ngân sách và
dẫn đến khủng hoảng nợ công, từ đó tất yếu dẫn
tới khủng hoảng kinh tế.
5. nh hưởng của nợ công đến phát triển
bền vững
Nợ công trong ngắn hạn có thể có những
ảnh h ng tích cực nhất định. Tuy nhiên, trong
dài hạn, nợ công mức cao hầu nh đều đem
lại những tác động tiêu cực cho sự phát triển
bền vững của nền kinh tế. Nh phân tích lý
thuyết đã nêu, trong tr ng hợp thâm hụt ngân
sách đ ợc tài trợ bằng vốn vay trong n ớc, khi
đó một phần nguồn lực tài chính của nền kinh tế
sẽ đ ợc chuyển dịch từ khu vực t nhân sang
khu vực nhà n ớc. Việc huy động này sẽ làm
tăng sự khan khiếm tiền tệ trong khu vực t
nhân, đẩy lãi suất lên cao, giảm đầu t t nhân.
Trong tr ng hợp thâm hụt đ ợc tài trợ
bằng vay n ớc ngoài, tuy có thể làm giảm bớt
căng thẳng trên thị tr ng tín dụng trong n ớc,
nh ng lại có những tác động khác nguy hại đến
nền kinh tế. Ban đầu, dòng ngoại tệ lớn chảy
vào trong n ớc sẽ làm giảm sức ép cân đối
ngoại tệ; trong trung và dài hạn, việc chính phủ
phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ
đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá nội
tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và
nguyên liệu, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
224
giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ tr
nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ.
Tăng thuế trong giai đoạn sau để bù đắp nợ
công giai đoạn tr ớc là một giải pháp phổ biến.
Thuế đây đề cập đến tỷ lệ phần trăm mà chính
phủ thu về trên tổng lợi nhuận sản xuất, kinh
doanh trong xã hội. Tăng thuế suất đồng nghĩa
với thu hẹp lợi nhuận của các doanh nghiệp, tạo
ra sự khan hiếm hơn khu vực t và chuyển
một phần nguồn lực sang khu vực công. Khi
đẩy thuế suất lên quá cao thì hệ quả là thu hẹp
quy mô sản xuất, kinh doanh của khu vực t ,
gián tiếp thu hẹp khối l ợng thuế có thể thu
đ ợc trong t ơng lai, và nhất định dẫn tới thâm
hụt ngân sách thêm nặng nề. Mối quan hệ giữa
thuế suất nội địa và nợ công đã đ ợc kiểm
chứng b i nhiều nghiên cứu định l ợng. Hình 4
cho thấy những n ớc có quy mô nợ công cao
th ng áp dụng mức thuế suất cao hơn các
n ớc khác.
uo
Nguồn: Tác giả tính từ số liệu của WDI 2011.
Hình 4. Mối quan hệ giữa quy mô nợ công và thuế suất.
Theo đó, quy mô nợ công tăng 1% thì hệ
quả là thuế suất các n ớc có thể phải tăng lên
khoảng 0,127%. ớc tính này thực hiện đối với
các chỉ số trung bình trong khoảng 10 năm với
216 n ớc trong thống kê của WDI 2011. Thực
tế cho thấy tác động của nợ công đối với thuế
suất có độ trễ khá lớn và khác biệt nhiều giữa
các n ớc trên thế giới. Phân tích này chỉ mang
tính khái quát mà ch a có điều kiện để kiểm
định trong chuỗi th i gian dài hơn với bằng
chứng định l ợng đáng tin cậy hơn.
Một số nhà chính trị lập luận rằng, chi tiêu
công lớn dẫn tới nợ công thực sự là chi cho
nhân dân và xã hội với nhiều mục tiêu cao cả và
lâu dài hơn, trong đó có những mục tiêu nh :
kj
thúc đẩy tăng tr ng, mục tiêu xã hội, môi
tr ng… Với số liệu thống kê của WDI 2011
cho 216 n ớc trên thế giới trong vòng gần một
thập kỷ cho thấy lập luận trên là không đúng.
Hình 5 cho thấy mối quan hệ giữa chi tiêu
chính phủ và tăng tr ng kinh tế của gần 216
n ớc trên thế giới trong thập kỷ đầu của thế kỷ
XXI là mối quan hệ trái chiều. Nhóm n ớc có
quy mô chi tiêu công cao (góc cao bên trái đồ
thị) là những n ớc có tốc độ tăng tr ng bình
quân trong cả thập kỷ t ơng đối thấp. Ng ợc
lại, nhóm n ớc có quy mô chi tiêu công khiêm
tốn (góc thấp bên phải đồ thị) lại có tốc độ tăng
tr ng khá cao.
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
225
Nguồn: Tác giả tính từ số liệu của WDI 2011.
Hình 5. Quy mô chi tiêu công và tăng tr ng kinh tế.
Hệ số khái quát về mối quan hệ này cho biết
quy mô chi tiêu công cứ tăng 1,57% thì tốc độ
tăng tr ng bình quân có thể giảm đi 1%. Hệ số
này góp phần khẳng định một luận điểm quan
trọng rằng, khá nhiều quốc gia trên thế giới
đang có quy mô chi tiêu công v ợt quá xa mức
tối u. Tác động tiêu cực của quy mô chi tiêu
công v ợt quá mức tối u đã tích tụ và dẫn đến
khủng hoảng nợ công tại nhiều n ớc, trong đó
có các n ớc công nghiệp phát triển châu Âu
hiện đang lâm vào khủng hoảng nợ công.
6. Thể chế - Căn nguyên chủ yếu của tình
tr ng chi tiêu công thiếu hiệu qu
Điều khó giải thích nhất là tại sao nợ công
không phải vấn đề mới nảy sinh và hậu quả đã
đ ợc nhiều quốc gia nếm trải, song không ít
quốc gia, cả ng i dân và chính phủ (nhiều nhiệm
kỳ, thuộc nhiều đảng phái) vẫn đồng thuận đi theo
vết xe đổ cho tới tr ớc khi sụp đổ? Đối với Liên
minh Tiền tệ Châu Âu, liệu có phải thể chế yếu
kém là căn nguyên chủ yếu của cuộc khủng hoảng
nợ công hiện nay hay không?
Hiệp ước Maastricht và sự hình thành Liên
minh Tiền tệ Châu Âu. Hiệp ớc Maastricht về
Liên minh Châu Âu đ ợc ký ngày 7/2/1992
Maastricht, Hà Lan và có hiệu lực từ ngày
1/11/1993. Hiệp ớc này thành lập Liên minh
Châu Âu và một nội dung chính trong trụ cột
kinh tế là thiết lập đồng tiền chung châu Âu và
hình thành Liên minh Tiền tệ Châu Âu (EMU).
Chính phủ các n ớc thuộc Cộng đồng Châu Âu
(EC) đã thỏa thuận rằng các n ớc tham gia EMU
phải đáp ứng 4 tiêu chuẩn: (i) lạm phát thấp; (ii) tỷ
giá hối đoái ổn định; (iii) lãi suất thấp; và (iv) tiêu
chuẩn tài khóa.
Tiêu chuẩn tài khóa bao gồm các yêu cầu
sau: (i) thâm hụt tổng ngân sách d ới 3% GDP
hàng năm; (ii) nợ công của toàn bộ khu vực
công không quá 60% GDP. Năm 1991, nợ công
trung bình của EU là 61,7% GDP và thâm hụt
ngân sách trung bình là 4,3% GDP. Các nghiên
cứu định l ợng cũng cho kết quả t ơng tự với
giả định tăng tr ng dài hạn của EU là 3%, lạm
phát mức 2% (mức tăng tr ng danh nghĩa
khoảng 5%) thì nợ công mức 60% và thâm
hụt mức 3% là phù hợp (Buiter, Corsetti và
Roubini, 1993).
Trong quá trình hoạt động, rất nhiều quốc
gia thuộc EMU và các ứng cử viên của EMU
không đáp ứng đ ợc các tiêu chí này nên có sự
điều chỉnh, cho phép sự “giám sát đa ph ơng”
hình thành, trong đó cho phép tồn tại mức tự
quyền quyết định rất lớn trong chính sách tài
khóa mỗi n ớc. Vấn đề này đ ợc coi là một
nguyên nhân quan trọng thuộc về thể chế dẫn
tới cuộc khủng hoảng nợ công thuộc Eurozone
hiện nay. Đây là một kết luận chủ chốt của các
nhà lãnh đạo EMU để đi tới giải pháp củng cố
và bổ sung khung khổ thể chế.
226
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
Khung khổ thể chế bổ sung: Tuy đã muộn
nh ng các nhà lãnh đạo châu Âu cũng phải nhìn
thẳng vào sự thực rằng thể chế là thứ cần kíp
phải sửa đổi để cứu vãn sự tồn tại của EMU.
EU đã đề ra một giải pháp phòng chống khủng
hoảng bằng cách ký lại một hiệp ớc ngân sách
nghiêm ngặt hơn. Ngày 25/3/2012, các nhà lãnh
đạo EU đã ký một hiệp ớc tài khóa nhằm áp
dụng các nguyên tắc tài chính nghiêm ngặt hơn
và phạt những n ớc thành viên không tuân thủ.
Hiệp ớc sẽ ngăn chặn các quốc gia trong khu
vực đồng Euro mắc những khoản nợ kếch xù và
phải viện tới các gói cứu trợ nh Hy Lạp,
Ireland và Bồ Đào Nha th i gian qua.
Thủ t ớng Đức Angela Merkel cho rằng
hiệp ớc là một b ớc tiến lớn, là b ớc đầu tiên
tiến tới sự ổn định và liên minh chính trị. Tr ớc
đây, ngay cả Pháp và Đức cũng vi phạm nguyên
tắc thâm hụt ngân sách của EU. Nếu hiệp ớc
có hiệp lực, các quốc gia Eurozone sẽ giám sát
chặt chẽ ngân sách của nhau và Tòa án Công lý
Châu Âu sẽ kiểm tra sự tuân thủ nguyên tắc của
các quốc gia, quốc gia nào vi phạm sẽ bị phạt
một khoản tiền t ơng đ ơng 0,1% GDP.
Việc siết chặt thể chế tài chính trong
Eurozone nhằm đối phó với một vài thành viên có
thể không phải là giải pháp hữu hiệu để có thể xử
lý triệt để vấn đề. Quy mô chi tiêu công cao là
tình trạng phổ biến hiện nay trên thế giới, trong đó
có các n ớc châu Âu mà nguyên nhân cơ bản
d ng nh chính là vấn đề mô hình xã hội. Ngay
những n ớc đ ợc coi là dân chủ với nền kinh tế
thị tr ng hoàn thiện nhất thì cơ chế tác động
khiến chi tiêu công ngày một tăng thêm lại bắt
nguồn từ sự cấu kết của lợi ích nhóm mà ra. Các
n ớc công nghiệp phát triển nói chung và các
n ớc công nghiệp phát triển châu Âu nói riêng
đều tự hào rằng mô hình xã hội của họ đ ợc coi là
dân chủ nhất trên thế giới. Mô hình xã hội này
dựa trên nền tảng nguyên lý dân chủ, trong đó
nguyện vọng của đa số dân chúng sẽ đ ợc thu
thập qua các tầng nấc đại diện, đ ợc tổng hợp
thành chính sách chủ đạo của chính phủ.
Mối quan hệ giữa các nhóm dân chúng với
đại diện của họ có bản chất là lợi ích nhóm.
Nhóm lợi ích nào cũng gửi gắm vào ng i đại
diện của họ mong ớc đ ợc u tiên hơn, nhận
đ ợc sự phân bổ lợi ích trội hơn trong xã hội.
Ng i đại diện cũng cố hứa hẹn nhiều hơn để
đ ợc cử tri bỏ phiếu cho mình. Khi đã đắc cử
thì các chính khách và các vị đại diện ra sức
đáp ứng các nguyện vọng của nhóm cử tri mà
họ đại diện với mong muốn đ ợc tiếp tục trúng
cử khóa sau. Trong tr ng hợp này, lợi ích
ng i đại diện và nhóm đ ợc đại diện là thống
nhất. Tuy nhiên, trong nhiều tr ng hợp lợi ích
ấy lại đi ng ợc với lợi ích dài hạn của cả xã hội.
Các vị đại diện và nhóm đ ợc đại diện đều có
động cơ và hành vi giống nhau. Họ đều muốn
đ ợc u đãi hơn, đ ợc phân bổ nhiều hơn hoặc
thậm chí chỉ là đ ợc phân bổ sớm hơn so với
đối t ợng khác. Kết cục là một sức ép khổng lồ
từ nhiều nhóm xã hội và các vị đại diện bắt quy
mô chi tiêu ngân sách phải phình mãi lên.
Trong nhiều tr ng hợp khác, ảnh h ng
tiêu cực không những đ ợc khuyến khích qua
động cơ lợi ích nhóm mà còn đ ợc dung túng
b i nhiều điều kiện thể chế lỏng lẻo, nghiêm
trọng nhất là những điều kiện cho phép sự độc
quyền, lạm quyền nảy n . Hành vi trục lợi cá
nhân đ ợc ngụy trang d ới vỏ bọc đẹp đẽ nh
các sáng kiến tài chính, giải pháp khuyến khích
tăng tr ng, chính sách hỗ trợ, chính sách phát
triển vùng… với lợi ích đ ợc tô vẽ lòe loẹt
nh ng tiềm ẩn những nguy hại nghiêm trọng.
Stiglitz cho rằng hành vi trục lợi của các nhân
vật trong giới chóp bu (nhóm 1% giàu nhất)
đ ợc thực hiện bằng biện pháp lạm dụng thể
chế hoặc thậm chí làm méo mó thể chế b i vì
hầu hết sản phẩm thể chế đều đ ợc làm ra b i
các cá nhân thuộc giới 1% giàu nhất này(2).
7. Nợ công ở Việt Nam - Thực tr ng và một
vài dự báo
Từ các nguồn số liệu về nợ công, chi tiêu
công và lạm phát Việt Nam từ năm 20012012, có thể vẽ ra bức tranh sơ l ợc về tình
hình nợ công liên quan đến chi tiêu công của
Việt Nam nh sau:
______
(2)
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=114&Category
ID=7&News=4021.
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
227
hk
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu IMF.
Hình 6. Chi tiêu, nợ công và lạm phát Việt Nam.
Hình 6 cho thấy từ năm 2001-2007, tăng
tr ng diễn ra thuận chiều với chi tiêu công.
Trong giai đoạn này, chi tiêu công có tác động
tích cực đến tăng tr ng. Tuy nhiên, từ năm
2007-2012, mối quan hệ này đã đảo chiều,
chuyển sang ảnh h ng tiêu cực và sẽ tiếp tục
diễn biến theo chiều h ớng này. Cần l u ý rằng
từ năm 2007, trong khi tăng tr ng giảm sút thì
chi tiêu công Việt Nam vẫn tăng và hầu nh
ngay lập tức lạm phát tăng nhanh đáng kể trong
khi nợ công có suy giảm chút ít trong năm 2008
rồi tiếp tục tăng vọt từ năm 2009. Một cách giải
thích có tính logic trong bối cảnh này là nguồn
chi tiêu công đ ợc tài trợ chủ yếu bằng phát
t(3)
hành tiền, và lạm phát là phản ứng của xã hội
về kỳ vọng mất giá đồng nội tệ.
Trong th i gian 5 năm từ 1986-1990, 59,7%
mức thâm hụt ngân sách đ ợc hệ thống ngân hàng
thanh toán bằng cách phát hành tiền. Con số phát
hành tiền các năm từ 1984-1990 lần l ợt là: 0,4
tỷ; 9,3 tỷ; 22,9 tỷ; 89,1 tỷ; 450 tỷ; 1.655 tỷ; và
1.200 tỷ đồng. Số còn lại đ ợc bù đắp bằng các
khoản vay nợ và viện trợ của n ớc ngoài (so với
bội chi, khoản vay và viện trợ n ớc ngoài năm
1984 là 71,3%, năm 1985: 40,8%, năm 1986:
38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm
1989: 24,9%, năm 1990: 46,7%) và một số nhỏ
do các khoản thu từ bán công trái trong n ớc(3).
______
Lê Quốc Lý (2008), “Bội chi ngân sách nhà n ớc trong mối quan hệ với lạm phát hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng số
10/2008.
(3)
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
228
Tiền phát hành bù đắp bội chi ngân sách nhà n ớc, tỷ VNĐ
Thâm hụt ngân sách nhà n ớc, tỷ VNĐ
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu t .
Hình 7. Tổng bội chi ngân sách nhà n ớc và tiền phát hành để bù đắp (giai đoạn 1985-1990).
Một số nghiên cứu trên thế giới cho biết tác
động tiêu cực từ chi tiêu công đến tăng tr ng
sẽ có độ trễ nhất định; tuy nhiên, lạm phát và nợ
công Việt Nam lại có tác động trực tiếp đến
tăng tr ng (năm 2007, xem Hình 6). Đây là
tình trạng khá đặc biệt cần đi sâu tìm hiểu và
nghiên cứu thêm. Cần l u ý rằng Việt Nam có
chỉ số nợ công và lạm phát khá cao, lại là quốc
gia thuộc nhóm IV (Hình 3). Hơn nữa, ch ơng
trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam
hiện nay cũng chỉ ra một số khiếm khuyết
không nhỏ về cấu trúc và chất l ợng của hệ
thống ngân hàng, đặc biệt là tình trạng góp vốn
chồng chéo giữa các ngân hàng và cho vay tín
dụng theo quan hệ(4).
Dự báo trung hạn tác động của nợ công
đến kinh tế Việt Nam: Điểm nổi bật của thực
trạng kinh tế Việt Nam trong thập kỷ gần đây là
chính sách tăng tr ng dựa trên nền tảng tăng
tr ng theo chiều rộng với một số đặc điểm: (i)
Chi tiêu công lớn v ợt quá quy mô tối u với
hệ quả thu hẹp hoạt động đầu t , kinh doanh
của khu vực t ; (ii) Lạm phát cao và chính sách
______
(4)
http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/tintuc/2012/09/ngan-hang-thich-cho-vay-theo-quan-he/
tiền tệ bất cập làm cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh gặp nhiều rủi ro, tr ngại; (iii) Nợ công
cao đi đôi với lạm phát cao và hệ thống ngân
hàng yếu kém là tiền đề dự báo cho nguy cơ dễ
xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Nguyên lý mức an toàn của nợ công phụ
thuộc vào mức độ lành mạnh của nền kinh tế,
nghĩa là sự phát triển nhanh và ổn định của nền
kinh tế sẽ đảm bảo trang trải đ ợc khối l ợng
nợ công trong kỳ tiếp theo. Trong tr ng hợp
thâm hụt ngân sách lớn với biểu hiện tiêu cực
đến khả năng kinh doanh ổn định của khu vực
t thì hệ quả tất yếu là thất thu thuế, nợ công
tiếp diễn bằng nợ công mới với khả năng khủng
hoảng nợ công có thể xảy ra.
Việc xử lý vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ
công có thể dẫn đến phải cắt giảm một số dự án,
ch ơng trình chi tiêu công. Tuy nhiên, việc cắt
giảm không hợp lý có thể gây ra những hệ lụy
nặng nề và lâu dài nếu không có sự cân nhắc
khoa học và công tâm. Việc cắt giảm chi tiêu
công cần gắn với yêu cầu bảo đảm duy trì các
chức năng đích thực của chính phủ, đồng th i
thu hẹp dần và trả lại những chức năng của thị
tr ng cho thị tr ng.
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
8. Kết luận
Hầu hết các nhà kinh tế học công cộng đều
nhất trí rằng chi tiêu quá ít hoặc quá nhiều cho
hàng hóa và dịch vụ công sẽ làm giảm hiệu quả
phát triển. Mức chi tiêu công cộng đem lại lợi
ích cao nhất cho nền kinh tế đ ợc gọi là quy mô
chi tiêu công cộng tối u. Trong tr ng hợp đó,
chi tiêu công tạo điều kiện để khu vực t phát
triển mà không chèn lấn hoặc thay thế khu vực
t . Hiệu quả chi tiêu công còn phụ thuộc tỷ lệ
hàng hóa công thuần túy trong tổng chi tiêu
công cộng với lý do khu vực công chỉ hiệu quả
khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ công thuần túy.
Điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả này giảm đi
khi khu vực công cung cấp những hàng hóa,
dịch vụ công ít thuần túy hơn, hoặc lấn sân sang
cung cấp những hàng hóa, dịch vụ thuộc chức
năng khu vực t . Việc chi tiêu công phân tán,
chịu ảnh h ng từ “vận động hành lang”, thiếu
tiêu chí minh bạch cũng dẫn đến giảm hiệu quả
chi tiêu. Nh vậy, tình trạng chi tiêu công thiếu
hiệu quả th ng xảy ra khi các chính phủ chi
tiêu v ợt quá quy mô tối u, sai chức năng hoặc
sai thứ tự u tiên.
Riêng trong khu vực công, việc trùng chéo
quyền hành hay lẫn lộn chức năng thẩm quyền
các cấp cũng dẫn đến giảm thiểu hiệu quả của khu
vực công. Chính quyền trung ơng nhất thiết phải
quản lý và phải quản lý đ ợc những hàng hóa
công trung ơng. T ơng tự nh vậy, chính quyền
địa ph ơng nhất thiết phải quản lý và phải quản lý
đ ợc những hàng hóa công địa ph ơng. Trong
tr ng hợp đó, tổng thể hiệu quả quản lý của bộ
máy chính quyền các cấp là cao nhất. Nh vậy, để
chi tiêu công hiệu quả, trong khu vực công phải
có sự phân cấp hợp lý theo nguyên tắc các cấp
chính quyền cần đ ợc phân cấp quản lý các hàng
hóa, dịch vụ công phù hợp.
Các ch ơng trình chi tiêu công cộng hiện
nay khá nhiều n ớc trên thế giới đều mang
tính chính trị, trong đó việc chia sẻ lợi ích từ
“bầu sữa” ngân sách đ ợc hợp pháp hóa thông
qua chính sách tài khóa th ng niên và quy
trình chi tiêu ngân sách hiện đ ợc thừa nhận
nh một tập quán khó thay đổi. Bản chất của
229
quá trình này là sự dàn xếp, chia sẻ lợi ích giữa
các nhóm quyền lực một cách nhất th i mà khía
cạnh hiệu quả, bền vững của quốc gia bị đặt vào
vị trí thứ yếu. Để phần nào hạn chế đ ợc điểm
yếu này, những đánh giá trung thực, khách quan
và khoa học cần đ ợc vận dụng để điều chỉnh các
quyết định chi tiêu công cộng nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng của nguồn lực công. Lý t ng nhất là
quy trình ngân sách trung hạn đ ợc áp dụng một
cách khoa học, trong đó nhu cầu chi tiêu công
trong trung hạn đ ợc lập kế hoạch và đề xuất hình
thành các dự án. Các dự án đề xuất cần đ ợc phân
tích chi phí - lợi ích một cách khách quan, khoa
học để xếp hạng u tiên. Kế hoạch ngân sách sẽ
đ ợc hình thành trên cơ s các quyết định chi tiêu
theo thứ tự u tiên này.
Tài liệu tham kh o
[1] Burnide, C., M. Eichenbaum, S. Rebelo (2001),
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
“Prospective deficits and the Asian currency crises”,
Journal of Political Economy, 2001, Vol. 109, No.
6, pp. 1155-1996.
G. Corsetti, P. Pesenti and N. Roubini (1999),
“Paper tigers? A model of the Asian crises”,
European Economic Review, 43, pp. 1211-1236.
G. Corsetti, B. Mackowiak (2006), “Fiscal
imbalances and the dynamics of currency crises”,
European Economic Review, 50, pp. 1317-1338.
R. Flood, P. Garber (1984). “Collapsing exchange
rate regimes: some linear examples”, Journal of
International Economics, No. 17 (August 1984), pp.
1-13.
Krugman, P. (1979), “Model of balance-ofpayments crises”, Journal of Money, Credit, and
Banking, 11, pp. 311-325.
Lê Quốc Lý (2008), “Bội chi ngân sách nhà n ớc
trong mối quan hệ với lạm phát hiện nay”, Tạp chí
Ngân hàng số 10/2008.
Marcel Fratzscher, Arnaud Mehl, Isabel
Vansteenkiste (2011), “130 years of fiscal
vulnerabilities and currency crashes in advanced
economies”, IMF Economic Review, Palgrave
Macmillan, Vol. 59(4), pp. 683-716.
Stiglitz (2011), “Của 1%, do 1%, và vì 1%”,
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?
tabid=114&CategoryID=7&News=4021.
230
B.Đ. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 217‐230
Public Expenditure and Sustainable Development
Dr. Bùi Đại Dũng
Faculty of Development Economics, VNU University of Economics and Business,
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam
Asbtract. Public debt may show certain positive impacts on sustainable development in short run,
but usually negative impacts in long run. Countries engaged in serious public debts can be explained
by large budget deficits purposefully conducted but gone out of control for a certain period of time.
This situation reflects the inefficiency of particularly public expenditure and the institutional
backwardness generally and eventually. Public expenditure inefficiency can be recognized as
spendings exceed the optimum level, spendings for non-public fuctions, spendings out of priority
order. For the sake of upgrading public expenditure inefficiency, a strong recommendation is to apply
Medium Term Expenditure Framework (MTEF), in which public spending demand in medium term
should be planned and relevant projects should be set up. Proposed projects should be analysed in
terms of cost-benefit to be sorted in a priority order. Expenditure plan shall be decided in accordance
with yearly public spending and the project priority order.