Academia.eduAcademia.edu
TRƯỜNG SĨ QUAN KỸ THUẬT QUÂN SỰ TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH Tp. Hồ Chí Minh năm 2020 0 HỌC PHẦN I. ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BÀI 1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC Môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh là môn học chính khóa nằm trong chương trình dạy học của các Trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Tầm quan trọng của môn học này là ở chỗ góp phần giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là: Giúp học sinh, sinh viên phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh, sinh viên tiếp tục học lên hoặc đi lên vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của môn học bao gồm đường lối quân sự của Đảng, công tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kỹ năng quân sự cần thiết. A. NGHIÊN CỨU VỀ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lý luận của đảng về đường lối quân sự, bao gồm: Những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, Quân đội và bảo vệ Tổ quốc; Quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; Chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; Một số nội dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kỳ. 2. Tại sao phải nghiên cứu Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc mang tính cách mạng và xã hội sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời vùng biển, hải đảo mà còn phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền văn hoá của dân tộc. Các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân đều có tính kế thừa và phát 1 triển những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc “cả nước một lòng chung sức đánh giặc”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ chống lớn”. Đó cũng chính là đặc trưng nghệ thuật quân sự Việt Nam đã chiến thắng những kẻ thù hung hãn nhất. Nghiên cứu đường lối quân sự của đảng góp phần hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lí tưởng cho sinh viên. B. NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH 1. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nhiệm vụ nội dung công tác Quốc phòng và An ninh của đảng hiện nay, bao gồm: Phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng; Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình hình mới; Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; Những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; An ninh phi truyền thống và đấu tranh phòng chống các đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam. 2. Tại sao phải nghiên cứu Nhà nước quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về công tác Quốc phòng và An ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước về bảo vệ tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và an ninh chính trị. Mọi công dân đều có trách nhiệm tham gia công tác quốc phòng, luyện tập quân sự, giữ gìn bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường tiềm lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phòng chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam, kể cả việc phòng chống chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác Quốc phòng và An ninh để xây dựng lòng tin chiến thắng trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. C. NGHIÊN CỨU VỀ QUÂN SỰ CHUNG, CHIẾN THUẬT, KỸ THUẬT BẮN SÚNG NGẮN VÀ SỬ DỤNG LỰU ĐẠN; HIỂU BIẾT CHUNG VỀ QUÂN, BINH CHỦNG 1. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết như: Đội ngũ đơn vị (trung đội); Sử dụng bản đồ địa hình quân sự; Phòng chống địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao; Ba môn quân sự phối hợp; Trung đội bộ binh tiến công; Trung đội bộ binh phòng ngự; Kỹ thuật bắn súng ngắn; Thực hành sử dụng một số loại lựu đạn Việt Nam; Giới thiệu chung về tổ chức lực lượng các quân, binh chủng (theo 4 nhóm ngành); Lịch sử, truyền thống quân, binh chủng (theo 4 nhóm ngành). 2 2. Tại sao phải nghiên cứu Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng… hiểu rõ bản chất các nội dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh; về khả năng sát thương, với các phương pháp phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia dân quân, tự vệ theo quy định của pháp luật. II. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việc nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh đòi hỏi phải nắm vững cơ sở phương pháp luận, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối tượng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này. A. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN 1. Cơ sở phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu Giáo dục Quốc phòng và An ninh là học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân… là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, vận dụng đường lối quân sự của Đảng và những vấn đề cơ bản khác của Giáo dục Quốc phòng và An ninh. 2. Các quan điểm tiếp cận khoa học Việc xác định học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp luận, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, phát triển Giáo dục Quốc phòng và An ninh phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm tiếp cận khoa học sau đây: - Quan điểm hệ thống: Đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của Giáo dục Quốc phòng và An ninh một cách toàn diện, tổng thể, trong mối quan hệ phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học. - Quan điểm lịch sử, lôgic: Trong nghiên cứu Giáo dục Quốc phòng và An ninh đòi hỏi phải nhìn thấy sự phát triển của đối tượng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian, không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng, an ninh. - Quan điểm thực tiễn: Chỉ ra phương hướng cho việc nghiên cứu Giáo dục Quốc phòng và An ninh là phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội và công an nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. B. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong nghiên cứu xây dựng, phát triển nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh với tư cách là một bộ môn khoa học cần chú ý sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học. 3 - Các phương pháp lí thuyết: Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, mô hình hoá, giả thiết nhằm thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về Quốc phòng và An ninh để rút ra các kết luận khoa học cần thiết, không ngừng bổ sung phát triển làm phong phú nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh. - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng, an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm… nhằm tác động trực tiếp vào đối tượng trong thực tiễn, từ đó khái quát bản chất, quy luật của các hoạt động quốc phòng, an ninh; bổ sung làm phong phú nội dung cũng như kiểm định tính xác thực, tính đúng đắn của các kiến thức Giáo dục Quốc phòng và An ninh. - Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo đảm cho người học vừa có nhận thức sâu sắc về đường lối, nghệ thuật quân sự, nắm chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến thuật, vừa rèn luyện phát triển được các kĩ năng công tác quốc phòng, thuần thục các thao tác, hành động quân sự. Đổi mới phương pháp dạy học Giáo dục Quốc phòng và An ninh theo hướng tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Trong quá trình học tập, nghiên cứu các vấn đề, các nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh cần chú ý sử dụng các phương pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận, thực tập sát với thực tế chiến đấu, công tác quốc phòng; tăng cường tham quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu luận; tăng cường sử dụng các phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự hiện đại phục vụ các nội dung học tập; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh. III. GIỚI THIỆU MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH A. ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ THIẾT BỊ HỌC TẬP 1. Đội ngũ giảng viên Đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh các trường đại học, cao đẳng, các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên được tổ chức trên cơ sở Nghị định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng và An ninh và Nghị định của Chính phủ về biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Giảng viên sĩ quan từ các quân khu, các học viện, nhà trường quân đội được luân phiên làm công tác quản lí và giảng dạy. Các trường chưa có giảng viên là sĩ quan biệt phái được biên chế giảng viên cơ hữu hoặc hợp đồng, thỉnh giảng giảng viên ở các học viện các nhà trường quân đội. Hệ thống Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên do Chính phủ quy định, được phát triển trên phạm vi cả nước đang thu hút phần lớn sinh viên vào học tập, rèn luyện trong môi trường văn hóa - quân sự. 2. Cơ sở vật chất và thiết bị học tập Để đáp ứng yêu cầu học tập, rèn luyện của sinh viên, Nhà nước đã và đang đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các Trung tâm Giáo dục quốc phòng. Tổ chức dạy, 4 học môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh phải bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được quy định trong danh mục và tiêu chuẩn bộ mẫu thiết bị dạy học tối thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự phải có sân tập, bãi tập, thao trường. Giáo trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh dùng cho các trường đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là tài liệu giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên. Ngoài ra, sinh viên tìm đọc thêm tài liệu tham khảo đã được giới thiệu trong giáo trình để nâng cao kiến thức và sự hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. B. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC Là môn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước nhằm giúp sinh viên thực hiện mục tiêu “hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Luật giáo dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chương trình Huấn luyện quân sự phổ thông (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm qua, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp với quy chế giáo dục đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chương trình tiếp tục được đổi mới, bổ sung; đến năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng và An ninh, môn học Giáo dục quốc phòng được lồng ghép nội dung an ninh thành môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Như vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, chương trình môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh đều có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và công tác Quốc phòng và An ninh trong từng thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục - đào tạo với Quốc phòng - An ninh. Giáo dục Quốc phòng và An ninh là môn học bao gồm: Kiến thức khoa học xã hội nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học quân sự và thuộc nhóm các môn học chung, có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chương trình môn học. Nội dung bao gồm kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh; về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc; về nghệ thuật quân sự Việt Nam; về chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam và kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục Quốc phòng và An ninh góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong khoa học ngay sau khi sinh viên đang học tập trong nhà trường và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất lượng môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh là góp phấn đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi cương vị công tác. C. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh trình độ đại học, cao đẳng ban hành theo Quyết định số 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo 5 dục và Đào tạo. Chương trình được xây dung trên cơ sở phát triển trình độ các cấp học dưới, bảo đảm liên thông, lôgíc; mỗi học phần là những khối kiến thức tương đối độc lập, tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Kết cấu chương trình gồm ba phần chính: - Phần 1: Mục tiêu, thời gian, địa điểm thực hiện. - Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chương trình. Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam, 30 tiết. Học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh, 30 tiết. Học phần III: Quân sự chung, chiến thuật, kỹ thuật bắn súng ngắn và sử dụng lựu đạn, 85 tiết. Học phần IV: Hiểu biết chung về quân, binh chủng, 20 tiết. - Phần 3: Tổ chức thực hiện chương trình; phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập. D. TỔ CHỨC DẠY HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP 1. Hình thức tổ chức dạy học Đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh trong các trường trung cấp sư phạm và cơ sở giáo dục đại học được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học. 2. Một số quy định về học tập đối với sinh viên Khi học Giáo dục Quốc phòng và An ninh sinh viên phải ăn mặc gọn gàng, thống nhất theo hướng dẫn của giảng viên. Tuyệt đối chấp hành các quy định, quy tắc bảo đảm an toàn về người, vũ khí, trang thiết bị. 3. Điều kiện dự thi và phương pháp thi Sinh viên có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần; mỗi lần kiểm tra đạt từ 5 điểm trở lên và có đủ 80% thời gian có mặt trên lớp sẽ được dự thi kết thúc học phần lần thứ nhất. Mỗi sinh viên phải dự thi đủ các học phần quy định trong chương trình. Học phần có từ 2 đến 3 đơn vị học trình kiểm tra ít nhất 1 lần; học phần có 4 đơn vị học trình trở lên kiểm tra ít nhất 2 lần. Số lần cụ thể do hiệu trưởng các trường quy định. 4. Cấp chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh Chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh cấp cho sinh viên để xác nhận kết quả học tập môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Sinh viên đạt điểm trung bình môn học từ 5 và không bị kỉ luật từ cảnh cáo trở lên được cấp Chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh và được ghi kết quả xếp loại trong Chứng chỉ. Chứng chỉ 6 Giáo dục Quốc phòng và An ninh là một trong những điều kiện để xét tốt nghiệp cao đẳng, đại học. 5. Đối tượng miễn giảm, tạm hoãn môn học - Đối tượng miễn: + Sinh viên có giấy chứng nhận sĩ quan dự bị. + Có chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh. + Là người nước ngoài. - Đối tượng được miễn các nội dung thực hành: + Là người khuyết tật. + Không đủ sức khỏe (từ 81% trở lên) về thể lực hoặc bệnh miễn dịch thuộc diện miễn quân sự theo quy định hiện hành. + Đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công an. - Đối tượng tạm hoãn: + Sinh viên do sức khỏe phải dừng học lâu dài, có xác nhận bệnh viện. + Sinh viên là phụ nữ mang thai hoặc trong thời gian thai sản. Môn học giáo dục Quốc phòng và An ninh có vai trò, ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước hội nhập và phát triển hiện nay, việc nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiểu biết về kiến thức Quốc phòng và An ninh là một nhiệm vụ thiết thực hơn bao giờ hết. Vì vậy, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức về giáo dục Quốc phòng và An ninh là một nhiệm vụ quan trọng và rất có ý nghĩa, giúp sinh viên ý thức đoàn kết dân tộc và không ngừng phấn đấu học tập vươn lên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày đối tượng nghiên cứu của môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh? 2. Trình bày phương pháp nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh? Trách nhiệm của bản thân đối với môn học? 7 BÀI 2. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Khi đánh giá về tình hình thế giới hiện nay, Đảng ta nhận định: “Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực”1. Do, đó, việc chuẩn bị mọi mặt cho đất nước để đối phó thắng lợi với chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cơ bản lâu dài và nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội góp phần làm rõ cơ sở lý luận của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội ta theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, khẳng định các chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHIẾN TRANH 1. Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội - Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp. Trong lịch sử đã có nhiều cách quan niệm khác nhau về hiện tượng chiến tranh. Một trong những nhà tư tưởng quân sự được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao là C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831). Ông quan niệm chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình, là hoạt động mà mỗi bên tham chiến huy động sức mạnh không hạn độ, đến tột cùng để giành thắng lợi. Với quan điểm này, C.Ph.Claudơvít đã bàn đến hành vi có tính đặc trưng của chiến tranh là bạo lực và bạo lực đó kế tục chính trị. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít chưa luận giải được đúng đắn bản chất chính trị của chiến tranh. - Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa tư tưởng trên và đi đến khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã - hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nhà nước) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định. + Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội nghĩa là không phải là hiện tượng tự nhiên bên ngoài xã hội, mà nó là hiện tượng chính trị xã hội, nó gắn với giai cấp, Nhà nước, đảng phái. 1 8 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71 + Trong chiến tranh đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản, lực lượng vũ trang là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh. + Chiến tranh bao giờ cũng nhằm thực hiện mục đích chính trị của Nhà nước, của giai cấp nhất định. + Chiến tranh có tính lịch sử nghĩa là nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó không tồn tại vĩnh viễn. Đây là 4 đặc trưng của chiến tranh chúng có quan hệ biện chứng với nhau, một hiện tượng được gọi là chiến tranh phải có đủ 4 đặc trưng trên nếu thiếu bất cứ đặc trưng nào thì nó không phải là chiến tranh. 2. Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh Nguồn gốc của chiến tranh là vấn đề cơ bản của mọi quan điểm khi giải thích hiện tượng chiến tranh. Trong lịch sử cũng có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc chiến tranh. - Những quan điểm duy tâm tôn giáo tìm nguồn gốc chiến tranh từ lực lượng siêu nhiên. Theo họ chiến tranh là do thượng đế, chúa trời và là sự trừng phạt của thượng đế đối với loài người. Ô.Guyt Xtanh nhà thần học phương Tây cho rằng, xã hội loài người là cuộc đấu tranh giữa hai xứ sở đối lập, xứ sở của trời và xứ sở của người. Xứ sở của người đầy tội lỗi, trái với ý trời và trời trừng phạt con người bằng chiến tranh. - Các học giả theo chủ nghĩa Đác Uyn xã hội tìm nguồn gốc chiến tranh từ đấu tranh sinh tồn của con người, có tính bản năng, sinh vật. - Thuyết Man Tuýt lại tìm nguồn gốc chiến tranh từ nhân khẩu thừa. Quan điểm này giải thích sản xuất vật chất tăng theo cấp số cộng, còn dân số tăng theo cấp số nhân và đến một lúc nào đó sẽ tạo nhân khẩu thừa, để giải quyết tất yếu phải nổ ra chiến tranh. Họ hô hào về những cái mồm thừa còn nguy hiểm hơn cả bom nguyên tử để biện hộ cho hành động chiến tranh của chúng. Những cách giải thích nguồn gốc chiến tranh trên không xuất phát từ những những mâu thuẫn của hiện thực xã hội, mà từ lực lượng siêu nhiên, từ bản năng sinh học hoặc từ chủ quan của con người. Với các cách giải thích này thì chiến tranh không tránh khỏi đối với loài người và không loại trừ được ra khỏi đời sống xã hội. - Trái với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin tìm nguồn gốc chiến tranh từ hiện thực xã hội, từ những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, nguồn gốc chiến tranh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp không thể điều hoà. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì xuất hiện giai cấp, đối kháng giai cấp là tất yếu. Trước sự bóc lột của giai cấp thống trị, giai cấp bị trị không ngừng đấu tranh, lúc ngấm ngầm, lúc công khai, nhưng xu thế chung là ngày càng quyết liệt. Trước sức mạnh và sự phản kháng của giai cấp bị trị, giai cấp thống trị cũng dùng các thủ đoạn, phương thức khác nhau và phương thức cuối cùng là dùng sức mạnh quân sự, sức mạnh bạo lực để đàn áp. Giai 9 cấp bị trị chỉ có thể đánh đổ giai cấp thống trị về mặt nhà nước khi có lực lượng tiên tiến lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh bạo lực cách mạng và tiến hành chiến tranh cách mạng giành chính quyền. Trong giai đoạn thống trị xã hội, giai cấp thống trị không thoả mãn với lợi ích từ bóc lột nhân dân lao động ở nước mình, mà còn mở rộng phạm vi bóc lột ra nước ngoài. Việc mở rộng lợi ích ra nước ngoài, giai cấp thống trị cũng dùng nhiều thủ đoạn như mua chuộc, dụ dỗ... và khi các phương thức đó không đạt mục đích thì chúng phát động chiến tranh và chiến tranh nổ ra. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp tồn tại thì chiến tranh là tất yếu của lịch sử. Thực tiễn lịch sử chứng minh, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có đối kháng giai cấp, chiến tranh không xuất hiện. Những cuộc xung đột có tính bạo lực trong xã hội này chỉ là tranh giành không gian sinh sống, không mang nội dung chính trị, cho nên không phải là chiến tranh. Ph.Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có chế độ tư hữu, chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tượng chính trị xã hội cũng chưa xuất hiện. Mặc dù ở thời kỳ này đã xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhưng đó không phải là một cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng lao động thời cổ. Khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời với sự tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh cũng xuất hiện như một tất yếu lịch sử. Từ đó đến nay, những xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp đã nối tiếp nhau kéo theo chiến tranh diễn ra liên miên. Thực tế cho thấy, từ khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời đến nay, loài người không có lúc nào ngừng tiếng súng, không ở nơi này thì nơi khác. Có thể nói rằng, chừng nào còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh không thể tránh khỏi. Ph.Ăngghen khẳng định, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu. Chiến tranh sẽ mất đi khi tiền đề kinh tế, chính trị cho nó xuất hiện không còn. Chiến tranh cũng chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, không phải vĩnh viễn đối với loài người. Muốn loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội thì xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ đối kháng giai cấp, xây dựng thành công chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và xã hội không giai cấp - chế độ cộng sản chủ nghĩa. 3. Bản chất của chiến tranh Bản chất chiến tranh là vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong lịch sử, cũng như hiện nay. Chiến tranh nổ ra với tính chất, quy mô và với không gian, thời gian khác nhau, vì vậy nhận thức bản chất chiến tranh thường gặp khó khăn đối với mọi người. Trong lịch sử đã có nhiều nhà tư tưởng, nhà quân sự khái quát về bản chất chiến tranh. Thời Cổ đại, Arixtốt (384 - 322 TCN) đã khái quát, chiến tranh là nghệ thuật chính trị. G.Hêghen (1770 -1830), nhà triết học duy tâm 10 cổ điển Đức quan niệm, chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị. C.Ph.Claudơvít (1780 -1831) nhà quân sự tư sản Phổ cho rằng: “Chiến tranh của một cộng đồng tiến hành bao giờ cũng là một hành vi chính trị, một sự kế tục của các quan hệ chính trị, một sự thực hiện các quan hệ chính trị bằng các biện pháp khác (thủ đoạn bạo lực)”1. Các quan điểm trên có sự khác nhau, nhưng thống nhất với nhau ở nội dung chính trị, ở hành động bạo lực của chiến tranh. Những quan điểm này đã có bước tiến nhất định so với những quan điểm duy tâm tôn giáo về bản chất chiến tranh, nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm, phản động. Những hạn chế, sai lầm của những quan điểm trên là hiểu về chính trị chưa khoa học. Chính trị theo quan điểm các nhà tư tưởng trên không phải của quan hệ giai cấp, dân tộc và nếu có thì chỉ đơn thuần ở đường lối đối ngoại, không đề cập đến đối nội. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao quan điểm của các nhà tư tưởng trên, đã kế thừa, phát triển và vạch ra bản chất chiến tranh. V.I.Lênin đã dùng khái quát của C.Ph.Claudơvít và khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)”2. Về hình thức khái quát của C.Ph.Claudơvít và V.I.Lênin không khác nhau, nhưng bản chất khác nhau căn bản. Đối với C.Ph.Claudơvít, chính trị chỉ đơn thuần là quan hệ đối ngoại. Ông không đề cập đến chính trị từ quan hệ đối nội, trong khi đó quan hệ đối nội còn quyết định quan hệ đối ngoại. Bản chất chiến tranh trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trên hai mặt cơ bản: - Trước hết chiến tranh là một hiện tượng chính trị xã hội. Chiến tranh thuộc phạm trù xã hội, đồng thời là phạm trù chính trị. Chiến tranh không phải là mọi hiện tượng xã hội, mọi hiện tượng chính trị, nhưng đã là chiến tranh phải thuộc phạm trù xã hội, chính trị. - Thứ hai, chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là kế tục chính trị bằng thủ đoạn đặc thù, thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung của chiến tranh, còn chiến tranh chỉ là một trong những phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính trị. Trong các phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính trị, chiến tranh là phương thức cuối cùng và cao nhất. Trước khi chiến tranh nổ ra, các phương thức phi chiến tranh đã được vận dụng, tiến hành không có hiệu lực thì phương thức cuối cùng là chiến tranh được thực hiện. Tiếp cận bản chất chất chiến tranh trong sự thống nhất giữa hai mặt của chiến tranh. Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang không tách rời. Như vậy, những xung đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nội dung chính trị và những phương thức thực hiện chính trị không sử dụng bạo lực vũ trang không phải là chiến tranh. Trong lịch sử, các thế lực tiến hành chiến tranh xâm lược, phản động thường tìm cách che đậy nội dung chính trị để xuyên tạc bản chất chiến tranh. Những quan 1 2 C.Ph.Claudơvít, Bàn về chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 55 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 26, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 397 11 điểm cho tiến hành chiến tranh là thực hiện ý nguyện của chúa, giương ngọn cờ tôn giáo… là tìm cách che đậy nội dung chính trị, xuyên tạc bản chất chiến tranh. Hiện nay, các thế lực phản động, đặc biệt là đế quốc Mỹ cũng đưa ra lý do lật đổ một chế độ độc tài, gia đình trị hoặc bảo vệ thế giới tự do… đều tìm cách che đậy nội dung chính trị trong tiến hành chiến tranh xâm lược. B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH 1. Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, của bọn đế quốc thực dân, Hồ Chí Minh thấy rằng: Ở đâu dù chính quốc hay thuộc địa thì giai cấp tư sản với mọi âm mưu thủ đoạn xảo trá, chúng bóc lột, hà hiếp quần chúng nhân dân lao động nhằm vơ vét cho lợi ích của chúng. Một mặt, chúng bóc lột nhân dân lao động ở chính quốc, mặt khác chúng ra sức khai thác, vơ vét của cải ở thuộc địa. Chính sự phát hiện này, Hồ Chí Minh đã ví: “Chủ nghĩa đế quốc như con đỉa có hai cái vòi, một cái vòi bám vào giai cấp công nhân ở chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, muốn giết con vật này phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó”1. Rõ ràng sự ăn bám này đã dẫn đến giai cấp vô sản, quần chúng nhân dân lao động ngày càng bần cùng, cuộc sống khổ sở, bị chúng trà đạp lên phẩm giá con người. Với bản chất của chúng như vậy, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Ngày nào còn bọn đế quốc thì nguy cơ chiến tranh vẫn còn”2. Khi phân tích và luận giải, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa. Người phê phán, vạch mặt cái gọi là khai hoá văn minh của thực dân Pháp, thực chất là sự bóc lột, đầu độc, dùng chính sách ngu dân, Người viết: “Họ coi người An Nam như những súc vật phải điều khiển bằng roi vọt”3. Điều đó thấy rõ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp, ở đây thực ra là sự áp đặt chế độ thống trị bóc lột của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa mà thôi. Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định: “Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, bắt dân ta làm nô lệ”4. Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước. 2. Hồ Chí Minh xác định tính chất xã hội của chiến tranh Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Người đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 298 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 20 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 364 4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 150 1 2 12 là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”1. Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. 3. Hồ Chí Minh khẳng định: Chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản quý báu của Người. Tư tưởng này được Người trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng sinh động và sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tư tưởng của Người được thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”2. Qua đó thể hiện rõ mọi lực lượng tham gia không phân biệt tầng lớp, giai cấp, tôn giáo nào. Với tất cả các loại vũ khí trang bị có thể có được, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với vũ khí trang bị; cho dù gươm giáo, cuốc thuổng, gậy gộc nhưng có ý chí quyết tâm và tinh thần yêu nước thì sẽ bảo vệ được nền độc lập tự do của Tổ quốc, điều này càng làm phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng chiến tranh của chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện cụ thể. Để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Ba mươi mốt triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng” 3. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh toàn dân, trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự; chính trị; kinh tế; văn hoá… Người chỉ rõ: “Nhưng Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 304 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 480 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 232 1 2 13 chiến tranh ngày nay, không những riêng về mặt quân sự mà bao gồm cả chính trị, kinh tế, ngoại giao”1. Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới và là một sự phát triển đỉnh cao tư tưởng vũ trang toàn dân của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ QUÂN ĐỘI 1. Khái niệm Quân đội Theo Ph.Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự”2. Như vậy theo Ph.Ăngghen, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để nhà nước, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (chủ nghĩa đế quốc), V.I.Lênin nhấn mạnh: Chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột đối với nhân dân lao động trong nước. 2. Nguồn gốc ra đời của Quân đội Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lí luận đề cập đến nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị xã hội đặc thù này. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: Quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong. 1 2 14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 250 Ph.Ăngghen: Tuyển tập Luận văn quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, tr. 9. 3. Bản chất giai cấp của Quân đội Bản chất của quân đội được xác định bởi quân đội đó do giai cấp nào tổ chức ra, công cụ bạo lực đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp nào trong xã hội. Từ cách tiếp cận khoa học trên, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: - Bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định nhằm phục vụ cho giai cấp và nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng nó. Ở phương diện này, quân đội của các giai cấp và nhà nước thống trị, bóc lột trong lịch sử bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang để tiến hành chiến tranh và đàn áp nhân dân lao động. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ, quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hoà tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân chủ nhất”1. Bản chất của quân đội tương đối ổn định, song không phải là cái cố định, bất biến, mà có sự vận động, biến đổi. Sự vận động, biến đổi đó tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố và theo hai chiều hướng hoặc tăng cường, hoặc là suy giảm. Quân đội là một tổ chức, một lực lượng chính trị - xã hội của nhà nước, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng nên sự tác động của các điều kiện kinh tế, chính trị, giai cấp, môi trường xã hội tất yếu ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội, yếu tố giai cấp luôn tác động trực tiếp, mạnh mẽ và quyết định nhất. Quân đội nào cũng do nhà nước tổ chức ra và chịu sự chi phối bởi đường lối chính trị của một giai cấp. Bài học xương máu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho thấy, khi Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, sự biến chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là không tránh khỏi và hậu quả tất yếu của nó là làm cho quân đội mất phương hướng chính trị. V.I.Lênin từng chỉ rõ, giai cấp vô sản muốn là giai cấp thống trị, thì nó phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình. Hiện nay, các học giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho quan điểm “siêu giai cấp của quân đội và cho rằng, quân đội là công cụ của toàn xã hội, sự tồn tại của nó là cần thiết để đảm bảo hoạt động “bình thường” của bất cứ hệ thống xã hội nào. Do vậy, quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và không có bản chất giai cấp; là lực lượng “trung lập về chính trị”. Thực chất của quan điểm trên là che đậy bản chất phản động vốn có của quân đội tư sản đế quốc; thực hiện mưu đồ “vô hiệu hoá” quân đội của các nước có chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa còn lại, làm cho quân đội xã hội chủ nghĩa dao động về tư tưởng, mất phương hướng chính trị; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; tước bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Cần thấy rằng, đây là một thủ đoạn hết sức nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay để thực hiện mục tiêu lật đổ và xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bởi vậy, cần đấ u tranh vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của các luận điểm trên và khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc do V.I.Lênin chỉ ra là, hiện nay cũng như 1 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 610 15 trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được. Nghĩa là, không có quân đội nào ra đời và tồn tại lại thoát ly khỏi các quan hệ chính trị, giai cấp hiện thực; tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với quân đội xã hội chủ nghĩa là vấn đề tất yếu đặt ra. Mặt khác, cần chủ động đấu tranh ngăn chặn, khắc phục các tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của quân đội xã hội chủ nghĩa hiện nay. 4. Sức mạnh chiến đấu của Quân đội - Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Con người, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự, trong xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội các ông chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận xét tài năng của các tướng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội ngũ này. - Bảo vệ và phát triển tư tưởng trên V.I.Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố quân số, tổ chức, cơ cấu biên chế; yếu tố chính trị - tinh thần và kỉ luật; số lượng, chất lượng vũ khí trang bị kĩ thuật; trình độ huấn luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh lãnh đạo, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp. Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu tố là không ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định, yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội (Đây là một yếu tố cơ bản, có vai trò quyết định trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Quân đội có tinh thần cao, nhất là tinh thần chiến đấu cao mới tích cực, chủ động, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, vượt qua được những khó khăn, gian khổ, ác liệt, những thử thách đối với khả năng chịu đựng của con người, nhất là trong điều kiện chiến tranh hiện đại). V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. 5. Nguyên tắc xây dựng Quân đội kiểu mới của Lênin V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ, phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về quân đội và sự vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, các thế lực thù địch điên cuồng chống phá nước Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I. Lênin yêu cầu phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân) của giai cấp vô sản. V.I. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới: - Đảng Cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản chất giai cấp công nhân. - Đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân. - Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản. 1 16 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 147 - Xây dựng chính quy. - Không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức. - Phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng. - Sẵn sàng chiến đấu. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.I.Lênin vẫn giữ nguyên giá trị; là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản xác định phương hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình. B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI 1. Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Người viết: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân sự, có tổ chức”1. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của quân đội ta hiện nay ra đời. Sự thành lập của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tính tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng để giành và giữ chính quyền. Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hai lực lượng là: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, và kết hợp chặt chẽ hai lực lượng, hai hình thức đó. Theo Người: tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Vì vậy ngay từ đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phải “tổ chức quân đội công nông” chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa. Xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tổ chức lực lượng nhân dân Việt Nam - Quân đội nhân dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. Về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Phải lựa chọn cán bộ, chiến sỹ từ các đội du kích, các đội tự vệ để xây dựng quân đội chính quy. Khi xây dựng quân đội chính quy, vẫn duy trì dân quân du kích và lực lượng vũ trang địa phương. Đó chính là hình thức tổ cức lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Bộ đội chủ lực, bồ đội địa phương hợp thành quân đội nhân dân. 2. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 71-72 17 đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22/12/1958, Người vừa biểu dương, vừa căn dặn: “Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ”1. Lời căn dặn của Người là sự khái quát các phẩm chất, tiêu chí của bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi mừng quân đội ta tròn hai mươi tuổi ngày 22/12/1964, một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, nhà nước. Người viết : “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”2. Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm bọc, đồng thời được kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nước gắn liền với giữ nước oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, quân đội ta luôn thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. 3. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu Đây là một trong những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triển lý luận về quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài Tình đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt 3/3/1952, Người viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân, đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân nhân, quân đội không có lợi ích nào khác”3. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân và vì dân theo quan điểm Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ ở thái độ cũng như tinh thần phục vụ nhân dân. Tôn trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân là yêu cầu quan trọng xây dựng Quân đội ta. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Quân đội là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến dấu, yêu nước, yêu dân cho nên hy sinh kham khổ”. Quá trình giáo dục, rèn luyện Quân đội ta, người thường nhắc nhở: “Mình Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 247 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 349 - 350 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 426-427 1 2 18 đánh giặc là vì dân, nhưng mình không phải “cứu tinh” của nhân dân mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”1. Người căn dặn: “Dù ở cương vị nào, chúng ta đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân dân”. Người yêu cầu bộ đội phải làm sao được dân yêu, dân tin, dân phục để từ đó dân hết sức giúp đỡ mình thì nhất định thắng lợi trong chiến đấu, công tác và lao động sản xuất… 4. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh. Để phát huy nhân tố con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của bộ đội, khuyên răn, động viên, và biểu dương kịp thời những gương “người tốt, việc tốt”. Người nói: “Tướng là kẻ giúp nước, tướng giỏi thì nước mạnh, tướng xoàng thì nước hèn” do đó, phải chăm lo xây dựng cán bộ có đủ đức, đủ tài, Người đòi hỏi mỗi cán bộ phải có đủ tư cách: Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung. Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: Tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ công tác đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to lớn trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo nên những thế hệ “Bộ đội cụ Hồ”, một mẫu hình mới của con người xã hội chủ nghĩa trong quân đội kiểu mới. Như vậy, không có một Đảng Cộng sản chân chính, không có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa, thì quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lí tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. 5. Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của Quân đội Mục tiêu lí tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tưởng các mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”2. 1 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 207 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 143 19 Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, sản xuất ra của cải vật chất và tiến hành công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột. Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội. Với tư cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tư tưởng, văn hoá; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nước, trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức tạp nảy sinh; là đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta đã chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng trên cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải phóng. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức nặng nề. Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị, công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ... Để thực hiện vai trò đó, cần đổi mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới. III. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Xà HỘI CHỦ NGHĨA Tổ quốc là một phạm trù lịch sử dùng để chỉ đất nước, con người gắn liền với biên giới, lãnh thổ xác định, với những điều kiện kinh tế, tự nhiên, văn hóa, tâm lý, tình cảm của cộng đồng người trên lãnh thổ đó và một thể chế chính trị - xã hội tương ứng. A. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Xà HỘI CHỦ NGHĨA 1. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan - Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân. Trong điều kiện giai cấp tư sản nắm chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy chính giai cấp công nhân là người đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng. 20 - Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin là người có công đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người khẳng định: “Kể từ ngày 25 tháng Mười năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc”1. Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ những năm cuối thế kỉ XIX, V.I.Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng thời ở các nước. Do đó, trong suốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt. - Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt nước Nga Xô viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước xã hội chủ nghĩa những bài học đắt giá rằng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có như vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển. Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của V.I.Lênin rằng: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó khăn hơn. 2. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, V.I.Lênin trực tiếp lãnh đạo xây dựng đất nước, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nước và sự can thiệp 1 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 102 21 của đế quốc bên ngoài. Đó là những năm tháng cực kì gian khổ, khó khăn, Người chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin luôn nhắc nhở mọi người phải luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng. Người luôn lạc quan tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người khẳng định: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xô viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ cũng như con cái họ có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hoá, mọi thành quả lao động của con người”1. 3. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát triển kinh tế xã hội Học thuyết Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết. V.I.Lênin đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc như: củng cố chính quyền Xô viết các cấp; bài trừ nội phản, tiêu diệt bọn bạch vệ; đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật, vận dụng đường lối đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới. V.I.Lênin cùng Đảng Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hoà bình, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng bước biến các tiềm lực thành sức mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 4. Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa V.I.Lênin chỉ ra rằng: Đảng Cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh. Trong quân đội, chế độ chính uỷ được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy từ đại biểu ưu tú của công nông, thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Xà HỘI CHỦ NGHĨA 1. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”2 . 1 2 22 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 378 Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 553 Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/2/1946, Người nói: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên !...”. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lý rằng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”. Trước khi đi xa, trong bản Di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa. 3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 23 4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á Đông và trên thế giới”1 và Người khẳng định: “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ, với sự đoàn kết nhất trí, lòng tin tưởng vững chắc và tinh thần tự lực cánh sinh của mình, sự giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á - Phi, nhân dân ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn; làm tròn được nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ đã đề ra”2. Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn. Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây dựng thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần tích cực vào bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất chiến tranh? 2. Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh? 3. Trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa? 4. Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa? 1 2 24 Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 483 Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 489 BÀI 3. XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM Xà HỘI CHỦ NGHĨA Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành ý thức đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. I. VỊ TRÍ, ĐẶC TRƯNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN A. VỊ TRÍ 1. Một số khái niệm - Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: “Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang là nồng cốt”1. Luật quốc phòng, (điều 3) xác định: “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”2. - Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam xác định: An ninh nhân dân là: 1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia, là sự nghiệp toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1 2 Bộ quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2004, t. 84 Luật quốc phòng, Nxb. Lao động xã hội, H. 2010 25 2. Bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ: đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân”1. Luật an ninh quốc gia, (điều 3): “Nền an ninh nhân dân là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt”2. 2. Vị trí Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân có vị trí cực kỳ quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. B. ĐẶC TRƯNG 1. Mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng Đặc trưng này thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền Quốc phòng và An ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với các nước đế quốc chủ nghĩa. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. 2. Là nền Quốc phòng và An ninh của dân, do dân và vì dân Đặc trưng vì dân, của dân, do dân của nền Quốc phòng và An ninh nước ta thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đặc trưng vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân cho phép ta huy động mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng đều thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và đấu tranh Quốc phòng và An ninh khác. Đồng thời, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về Quốc phòng và An ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân. 3. Là nền Quốc phòng và An ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo nên Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân nước ta được tạo bởi nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự, an ninh... cả ở trong nước và ngoài nước, của dân tộc và của thời đại; trong đó, những yếu tố bên trong của dân tộc luôn giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề để tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân nhằm đánh thắng kẻ thù xâm lược. 1 2 26 Bộ quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2004, t. 26 Luật an ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2005 Xây dựng, phát huy được sức mạnh tổng hợp là biện pháp hữu hiệu nhất để chúng ta khắc phục những khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hạn chế về trình độ phát triển khoa học kỹ thuật. 4. Được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại Dù trong điều kiện thời bình hay thời chiến, chúng ta cũng phải thường xuyên đấu tranh toàn diện với các thế lực thù địch trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của chúng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc tạo lập sức mạnh nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy động được sức mạnh của toàn dân về mọi mặt: Chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học…; phải kết hợp giữa Quốc phòng và An ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa Quốc phòng và An ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền Quốc phòng và An ninh hiện đại. Theo đó, phải xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân từng bước hiện đại; kết hợp giữa xây dựng con người có giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại. Phát triển công nghiệp quốc phòng, từng bước trang bị hiện đại cho các lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. 5. Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân Sự gắn bó này là tất yếu khách quan. Bởi vì, nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân đều được xây dựng nhằm mục đích tự vệ chính đáng của đất nước; đều phải chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa bằng sức mạnh tổng hợp; đều có chung một tính chất là của dân, do dân, vì dân, được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần của cả nước, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, ngày càng hiện đại. Giữa nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương thức tổ chức lực lượng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công. Sự gắn bó và kết hợp chặt chẽ giữa nền quốc phòng và nền an ninh phải thường xuyên, tiến hành đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động trên phạm vi cả nước cũng như của từng vùng, miền, địa phương, ở mọi ngành, mọi cấp... II. XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN VỮNG MẠNH ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM Xà HỘI CHỦ NGHĨA A. MỤC ĐÍCH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN - Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ… để giữ vững hoà bình, ổn định, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. 27 - Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ. Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, xã hội…; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. B. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN - Xây dựng lực lượng Quốc phòng và An ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Lực lựng Quốc phòng và An ninh là những con người, tổ chức và những cơ sở vật chất, tài chính đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng an ninh. Từ đặc trưng của nền Quốc phòng và An ninh ở nước ta thì lực lượng Quốc phòng và An ninh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bao gồm lực lượng toàn dân (lực lượng chính trị) và lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng chính trị bao gồm các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã được phép thành lập và quần chúng nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, công an nhân dân. - Xây dựng lực lượng Quốc phòng và An ninh là xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. C. XÂY DỰNG TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH Tiềm lực Quốc phòng và An ninh là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực Quốc phòng và An ninh được thể hiện ở tất trên cả lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung ở tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học công nghệ; tiềm lực quân sự, an ninh. Xây dựng tiềm lực Quốc phòng và An ninh là tập trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh. 1. Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần - Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về chính trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực chính trị, tinh thần được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lí điều hành của Nhà nước; ý chí, quyết tâm của nhân dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống. Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh 28 của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh. - Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cần tập trung: Xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh. 2. Xây dựng tiềm lực kinh tế - Tiềm lực kinh tế của nền phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về kinh tế của đất nước có thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được biểu hiện ở nhân lực, vật lực, tài lực của quốc gia có thể huy động cho Quốc phòng và An ninh và tính cơ động của nền kinh tế đất nước trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Tiềm lực kinh tế tạo sức mạnh vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác. - Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về kinh tế của đất nước. Do đó, cần tập trung vào: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị kĩ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cơ sở hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang thời chiến và duy trì sự phát triển của nền kinh tế. 3. Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ - Tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn) và công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động để phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Tiềm lực khoa học, công nghệ được biểu hiện ở: Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất kĩ thuật có thể huy động phục vụ cho Quốc phòng và An ninh và năng lực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học có thể đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh... - Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Do đó, phải tập trung đầu tư phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ trên một số lĩnh vực chủ yếu, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ đầu ngành. Đổi mới và từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm, tạo tiềm lực khoa học, công nghệ đủ mạnh làm nồng cốt cùng với khoa học, công nghệ của đất nước giải quyết các nhiệm vụ khoa học, công nghệ và môi trường trong lĩnh vực quân sự. Phối hợp có kế hoạch giữa các ngành khoa học - công nghệ trong và ngoài 29 quân đội. Ứng dụng, cải tiến bảo quản, thiết kế chế tạo các vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự theo hướng ngày càng hiện đại phù hợp với điều kiện và cách đánh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, đồng thời nghiên cứu chống lại các thủ đoạn của địch dùng khoa học, công nghệ phá hoại ta. 4. Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh - Tiềm lực quân sự, an ninh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh, cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh được biểu hiện ở khả năng duy trì và không ngừng phát triển trình độ sẵn sàng chiến đấu, năng lực và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân; nguồn dự trữ về sức người, sức của trên các lĩnh vực đời sống xã hội và nhân dân có thể huy động phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh, cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, là biểu hiện tập trung, trực tiếp sức mạnh quân sự, an ninh của nhà nước giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. - Tiềm lực quân sự, an ninh được xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực chính trị tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ. Do đó, xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh, cần tập trung vào: Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện. Gắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với quá trình tăng cường vũ khí trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bố trí lực lượng luôn đáp ứng yêu cầu chuẩn bị đất nước về mọi mặt, sẵn sàng động viên thời chiến. Tăng cường nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng. D. XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOAN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN VỮNG CHẮC Thế trận Quốc phòng và An ninh là sự tổ chức, bố trí lực lượng, tiềm lực mọi mặt của đất nước và của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gồm: 1. Phân vùng chiến lược Quốc phòng và An ninh kết hợp với vùng kinh tế trên cơ sở quy hoạch các vùng dân cư theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nước Thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ phân vùng chiến lược Quốc phòng và An ninh với phân vùng kinh tế - xã hội và xây dựng hậu phương chiến lược vững chắc, theo một ý định, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ. Trong các quy hoạch, kế hoạch, phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội và nhiệm vụ quốc phòng an ninh cùng đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương để phân bố lao động, dân cư, phát triển ngành nghề. Kết hợp xây dựng kinh tế với xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, hậu phương chiến lược và hậu cần tại chổ, nhất là các địa bàn 30 đặc biệt quan trọng. Có như vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả nước và từng địa phương đối phó thắng lợi với mọi tình huống. Thời bình: đủ sức đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội. Thời chiến, với thế trận Quốc phòng và An ninh và hậu phương tại chỗ của từng vùng chiến lược, đảm bảo cho quân và dân ta đối phó kịp thời, đánh trả, kìm giữ quân địch, tự lực, độc lập, tác chiến trong từng địa bàn, kể cả trong hoàn cảnh bị bao vây, chia cắt chiến lược, tạo điều kiện cho cả nước giành thắng lợi trong chiến tranh. 2. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tạo nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một tổ chức Quốc phòng và An ninh địa phương theo địa bàn hành chính, là bộ phận hợp thành và là nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Phải căn cứ vào đặc điểm, vị trí, yêu cầu của từng tỉnh (thành phố) để xác định nội dung xây dựng cụ thể nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp về Quốc phòng và An ninh trên từng địa phương, đối phó có hiệu quả với mọi tình huống cả thời bình và thời chiến, bảo vệ tỉnh (thành phố) được xây dựng toàn diện “Vững mạnh về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh, văn minh về văn hoá, xã hội” vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa đảm bảo cho nhiệm vụ cơ bản lâu dài. 3. Tổ chức phòng thủ dân sự, bảo đảm toàn dân đánh giặc và phòng tránh khắc phục hậu quả chiến tranh Phòng thủ dân sự là một bộ phận trong thế trận phòng thủ chung của cả nước, là hệ thống các biện pháp nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và tiềm lực mọi mặt của đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch gây nên. Được tiến hành trong thời bình và thời chiến, kế hoạch phòng thủ dân sự phải toàn diện, cụ thể, thiết thực phù hợp với yêu cầu kinh tế quốc phòng. Tổ chức phòng thủ dân sự cần tập trung: Trước hết phải xây dựng có trọng điểm hệ thống công trình phòng thủ dân sự trong thời bình và hoàn thiện khi chiến tranh. Cần có quy hoạch tổng thể, ở đâu có dân là ở đó có công trình phòng thủ dân sự, chú trọng các khu vực đông người (trường học, xí nghiệp, cơ quan…) và các mục tiêu trọng điểm. Yêu cầu cơ bản là phải bảo đảm an toàn cho dân và cơ sở vật chất quan trọng. Cùng với xây dựng các công trình phòng thủ dân sự phải có tổ chức hệ thống chỉ đạo, điều hành từ trung ương đến cơ sở và thành lập các lực lượng chuyên trách, gắn liền với cơ sở sản xuất, khu dân cư và đơn vị hành chính sự nghiệp. Có kế hoạch bồi dưỡng và luyện tập các nội dung cụ thể như: Thông báo, báo động, sơ tán, phòng tránh khắc phục hậu quả, chống sập, chống cháy nổ, cứu chữa người, cứu hộ cứu nạn… Đồng thời thường xuyên tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân để mọi người đều có kiến thức cơ bản, cần thiết về phòng thủ dân sự. 31 4. Kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân Đặc điểm nổi bật của quá trình đấu tranh cách mạng ở nước ta là, kẻ thù bên ngoài và kẻ thù bên trong luôn luôn cấu kết với nhau. Để tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân tất yếu phải kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Sự kết hợp này được biểu hiện trong các hoạt động xây dựng và đấu tranh Quốc phòng và An ninh trên tất cả các lĩnh vực như: tổ chức triển khai, bố trí sử dụng lực lượng, cả vũ trang và phi vũ trang; phối hợp hoạt động giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở vững mạnh, thực hiện nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhất là chuẩn bị kế hoạch phối hợp đối phó với tình huống, địch can thiệp vũ trang hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN HIỆN NAY A. THƯỜNG XUYÊN THỰC HIỆN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Giáo dục Quốc phòng và An ninh là một biện pháp cơ bản để thống nhất nhận thức, nâng cao trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Giáo dục quốc phòng là một bộ phận cấu thành nền giáo dục quốc gia, có tác động tích cực và trực tiếp đến trình độ giác ngộ của toàn dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần thực hiện nghiêm Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị và Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Nội dung chủ yếu của quốc phòng an ninh phải toàn diện trong đó coi trọng giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân dối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; âm mưu, thủ đoạn của địch; đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh. Đối tượng Giáo dục Quốc phòng và An ninh là toàn dân, trước hết là cán bộ, đảng viên, những người trong các cơ quan đoàn thể, trường học… để từ đó làm nồng cốt trong việc tổ chức giáo dục quốc phòng cho quần chúng nhân dân. Yêu cầu đạt được: Làm cho mọi người, mọi tổ chức biết tự bảo vệ trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Hình thức: Phải vận dụng nhiều hình thức, phương pháp giáo dục tuyên truyền để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục quốc phòng an ninh. Các ngành chức năng cần nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho phù hợp với từng đối tượng, từng cấp học, đồng thời phải có biện pháp, hình thức tổ chức học tập hợp lý, có chính sách đầu tư đúng đắn để công tác Giáo dục Quốc phòng và An ninh đi vào nề nếp, đạt hiệu quả ngày càng cao. 32 B. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC, TRÁCH NHIỆM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ NHÂN DÂN Đại hội Đảng IX chỉ rõ: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”1. Quản lý nhà nước về quốc phòng do hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước (cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp) ở các cấp thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao do pháp luật quy định. Do đó, phải cụ thể hóa các nội dung lãnh đạo về Quốc phòng và An ninh và bổ sung cơ chế hoạt động của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đặc biệt chú trọng khi sử trí các tình huống phức tạp. Điều chỉnh cơ cấu quản lý Nhà nước về Quốc phòng và An ninh của bộ máy Nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Cần có hệ thống pháp luật, chính sách đầy đủ, đồng bộ, có cơ chế điều hành, tổ chức thực hiện và phương pháp quản lý chặt chẽ phù hợp. Nội dung quản lý rất rộng, nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung vào một số vấn đề chủ yếu: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nghiên cứu và ban hành các luật về quốc phòng, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng. Tổ chức phân công cán bộ chuyên trách để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức, thực hiện công tác quốc phòng, an ninh. Chấp hành nghiêm Quy chế 107/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an và Nghị quuyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ Quốc phòng phải làm tốt chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng. Các Bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành khác, cùng các đoàn thể quần chúng thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng của phòng mình, cấp mình, địa phương mình. Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa xây dựng và phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng. Nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng cho cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, và sinh viên học sinh. Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cơ quan và cán bộ chuyên trách về quốc phòng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. C. NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN CHO SINH VIÊN TRONG XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN Xây dưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng đều phải tham gia theo phạm vi và khả năng của mình. Đối với sinh viên, phải tích cực học tập nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức quốc phòng, an ninh, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 45-46 33 hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trên cơ sở đó, tự giác, tích cực luyện tập kĩ năng quân sự, an ninh và chủ động tham gia các hoạt động về Quốc phòng và An ninh do nhà trường, xã, phường, thị trấn triển khai. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, yêu cầu khách quan là phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Sinh viên là lực lượng trí thức, cần nhận thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm, tích cực, tự giác tham gia vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, đảm bảo cho đất nước hoà bình, ổn định, vững bước đi tới tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Nêu vị trí, đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân? 2. Trình bày mục đích, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Liên hệ thực tiễn và trách nhiệm của bản thân? 34 BÀI 4. CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM Xà HỘI CHỦ NGHĨA Chiến tranh nhân dân là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta và là “bộ phận quan trọng nhất, bao trùm nhất trong đường lối, nghệ thuật đấu tranh cách mạng của Đảng”. Nó đã tạo thành một sức mạnh to lớn, góp phần làm nên những chiến công hiển hách, quét sạch ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới trên đất nước ta, giành lại độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc. Do đó, nắm vững mục đích, đối tượng của chiến tranh và quan điểm của Đảng ta về chiến tranh là cơ sở để chúng ta đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, góp phần xây dựng ý chí quyết tâm, bản chất cách mạng của quân đội ta. Quán triệt đường lối chính trị, quân sự của Đảng; phân tích đánh giá tính chất xã hội - chính trị các cuộc xung đột và chiến tranh hiện nay trên lập trường của giai cấp công nhân. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC A. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC Chiến tranh nhân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc chiến tranh do toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lực lượng tiến hành chiến tranh là toàn thể nhân dân, bao gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt. 1. Mục đích của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Mục đích của chiến tranh nhân dân là nhằm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể: - Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo và thềm lục địa. - Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. - Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, đấu tranh không khoan nhượng với tất cả các lực lượng và những hành động làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. - Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 35 2. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc - Đối tượng tác chiến: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động có hành động phá hoại, xâm lược lật đổ cách mạng, hiện nay chúng thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật độ để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và sẵn sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ. - Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lược nước ta. + Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong; đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để lừa bịp dư luận. + Lực lược tham gia với quân đông, vũ khí trang bị hiện đại. Ví dụ: Cuộc chiến tranh Mĩ tiến công Nam Tư, Mĩ và liên quân đã sử dụng 3 tàu sân bay, 1200 máy bay hiện đại, thực hiện 35000 lượt oanh kích với 79000 tấn bom đạn, 10000 quả tên lửa đánh liên tục 78 ngày đêm theo thuyết “5 vòng tròn” mục tiêu: Cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, các cơ sở sản xuất then chốt; đánh vào tâm lí tinh thần dân chúng; các cơ sở giao thông; bộ đội tác chiến. + Khi tiến công thường trong giai đoạn đầu sẽ vao vây, phong toả, sau sử dụng hoả lực đánh bất ngờ, ồ ạt. Giai đoạn thực hành thôn tính lãnh thổ có thể đồng thời hỗ trợ bạo loạn lật đổ ở bên trong của các lực lượng phản động và sử dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao để lừa bịp dư luận. - Khi tiến hành chiến tranh xâm lược, địch có điểm mạnh, yếu sau: - Hiện nay chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giao, núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “nhân đạo” để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Chúng ra sức tổ chức các lực lượng chống đối trong nước, tạo dựng ngọn cờ, gây sung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, gây bạo loạn chính trị. Ví dụ: Từ 28/1/2001 đến ngày 7/2/2001, tại địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã chỉ đạo bọn phản động trong nước, kích động đồng bào dân tộc tiên hành bạo loạn mang màu sắc chính trị, nhằm mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi thành lập nhà nước “Đề Ga tự trị”. + Mạnh: => Có tiềm lực quân sự, kinh tế, khoa học lớn hơn ta nhiều lần. => Có vũ khí trang bị kĩ thuật hiện đại đang khống chế được liên hợp quốc và các nước đồng minh, lập được các căn cứ quân sự trên một số nước. => Quá trình chiến tranh, xâm lược sẽ cấu kết với lực lượng phản động người Việt và lực lượng phản động một số nước trong khu vực Đông Nam á, thực hiện ngoài đánh vào trong đánh ra. + Yếu: => Là cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, nhất định sẽ bị nhân dân ta và đa số nhân dân thế giới phản đối, lên án. Mâu thuẫn nội bộ của chúng, nhất định sẽ bùng nổ, nhất là cuộc chiến tranh bị sa lầy, kéo dài, có thương vong. 36 => Tiến hành chiến tranh xâm lược, kẻ địch phải đương đầu với dân tộc Việt Nam - có truyền thồng chống xâm lược kiên cường, bất khuất. => Hiện nay nước ta: tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân mạnh, được chuẩn bị trên cả nước thống nhất. Tiềm lực đó sẽ được sử dụng trong cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện, lấy lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định chúng ta sẽ làm hạn chế những mặt mạnh của địch, buộc chúng sa lầy bị động. => Địa hình, thời tiết nước ta phức tạp, khó khăn cho quân địch khi triển khai sử dụng lực lượng, phương tiện cũng như thực hiện cách đánh hiện đại và việc tổ chức công tác bảo đảm hậu cần kĩ thuật, nhất là khi chiến tranh kéo dài, bị sa lầy. B. TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC 1. Tính chất của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc - Là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, dưới sự lãnh đạo của Đảng: toàn dân đánh giặc, đánh địch trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, ngoại giao,… - Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng. - Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại: địch sẽ sử dụng vũ khí công nghệ cao, trang bị kỹ thuật hiện đại. Do đó, đòi hỏi ta phải sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng nhiện đại, kết hợp vũ khí hiện đại với thô sơ nhằm chống lại chúng. 2. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc - Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, chúng ta có thể tập hợp, động viên và phát huy cao độ, đông đảo được sức mạnh của toàn dân cả nước, chung sức đánh giặc. - Trong cuộc chiến tranh, nhân dân ta phải bảo vệ được độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cuộc chiến tranh mang tính độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời cũng được sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cả loài người tiến bộ trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia và quốc tế, dân tộc và thời đại để đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù. - Chiến tranh diễn ra khẩn trương, quyết liệt phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, địch sẽ thực hiện phương châm chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh. Quy mô chiến tranh có thể lớn và ác liệt ngay từ đầu. Kết hợp tiến công hoả lực với tiến công trên bộ, tiến công từ bên 37 ngoài kết hợp với bạo loạn lật đổ ở bên trong và bao vây phong toả đường không, đường biển và đường bộ để nhằm tới mục tiêu chiến lược trong thời gian ngắn. - Hình thái đất nước được chuẩn bị sẵn sàng, thế trận Quốc phòng và An ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ ngày đầu và lâu dài. II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC A. TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC 1. Vị trí Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc. Khẳng định, đây là cuộc chiến tranh của nhân dân và vì nhân dân. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh. 2. Nội dung thể hiện - Trong điều kiện mới, ta vẫn phải “ lấy nhỏ thắng lớn”, “ lấy ít địch nhiều”, để đánh thắng những đội quân mạnh hơn ta gấp nhiều lần, Đảng ta không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc... - Động viên toàn dân đánh giặc, chúng ta phải động viên và tổ chức quần chúng cùng lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, bằng những cách đánh độc đáo, sáng tạo… Toàn dân đánh giặc phải có lực lượng nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở; bộ đội địa phương và dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước. - Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống, đồng thời là quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta nhiều lần. Tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh thắng các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược, cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đã đánh thắng giặc Pháp và chống Mỹ xâm lược. Ngày nay, chúng ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều kiện mới, thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lược của địch. 3. Biện pháp thực hiện Để tiến hành chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới đòi hỏi phải: - Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. - Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, trong đó lấy xây dựng chất lượng chính trị làm cơ sở. 38 - Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc. B. TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH TOÀN DIỆN, KẾT HỢP CHẶT CHẼ GIỮA ĐẤU TRANH QUÂN SỰ, CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO, KINH TẾ, VĂN HOÁ VÀ TƯ TƯỞNG, LẤY ĐẤU TRANH QUÂN SỰ LÀ CHỦ YẾU, LẤY THẮNG LỢI TRÊN CHIẾN TRƯỜNG LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỂ GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CHIẾN TRANH 1. Vị trí Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành động cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh. 2. Nội dung thể hiện - Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của quốc gia nhưng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng. - Tất cả các mặt trận đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự giành thắng lợi trên chiến trường và cùng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh. - Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước trong lịch sử ông cha ta cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhưng chủ yếu đã đánh địch và thắng địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành được thắng lợi, giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nước đứng trước những thuận lợi mới và những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nỗ lực phấn đấu làm thất bại âm mưu và các mục tiêu chiến lược của địch, giành thắng lợi toàn diện cho chiến tranh. 3. Biện pháp thực hiện - Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng, tạo thế và lực cho từng mặt trận đấu tranh tạo nên sức mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hóa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Động viên sức mạnh của toàn dân tiến hành trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh xâm lược. - Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh trong từng giai đoạn cũng như quá trình phát triển của chiến tranh. Song phải luôn quán triệt lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc chiến tranh. 39 C. CHUẨN BỊ MỌI MẶT TRÊN CẢ NƯỚC CŨNG NHƯ TỪNG KHU VỰC ĐỂ ĐỦ SỨC ĐÁNH ĐƯỢC LÂU DÀI, RA SỨC THU HẸP KHÔNG GIAN, RÚT NGẮN THỜI GIAN CỦA CHIẾN TRANH GIÀNH THẮNG LỢI CÀNG SỚM CÀNG TỐT - Kẻ thù xâm lược là những nước lớn, có tiềm lực quân sự lớn mạnh hơn ta nhiều lần. Chúng dựa vào áp đảo quân số và vũ khí trang bị để thực hiện đánh nhanh thắng nhanh. - Vì vậy, trước hết ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực đủ sức đánh được lâu dài, làm thất bại âm mưu thủ đoạn “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Đồng thời phải ra sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cho phép. Trên cơ sở đó, ta dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Ngăn chặn địch không cho chúng mở rộng chiến tranh, mặt khác phải chuẩn bị sẵn sàng để đánh thắng địch trong điều kiện chiến tranh mở rộng. D. KẾT HỢP KHÁNG CHIẾN VỚI XÂY DỰNG, VỪA KHÁNG CHIẾN VỪA XÂY DỰNG, RA SỨC SẢN XUẤT, THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, GIỮ GÌN VÀ BỒI DƯỠNG LỰC LƯỢNG TA CÀNG ĐÁNH CÀNG MẠNH Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trước kia cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Nếu chiến tranh xảy ra, chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến đó sẽ diễn ra quyết liệt ngay từ đầu. Quy mô chiến tranh, thương vong về người, tiêu hao về vật chất kĩ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trương. Muốn duy trì được sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược, ta cần phải có tiềm lực kinh tế quân sự nhất định bảo đảm cho tác chiến giành thắng lợi. Vì vậy trong chiến tranh ta phải: Vừa kháng chiến, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất kĩ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh. E. KẾT HỢP ĐẤU TRANH QUÂN SỰ VỚI BẢO ĐẢM AN NINH CHÍNH TRỊ, GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI, TRẤN ÁP KỊP THỜI MỌI ÂM MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG PHÁ HOẠI GÂY BẠO LOẠN - Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Nếu chiến tranh nổ ra, địch sẽ tăng cường đánh phá ta bằng nhiều biện pháp: Tiến hành chiến tranh tâm lí, chiến tranh gián điệp, lợi dụng dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động chống đối để kích động, chia rẽ, làm mất ổn định chính trị, gây rối loạn lật đổ ở hậu phương ta để phối hợp lực lượng tiến công từ ngoài vào. - Vì vậy, đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường, ta phải kịp thời trấn áp mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch ở hậu phương ta, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. 40 F. KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI, PHÁT HUY TINH THẦN TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, TRANH THỦ SỰ GIÚP ĐỠ QUỐC TẾ, SỰ ĐỒNG TÌNH, ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN TIẾN BỘ TRÊN THẾ GIỚI - Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo sẽ bị nhân dân tiến bộ trên thế giới phản đối. - Đoàn kết mở rộng quan hệ tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân nước có quân xâm lược. III. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC A. TỔ CHỨC THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN - Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức, bố trí lực lượng để tiến hành chiến tranh và hoạt động tác chiến. - Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nước nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, đồng thời phối hợp với bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch liên tục, dài ngày. B. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN - Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện, lấy lực lưọng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. - Lực lượng toàn dân được tổ chức chặt chẽ gồm lực lượng chính trị quần chúng rộng rãi và lực lượng quân sự. - Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọng cả chất lượng và số lượng, trong đó lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. C. PHỐI HỢP CHẶT CHẼ CHỐNG QUÂN ĐỊCH TIẾN CÔNG TỪ BÊN NGOÀI VÀO VÀ BẠO LOẠN LẬT ĐỔ TỪ BÊN TRONG Khi tiến hành xâm lược nước ta, quân xâm lược luôn cấu kết chặt chẽ với lực lượng phản động bên trong, kết hợp tấn công quân sự từ bên ngoài với bọa loạn lật độ từ bên trong. Do đó, đòi hỏi ta phải phối hợp chống quân địch tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ bên trong, không để kẻ địch cấu kết với nhau. Đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị, chủ động, kịp thời dập tắt khi có bạo loạn xảy ra, lực lượng vũ trang và các cấp, các ngành, địa phương phải có kế hoạch và chủ động đề ra phương án phòng, chống bạo loạn lật đổ, không để bị động, bất ngờ. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc? 2. Nêu các quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa? Làm rõ quan điểm 1? 41 BÀI 5. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT NAM Lực lượng vũ trang nhân dân là một đội quân kiểu mới, sinh ra và phát triển từ các đội vũ trang cách mạng, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc. Chính vì vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn mang đậm bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân; luôn chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đổi mới toàn diện đất nước, chủ động mở cửa, hội nhập hiện nay đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. I. ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN A. KHÁI NIỆM Lực lượng vũ trang nhân dân là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lí, có nhiện vụ “chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là lực lượng xung kích trong khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền, là lực lượng nòng cốt của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân”. Nội dung chủ yếu của khái niệm: - Là tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lí. - Nhiệm vụ: + Chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. + Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng... + Cùng toàn dân xây dựng đất nước. + Là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân. B. ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN 1. Cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt 42 - Đất nước đã hoà bình thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược, đây là điều kiện thuận lợi cho xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau để cùng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, trong khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. - Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng. Đây là một khó khăn lớn cho ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, vì chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc chúng xác định chống phá ta về mọi mặt, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là một trọng điểm, với mục tiêu là vô hiệu hoá, phi chính trị hoá lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó, cần phải nắm chắc âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hoà bình” của địch để có kế hoạch phòng ngừa, bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt. 2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay đổi, có nhiều diễn biến phức tạp Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành Cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài1. 3. Sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, đất nước ta bước sang thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá - Thuận lợi cơ bản + Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát… + Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng và An ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước… + Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng... 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71-73 43 - Thách thức lớn: + Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. + Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. + Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng…1. 4. Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân Trong những năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã có bước trưởng thành lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba chức năng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, Nhà nước giao cho. Song, trên thực tế cần tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau: - Về chất lượng chính trị: Trên thực tế, trình độ lí luận, tính nhạy bén, sắc sảo và bản lĩnh chính trị của không ít cán bộ, chiến sĩ ta chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân còn có những mặt hạn chế, chưa đáp ứng được các tình huống phức tạp (nếu xảy ra). Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội dung bất cập, chưa thật sát nhiệm vụ và năng lực thực hành theo cương vị đảm nhiệm. - Về trình độ chính quy của Quân đội và công an chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến hiện đại và chưa tương xứng với công tác xây dựng. Chấp hành kỉ luật của một bộ phận lực lượng vũ trang còn chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. - Về trang bị của lực lượng vũ trang còn lạc hậu và thiếu đồng bộ. - Vấn đề nghiên cứu phát triển hoàn thiện nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn... C. NHỮNG QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI 1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân - Ý nghĩa: Đây là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang sẽ quyết 1 44 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.58-61. định bản chất cách mạng, mục tiêu, phương hướng chiến đấu, đường lối tổ chức và cơ chế hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm nắm chắc Quân đội và công an trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua đã minh chứng điều đó. - Nội dung: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn duy nhất nắm quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, Đảng không nhường hoặc chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất cứ giai cấp, lực lượng, tổ chức nào. Đảng có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Đảng lãnh đạo trên mọi hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức... cả trong xây dựng và chiến đấu. 2. Tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang - Cơ sở: Từ truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong mấy chục năm qua. - Nội dung: Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững tính độc lập tự chủ, chủ động không bị chi phối ràng buộc. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về khoa học - công nghệ để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Tập trung từng bước hiện đại hoá trang bị kĩ thuật, quản lí khai thác bảo quản có hiệu quả trang bị hiện có... Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm. 3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở - Cơ sở: Xuất phát từ lí luận Mác - Lênin về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của ông cha ta “binh quý hổ tinh, bất quý hổ đa”... Từ đòi hỏi yêu cầu cao của nhiệm vụ đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Từ thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng chất lượng, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở... Do đó lực lượng vũ trang nhân dân của ta hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho... Từ sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm phi chính trị hoá Quân đội. - Nội dung: Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Nâng cao chất lượng là chính, đồng thời có số lượng phù hợp với tình hình nhiệm vụ và khả năng kinh tế của đất nước. Phải có cơ cấu hợp lí giữa các thứ quân, giữa lực lượng thường trực với lực lượng dự bị động viên. Thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, diễn tập để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. 45 Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có chất lượng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Về chính trị phải thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân nhân dân tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tin tưởng tuyệt đối, tự giác chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương chính sách pháp luật. Chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh (tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân...). Chăm lo xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị, đảng viên có phẩm chất năng lực tốt đủ sức lãnh đạo đơn vị. 4. Đảm bảo lực lượng vũ trang nhân dân luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi - Cơ sở: Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản, thường xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân chủ động đối phó kịp thời và thắng lợi trong mọi tình huống có thể xảy ra. - Nội dung: Lực lượng vũ trang nhân dân phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt, duy trì và chấp hành nghiêm các chế độ, quy định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban, trực chiến, trực chỉ huy... II. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI Phương hướng chung: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khoá IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc xác định: “Tập trung xây dựng lực lượng Quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Với tổ chức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân sách hợp lí, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là cơ sở để xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang. Đối với Quân đội phải tiếp tục đẩy mạnh “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. A. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN THEO HƯỚNG CÁCH MẠNG CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI 1. Xây dựng Quân đội cách mạng - Vị trí: Là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng Quân đội của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng. - Nội dung: + Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội, làm cho lực lượng này tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. 46 + Chấp hành mọi đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. + Kiên định mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. + Trước diễn biến tình hình phải phân biệt được đúng sai. + Có tinh thần đoàn kết quân dân, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế tốt. + Kỉ luật tự giác nghiêm minh, dân chủ rộng rãi... 2. Xây dựng Quân đội chính quy - Là thực hiện thống nhất về mọi mặt (tổ chức, biên chế, trang bị). Dựa trên những chế độ, điều lệnh quy định, đưa mọi hoạt động của Quân đội vào nề nếp. Nhằm thống nhất ý chí và hành động về chính trị, tư tưởng và tổ chức của của Quân đội để tăng cường sức mạnh chiến đấu tổng hợp. - Nội dung: + Thống nhất về bản chất cách mạng, mục tiêu chiến đấu, về ý chí quyết tâm, nguyên tắc xây dựng Quân đội về tổ chức biên chế trang bị. + Thống nhất về quan điểm tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, về phương pháp huấn luyện giáo dục. + Thống nhất về tổ chức thực hiện chức trách nề nếp chế độ chính quy, về quản lí bộ đội quản lí trang bị. 3. Xây dựng Quân đội tinh nhuệ - Biểu hiện mọi hoạt động của Quân đội trên các lĩnh vực đạt hiệu quả cao. - Nội dung: Được xây dựng toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, tổ chức,... + Tinh nhuệ về chính trị: Đứng trước diễn biến của tình hình, có khả năng phân tích và kết luận chính xác đúng, sai từ đó có thái độ đúng đắn với sự việc đó. + Tinh nhuệ về tổ chức: Tổ chức gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. + Tinh nhuệ về kĩ chiến thuật: Phải giỏi sử dụng các loại binh khí kĩ thuật hiện có, biết sử dụng trang bị vũ khí hiện đại. Giỏi các cách đánh, vận dụng mưu trí sáng tạo các hình thức chiến thuật. Giỏi vận động nhân dân và bảo vệ nhân dân. 4. Xây dựng Quân đội từng bước hiện đại - Đi đôi với chính quy, tinh nhuệ phải tiếp tục từng bước hiện đại hoá Quân đội về trang bị, vũ khí. Hiện đại hoá là một tất yếu, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội. - Nội dung: Từng bước đổi mới vũ khí, trang bị kĩ thuật cho Quân đội. + Xây dựng rèn luyện cán bộ, chiến sĩ Quân đội có bản lĩnh trí tuệ và năng lực hành động, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại. Phát triển các quân binh chủng kĩ thuật; có nghệ thuật quân sự hiện đại, khoa học quân sự hiện đại; có hệ thống công 47 nghiệp quốc phòng hiện đại; có kỹ thuật nghiệp vụ an ninh tiên tiến, bảo đảm cho Quân đội hoạt động trong mọi điều kiện, tình huống. + Những nội dung trên là cả một quá trình phấn đấu lâu dài mới đạt được, hiện nay ta phải thực hiện bước đi: “từng bước” nghĩa là phải dần dần bằng khả năng của nền kinh tế và trình độ khoa học của đất nước. Quá trình hiện đại hoá Quân đội phải gắn với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, với từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng, sản xuấtmới, kết hợp phục hồi sửa chữa cải tiến vũ khí trang bị hiện có và mua một số vũ khí cần thiết. B. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, huấn luyện và quản lý tốt khi cần sẽ huy động nhanh chóng theo kế hoạch. Số liệu tham khảo: Nước Mĩ Trung Quốc Nhật Bản Thái Lan Singapo Lực lượng thường trực 152,3 vạn 270 vạn 2,4 vạn 33,1 vạn 5,3 vạn Lực lượng dự bị động viên 213 vạn 300 vạn Phòng vệ 4,8 vạn 50 vạn 18,2 vạn C. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh rộng khắp coi trọng cả số và chất lượng, lấy chất lượng làm chính (Học ở bài 10). Bác Hồ nói: Dân quân tự vệ và du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ thù hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã. - Năm 1990, Chính phủ đã ban hành Điều lệ dân quân tự vệ. - Pháp lệnh Dân quân tự vệ, năm 2004. - Luật Dân quân tự vệ, năm 2009. Đây là sự thể chế hoá đường lối quan điểm của Đảng về nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng. Nội dung: Dân quân tự vệ được xây dựng rộng khắp ở tất cả thôn, xóm, bản làng, nông trường, công trường, doanh nghiệp, nhưng có trọng điểm, chú ý có hình thức phù hợp trong các thành phần kinh tế. Chú trọng xây dựng cả số lượng và chất lượng, lấy chất lượng làm chính, tổ chức biên chế phải phù hợp. Huấn luyện phải thiết thực, hiệu quả. Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dân quân tự vệ. Thực hiện tốt các chính sách đối với dân quân tự vệ. 48 III. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN A. CHẤN CHỈNH TỔ CHỨC BIÊN CHẾ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN 1. Bộ đội chủ lực Tổ chức các đơn vị phải gọn, mạnh, cơ động, có sức chiến đấu cao. Bố trí các binh đoàn chủ lực phải gắn với thế trận Quốc phòng và An ninh nhân dân trên cả nước cũng như từng vùng chiến lược. 2. Bộ đội địa phương Phải căn cứ vào tình hình cụ thể để tổ chức và bố trí cho phù hợp với từng địa phương và thế trận cả nước. 3. Bộ đội biên phòng Cần có số lượng phù hợp, chất lượng cao, tổ chức hợp lý để hoàn thành nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, vùng biển, đảo… theo nhiệm vụ được giao. 4. Dân quân tự vệ Được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị ở từng đơn vị hành chính, đơn vị sản xuất và dân cư ở cơ sở, có số lượng phù hợp, chất lượng cao. B. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HUẤN LUYỆN, GIÁO DỤC, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC QUÂN SỰ VIỆT NAM - Yêu cầu huấn luyện, phải đúng hướng, đáp ứng nhiệm vụ, sát thực tế, phù hợp với khả năng trang bị, địa hình, thời tiết và cách đánh của ta. - Đặc biệt cần có sự chuyển hướng về nội dung huấn luyện “phòng tránh, đánh trả trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao”. Thực hiện đúng phương châm “cơ bản, toàn diện, thiết thực, vững chắc”. - Phải đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ của đất nước. C. TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU VỀ VŨ KHÍ, TRANG BỊ KỸ THUẬT CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN - Kết hợp chặt chẽ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Trước hết cần bảo đảm duy trì được một số cũ khí trang bị hiện có, cải tiến sản xuất các vũ khí và vật tư cần thiết. - Giải quyết yêu cầu cấp bách về vũ khí, trang bị kĩ thuật theo hướng từng bước hiện đại. Trước mắt phấn đấu duy trì tốt vũ khí trang bị hiện có trong biên chế và dự trữ. Tập trung bảo đảm trang bị cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, ưu tiên các quân chủng, binh chủng kỹ thuật và bộ đội biên phòng. D. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN CÓ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC TỐT Một trong những thành công của Đảng là đã xây dựng được đội ngũ cán bộ vững mạnh. Phải xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân có số 49 lượng đủ, chất lượng cao, có cơ cấu tổ chức hợp lí: “Chất lượng người cán bộ là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ”. E. THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC VÀ ĐẦY ĐỦ CÁC CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN - Chính sách của Đảng và nhà nước có vai trò to lớn trong việc phát huy tính tích cực, tự giác, động viên tình cảm, ý chí của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. - Chính sách trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Kết hợp giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. - Trong chính sách phải thể hiện được hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân là một ngành lao động đặc biệt làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc”. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ta vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có các bước phát triển mới để làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch. Thấm nhuần đường lối đổi mới, đường lối quân sự của Đảng, nhân dân ta nhất định xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một nội dung cơ bản trong đường lối quốc phòng đường lối quân sự của Đảng ta. Sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp... đã và đang đặt ra những yêu cầu mới cao hơn. Sinh viên là lực lượng trẻ chủ nhân, tương lai của đất nước đang được Đảng và Nhà nước giáo dục đào tạo thành những cán bộ khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ, người trí thức xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sinh viên ngoài nội dung học tập chuyên môn, chuyên ngành, rèn luyện nâng cao đạo đức thể chất. Còn cần phải tích cực tham gia công tác phong trào của đoàn thanh niên, hội sinh viên; tích cực tham gia vào các hoạt động Quốc phòng và An ninh của Nhà trường. Góp phần xây dựng Nhà trường vững mạnh toàn diện. Sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang nhân dân khi Tổ quốc cần. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Nêu các nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân? 2. Trình bày phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình hiện nay? 50 BÀI 6. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại là vấn đề rộng, bao quát toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội, Quốc phòng và An ninh và đối ngoại của đất nước, luôn có sự vận động phát triển, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại, là cụ thể hóa trong tổ chức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH A. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với Quốc phòng An ninh Kinh tế, Quốc phòng và An ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc, độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ thống qui luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến Quốc phòng - An ninh; ngược lại, Quốc phòng và An ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. 2. Xuất phát từ vai trò quyết định của kinh tế đối với bản chất chế độ xã hội và Quốc phòng - An ninh Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của Quốc phòng - An ninh. Lợi ích kinh tế, suy đến cùng là nguyên nhân làm nãy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động Quốc phòng An ninh. Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của Quốc phòng An ninh. Xây dựng sức mạnh Quốc phòng và An ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa qui định; còn tăng cường sức mạnh Quốc phòng và An ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định. 3. Xuất phát từ vai trò của kinh tế đối với việc cung cấp cơ sở vật, chất nhân lực, vật lực cho hoạt động Quốc phòng - An ninh Tiềm lực, sức mạnh của nền quốc phòng mạnh hay yếu phụ thuộc vào tiềm lực và sức mạnh của nền kinh tế. 51 Kinh tế quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho Quốc phòng - An ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang, quyết định đến đường lối chiến lược Quốc phòng - An ninh. 4. Quốc phòng và An ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà nó còn tác động trở lại với kinh tế - xã hội trên cả hai góc độ tích cực và tiêu cực - Tác động tích cực: Thứ nhất, Một nền Quốc phòng và An ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai, Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc Quốc phòng và An ninh trong thời bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. - Sự tác động tiêu cực: Thứ nhất, Quốc phòng và An ninh là lĩnh vực phi kinh tế, tiêu tốn của cải do nền kinh tế sản xuất ra. Thứ hai, Lực lượng lao động của xã hội cung cấp cho Quốc phòng và An ninh bao giờ cũng là lực lượng trẻ, khoẻ, có tri thức. Khi trực tiếp tham gia các lực lượng vũ trang và các hoạt động Quốc phòng và An ninh không những lực lượng lao động này không làm ra của cải xã hội, chỉ tiêu tốn những của cải đó, mà sau quá trình tham gia đó, xã hội còn phài dành một phần của cải để giải quyết các vấn đề chính sách xã hội của lực lượng vũ trang. Thứ ba, Hoạt động Quốc phòng và An ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Thứ tư, Chi phí cho Quốc phòng và An ninh tạo áp lực lớn cho phát triển kinh tế - xã hội. B. CƠ SỞ THỰC TIỂN 1. Các quốc gia trên thế giới Các nước trên thế giới thường xuyên quan tâm chăm lo việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng và An ninh kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh. Từ thực tiễn phong trào cách mạng thế giới cả những bài học thành công và không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa trong bảo vệ Tổ quốc. 2. Thực tiễn kết hợp ở Việt Nam - Kinh nghiệm kết hợp trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta + Trong thời bình các triều đại phong kiến Việt Nam luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ nước, chuẩn bị lực lượng trong dân, bồi dưỡng sức dân với tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc”, “Dân giàu nước mạnh”, “Quốc phú binh cường”; thực hiện “Khoan thư sức dân”, “Ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”. 52 + Trong thời chiến ông cha ta đã dùng kế sách “bách tính giai binh” tức là trăm Họ đều là lính, cả nước đồng lòng đánh giặc, thực hiện “vườn không nhà trống” đây là nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc. - Từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam, do nắm bắt được quy luật, biết kế thừa kinh nghiệm lịch sử nên đã thực hiện việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với Quốc phòng và An ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương, giải pháp sáng tạo, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam từ sau năm 1945 đến nay. + Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”…. + Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975) Ở Miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho Miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo léo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế. Ở Miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa Miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. + Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1975. Đại hội IV, Đại hội V: Coi vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là một bộ phận cấu thành đường lối xây dựng kinh tế của Đảng. + Thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới Đại hội VI-VII: Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được hình thành tiếp tục khẳng định, đặt cơ sở khoa học cho nhận thức về bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; Tư duy mới này đã làm xuất hiện phạm trù kép Quốc phòng - An ninh. Đại hội VIII của Đảng đã coi kết hợp phát triển kinh tế với Quốc phòng và An ninh trở thành một trong sáu quan điểm lớn của Đảng. Đại hội IX, X vấn đề kinh tế được mở rộng thành kinh tế - xã hội, kết hợp kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng - An ninh. Đến Đại hội XI: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với Quốc phòng - An ninh; Quốc phòng và An ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”1. Đại hội XII: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với Quốc phòng và An ninh và Quốc phòng và An ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa Quốc phòng và An ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về Quốc phòng - An ninh” 2. 1 2 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 234 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 34 53 II. NỘI DUNG KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại là sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội với Quốc phòng và An ninh và đối ngoại thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước, trên từng vùng và từng địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước; các lĩnh vực chủ động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển đất nước được thực hiện thắng lợi, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị - xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc luôn ở trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ. A. KẾT HỢP TRONG XÁC ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Trên cơ sở kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các kỳ đại hội trước, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với Quốc phòng và An ninh và Quốc phòng và An ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và Quốc phòng và An ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Đây là quan điểm cơ bản của Đảng thể hiện sâu sắc vấn đề có tính nguyên tắc về mối quan hệ biện chứng trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thực tiễn, kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường Quốc phòng và An ninh trên các địa bàn chiến lược đã, đang đạt hiệu quả thiết thực, trở thành điều kiện tiên quyết bảo đảm huy động tổng hợp mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế,… để xây dựng, phát triển từng khu vực, địa bàn và đất nước nhanh, bền vững. Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh sẻ phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. 54 B. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG LÃNH THỔ Nội dung chung - Kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội với Quốc phòng và An ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố. - Kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã phường chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, thành phố, huyện, quận. - Kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng Quốc phòng và An ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng Quốc phòng và An ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc. - Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội với xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường... bảo đảm tính “lưỡng dụng” trong mỗi công trình được xây dựng. - Kết hợp xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh. 1. Vùng kinh tế trọng điểm Hiện nay nước ta xác định có 3 vùng kinh tế trọng điểm: phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh); phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu); Miền trung (Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Dung Quất - Quãng Ngãi). Các vùng kinh tế trọng điểm nói trên đều là nòng cốt cho phát triển kinh tế của từng vùng và cho cả nước. Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất đô thị hoá cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung của các mối giao thông quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ…. Về Quốc phòng - An ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối tượng, mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng có khả năng là hương tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch; hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ với nước ta. Vì vậy, phải thực hiện tốt phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố tăng cường Quốc phòng - An ninh. 55 Nội dung kết hợp là: - Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn quy mô trung bình, bố trí phân tán trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có chiến tranh. - Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ từng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường các công trình phòng thủ dân sự… - Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng Quốc phòng - An ninh, các tổ chức chính trị, các đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọ đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan, cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất. - Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. 2. Vùng núi biên giới Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài 4.550 km giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật độ dân số thấp (khoảng 20-40 người/1km2), kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn. Vùng núi biên giới có tầm quan trọng đặt biệt trong chiến lược phòng thủ và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung kết hợp là: - Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế củng cố Quốc phòng và An ninh ở các vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước. - Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chổ và có chính sách phù hợp để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới. - Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và Quốc phòng - An ninh. Trước hết, cần tập trung xã dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế. - Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo. - Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi nguồn lực của cả Trung ương và các địa phương để cùng giải quyết. - Đặc biệt các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng - kinh tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh Quốc phòng - An ninh. 56 3. Vùng biển đảo Nước ta là quốc gia biển, có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với bờ biển dài hơn 3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Việt Nam có trên 3000 đảo, quần đảo lớn nhỏ, với diện tích hơn 1 triệu km2 (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa mở lớn là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông ra thái bình dương, mở cử mạnh mẽ ra nước ngoài và hội nhập quốc tế. Biển Việt Nam có vị trí đặc biệt trong phát triển kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và với quốc phòng an ninh, là địa thế hiểm yếu để xây dựng thế trận phòng thủ. Nội dung kết hợp: - Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế biển và xây dựng thế trận Quốc phòng và An ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng và An ninh một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài. - Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, bám trụ phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc lâu dài. - Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo bám trụ làm ăn lâu dài. - Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống, làm ăn. - Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển. Thông qua đo, vừa thể hiên chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn chiếm biển, đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hoà bình các tranh chấp trên biển, đảo. - Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây dựng lực lượng dân quân biển, các Hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt đông vi phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta… Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ biển, đảo vững chắc. - Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở các vùng biển, đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải Quân, cảnh sát biển, Phòng không, không quân… để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo. 57 C. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG CÁC NGÀNH, CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ CHỦ YẾU 1. Kết hợp trong công nghiệp Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc, nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho công nghiệp quốc phòng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu; sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động Quốc phòng - An ninh. Nội dung kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng và An ninh và đối ngoại trong phát triển công nghiệp là: - Kết hợp ngay từ khâu quy hạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành công nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nông nghiệp, nông thôn. - Tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phòng như cơ khí chế tạo, điện tử, điện tử, công nghiệp, điện tử kỉ thuật cao, luyện kim, hoá chất, đóng tàu để vừa đáp ứng trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao phục vụ Quốc phòng - An ninh. - Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. - Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nước ta (bao gồm cả công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới; ưu tiên những ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao. - Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp và phát triển lực lượng tự bảo vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến. - Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quí hiếm cho sản xuất quân sự. 2. Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp Hiện nay nước ta có hơn 70% dân số 50% lực lượng lao động ở nông thôn và làm nghề nông, lâm, ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là từ khu vực này. Nội dung kết hợp: - Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo và lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp 58 theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị cao phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có lượng dự trữ dồi dào về mọi mặt cho Quốc phòng - An ninh. - Phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại. - Gắn với việc động viên đưa dân ra ra lập nghiệp ở các đảo để xây dựng các làng xã , huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh bắt xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ, lực lượng dân quân biển đảo; phối hợp chặt chẻ với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển để bảo vệ biển, đảo. - Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh, định cư, xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. 3. Kết hợp trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục và xây dựng cơ bản - Trong giao thông vận tải: + Phát triển giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường thuỷ, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài. + Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các tuyến trục đường Bắc - Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn đường Hồ Chí Minh. + Trong thi công thiết kế các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến, nhất là các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng vận chuyển lớn ,liên tục. + Phải thiết kế, xây dựng lại đường ống dẫn dầu Bắc - Nam, chôn sâu bí mật, có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình và thời chiến. + Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần chú trọng cải tạo, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ phương tiện. + Việc nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu trong nội địa, sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm đường băng cho máy bay khi cần thiết trong chiến tranh. + Trong một số tuyến đường xuyên Á, sau này được xây dựng qua Việt Nam, ở những nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các khu vực phòng thủ kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng các tuyến đường này khi tiến công xâm lược nước ta với quy mô lớn. + Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến. 59 - Trong bưu chính viễn thông: + Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành thông tin liên lạc quốc gia với ngành thông tin quân đội, công an để phát triển hệ thống rhông tin quốc gia hiện đại. + Có phương án thiết kế xây dựng và bảo đảm hệ thống thông tin liên lạc một cách vững chắc trong mọi tình huống. + Có phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và có khả năng chống nhiễu cao, phòng chống chiến tranh thông tin điện tử của địch. + Khi hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại của địch. + Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến. - Trong xây dựng cơ bản: + Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, quy mô nào cũng phải tính đến yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hoá phục vụ được cho cả quốc phòng, an ni ninh, cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân sự. + Khi xây dựng các thành phố đô thị, phải gắn với các khu vực phòng thủ địa phương, phải xây dựng các công trình ngầm (nhà cao tầng có công trình ngầm, giao thông có đường ngầm) + Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn đều phải tính đến khã năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. + Đối với doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong nghiên cứu sáng chế, chế tạo những vât liệu siêu bền, có khã năng chốnh xuyên, chống mặn, chống bức xạ, dể vận chuyển phục vụ xây dựng các công trình phòng thủ, công sự trận địa của lực lượng vũ trang và của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. + Khi cấp giấy phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngoài, phải có ý kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền. - Trong khoa học và công nghệ, giáo dục + Phải phối hợp chặt chẻ toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công nghệ then chốt của cả nước và các ngành khoa học của Quốc phòng và An ninh trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ tổ quốc, + Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vừa phục vụ nhu cầu Quốc phòng - An ninh, bảo vệ tổ quốc. + Coi trọng bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước. 60 - Trong lĩnh vực y tế: + Phối, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân, bộ đội và người nước ngoài + Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên địa bàn, đặt biệt là miền núi, biên giới, hải đảo. + Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra. + Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, klhám chữa bệnh cho nhân dân thời bình và thời chiến. D. KẾT HỢP TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC - Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh tế và nhu cầu phòng thủ đất nước. - Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật trong huấn luyện, chiến đấu và sãn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. - Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát triển kinh tế - xã hội. - Phát huy vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn nước ngoài. E. KẾT HỢP TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI - Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, phải hướng vào việc phát triển kinh tế trong nước, đồng thời phải giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực trong mở rộng quan hệ đối ngoại. - Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: Kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác; Kết hợp trong việc phân bổ đầu tư; Kết hợp trong xây dựng và quản lý các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế; đồng thời phải chú trọng bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác cho cán bộ, nhân viên là người Việt Nam làm việc trong các cơ sở đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống Việt Nam; đồng thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung cấp tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH A. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP TRONG THỰC HIỆN KẾT HỢP 61 PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH - Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc kết hợp được thể hiện ở chổ: + Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh một cách đúng đắn. + Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính quyền, đoàn thể, các chủ trương kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh Tổ chức tốt việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ trương và chỉ đạo thực tiễn thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. - Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng và An ninh phải: + Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy định, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ở bộ, ngành, địa phương cơ sở của mình dài hạn và hàng năm + Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẩn chỉ đoạ cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện, kết hợp phát triển Quốc phòng và An ninh với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ở ngành, địa phương mình. B. BỒI DƯỠNG NÂNG CAO KIẾN THỨC, KINH NGHIỆM KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG - Đối tượng bồi dưỡng: Phải phổ cập kiến thức Quốc phòng và An ninh cho toàn dân nhưng trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. - Nội dung bồi dưỡng: Phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhàm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng và quần chung nhân dân. - Hình thức bồi dưỡng: Phải kết hợp bồi dưỡng tại trường với bồi dưỡng tại chức, kết hợp lí thuyết với thực hành. Thông qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc 62 diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các bộ, ngành, địa phương cơ sở để nâng cao hoàn thiện sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cảu đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh trong tình hình mới. C. XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC TỔNG KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG TRONG THỜI KÌ MỚI Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài). Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn: như chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bố đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư… D. HOÀN CHỈNH HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI Mọi chủ trương đường lối chính sách của đảng và Nhà nước liên quan đến xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh đều phải được thể chế hoá thành luật pháp, pháp lệnh, nghị định…. một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước. Đảng và nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư cả trong nước và vốn đâu tư nước ngoài để kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh; nhất là đối với các công trình trọng điểm, ở những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo. Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần đối với các tổ chức, các nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có hiệu quả cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới. E. CỦNG CỐ KIỆN TOÀN VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ THAM MƯU CỦA CƠ QUAN CHUYÊN TRÁCH QUỐC PHÒNG - AN NINH Căn cứ NQ 119/2004NĐ - CP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về Công tác Quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa phương, cần nghiên cứu bổ sung mở rộng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về Quốc phòng và An ninh nói chung và về kết hợp 63 phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh trong thời kì mới. Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kì mới. Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có sự phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh. Kết hợp kinh tế với Quốc phòng - An ninh, Quốc phòng và An ninh với kinh tế là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp củng cố Quốc phòng và An ninh bảo vệ Tổ quốc, thực chất là thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta. Để thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với Quốc phòng và An ninh mọi cấp, mọi ngành, từ Trung ương đến các địa phương phải nhận thức đầy đủ mối quan hệ hữu cơ và nhu cầu cấp thiết của việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với Quốc phòng và An ninh ở nước ta hiện nay để chủ động, tự giác thực hiện một cách nghiêm túc ngay từ đầu ở mọi khâu, mọi bước theo chức năng, nhiệm vụ, phạm vi của mình. Cần được nghiên cứu đầy đủ, vận dụng sáng tạo để đạt hiệu quả cao, đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Phân tích tính tất yếu phải kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay? 2. Nêu mục tiêu, yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay? 3. Nêu các giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay? Phân tích giải pháp: Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay cho các đối tượng? 64 BÀI 7. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần về quân sự, kinh tế. Song với lòng yêu nước, ý chí kiên cường, cách đánh mưu trí, sáng tạo, cha ông ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc như chiến thắng Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử … Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần yêu nước và cách đánh của quân dân ta lại được phát huy lên một tầm cao mới và đã đánh thắng hai kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh là thực dân pháp và đế quốc Mĩ. Từ thực tiễn chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã hình thành nên nghệ thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam không ngừng phát triển, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. I. TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử dân tộc Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong chống giặc ngoại xâm và yêu cầu làm thủy lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhà nước Văn Lang đây là nhà nước đầu tiên của nước ta, có lãnh thổ khá rộng và vị trí địa lý quan trọng, bao gồm vùng Bắc bộ và bắc Trung Bộ ngày nay, nằm trên đầu mối những đường giao thông qua bán đảo Đông Dương và vùng Đông Nam Á. Nền văn minh sông Hồng còn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh cao là văn minh Đông Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương. Do có vị trí địa lý thuận lợi, nước ta luôn bị các thế lực ngoại xâm nhòm ngó. Sự xuất hiện các thế lực thù địch và âm mưu thôn tính của chúng là nguy cơ trực tiếp đe dọa vận mệnh nước ta. Do vậy, yêu cầu chống giặc ngọai xâm, bảo vệ độc lập và cuộc sống đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta. Người Việt muốn tồn tại, bảo vệ cuộc sống và nền văn hóa của chính mình chỉ có con đường duy nhất là đoàn kết đứng lên đánh giặc, giữ nước. A. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC 1. Về địa lý, địa hình Nhà nước Văn lang trước kia, Nhà nước Việt Nam ngày nay có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông, có hệ thống giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường không, bảo đảm giao lưu trong khu vực châu Á và thế giới thuận lợi. Từ lâu, nhiều kẻ thù luôn nhòm ngó, đe dọa và tiến 65 công xâm lược. Để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc. ông cha ta đã đoàn kết phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trạn đánh giặc. 2. Về kinh tế Kinh tế nước ta là tự cung, tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính,trong đó trồng trọt, chăn nuối là chủ yếu, trình độ canh tác thấp. Trong quá trình phát triển tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi đội với giữ nước, thực hiện nhiều kế sách như “phú quốc, binh cường”, “ngụ binh ư nông” … Tích cực phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định, nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời, phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra vũ khí để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. 3. Về chính trị, văn hóa - xã hội Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa thuận, đoàn kết. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sớm xây dựng, xác định được chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng được nền văn hóa mang bản sắc Việt Nam. Đất nước bao gồm làng, xã, thôn, bản có nhiều dân tộc cùng chung sống. Mỗi dân tộc, làng xã có phong tục, tập quán riêng, tạo nên nét đặc sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đó, dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hóa truyền thống: đoàn kết, yêu nước, thương nòi, sống hòa thuận, thủy chung; lao động cần cù sáng tạo, đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất. B. CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC 1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến chống quân Tần. Đó là cuộc kháng chiến gian khổ từ năm 214 tr. CN của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Vua Hùng và Thục Phán. Nhân sự suy yếu của triều đại Hùng Vương cuối cùng, Thục Phán một thủ lĩnh người Âu Việt đã thay thế Vua Hùng, thống nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Lạc thành lập Nhà nước Âu Lạc, dời đô về Cổ Loa, Hà Nội. Nhà nước Âu Lạc kế thừa Nhà nước Văn Lang trên mọi lĩnh vực. Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần, cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc do An Dương Vương lãnh đạo chống quân xâm lược của Triệu Đà từ năm 184 đến 179 tr. CN bị thất bại. Từ đây đất nước ta rơi vào thảm họa hơn một nghìn năm phong kiến Trung Hoa đô hộ, lịch sử gọi là thời kì Bắc thuộc. 2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập từ thế kỷ II tr.CN đến đầu thế kỷ X Trong hơn một nghìn năm (từ năm 179 tr.CN đến năm 938), nước ta liên tục bị triều đại phong kiến phương Bắc từ nhà Triệu, nhà Hán, nhà Lương … đến nhà Tùy, nhà Đường đô hộ. Trong thời gian này, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ, đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn, phát huy tinh hoa của nền văn hóa dân tộc và quyết đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. 66 - Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 đã giành được độc lập. Nền độc lập được khôi phục và giữ vững trong ba năm. - Năm 248, Triệu Thị Trinh phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân của người con gái núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) làm cho quân thù nhiều phen kinh hồn, bạt vía. Sau gần nửa năm chiến đấu khiến cho toàn thể Giao Châu chấn động. Mặc dù bà Triệu cùng nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng kẻ thù có sức mạnh vượt trội và đàn áp rất khốc liệt, nên khởi nghĩa bị thất bại. - Mùa xuân năm 542, phong trào yêu nước của người Việt lại bùng lên mạnh mẽ, rầm rộ. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Lý Bôn, anh hùng hào kiệt bốn phương cùng toàn dân vùng lên lật đổ chính quyền nhà Lương. Sau đo, nghĩa quân liên tiếp đánh thắng hai cuộc phản công của kẻ thù. Đầu năm 544, Lý Bôn lên ngôi hoàng đế (Lý Nam Đế) đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. - Khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687. - Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722. - Khởi nghĩa của Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766 đến 791. - Trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn và họa xâm lăng của quân Nam Hán, Ngô Quyền là một danh tướng của Dương Đình Nghệ đã đứng lên lãnh đạo quân dân ta, kiên quyết đánh giặc, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền cùng quân và dân ta đã nhấn chìm toàn bộ đoàn thuyền của quân Nam hán, khiến Hoàng Thao phải bỏ mạng, vua Nam Hán phải bải binh, chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đất nước ta mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỉ nguyên của độc lập, tự chủ. 3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỉ X - XVIII - Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất năm 981 nhà Tiền Lê Thời nhà Đinh, công cuộc xây dựng đất nước đang được xúc tiến thì năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám hại. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước thừa dịp âm mưu lật đổ và thôn tính. Lúc bấy giờ, ở Trung quốc, nhà Tống đã thành lập và đang phát triển. So với Nam Hán, thì nhà Tống là một triều đại cường thịnh của một quốc gia phong kiến lớn nhất châu Á đương thời. Nhân dịp suy yếu của nhà Đinh, nhà Tống quyết định phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt. Trong khi vua Đinh còn trẻ, chưa đủ khả năng và uy tín tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến, vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, triều thần và quân sĩ đã suy tôn Lê Hoàn, người đang giữ chức thập đạo tướng quân lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi, lập nên triều đại nhà Tiền Lê và đảm nhiệm sứ mạng lịch sử, tổ chức và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. - Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ 2 (1075 - 1077) của nhà Lý Tuy bị đại bại trong lần xâm lược năm 981, nhà Tống vẫn chưa chịu từ bỏ tham vọng xâm lược nước ta. Khoảng giữa thế kỉ XI, vua Tống Thần Tông ra lệnh chuẩn bị lực lượng đánh Đại Việt lần nữa, nhằm giành thắng lợi ở Đại Việt để tạo thế uy 67 hiếp nước Liêu, nước Hạ. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt, lúc đó nắm giữ binh quyền trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, nhận thấy không thể bị động đối phó, đợi quân giặc tiến công sang, mà phải chủ động tiến công trước để đẩy kẻ thù vào thế bị động. Với chủ trương thực hiện “tiên phát chế nhân”, “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”, Lý Thường Kiệt đã chủ động đưa quân tiến công sang đất Tống tiêu diệt lực lượng ở các căn cứ xuất phát của kẻ thù, rồi rút về phòng thủ đất nước. Biết quân Tống thế nào cũng kéo quân sang phục thù, Lý Thường Kiệt đã khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, xây dựng tuyến Như Nguyệt để chặn giặc; đồng thời, triển khai lực lượng, bố trí thế trận chống giặc ngoại xâm. Trận phản công Như Nguyệt (tháng 3/1077), quân và dân Đại Việt đã quét sạch quân xâm lược Tống ra khỏi biên cương của Tổ quốc. - Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỉ XIII Từ năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo công cuộc dựng nước và giữ nước (1226 - 1400), đã lãnh đạo nhân dân ta ba lần kháng chiến chống quân Nguyên giành thắng lợi vẻ vang, bổ sung những nét đặc sắc vào nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất vào năm 1258, quân và dân ta đã đánh thắng 3 vạn quân Nguyên. Cuộc kháng chiến lần thứ hai vào năm 1285, quân và dân ta đã đánh thắng 60 vạn quân Nguyên. Cuộc kháng chiến lần thứ ba vào năm 1287 - 1288, quân và dân ta đã đánh thắng 50 vạn quân Nguyên. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), dân tộc ta phải liên tiếp ba lần đứng lên chống xâm lược. Kháng chiến chống quân Nguyên không chỉ là cuộc đọ sức quyết liệt giữa một đế quốc đầu sỏ mạnh nhất thế giới lúc đó với một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên quyết đứng lên chống xâm lược để bảo vệ đất nước, mà còn là cuộc đấu tranh gay gắt về tài trí giữa hai nền nghệ thuật quân sự của Đại Việt và quân xâm lược Nguyên Mông. - Cuộc kháng chiến chống Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo. Vào cuối thế kỉ XIV, triều đại nhà Trần từng bước suy tàn, Hồ Quý Ly là một quý tộc có thanh thế đã phế truất vua Trần, lập ra vương triều nhà Hồ. Tháng 5/1406, dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh đưa quân xâm lược nước ta. Trong tác chiến, nhà Hồ quá thiên về phòng thủ, coi đó là phương thức cơ bản, dẫn đến sai lầm về chỉ đạo chiến lược. Mặt khác, không phát động được toàn dân đánh giặc, tổ chức phản công chiến lược không đúng thời cơ, bị tổn thất nặng, nên bị thất bại. Đất nước ta một lần nữa bị phong kiến phương Bắc đô hộ. - Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo. Mặc dù chiếm được Đại Việt, nhưng giặc Minh không khuất phục được dân tộc ta, các cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp nhân dân yêu nước vẫn liên tiếp nổ ra, tiêu biêu là khởi nghĩa Lam Sơn. Sau 10 năm (1418 - 1427) chiến đấu bền bỉ, ngoan 68 cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành chiến tranh giải phóng, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Thắng lợi vĩ đại đó chứng tỏ nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng của ông cha ta đã đạt đến đỉnh cao và để lại nhiều bài học lịch sử quý giá. - Khơi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 - 1785, kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh 1788 - 1789. Sau khi đánh thắng giặc Minh xâm lược, Lê Lợi lên ngôi, lập nên triều Hậu Lê (triều Lê Sơ), đây là giai đoạn hưng thịnh nhất của phong kiến Việt Nam. Nhưng thời gian hưng thịnh của đất nước không kéo dài, từ năm 1553 đến năm 1788 xảy ra cuộc nội chiến triền miên giữa các thế lực mà điển hình nhất là vua Lê - chúa Trịnh. Trong thời gian đó, có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra như khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu, khởi nghĩa Tây Sơn. Quân Tây Sơn tiến công vào Gia Định, hang ổ cuối cùng của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn phải sống lưu vong nhờ sự giúp đỡ của vua Xiêm (Thái Lan). Năm 1784, nhà Tây Sơn tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và tiến công ra Bắc, xóa bỏ giới tuyến sông Gianh, chấm dứt toàn bộ thể chế “vua Lê, chúa Trịnh”. Năm 1788 trước nguy cơ xâm lược của 29 vạn quân vào mùa xuan Kỉ Dậu 1789. Tiếp theo là triều đại của Nguyễn Ánh (Gia Long), Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và Bảo Đại là ông vua cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam. D. NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, với truyền thống đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, với tài thao lược kiệt suất của ông cha ta, nhân dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Trong quá trình đó, nghệ thuật quân sự Việt Nam từng bước phát triển và được thể hiện rất sinh động trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, trên các phương diện tư tưởng chỉ đạo tác chiến, mưu kế đánh giặc … 1. Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến Giải phóng bảo vệ đất nước là nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu cao nhất của các triều đại phong kiến trong chiến tranh giữ nước. Do đó, ông cha ta luôn nắm vững tư tưởng tiến công, coi đó như là một quy luật để giành thắng lợi trong suốt quá trình chiến tranh. Thực hiện tiến công liên tục, mọi lúc, mọi nơi, từ cục bộ đến toàn bộ, để quét sạch quân thù ra bờ cõi. Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến công. Sử sách còn ghi lại, thời nhà Lý đã chủ động đánh bại ở phía Nam (quân Chiêm Thành), phá tan âm mưu liên kết của nhà Tống với chiêm Thành. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã sử dụng biện pháp “tiên pháp 69 chế nhân” chủ động tiến công trước để đẩy kẻ thù vào thế bị động. Ông đã tận dụng thế “thiên hiểm” của địa hình, xây dựng tuyến phòng thủ sông Như Nguyệt, thực hiện trận quyết chiến lược, chủ động chặn và đánh địch từ xa để bảo vệ Thăng Long. Vào thế kỉ XIII, các quốc gia châu Âu, châu Á đang run sợ trước vó ngựa của giặc Nguyên Mông, thì cả ba lần tiến quân xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285, 1288, giặc Nguyên Mông đều thảm bại, mặc dù có số lượng quân lớn hơn nhiều lần quân đội nhà Trần. Có được thắng lợi đó là do ta đã thực hiện toàn dân đánh giặc, “cả nước chung sức, trăm họ là binh”, trong đó, tích cực chủ động tiến công giặc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh. Trước đối tượng tác chiến là giặc Nguyên mông có sức mạnh lớn hơn, ông cha ta đã kịp thời thay đổi phương thức tác chiến, tránh quyết chiến với địch khi chúng còn đang rất mạnh, chủ động rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng và tạo thế, thời cơ để phản công. Rút lui chiến lược tạm nhường Thăng Long cho giặc trong một thời gian nhất định, là để bảo toàn lực lượng và đó là một nét độc đáo trong nghệ thuật tác chiến, chứ không phải là tư tưởng rút lui. Quân địch tạm chiếm được Thăng Long mà không chiém được “Thủ đô” của kháng chiến, bởi vì chỉ chiếm được “thành không, nhà trống”. Trong khoảng thời gian đó quân đội nhà Trần và nhân dân cả nước đã tích cực tác chiến nhỏ lẻ, tiêu hao nhiều lực lượng địch, làm cho chúng rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan”, tạo thời cơ tốt nhất để phản công chiến lược, quét sạch quân thù ra khỏi đất nước (lần thứ nhất sau 9 ngày tính từ khi giặc Nguyên vào Thăng Long, lần thứ hai sau 5 tháng, lần thứ ba sau 3 tháng). Đến thời Nguyễn Huệ, tư tưởng tiến công địch để giải phóng Thăng Long lại được phát triển lên một tầm cao mới. Với cách đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ và mãnh liệt, giải quyết chiến tranh nhanh gọn trong một đợt tổng giao chiến, Ông đã chủ động tiến công địch khi chúng còn rất mạnh (29 vạn quân Thanh và bè lũ bán nước đang chuẩn bị đón tết Kỉ Dậu năm 1789), do đó, đã giành thắng lợi trọn vẹn. 2. Về mưu kế đánh giặc Mưu là để lừa địch, đánh vào chổ yếu, chô sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho chúng bị động, lúng túng đối phó. Kế là để điều địch theo ý của ta, giành quyền chủ động buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Trong cuộc chiến tranh giải phóng, với ý chí kiên cường của dân tộc, triều đại nhà Lý, Trần, Hậu Lê … đã tạo được thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, kết hợp các cachá đánh, các lực lượng cùng đánh. Trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước, ông cha ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quân triều đình, quân địa phương và dân binh, thổ binh các làng xã cùng đánh địch, làm cho lực lượng địch luôn bị phân tán, không thực hiện được hợp quân tại Thăng Long. Để bảo vệ Thăng Long Lý Thường Kiệt đã xây dựng tuyến phòng ngự sông Như Nguyệt để chặn giặc, khi quân nhà Tống tiến công vượt sông không thành công phải chuyển vào phòng ngự, Ông đã dùng quân địa phương và dân binh liên tục gây rối làm cho địch mệt mỏi, căng thẳng, tạo thời cơ cho quân đội nhà Lý chuyển sang phản công giành thắng lợi hoàn toàn. Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo mà còn hết sức mềm dẻo, khôn khéo đó là “biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ”. Biết kết hợp chặt chẽ 70 giữa tiến công quân sự với binh vân, ngoại giao tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến công quân sự luôn giữ vai trò quyết định. Lê Lợi, Nguyễn Trãi không những giỏi trong bày mưu lập kế để đánh giặc trên chiến trường, mà còn thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người. Sau khi đánh tan đạo quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy, đã vây chặt thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải đầu hàng vô điều kiện, nhưng các ông đã cấp thuyền, ngựa và lương thảo cho hàng binh nhà Minh về nước trong danh dự, để muôn đời dập tắt chiến tranh. Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường, tạo ra một “thiên la, địa võng” để diệt địch. Làm cho “địch đông mà hóa ít, địch mạnh mà hóa yếu”, đi đến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích, phục kích, lực lượng tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan”. Trong tác chiến, ông cha ta đã triệt để khoét sâu điểm yếu của địch là tác chiến ở chiến trường xa, tiếp tế khó khăn, nên đã tập trung triệt phá lương thảo, hậu cần của địch. Ngoài thực hiện kế “thanh dã”, làm cho kẻ thù rơi vào trạng thái “người không có lương ăn, ngựa không có nước uống”, quân đội nhà Trần tổ chức lực lượng đón đánh lực lượng vận chuyển lương thực, hậu cần và đánh phá kho tàng của địch. Điển hình như đội quân của Trần khánh Dư đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương thảo của giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy ở bến Vân Đồn, làm cho giặc Nguyên ở Thăng Long vô cùng hoảng loạn. 3. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc Thực hiện toàn dân đánh giặc là một trong hững nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, được thể hiện cả trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Nét độc đáo đó xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta, từ chính chất tự vệ, chính nghĩa của các cuộc kháng chiến. Hễ kẻ thù đụng đến nước ta thì “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê hương, bảo vệ xã tắc. Từ lời thề của Hai Bà Trưng và nghĩa quân: “Một xin rửa sạch nước thù; Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng; Ba kẻ oan ức lòng chồng; Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này”1 đến Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, nghệ thuật “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã liên tục phát triển dựa trên nền tảng của chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu, để đạt mục đích là cùng giành lại và giữ vững chủ quyền đất nước với tư tưởng “dập tắt muôn đời chiến tranh”, “đem lại thái bình muôn thủa”. Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo đài diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu, roi vào trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy”. Trong đánh giặc, ông cha ta đã tận dụng địa hình, xây dựng thé trận làng, nước vững chắc, vận dụng sáng tạo cách đánh của nhiều lực lượng, nhiều thứ quân. Vận dụng rộng rãi, sáng tạo nhiều hình thức đánh 1 Giáo tình lịch sử quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 22 71 giặc để đạt hiệu quả cao như: phòng ngự sông Như Nguyệt, phục kích Chi Lăng, phản công Chương Dương, Hàm Tử, tiếm công Ngọc Hồi, Đống Đa… 4. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh Đây là nét đặc sắc và tất yếu của nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược coa quân số, vũ khí trang bị lớn hơn nhiều lần. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua, nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần túy là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến. Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ có khỏng 10 vạn quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố khác để tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh thắng địch. Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần thứ 2 là 60 vạn quân, lần 3 là khoảng 50 vạn quân. Nhà Trần đã “lấy đoản binh chế trường trận” hạn chế sức mạnh của giặc, để đánh thắng giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quân số có lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, nhưng đã đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng “tránh thế ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh “vây thành để diệt viện”. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây Sơn có khoảng 10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và quân bán nước Lê Chiêu Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần tốc bất ngờ. 5. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia trong tham chiến. Trong chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã biết kết hợp chặt chẽ các mặt trận nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Mỗi mặt trận đều có vị trí tác dụng khác nhau, nhưng cùng thống nhất ở mục đích tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh. Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sạnh đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở để tạo ra sức mạnh quân sự. Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển. Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta,, phân hóa, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt. Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh. 72 6. Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh Trong các triều đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và thực hiện các trân. đánh quyết định để giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh. Thời nhà Lý có phòng ngự sông Cầu, đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức tác chiến phong ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thuật. Tác chiến phòng ngự trên sông Cầu không chỉ chặn đứng 30 vạn quân Tống, mà còn làm thất bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng, khiến quân địch phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động phòng ngự. Thời nhà Trần, chống giặc Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một cuộc rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch hợp vây của quân địch trong cuộc truy đuổi, giặc Nguyên không thực hiện được những đòn quyết chiến với chủ lực ta, trái lại chúng đã vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt, Do vây, quân Nguyên đã sa vào tình trạng muốn đánh mà không đánh được, “lực càng yếu, thế càng suy”, điều đó đã tạo ra thời cơ phản công cho ta. Thời hậu Lê, sau 10 năm bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang giải phóng dân tộc, giải phóng Thăng Long. Thắng lợi đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và tiến hành các trận đánh quyết định giữ một vai trò rất quan trọng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của mỗi cuộc chiến tranh. Trong chỉ đạo tác chiến Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương “tránh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”. Khi nghe tin viện binh nhà Minh sắp sang, nhiều tướng sĩ yêu cầu Lê Lợi hạ gấp thành Đông Quan (Thăng Long) để diệt trừ nội ứng, rồi sau đó sẽ dốc toàn lực để đánh viện binh. Lê lợi đã phân tích một cách sáng suốt và quyết định: “Đánh thành là hạ sách… sao bằng nuôi dưỡng sức quân, giữ lấy nhụê khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai, đó mới là kế sách vẹn toàn”. Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu tiến công chiến lược là kiệt xuất trong tổ chức, thực hành trận quyết chiến Xương Giang - Chi Lăng, buộc lũ giặc Vương Thông ở trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt đã chứng tỏ trài năng quân sự suất sắc của ông trong tổ chức và thời gian thực hành các trận đánh lớn của ông cha ta. Nghệ thuật quân sự cuả Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập trung, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược, đặc biệt là giải phóng Thăng Long trong mùa xuân Kỉ Dậu 1789. Khi chọn đánh Thăng Long là địa bàn tập trung hầu hết quân địch, nơi bộ chỉ huy quân Thanh và triều đình Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rõ trong cái mạnh của địch, chúng bộc lộ những điểm yếu và sơ hở. Điểm yếu cơ bản của quân tướng nhà Thanh là rất chủ quan, ngạo mạn, cho rằng, Tây Sơn không dám và không thể tiến công chúng, do đó thế trận rất lỏng lẻo. Trong thực hành tác chiến, Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thời gian thống tổ chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, khiến quân địch hoàn toàn bị động. Trong cách đánh, Nguyễn Huệ rất chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch bằng các đòn thọc sâu, hiểm hóc. Đây vừa là nghệ thuật kết hợp tiến công chiến 73 diện với bên sườn, vừa là tiến hành nhiều trận đánh diễn ra đồng thời, liên tiếp nhanh mạnh, bất ngờ, khiến địch không thể ứng cứu được cho nhau và nhanh chóng thất bại. II. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG LÃNH ĐẠO Kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp thành: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật quân sự Việt Nam là một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đấy nhau phát triển, trong đó chiến lược quân sự giữ vai trò chủ đạo A. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM 1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên đã hình thành và không ngừng phát triển, trở thành những bài học vô giá cho các thế hệ sau. Nhiều tư tưởng quân sự kiệt suất như: “Binh thư yếu lược”, “Hổ trướng khu cơ”, “Bình ngô đại cáo”; những trận đánh điển hình như: Như Nguyệt, Chi Lăng, Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa… đã để lại những kinh nghiệm quý gia. Kinh nghiệm truyền thống đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kế tình hình thừa, vận dung, phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 2. Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh, quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã hôi chủ nghĩa và kinh nghiệm nghệ thuật quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tổng kết, là cơ sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng ở Việt Nam. 3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, vận dụng lí luận Mác - Lênin về quân sự, kinh nghiện của các nước trên thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh nghiệm du kích Tàu”, “du kích Nga”… phát triển nguyên tắc chiến đáu tiến công, chiến đấu phòng ngự… qua các thời hì đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thức thắng lợi. B. NỘI DUNG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG LÃNH ĐẠO 1. Chiến lược quân sự 74 Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang) thắng lợi; bộ phận hợp thành (quan trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật quân sự1. a) Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến Đây là vấn đề quan trọng của chiến tranh cách mạng, nhiệm vụ của chiến lược quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và phương thức đối phó hiệu quả nhất. Thực tiến ở nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945, lúc đó xuất hiện nhiều kẻ thù: quân đội Anh, Tưởng, Ấn Độ, Nhật và quân Pháp. Tất cả kẻ thù trên đều chung một mục đích là tiêu diệt Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn non trẻ. Trước tình hình đó Đảng ta xác định kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp. Đây là tư duy chính xác, khoa học của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời điểm lịch sử “ngàn cân treo sợi tóc”. Từ đó, đối tượng tác chiến của quân và dân ta là quân đội Pháp xâm lược. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, khi đế quốc Mĩ không chịu kí Hiệp định Giơnevơ, tạo cớ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, ngay từ tháng 9/1954, Đảng ta đã nhận định, đế quốc Mĩ đang trở thành kẻ thù trực tiếp của, nguy hiểm của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là sự phán đoán chính xác trong xác định kẻ thù của cách mạng nói chung, của chiến lược quân sự nói riêng. b) Đánh giá đúng kẻ thù Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh, yếu của kẻ thù. Bước vào kháng chiến chống Pháp, so sánh lực lượng địch, ta hết sức chênh lệch, nhưng với phương pháp xem xét biện chứng, Đảng ta đã phân tích, chỉ ra sự phát triển trong so sánh lực lượng và cho rằng: “Lực lượng của Pháp như Mặt Trời lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ” còn “lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến…”2. Đối với đế quốc Mĩ, dù có quân đông, súng tốt, tiền nhiều nhưng chúng có điểm yếu căn bản là đi xâm lược, bị nhân dân thế giới và ngay cả nhân dân Mĩ phản đối, Đảng ta đã đánh giá đúng kẻ thù, đưa ra nhận định “Mĩ giàu nhưng không mạnh”, đay là một tư duy chính xác, khoa học vượt trên mọi tư duy của thời đại trong thời điểm lịch sử. Từ những nhận định trên của Đảng ta, chiến lược quân sự Việt Nam đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta quyết tâm đánh Mĩ và biết thắng Mĩ. c) Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc là một vấn đề mang tính nghệ thuật cao tro ng chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm giành thắng lợi trọn vẹn nhất nhưng hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, chúng ta mở đầu chiến tranh đều vào những thời điểm đáp ứng mọi điều kiện của hoàn cảnh lịch sử, do đó 1 2 Bộ Quốc Phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004. tr. 213 Giáo tình lịch sử quân sự, tập 3, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 65 75 có sức lôi quấn toàn dân tộc và có sức thuyết phục trên trường quốc tế mạnh mẽ. Trong kháng chiến chống Pháp, mở đầu chiến tranh vào ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “…Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, giặc pháp càng lần tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa …”. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Đảng ta đã chọn đúng thời điểm sau năm 1960, chuyển từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, cách mạng miền Nam đã có bước trưởng thành, đây là thời điểm sau đồng khởi nghĩa và không cho Mĩ tạo cớ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta chọn thời điểm sau khi giành thắng lợi ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mĩ ta chọn thời điểm kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tại các thời điểm đó, thế và lực cách mạng đều mạnh, có đủ điều kiện để quyết định kết thúc chiến tranh, tự quyết định vận mệnh của đất nước, mà không phụ thuộc vào những yếu tố tác động khách quan. d) Phương châm tiến hành chiến tranh Để chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù có sức mạnh hơn ta nhiều lần về kinh tế, quân sự, khoa học, công nghệ, Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… trong đó, mặt trận quân sự giữ vai trò quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh với tinh thần “tự lực cánh sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, nhưng kháng chiến lâu dài không đồng nghĩa với kéo dài vô thời hạn, mà phải biết lựa chọn thời điểm có lợi nhất để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt. e) Phương thức tiến hành chiến tranh Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nước ta là chiến tranh cách mạng, chính nghĩa và tự vệ. Do đó, Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiến hành chiến tranh là chiến tranh nhân dân kết hợp giỡa địa phương với các binh đoàn chủ lực, kết hợp chặt chẽ tiến công địch bằng hại lực lượng chính trị, quân sự; bằng ba mũi giáp công quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, làm cho địch bị động, lúng tuíng trong đối phó, dẫn đến sai lầm về chiến lược, sa lầy về chiến thuật và thất bại. 2. Nghệ thuật chiến dịch Nghệ thuật chiến dịch, lí luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành chiến dịch và các hoạt đọng tác chiến tương đương; bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự, khâu nối liền giữa chiến lược quân sự và chiến thuật Chiến dịch được hình thành trong kháng chiến chống Pháp, được đánh dấu bằng chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947. Trong kháng chiến chống Pháp, ta đã tiến hành hơn 40 chiến dịch ở các quy mô khác nhau và hơn 50 chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ. Sự hình thành chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến dịch, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam là toàn diện, tập trung những vấn đề chủ yếu sau. 76 a) Loại hình chiến dịch Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, Quân đội nhân dân Việt Nam và các lực lượng vũ trang đã tổ chức thực hành các loại hình chiến dịch: Chiến dịch tiến công. Ví dụ: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Chiến dịch phản công. Ví dụ: chiến dịch phản công Việt Bắc năm 1947, chiến dịch phản công đường số 9 - Nam Lào 1971. Chiến dịch phòng ngự. Ví dụ: chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972 Chiến dịch phòng không , như chiến dịch phòng không Hà Nội 1972 Chiến dịch tiến công tổng hợp, như chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8 b) Quy mô chiến dịch Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ quy mô chiến dịch được phát triển cả về số lượng và chất lược. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, quy mô chiến dịch của ta còn rất nhỏ bé, lực lượng tham gia từ 1 đến 3 trung đoàn, vũ khí trang bị chiến đấu thô sơ. Đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng tham gia lên tới 5 đại đoàn cùng nhiều lực lượng khác. Trong kháng chiến chống Mĩ giai đoạn đầu lực lượng chỉ có từ 1 đến 2 trung đoàn, sau đó phát triển đến các sư đoàn. Đến cuối cuộc kháng chiến, đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng bộ binh là 5 quân đoàn và nhiều quân, binh chủnh khác, phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng. Trong hai cuộc kháng chiến, ở những giai đoạn đầu các chiến dịch chủ yếu diễn ra ở địa hình rừng núi, nhưng giai đoạn cuối đã diễn ra trên tất cả địa hình để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. c) Nghệ thuật chiến dịch là cách đánh chiến dịch Thời kì đầu do so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch, bộ đội ta mới có kinh nghiệm chiến đấu những trận đánh nhỏ lẻ, chưa có kinh nghiệm tác chiến ở quy mô chiến dịch. Nhưng từ trong thực tiễn chiến tranh, trình độ chỉ huy và thực hành tác chiến của bộ đội ta đã ngày càng trưởng thành. Từ chiến dịch Việt Bắc 1947 đến chiến dịch Biên Giới 1950 và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển vượt bậc như: nghệ thuật lựa chọn khu vực tác chiến chủ yếu, nghệ htuật chẩn bị thế trận chiến dịch, nghệ thuật tập trung ưu thế lực lượng bảo đảm đánh chắc thắng trận mở màn chiến dịch, nghệ thuật xử trí chính xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch… Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển vượt bậc, đó là: Xác định đúng phương châm tác chiến chiến dịch, việc thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” thể hiện sự phân tích khao học, khách quan tình hình địch, ta và địa hình. Xây dựng thế trận vững chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập Điện Biên Phủ với các chiến trường khác. Phát huy cao nhất sức mạnh tác chiến hiệp đồng các binh chủng, tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh dứt điểm từng trận then chốt, tiêu diệt 77 từng bộ phận địch, phá vỡ từng mảng phòng ngự của chúng. Vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm kết hợp với đột phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luần sâu, tạo thế chia cắt địch; kết hợp các đợt đánh lớn, đánh vừa và thường xuyên vây lấn, ngày càng siết chặt vòng vây, tạo thời cơ thực hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch. Trong kháng chiến chống Mĩ, nghệ thuật chiến dịch đã kế thừa những kinh nghiệm của kháng chiến chống pháp và nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến dịch đã chỉ đạo chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ đoạn tác chiến của quânMĩ, Ngụy và chư hầu. Đặc biệt trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển nhảy vọt. Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, đảm bảo đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức mạnh áp đảo địch trong chiến dịch. Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch (vận dụng hai cách đánh lần lượt và đồng loạt). Nghệ thuật phát huy sức mạnh của các binh chủng, quân chủng trong tác chiến hiệp đồng quy mô lớn. Nghệ thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác chiến ba thứ quân, lấy đòn đánh lớn của chủ lực làm trung tâm phối hợp. Nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật sáng tạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến dịch, Nghệ thuật khuếch trương kết quả của trận then chốt trước với trận then chốt sau trong chiến dịch tiến công. 3. Chiến thuật Chiến thuật là lý luận và thực tiễn về tổ chức và thực hành chiến đấu của phân đội, binh đội, binh đoàn lực lượng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Chiến thuât hình thành phát triển gắn liền với lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta. Sự phát triển đó là kết quả của sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch, nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận chiến dấu của bộ đội ta trước một đối tượng địch, địa hình cụ thể. Nội dung của chiến thuật được thể hiện: a) Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật vào các trận chiến đấu Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, lực lượng, vũ khí trang bị của ta còn hạn chế, do đó, tư tưởng tác chiến của bộ đội ta là “quán triệt tư tưởng tiến công, triệt để dùng du kích chiến, vận động chiến để tiêu diệt địch” Các trận chiến đấu ở giai đoạn này chủ yếu diễn ra ở quy mô trung đội, đại đội, tiểu đoàn, lấy đánh địch ngoài công sự là phổ biến. Chiến thuật thường vận dụng là tập kích, phục kích, vận đông tiến công trong đó, phục kích có lợi hơn tập kích. Các giai đoạn sau của hai cuộc kháng chiến, bộ đội ta đã trưởngt thành, khôngg những đánh giỏi vận động chiến (đánh địch ngoài công sự), mà từng bước vận dụng công kiên chiến (đánh địch trong công sự). Giai đoạn cuối của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ do yêu cầu của chiến lược, chiến dịch, phải đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của địch để giữ vững vùng giải phóng, chiến thuật phòng ngự xuất hiện. Chiến thuật phòng ngự được vận dụng như phòng ngự đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phòng ngự Quảng Trị năm 1972, phòng ngự Thượng Đức năm 1874… Ngoài ra, các đơn vị còn 78 vận dụng các hình thức chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường không, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. b) Quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến, lực lượng tham gia các trận chiến đấu chủ yếu trong biên chế và được tăng cường một số hỏa lực như súng cối 82mm, DKZ… Các giai đoạn sau, quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu ngày càng lớn, đã có nhiều trận đánh hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh, phòng không… Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều. c) Cách đánh Cách đánh là nội dung quan trọng nhất của lí luận chiến thuật. Mỗi binh chủng, mỗi hình thức chiến thuật đều có những cách đánh cụ thể, phù hợp với đối tượng và địa hình. Nội dung cách đánh trong từng hình thức chiến thuật phát triển từ cách đánh của lực lượng bộ binh là chủ yếu đến cáh đánh hiệp đồng binh chủng. Cách đánh của ta thể hiện tính tích cực, chủ động tiến công, bám thắt lưng địch, chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt. Kết hợp chặt chẽ giữ hành động tiến công và phong ngự của ba thứ quân để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. III. VẬN DỤNG MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VÀO SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KÌ MỚI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã hình thành, phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh dạo cách mạng Việt Nam, nghệ thuật quân sự ngày càng phát triển, đó là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh … Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vẫn còn giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kì mới. A. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG TÍCH CỰC TIẾN CÔNG Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật quân sự của cha ông ta trước đây luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động tiến công địch. Ngày nay, với sức mạnh của cả nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự của ta càng có điều kiện phát huy mặt mạnh của mình, khoét sâu chỗ yếu của địch để “kiên quyết không ngừng thế tiến công”, tiến công địch vào đúng thời cơ, địa điểm thích hợp. Ngày nay, kẻ thù của đất nước ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có ưu thế về tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, nhưng do tiến hành chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, nên chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở. Trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của địch và ta, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt mọi hình thức và quy mô tác chiến, mọi cách đánh, mới có thể tiến công địch một cách liên tục mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự, mà phải tiến công toàn diện trên mọi mặt trận, đặc biệt 79 là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh. Như vậy, trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy lòng dũng cảm, trí thông minh sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí, nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể giành quyền chủ động trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất. B. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nghệ thuật quân sự chỉ đạo mọi hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang và nhân dân. Đó là một nguyên tắc trong nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc. Nguyên tắc đó phải được thể hiện cụ thể trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, đối tượng và thời cơ tiến công... trong kế hoạch chiến lược, chiến dịch, cũng như từng trận đánh cụ thể. Trong hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán với đánh tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân đều có vị trí tác dụng và có những quy luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối hợp tác chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến dịch và chiến đấu. Có kết hợp đánh phân tán, rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương với đánh tập trung của lực lượng cơ động, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn mới phát huy được uy lực của mọi vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, làm cho binh lực của địch bị phân tán, dàn mỏng, khiến cho chúng đông mà hoá ít, mạnh mà hoá yếu và luôn bị động đối phó ; trên cơ sở đó, thực hiện những đòn đánh quyết định, tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho ta. C. NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI VÀ MƯU KẾ Trong đấu tranh vũ trang, trước một đối tượng có sức mạnh vượt trội về quân sự, khoa học công nghệ phải biết kết hợp chặt chẽ các yếu tố : lực lượng, thế trận, thời cơ và mưu trí, sáng tạo. Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng nơi, đúng lúc mới đạt hiệu quả cao, lực nhỏ hoá lớn, yếu hoá mạnh. Tạo thế, tạo lực để sẵn sàng đánh địch khi thời cơ có lợi nhất. Đặt thế, lực vào đúng thời cơ có lợi thì “sức dùng một nửa mà công được gấp đôi”. Muốn đánh thắng, còn phải dùng mưu kế, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta. Luôn chú ý lừa địch và giữ bí mật, bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện lực lượng quân sự địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao. Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam, trong đó, cần đặc biệt chú trọng “nhân hoà”. Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu và các yếu tố khác, ta mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp, đánh thắng kẻ thù có kinh tế, quân sự mạnh khi chúng liều lĩnh xâm lược nước ta. 80 D. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG LẤY ÍT ĐÁNH NHIỀU, BIẾT TẬP TRUNG ƯU THẾ LỰC LƯỢNG CẦN THIẾT ĐỂ ĐÁNH THẮNG ĐỊCH Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật “lấy ít địch nhiều”, nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm quan trọng để đánh thắng quân xâm lược. Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít đánh nhiều, ta phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn dân, của cả ba thứ quân, tạo ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế. Mặt khác, phải tận dụng địa hình, tận dụng được yếu tố bí mật, bất ngờ, tiết kiệm được lực lượng để đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. E. KẾT HỢP TIÊU HAO, TIÊU DIỆT ĐỊCH VỚI BẢO VỆ VỮNG CHẮC CÁC MỤC TIÊU Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng mục đích chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là tiêu diệt lực lượng địch phải đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu. Muốn giành thắng lợi triệt để trong chiến tranh, chúng ta phải kết hợp đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt lớn quân địch. Đánh tiêu hao rộng rãi bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện cho tác chiến tập trung của chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện đánh lớn, tiêu diệt lớn quân địch. Đi đôi với tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của địch, phải bảo vệ vững chắc mục tiêu của ta, là vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu nghệ thuật quân sự của các thế hệ ông cha ta, chúng ta có quyền tự hào về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ non sông đất nước. Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng kẻ thù còn đó, chúng đang tìm mọi thủ đoạn để xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, trách nhiệm của sinh viên rất nặng nề đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, mỗi sinh viên cần phát huy tinh thần tự lực, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ học tập, đặc biệt là không ngừng bồi đắp lòng yêu quê hương, đất nước. Mặt khác, phải phấn đấu, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi Tổ quốc cần. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Nêu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta? Làm rõ nội dung nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc ? 2. Nêu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta? Làm rõ nội dung nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh? 3. Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo? Làm rõ nội dung chiến lược quân sự ? 81 HỌC PHẦN II. CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH BÀI 8. PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM Chủ nghĩa đế quốc cho rằng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là nguy cơ, là hiểm hoạ đối với chúng. Do vậy khi chủ nghĩa xã hội mới được hình thành trên cơ sở lí luận thì chúng đã kiên quyết chống phá, và khi chủ nghĩa xã hội được thiết lập ở Liên Xô và các nước Đông Âu thì chúng càng điên cuồng chống phá chủ nghĩa xã hội. Nhưng sau nhiều năm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới chúng đã rút ra bài học là không thể dùng sức mạnh quân sự đơn thuần để chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà cần sử dụng các biện pháp tổng lực: Chống phá về kinh tế chính trị, văn hoá, văn nghệ, quân sự, ngoại giao “Diễn biến hoà bình” thì mới có thể chiến thắng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy từ giữa thế kỷ XX, chiến lược “Diễn biến hòa bình” bắt đầu hình thành. Ban đầu “Diễn biến hòa bình” được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược “ngăn chặn” , “phản ứng linh hoạt”... của chủ nghĩa đế quốc để chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Gần đây, “Diễn biến hòa bình” đó trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động âm mưu lật đổ chế độ chính trị - xã hội các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đó gúp phần quyết định làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Hiện nay: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá quyết liệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Vì vậy chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. I. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA Xà HỘI A. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành1. Mục tiêu cơ bản của chiến lược là: Nhằm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội hiện thực, xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 303 1 82 Thủ đoạn để thực hiện mục tiêu trên rất đa dạng, vừa trắng trợn vừa tinh vi, vừa công khai vừa lén lút. Chủ nghĩa đế quốc thường sử dụng các thủ đoạn như: Xuyên tạc lịch sử, bội nhọ Đảng Cộng sản, tuyen truyền tư tưởng tư sản và tô hồng, ca tụng xã hội tư sản hiện đại; bao vây, cô lập kinh tế, đồng thời sử dụng viện trợ để gây sức ép, thao túng, làm chuyển hóa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo con đường tư bản chủ nghĩa; dùng các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động gây mâu thuẫn nội bộ, kéo dài, mua chuộc các phần tử thoái hóa, biến chất, bất mãn, bất đồng quan điểm, xây dựng và cài cắm lực lượng chống đối từ bên trong, tạo nên lực lượng chống chủ nghĩa xã hội từ trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Những thủ đoạn trên của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tác động toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hóa, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; phối hợp tác động cả bên ngoài và bên trong, cả tổ chức và con người, với tất cả các tầng lớp, thành phần xã hội trong các nước xã hội chủ nghĩa để gây nên “tự diễn biến” từ từ, thầm lặng, làm mục rỗng từ bên trong, dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa . Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. - Giai đoạn từ 1945 - 1980: + Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược toàn cầu: “Ngăn chặn” sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do Tổng thống Mỹ Truman khởi xướng ngày 12/3/1947, trong đó coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây, can thiệp vũ trang, cùng với tiến hành chiến tranh để “ngăn chặn” ảnh hưởng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. + Trước đó ngày 22/12/1946, Kenman đại diện lâm thời của Hoa Kỳ tại Liên Xô trình lên chính phủ Mĩ bức điện 8000 từ về kế hoạch chống Liên Xô toàn diện hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong thời gian này, giám đốc CIA tuyên bố: Mục tiêu là phải reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí thay giá trị của Liên Xô bằng đồ rởm và tìm mọi cách ủng hộ và nâng đỡ đám “nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội vào Liên Xô. Tóm lại, mọi thứ vô đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí chống Liên Xô được nâng lên hàng quốc sách ở Mĩ, gọi là “chiến tranh tâm lí tổng lực”. + Tháng 4/1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các Đảng Cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu, 83 hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Trong hai năm 1949 - 1950 Mĩ đó chi 50 triệu đô la cho hoạt động chiến tranh tâm lí chống Liên Xô + Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do có đài phát thanh riêng. Tháng 7 năm 1947, khi đó trở về Oasinhtơn giữ chức Phó giám đốc học viện quốc phòng, chuyên trách về đối ngoại, Kennan lại trình bầy những biện pháp bổ sung cho chiến lược “ngăn chặn”: bên cạnh việc tăng cường vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực, cần tăng cường viện trợ cho các nước xung quang Liên Xô. Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Truman ý tưởng “Diễn biến hòa bình” đó được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự của Mĩ chống Liên Xô. + Từ năm 1953, Aixenhao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ II đến năm 1961, chính phú Mĩ đó đề ra chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” Aixenhao dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản. Mĩ đó đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp vào nội bộ chính trị các nước trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính để phá hoại chủ nghĩa xã hội và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang” của Kenman được tán dương và hưởng ứng, bổ sung bởi các học giả của tập đoàn thống trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng “hòa bình giải phóng” của AlenDalet. Như vậy, ý tưởng “Diễn biến hòa bình” được bổ sung và trở thành biện pháp của chiến lược “Ngăn chặn” của đế quốc Mĩ. + Tháng 01/1961 Kennơđi thay Aixenhao và đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” cùng chiến lược “hoà bình”, thực hiện chính sách “mũi tên và cành ô liu”. Từ đây, “Diễn biến hòa bình” bước đầu trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự. + Tháng 12/1963 Kennơđi bị ám sát, phó tổng thống Giôn xơn thay thế, kiêm nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc đẩy chạy đua vũ trang, triệt để dùng sức mạnh quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà điển hình là: các vụ bạo loạn ở Cộng hòa dân chủ Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956), Tiệp Khắc (1968). Do lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên bang Xô Viết lớn mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ ạt” và tìm kiếm những biện pháp mới đi cùng các hoạt động quân sự chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa. + Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục bộ” đưa 50.000 quân vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho thất bại. Tháng 3/1968 GiônXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom Miền Bắc Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến lược phản ứng linh hoạt” bị phá sản. + Từ 1968 - 1972 Nichxơn trúng cử tổng thống trong bối cảnh so sánh lực lượng Mĩ - Xô thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược đang ở thế cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam. Nichxơn thực hiện chiến lược quân sự “răn đe thực tế” mục đích là ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trên toàn thế giới. 84 + Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt” tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đó chủ trương tăng cường tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa , tiến hành thẩm thấu tư tưởng văn hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy tiến trình, “Diễn biến hòa bình” đối với các nước xã hộ chủ nghĩa. Chính Ních xơn đã nêu ra chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay cho đối đầu. Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Níchxơn để thực hiện “Diễn biến hòa bình” . + Tháng 12/1957, Tổng thống Aixenhao tuyên bố “Mĩ sẽ giành thắng lợi bằng hòa bình” và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa . - Giai đoạn từ năm 1980 đến nay: + Chủ nghĩa tư bản đạt được ổn định và có bước phát triển. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải cách sai lầm, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc hoàn chỉnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp đổ Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Có thể lấy năm 1988, Níchxơn xuất bản cuốn sách “1999, chiến thắng không cần chiến tranh” làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” . + Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển hình là Việt Nam - Trong nhiệm kỳ 2 (những năm 80) của tổng thống Rigân, điều chỉnh chiến lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự” sang chiến lược “Diễn biến hòa bình” với các nước xã hội chủ nghĩa mà khởi nguồn là chính sách ngoại giao của cựu ngoại trưởng Mĩ Hen.Kitxingiơ và công cuộc cải tổ chính trị của nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M.C.Gobachov mà kết quả của nú là sự tan ró của các nước xã hộ chủ nghĩa ở Đụng Âu và Liên Xô, sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội. + Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Các thế lực thự địch cho rằng, phải làm xói mòn tư tưởng, đạo đức và niềm tin cộng sản của thế hệ trẻ để “tự diễn biến”, tự suy yếu, dẫn đến sụp đổ, tan ró chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước còn lại. B. BẠO LOẠN LẬT ĐỔ Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương1. - Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 63. 1 85 - Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động gắn liền với chiến lược “diễn biến hòa bình” để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường kích động những phần tử quá khích, làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội ở một số khu vực và trong một thời gian nhất định (thường chỉ diễn ra trong không gian hẹp và thời gian ngắn) tiến tới lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ đến lớn. Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước, trọng điểm là những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hoá của Trung ương và địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà cơ sở chính trị của địa phương yếu kém. II. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM A. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” ĐỐI VỚI VIỆT NAM Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội. Từ đầu năm 1950 - 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để xâm lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng đó bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đũn tấn cụng bằng quân sự để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng đó chuyển sang chiến lược mới như “bao vây cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao” kết hợp với “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ xã hộ chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hộ chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thự địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta. Chúng đó tuyên bố xoá bỏ “cấm vận kinh tế” và bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như: “Dính líu”, “ngầm”, “sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam là thực hiện âm mưu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc,... Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch không từ bỏ bất kì thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo 86 lực phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết, cụ thể: - Thủ đoạn về kinh tế: Chúng muốn chuyển hoá nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trũ chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để đặt ra các điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hoá Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. - Thủ đoạn về chính trị: Các thế lực thù địch kích động đũi thực hiện chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, “tự do hoá” mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và ngoài nước, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Thủ đoạn về tư tưởng - văn hoá: Chúng thực hiện nhiều hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư sản vào các tầng lớp nhân dân. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập những sản phẩm văn hoá đồi trụy, lối sống phương Tây, để kích động lối sống tư bản trong thanh niên từng bước làm phai mờ bản sắc văn hoá và giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. - Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc: Chúng lợi dụng những khó khăn ở những vùng đồng bào dân tộc ít người, những tồn tại do lịch sử để lại, trình độ dân trí của một bộ phận đồng bào còn thấp và những khuyết điểm trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của một bộ phận cán bộ để kích động tư tưởng đòi li khai, tự quyết dân tộc. Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo trái phép để thực hiện âm mưu tôn giáo hoá dân tộc, từng bước gây mất ổn định xã hội và làm chệch hướng chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện xâm nhập, tăng cường hoạt động tình báo thu thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực Quốc phòng và An ninh và đối với lực lượng vũ trang. Đối với quân đội và công an, các thế lực thù địch chủ trương vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng với luận điểm “phi chính trị hoá” làm cho các lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu. 87 - Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại: Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để tuyên truyền và hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Hạn chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới, tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Đặc biệt, chúng rất coi trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, hạ thấp uy tín của nước ta trên trường quốc tế. - Kích động, phối hợp hành động của lực Iượng phản động trong nước và phản động ngoài nước Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong. Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động, vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng, gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là “hậu bình thường hoá” quan hệ Việt - Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại - tấn công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như: Chính sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính sách đó, chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu cụ thể. Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”. Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền thông nhằm “đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm của đồng bào trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại… Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi. 88 B. BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM - Các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất món trong nước gây rối, làm mất ổn định xã hội ở một số vực nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo, mua chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương. Vùng Tây Bắc, chúng kích động người H’Mông để thành lập khu tự trị riêng. Vùng Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đó sử dụng để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để tăng sức mạnh. - Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lý trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài. III. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG CHÂM PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ A. MỤC TIÊU Mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch tiến hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ xã hộ chủ nghĩa ở nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tạo môi trường hòa bình để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. B. NHIỆM VỤ Đại hội XI: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch”1. Đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong 1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 57 89 các nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh hiện nay, đồng thời, còn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu. Xử lí nhanh chóng, hiệu quả khi có bạo loạn xảy ra và luôn bảo vệ tốt chính trị nội bộ. Đại hội XII: “Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”1. C. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO - Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực. Thực chất chiến lược diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó là nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, làm sụp đổ chế độ xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam và chuyển hoá theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do đó, cuộc đấu tranh sẽ hết sức gay go, quyết liệt và lâu dài trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. - Chống “diễn biến hòa bình” là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch sử dụng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều đũn tấn công “mềm” trên tất cả các lĩnh vực để chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, Đảng ta đó xác định nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là toàn diện, coi trọng giữ vững an ninh kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng. - Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Các thế lực thù địch sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đánh vào mọi tầng lớp nhân dân lao động, mọi tổ chức chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực. Do đó, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. D. PHƯƠNG CHÂM TIẾN HÀNH - Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững bên trong với chủ động ngăn chặn, phòng ngừa và chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biền hoà bình” của các thế lực thù địch. Do đó, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân phải thấy 1 90 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 201 rừ tớnh chất nham hiểm của chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Từ đó, phải nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của kẻ thù nhằm chống phá cách mạng nước ta. - Chủ động, kiên quyết, khôn khéo xử lí tình huống và giải quyết hậu quả khi có bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao giờ cũng chủ động chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước làm suy yếu từ bên trong và khi có thời cơ tiến hành lật đổ chế độ xã hội. Thực tế chứng minh, chủ động tấn công sẽ tạo thuận lợi giành thắng lợi trong chiến tranh nói chung và trong phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta. - Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù đối với Việt Nam. Trên thực tế, kẻ thù thường cấu kết lực lượng phản động ở ngoài nước với những phần tử cực đoan, chống đối ở trong nước và bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và thâm hiểm, tổng hợp. Do vậy, phải thường xuyên coi trọng xây dựng tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội, xõy dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt. Chú trọng tuyên truyền giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân lao động hiểu rừ õm mưu, thủ đoạn cơ bản trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà kẻ thù sử dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam. IV. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY A. ĐẨY LÙI TỆ QUAN LIÊU, THAM NHŨNG, TIÊU CỰC TRONG Xà HỘI, GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA TRÊN CÁC LĨNH VỰC, CHỐNG NGUY CƠ TỤT HẬU VỀ KINH TẾ Muốn ngăn chặn, đấu tranh đạt hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta thì phải giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Tệ quan liêu, tham nhũng được kẻ thù lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, kích động nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương, chống Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định xã hội. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và thúc đẩy yếu tố bên trong của đất nước luôn ổn định. B. NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, NẮM CHẮC MỌI DIỄN BIẾN KHÔNG ĐỂ BỊ ĐỘNG VÀ BẤT NGỜ Chủ động nắm địch, phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Do vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt Nam, mọi tổ chức chính trị - xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến 91 lược “Diễn biến hoà bình” của kẻ thù chống phá cách mạng Việt Nam. Cần phải đấu tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác cách mạng trong một bộ phận nhân dân, sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của kẻ thù chống phá nước ta hiện nay. Mỗi người dân Việt Nam phải có tri thức, có bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét phát hiện và báo cáo kịp thời thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho cơ quan chức năng xử lí, không để bất ngờ. C. XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CHO TOÀN DÂN Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ và các thế lực thù địch lợi dụng sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu, lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố, tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta. Vì vậy, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các thành quả cách mạng. Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân phải mang tính toàn diện, nhưng tập trung vào : Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước ; tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá đất nước ta ; quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới ; tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh... hình thức giáo dục phải đa dạng, phù hợp với từng đối tượng. D. XÂY DỰNG CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - Xà HỘI VỮNG MẠNH VỀ MỌI MẶT Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ xã hội luôn ổn định, phát triển. Do vậy, phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh ; theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất nước ; đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, người trong nước và người đang sinh sống ở nước ngoài. Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả, nền nếp hoạt động của các tổ chức quần chúng... Duy trì nghiêm kỉ luật của Đảng ở các cấp, xử lí kịp thời những đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương, Điều lệ Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. 92 E. CHĂM LO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG Ở ĐỊA PHƯƠNG VỮNG MẠNH Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở tất cả các làng, bản, phường, xã, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở. Phải chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng nhưng lấy chất lượng là chính. Ở mỗi địa phương, phải chú trọng kết hợp phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Quần chúng là nền tảng, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, quần chúng cũng là đối tượng để kẻ thù lợi dụng, mua chuộc nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng nước ta. F. XÂY DỰNG, LUYỆN TẬP CÁC PHƯƠNG ÁN, CÁC TÌNH HUỐNG CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA ĐỊCH Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu quả. Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, xử trí theo nguyên tắc nhanh gọn - kiên quyết - linh hoạt - đúng đối tượng - không để lan rộng, kéo dài. Từ đó, xây dựng đầy đủ luyện tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp, từng ngành. Hoạt động xử lí bạo loạn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền, các ngành, quân đội và công an làm tham mưu. G. ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ CHĂM LO NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CHO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực lượng sản xuất và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ; đồng thời, là điều kiện để tăng năng suất lao động của xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân lao động, để tạo nên sức mạnh của thế trận “lòng dân”. Những giải pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay. Vì vậy trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này không nên coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một giải pháp nào. Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, đồng thời cũng là một đối tượng mà các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng, chống phá nhằm làm suy thoái về đạo đức, lối sống và phai nhạt niềm tin, lí tưởng xã hộ chủ nghĩa. Vì vậy cần phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công 93 dân tốt, cống hiến cho đất nước, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết không để kẻ thù lợi dụng, kịp thời phát hiện và tích cực đấu tranh, ngăn ngừa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, góp phần thực hiện thực thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng luôn coi Việt Nam là một trọng điểm. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết, kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta xác định, chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày mục tiêu, nhiệm vụ phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở nước ta hiện nay? 2. Trình bày quan điểm và phương châm phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở nước ta hiện nay? 94 BÀI 9. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ, LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc, ở bất kỳ giai đoạn nào, thời đại nào, dân tộc ta cũng có một truyền thống đoàn kết bền vững, một tinh thần. Những điều đó đã viết lên lịch sử oai hùng của dân tộc với những chiến công hiển hách. Trải quan thời gian, lịch sử của dân tộc luôn được viết thêm những trang mới huy hoàng. Các thế hệ đi sau luôn kế thừa và phát huy truyền thống của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong các cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền, chiến tranh giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kế thừa và phát triển những truyền thông quân sự quốc phòng lên một bước mới. Từ những kinh nghiệm và nững bài học xương máu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước và yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay mà ta có thể khẳng định rằng xây dựng nền quốc phòng toàn dân với các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng vững mạnh là nhiệm vụ chiến lược và thường xuyên lâu dài, vừa khẩn trương cấp bách trong cục diện đất nước ngày nay, đó là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân ta. I. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ A. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ 1. Khái niệm Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quân chúng, không thoát ly sản xuất, công tác, vừa là dân lại vừa là quân, vừa có nghĩa vụ xây dựng đất nước vừa có nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ quốc. Là một trong các thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân, được tổ chức rộng rãi trong phạm vi toàn quốc. Đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền, sự chỉ huy thống nhất của quân đội mà trực tiếp là cơ quan quân sự địa phương các cấp. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội gọi là tự vệ (Điều 1 Luật Dân quân tự vệ). 2. Vị trí, vai trò (Điều 8) - Dân quân tự vệ là một lực lượng chiến lược trong chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương. Đánh giá về vai trò dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức 95 tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”1. - Trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đối phó với chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Do đó, lực lượng dân quân tự vệ là một trong những công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân tại địa phương, cơ sở. 3. Nhiệm vụ - Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quân, cảnh sát biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. - Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước. - Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác. - Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, cơ sở. - Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập. - Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Luật Dân quân tự vệ quy định dân quân tự vệ có 6 nhiệm vụ, so với Pháp lệnh năm 2004 thêm 1 nhiệm vụ (nhiệm vụ 5). Các nhiệm vụ còn lại được quy định đầy đủ, chặt chẽ hơn và sát với yêu cầu các nhiệm vụ của dân quân tự vệ. B. NỘI DUNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ 1. Phương châm xây dựng: Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “vững mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”. - Vững mạnh: Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế trang bị hợp lí, thống nhất, có kỉ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu tốt. Mỗi tổ chức dân quân tự vệ phải luôn vững vàng. - Rộng khắp: Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở hầu hết các làng, bản, xóm, ấp xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có tổ chức Đảng, 1 96 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.132 chính quyền và có dân, đều phải tổ chức dân quân tự vệ, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức dân quân tự vệ nếu có yêu cầu thì giám đốc doanh nghiệp đề nghị và được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) đồng ý thì công dân được tham gia dân quân tự vệ ở địa phương (nơi cư trú). Giám đốc doanh nghiệp phải bảo đảm thời gian và tạo điều kiện cho công nhân tham gia dân quân tự vệ hoạt động. - Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định ở địa phương, có sức khoẻ phù hợp. 2. Tổ chức, biên chế, trang bị Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh thời bình, thời chiến, đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và điều kiện cụ thể của từng bộ, ngành, địa phương và cơ sở. - Về tổ chức: Dân quân tự vệ có 2 lực lượng chính: Lực lượng nòng cốt (lực lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu). Lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt: Bao gồm dân quân tự vệ bộ binh, binh chủng và dân quân tự vệ biển (đối với vùng biển), được tổ chức thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng điểm về quốc phòng an ninh, biên giới ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu cao thì được xem xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực. Nhiệm vụ của lực lượng cơ động là chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi viện cho lực lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu trên địa bàn địa phương khác. Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn địa phương theo kế hoạch, phương án, khi cần có thể tăng cường cho lực lượng chiến đấu cơ động. Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45, nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi). Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả chiến đấu, bảo vệ và sơ tán nhân dân. - Biên chế: Biên chế dân quân tự vệ được thống nhất trong toàn quốc. Số lượng cán bộ, chiến sĩ từng đơn vị do Bộ Quốc phòng quy định. Về quy mô: Tổ chức gồm: Tổ, Tiểu đội, Khẩu đội; Trung đội; Đại đội, Hải đội; Tiểu đoàn, Hải đoàn; Quy mô tổ chức: Thôn, Xã, Huyện, Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương… - Vũ khí trang bị của dân quân tự vệ: Dân quân tự vệ được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật. Việc trang bị, chế độ đăng ký quản lý, sử dụng vũ khí công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật của dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật. 97 Vũ khí trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn: Do Bộ Quốc phòng cấp, các địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song dù từ nguồn nào, vũ khí trang bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản lý. Do vậy, phải được đăng ký, quản lý, bảo quản chặt chẽ; sử dụng đúng mục đích và đúng quy định của pháp luật. Vũ khí, trang bị phải được quản lý tập trung tại trụ sở cấp xã, nơi làm việc của ban chỉ huy quân sự cơ quan, phải bảo dưỡng thường xuyên và có tủ sắt cất giữ, cơ quan quân sự các cấp tăng cường công tác kiểm tra vũ khí trang bị của dân quân tự vệ. 3. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự - Giáo dục chính trị: Nhằm làm cho mọi người nâng cao nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình. Nội dung giáo dục cần tập trung: + Không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giác ngộ giai cấp cho cán bộ, chiến sỹ dân quân tự vệ, trên cơ sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. + Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; mục tiêu lý tưởng của Đảng. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh, chống “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch: công tác quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. + Một số nội dung cơ bản về hiến pháp, pháp luật, luật dân quân tự vệ, nội dung phương pháp tiến hành vận động quần chúng... + Trong thời bình, giáo dục theo kế hoạch hàng năm, gắn với huấn luyện quân sự. Khi cần thiết hoặc có chiến tranh, thời gian giáo dục chính trị có thể kéo dài từ hai đến sáu tháng liên tục theo chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu huấn luyện do Bộ quốc phòng quy định. Thời gian giáo dục chính trị khoảng 15% - 20% so với tổng số thời gian huấn luyện chung của lực lượng dân quân tự vệ. - Huấn luyện quân sự Hàng năm lực lượng dân quân tự vệ được huấn luyện theo nội dung chương trình do Bộ Quốc phòng quy định chung, các nội dung phù hợp và sát với cơ sở do chỉ huy quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể. + Mục đích nhằm nâng cao kiến thức về quân sự cho lực lượng dân quân tự vệ. Sẵn sàng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thôn, xóm, làng xã, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. + Thời gian huấn luyện quân sự khoảng 80 - 85% so với tổng thời gian quy định, trong đó kỹ thuật các quân binh chủng 35%, hậu cần quân y khoảng 10%. 98 Sau mỗi khoá huấn luyện, dân quân tự vệ đều phải kiểm tra và được cấp giấy chứng nhận theo phân cấp quản lý. C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân quân tự vệ - Cơ sở: Xuất phát từ vai trò của giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của dân quân tự vệ. Từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới rất nặng nề. Từ âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù… - Nội dung giáo dục: + Phải thường xuyên giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược xay dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh... + Cần tập trung phổ biến luật dân quân tự vệ. + Nghị định, thông tư về thi hành luật dân quân tự vệ cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đúng về công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Đó là cơ sở để huy động sức mạnh của toàn dân, của cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng dân quân tự vệ, làm cho công tác dân quân tự vệ trở thành việc làm thường xuyên của dân, do dân, vì dân. 2. Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn địa phương trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ - Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và của toàn dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của địa phương, tỉnh, (thành phố), huyện (quận), xã (phường). - Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh tại địa phương. Một mặt thông qua hiệu quả hoạt động phát hiện các ưu điểm, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng mọi mặt của các đơn vị dân quân tự vệ. - Mặt khác, có tác dụng kiểm tra và thúc đẩy trách nhiệm của các cấp, các ngành ở địa phương đối với xây dựng dân quân tự vệ. - Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ. Kết hợp lực lượng dân quân tự vệ với các thành phần lực lượng khác nhất là lực lượng an ninh chuyên trách, trong xây dựng thế trận Quốc phòng và An ninh trên địa bàn, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động, chiến đấu và công tác. 3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện - Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là xây dựng địa phương vững mạnh trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó có một nội dung quan trọng là xây dựng về quốc phòng - an ninh. 99 - Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nội dung quốc phòng làm tốt sẽ bảo đảm sự ổn định ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện. - Ngược lại, cơ sở vững mạnh toàn diện là môi trường xã hội có tính quyết định đến xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh; là hậu phương trực tiếp vững chắc của lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu ở cơ sở, bảo đảm cho lực lượng dân quân tự vệ luôn sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. 4. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ - Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm chăm sóc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với lực lượng dân quân tự vệ. - Trước mắt, cần phối hợp các ban ngành tổ chức hướng dẫn, thực hiện tốt chế độ, chính sách, chế độ khen thưởng, ngân sách bảo đảm trong tổ chức huấn luyện, hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ đã được pháp lệnh về dân quân tự vệ và Nghị định của chính phủ số 184/CP ngày 02/11/ 2004 quy định. II. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN A. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN 1. Khái niệm Lực lượng dự bị động viên gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội duy trì tiềm lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Quân nhân dự bị gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị. Phương tiện kỹ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường, xếp dỡ, thông tin liên lạc, y tế và một số loại phương tiện khác. Danh mục phương tiện kỹ thuật do Chính phủ quy định. Quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng thường trực của quân đội, thông qua các đơn vị dự bị động viên. Trong thời bình, lực lượng dự bị động viên được đăng kí, quản lý, huấn luyện theo chương trình quy định và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. 2. Vị trí, vai trò - Công tác xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên giữ vị trí rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất góp phần xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở rộng lực lượng quân đội khi chuyển đất nước sang trạng thái chiến tranh. - Lực lượng dự bị động viên phối hợp chặt chẽ với dân quân tự vệ, công an... làm tăng thêm sức mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ, bảo đảm sự vững chắc của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở. 100 - Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên là biểu hiện quán triệt quan điểm về sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. - Lực lượng dự bị động viên được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt cho cả xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và cả trong thực hiện chiến lược quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. B. NHỮNG QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN 1. Xây dựng lực lượng dự bị động viên bảo đảm số lượng đủ, chất lượng cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm Việc tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên ở nước ta là một vấn đề hệ trọng, quan hệ đến vận mệnh của quốc gia, đặc biệt khi phải đối phó với chiến tranh quy mô lớn. Do đó, ngay từ thời bình, phải xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu theo kế hoạch đã xác định mới có khả năng giành thắng lợi khi có lệnh động viên. Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải có chất lượng cao, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tinh thần, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ kĩ thuật, chiến thuật, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị, khả năng bảo đảm. 2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị Xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt được thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp. Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp điều hành. Các đơn vị quân đội, cơ quan quân sự với các cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội... hiệp đồng thực hiện và sự chăm lo xây dựng của toàn xã hội. 3. Xây dựng lực lượng dự bị động viên đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng các cấp ở địa phương, bộ, ngành Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm cho lực lượng này luôn có nội dung, phương hướng, mục tiêu xây dựng đúng đắn, nhằm bảo đảm sức mạnh của quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. C. NỘI DUNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN 1. Phương thức xây dựng lực lượng dự bị động viên - Phương thức chung: Địa phương chuyển việc giao nguồn cho các đơn vị chủ lực sang tổ chức hình thành các đơn vị dự bị động viên theo nhiệm vụ trên giao. Trong đó địa phương thực hiện là chính (trừ vũ khí trang bị và huấn luyện), các đơn vị chủ lực nhận nguồn cung cấp biểu biên chế, phối hợp cùng địa phương tổ chức thực hiện. 101 - Phương thức cụ thể: Tổ chức các đơn vị dự bị động viên theo khung thường trực và đơn vị không biên chế khung thường trực. 2. Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên - Tạo nguồn, đăng kí, quản lý lực lượng dự bị động viên: + Tạo nguồn: Sĩ quan dự bị; hạ sĩ quan, chiến sĩ dự bị; phương tiện kĩ thuật. + Đăng kí quản lý nguồn: Việc đăng kí, quản lý lực lượng dự bị động viên phải có kế hoạch thường xuyên, chặt chẽ và chính xác, đăng kí quản lý cả con người và phương tiện kĩ thuật. Đối với quân nhân dự bị, được tiến hành đăng kí, quản lý tại nơi cư trú, do Ban chỉ huy quân sự xã (phường), ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) thực hiện. Đối với phương tiện kĩ thuật, phải đăng kí, quản lý chính xác thường xuyên cả số lượng, chất lượng, tình trạng kĩ thuật của từng phương tiện. - Tổ chức, biên chế đơn vị dự bị động viên: Là tổ chức sắp xếp quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật thành từng đơn vị dự bị động viên theo kế hoạch gồm các loại hình: Đơn vị biên chế thiếu, đơn vị biên chế khung thường trực, đơn vị không có khung thường trực, đơn vị biên chế đủ nhân đôi và đơn vị chuyên môn thời chiến. - Giáo dục chính trị, huấn luyện diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên + Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng lực lượng dự bị động viên. Nội dung giáo dục cần tập trung vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng dự bị động viên, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. + Công tác huấn luyện: Theo phương châm “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm, trọng điểm”. Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh, binh chủng; chiến thuật từng người đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Có thể huấn luyện tập trung tại các đơn vị dự bị động viên hoặc phân tán tại các địa phương, cơ sở. Cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt những phương pháp huấn luyện thích hợp sát đối tượng, sát thực tế. - Bảo đảm hậu cần, kĩ thuật, tài chính cho xây dựng lực lượng dự bị động viên: Yêu cầu phải bảo đảm đúng mức, đủ để triển khai xây dựng lực lượng dự bị động viên chất lượng ngày càng cao. D. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN - Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về vị trí, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên. 102 - Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện. - Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên. - Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên. III. ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG A. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC, YÊU CẦU ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG 1. Khái niệm Động viên công nghiệp quốc phòng là huy động một phần hoặc toàn bộ năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội của doanh nghiệp công nghiệp ngoài lực lượng quốc phòng, nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa phương,… phục vụ cho quốc phòng, nhằm giành thế chủ động, bảo toàn, phát huy tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khái niệm trên thể hiện khái quát một số nội dung chính sau đây: - Động viên công nghiệp quốc phòng được chuẩn bị từ thời bình, là việc làm thường xuyên từ Trung ương đến địa phương. - Động viên công nghiệp quốc phòng không áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Có thể tổng động viên hoặc động viên cục bộ: Chiến tranh tương lai nếu xảy ra là một cuộc chiến tranh hiện đại, đối phương chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ cao, bất ngờ, tiến công từ xa vào các mục tiêu trọng yếu trên phạm cả nước, bằng pháo binh, không quân, tên lửa hành trình... Vì vậy, động viên công nghiệp quốc phòng chúng ta phải được chuẩn bị từ thời bình, bảo đảm cho đất nước luôn ở trạng thái sẵn sàng đáp ứng được với mọi tình huống. 2. Nguyên tắc động viên công nghiệp quốc phòng - Động viên công nghiệp quốc phòng được tiến hành trên cơ sở năng lực sản xuất, sửa chữa đã có của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm trang thiết bị chuyên dùng để hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội. - Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng cho các doanh nghiệp công nghiệp phải bảo đảm tính đồng bộ theo nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của Quân đội và phù hợp với năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của doanh nghiệp. - Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp công nghiệp, người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng. 103 3. Yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng - Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải bảo đảm bí mật, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh. Đây là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng. Trước hết về kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng của các cấp, theo quy định của Nhà nước thuộc tài liệu tuyệt mật, vì vậy việc xây dựng, quản lí, khai thác kế hoạch phải tuân thủ chặt chẽ theo quy định của pháp luật ; các doanh nghiệp công nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện chế độ quản lí, sử dụng, bảo mật theo đúng quy định. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, việc bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả là một yêu cầu rất quan trọng, nhất là trong điều kiện ngân sách bảo đảm cho động viên công nghiệp quốc phòng của Nhà nước và Bộ quốc phòng còn nhiều hạn hẹp.Khi có lệnh thực hành động viên công nghiệp, nếu không bảo đảm đủ số lượng, đúng thời gian quy định theo kế hoạch được giao sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân đội. - Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải bảo đảm cho yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời chiến. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của các địa phương trong thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trên đây là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định đến kết quả của công tác động viên công nghiệp quốc phòng. Vì vậy, kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng của các cấp các ngành phải theo đúng quy định của nhà nước thuộc tài liệu mật, phải tuân thủ chặt chẽ theo quy định của pháp luật. B. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG 1. Chuẩn bị động viên công nghiệp quốc phòng - Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị, nội dung khảo sát gồm: Đặc điểm tình hình; cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; Nhiệm vụ sản xuất, công suất thiết kế, công suất thực tế; số lượng, chất lượng trang thiết bị hiện có; phương hướng sản xuất và đổi mới công nghệ. Căn cứ vào nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của Quân đội và kết quả khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp công nghiệp Chính phủ quyết định các doanh nghiệp công nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp quốc phòng. - Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng, nội dung gồm: Quyết định của Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng công ti; kế hoạch thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; quyết định di chuyển địa điểm; kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch bảo đảm vật tư cho sản xuất, sửa chữa trang 104 bị theo chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên công nghiệp quốc phòng (nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên cứu khoa học; kế hoạch bảo đảm kinh phí cho động viên công nghiệp quốc phòng. Trên cơ sở kế hoạch của cấp trên, các doanh nghiệp công nghiệp lập kế hoạch động viên công nghiệp quốc phong cho doanh nghiệp mình. Nội dung gồm: Kế hoạch bảo dưỡng trang thiết bị do Nhà nước giao; kế hoạch thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch di chuyển địa điểm; kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch bảo đảm vật tư cho sản xuất, sửa chữa trang bị theo chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch sản xuất, sửa chữa trang bị; kế hoạch ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên công nghiệp công nghiệp (nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên cứu khoa học; kế hoạch bảo đảm kinh phí - Giao chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng - Hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị - Quản lí, duy trì dây chuyền sản xuất - Bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động và diễn tập động viên công nghiệp quốc phòng - Dự trữ vật chất 2. Thực hành động viên công nghiệp quốc phòng - Quyết định và thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng (do Chính phủ quy định). - Tổ chức di chuyển địa điểm các đơn vị công nghiệp phải di chuyển. - Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính. - Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị. - Giao, nhận sản phẩm động viên công nghiệp quốc phòng. C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH THỰC HIỆN ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG 1. Nhà nước, Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, tổng công ti, thực hiện nghiêm Pháp lệnh động viên công nghiệp quốc phòng. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, Tổng công ti phối hợp hiệp đồng chặt chẽ thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng. 2. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, các Tổng công ty cần quán triệt sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về Pháp lệnh, Nghị định, các văn bản hướng dẫn về động viên công nghiệp quốc phòng của Nhà nước, Chính phủ. 3. Các doanh nghiệp công nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phong cần chủ động lập kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, chỉ tiêu trên giao. 105 Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và dộng viên công nghiệp quốc phòng có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chủ động ngăn chặn đối phó với mọi tình huống nhất là khi chiến tranh xẩy ra nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị ở nước ta. Sinh viên là đội ngũ tri thức trẻ, cần nhận thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ trong xây dựng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và dộng viên công nghiệp quốc phòng để góp phần của một công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ? 2. Trình bày những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động viên? 3. Trình bày một số biện pháp chính thực hiện động viên công nghiệp quốc phòng? 106 BÀI 10. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VÀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, bất khả xâm phạm, với diện tích đất liền là 331.689 km2, có bờ biển dài khoảng 3.260 km, có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền) với 4.450 km đường biên giới, là nơi sinh sống của gần 100 triệu dân thuộc 54 dân tộc anh em đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị - xã hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới Quốc gia nước ta. Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của Quốc phòng và An ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích Quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh Quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”1. I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO A. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO 1. Khái niệm Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nuớc với quá trình kinh tế - xã hội, các hoạt động trên biển, đảo nhằm duy trì và phát triển các mối quan hệ, các hoạt động đó trong trật tự, theo đúng định hướng của Nhà nước trong việc thăm dò, khai thác tiềm năng của biển, thực thi và bảo vệ chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, hải đảo và thềm lục địa của quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo đảm thi hành pháp luật của Nhà nước, các điều ước quốc tế, hiệp định với các nước có liên quan mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, trên các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia. Thông qua các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc thi hành pháp luật trên biển; kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm ở trên biển, bảo đảm cho pháp luật về biển của Nhà nước được thi hành chính xác và nghiêm minh. Trên cơ sở đó, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển và 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.147-148 107 thềm lục địa của quốc gia; bảo vệ nguồn lợi cho đất nước; bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, sự phát triển bền vững của kinh tế biển; duy trì an ninh chính trị, bảo đảm an toàn cho sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân; phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và xâm phạm chủ quyền trên vùng biển và thềm lục địa của quốc gia là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. 2. Đặc điểm - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo có nội dung toàn diện phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đã ký với các nước có liên quan. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo bao gồm: Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển. Vùng biển bao gồm vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo và quần đảo. - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ các quyền của quốc gia về biển phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà nước ta đã ký với các nước có liên quan. Đó là quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của biển, lòng đất dưới đáy biển, vùng trời, các đảo và quần đảo. - Xây dựng và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo quốc gia là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Diện tích biển của Việt Nam chiếm khoảng 29% Biển Đông, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. Việt Nam còn có chủ quyền với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa. Tài nguyên vùng biển và ven biển nước ta được đánh giá rất phong phú và đa dạng, phân bố rộng khắp trên dải đất liền ven biển đến các vùng nước ven bờ, các hải đảo và các vùng biển. Cả nước có 63 tỉnh, thành phố thì có 28 tỉnh, thành ven biển, trong đó có 11 huyện đảo. Trên 50% số dân của nước ta sống ở các tỉnh ven biển. Đó vừa là những điều kiện khách quan thuận lợi để chúng ta phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn trong quản lý, bảo vệ biển đảo và khai thác lợi thế kinh tế từ biển, đảo. Biển Đông là một biển lớn của Thái Bình Dương, nằm ở phía Đông lục địa Việt Nam, tiếp giáp với nhiều nước và vùng lãnh thổ như: Trung Quốc (gồm cả Đài Loan), Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Xingapo, Inđônêsia, Brunây và Philippin. Vấn đề tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa giữa các nước trong khu vực tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, làm cho tình hình trong khu vực vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp hơn. 108 Vì vậy, xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. B. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO 1. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển, đảo Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển, đảo cần thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển. Vùng biển nước ta bao gồm vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các hải đảo và quần đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông. Bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của biển ở những nơi đó; thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia. Như vậy, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển gắn bó mật thiết. Các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường... ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là biểu hiện của quyền làm chủ trên biển của quốc gia. Những hành động khảo sát, tìm kiểm, thăm dò, khai thác tài nguyên... trái phép của tầu thuyền nước ngoài ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là vi phạm chủ quyền, gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia của Việt Nam và trái với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước về Luật Biển năm 1982). 2. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng ven biển An ninh, trật tự an toàn xã hội là nhu cầu và điều kiện cần thiết để con người tồn tại và hoạt động ở mọi môi trường địa lý. Biển là môi trường có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và nhiều biến động, lại là môi trường mở, thường xuyên có sự giao lưu quốc tế, nên đòi hỏi về bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội lại càng cao hơn. Diễn biến của tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên biển rất phức tạp, đặc biệt là phải tiến hành trong điều kiện quy chế pháp lý không đồng nhất giữa các vùng nước khác nhau trên biển. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên biển không chỉ mang tính chất đối nội mà còn mang tính chất đối ngoại; là sự thể 109 hiện năng lực làm chủ vùng biển quốc gia của nước ven biển trước cộng đồng thế giới và khu vực. Nội dung chủ yếu của bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội và văn hóa trên biển và vùng ven biển của nước ta là: - Bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học công nghệ, quốc phòng - an ninh... - Ngăn chặn kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các hoạt động phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi truỵ và thực hiện các hành vi tội phạm khác. - Bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân trên biển và ven biển. - Bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên biển và ven biển. - Bảo vệ môi trường, xử lý các vụ ô nhiễm môi trường trên biển và ven biển. - Phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai. - Thực hiện tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. - Phòng ngừa, chế ngự, xử lý các xung đột do tranh chấp lợi ích giữa các tổ chức và cá nhân trong sử dụng và khai thác biển. C. MỤC TIÊU, PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO 1. Mục tiêu Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1. Như vậy, Đảng ta có tầm nhìn sâu, rộng hơn về không gian và thời gian bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp mới rất khó đoán định, không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp trong một sớm, một chiều, nên Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.81. 110 nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”1. Quán triệt quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta là: - Giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển, đảo gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển đảo gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc hiến định. Hiến pháp năm 1992, quy định: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm lãnh thổ đất liền, vùng biển, lòng đất, vùng trời, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ là một trong những nguyên tắc cơ bản được pháp luật quốc tế hiện đại công nhận, bắt nguồn từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Bất khả xâm phạm lãnh thổ có nghĩa là không được xâm phạm lãnh thổ của một quốc gia bằng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay bằng bất cứ cách nào khác. Toàn vẹn lãnh thổ có nghĩa là nghiêm cấm chia cắt lãnh thổ hoặc xâm chiếm một phần lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào. Mặc dù, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia của dân tộc đã được luật pháp quốc tế công nhận, song các nước đế quốc và các thế lực bành trướng vẫn luôn tìm mọi âm mưu và thủ đoạn để xâm phạm, can thiệp bằng nhiều hình thức khác nhau. Lịch sử dân tộc ta cho thấy, để thực hiện được mục tiêu giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phải trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh gian khổ, hy sinh nhiều xương máu mới giành được. Điều đó cũng cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Giờ đây và những năm tới, nhân dân ta quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với Việt Nam, Tổ quốc là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc phải gắn với Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo. 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.78-79. 111 Vì vậy, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển đảo phải gắn với chủ nghĩa xã hội, gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu bất di bất dịch của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. - Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài là lợi ích cao nhất. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của dân tộc ta đã trải qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược với những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ, sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ. Do đó, hơn ai hết, dân tộc Việt Nam thiết tha yêu chuộc hoà bình, độc lập, tự do, mong muốn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài, bền vững để xây dựng và phát triển đất nước. Ngày nay, chúng ta kiên trì phấn đấu theo quan điểm của Đảng là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển, tạo môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương các quan hệ quốc tế trong đường lối đối ngoại của Đảng ta thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, không để bất cứ một thế lực nào lôi kéo. Độc lập, tự chủ chính là tự mình quyết định các vấn đề về đường lối, chính sách, các mục tiêu và các quyết sách về đối nội và đối ngoại phù hợp với mục tiêu và nghĩa vụ quốc gia, thích ứng với xu thế thời đại. Đó chính là thực hiện quyền tự quyết trong quan hệ quốc tế, không chịu sự áp đặt về ý đồ và quyền lợi từ bất cứ phía nào. Đa phương hoá là nói đến nhiều đối tác trong quan hệ, nhưng vẫn có ưu tiên nhất định đối với bạn bè truyền thống và đối tác chiến lược; đa dạng hoá là nói đến việc sử dụng nhiều hình thức quan hệ để thực hiện đa phương hoá. Đây là chính sách ngoại giao mềm dẻo, cho phép nước ta “thêm bạn, bớt thù”, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta, một mặt chủ động, tích cực, kiên quyết đấu tranh với những hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, chống âm mưu “diễn biến hoà bình” và các hoạt động lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta; mặt khác, chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ 112 trên biển và đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đã ký Thoả thuận khai thác chung vùng biển chồng lấn với Malaysia; ký Hiệp định phân định vùng biển chồng lấn với Thái Lan và thực hiện tuần tra chung trên vùng biển chồng lấn; ký Hiệp định về biên giới trên bộ và phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; ký Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa với Inđônêxia; ký Hiệp định về biên giới trên bộ với Campuchia... Như vậy, mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, đảo thể hiện cụ thể đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với mục tiêu chung của Đảng và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có giữ vững hoà bình, ổn định lâu dài mới có thể xây dựng và phát triển đất nước. Hoà bình, ổn định là điều kiện tiên quyết để xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định lâu dài trở thành lợi ích cao nhất hiện nay. 2. Phương thức - Trên cơ sở nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên hứơng biển, lấy khu vực phòng thủ ven biển làm chỗ dựa, lực lượng hải quân nhân dân Việt Nam làm nòng cốt. - Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh của mọi ngành, mọi lực lựơng trên biển, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh với tinh thần tự lực là chính để quản lí, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên các vùng biển. - Duy trì, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trên biển và vùng ven biển; sẵn sàng ngăn chặn đẩy lùi đánh bại các hành động xâm lấn của kẻ thù để bảo vệ biển đảo. - Để thực hiện phưong thức trên cần giải quyết tốt những vấn đề sau: + Khi xử lý các vấn đề, các tình huống xảy ra trên biển, đảo cần hết sức khẩn trương, thận trọng. Bối cảnh hiện nay và trong những năm tới, tình hình trên Biển Đông vẫn là điểm nóng thu hút dư luận của cộng đồng quốc tế và còn diễn biến hết sức phức tạp. Cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không mơ hồ, chủ quan khi phân tích, đánh giá tình hình trên biển, dự báo đúng âm mưu, ý đồ, khả năng, thủ đoạn của các đối tượng để có biện pháp đối phó kịp thời, phù hợp. Trong mọi trường hợp đều phải tính đến những tác động có thể có đối với mục tiêu hoà bình, ổn định để xử lý, nhằm triệt tiêu những nhân tố đối phương có thể lợi dụng để gây mất ổn định, dẫn tới xung đột vũ trang trên biển, đẩy đất nước vào tình thế khó khăn. Đồng thời 113 kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, có phương án xử lý với các tình huống phức tạp có thể xảy ra như: biến động chính trị trong nước; bạo loạn lật đổ, ly khai ở một vùng hoặc nhiều vùng, gây nguy cơ chia rẽ đất nước; xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển do tranh chấp chủ quyền, tài nguyên với các nước quanh Biển Đông, sự can thiệp, thoả thuận dàn xếp, đứng đằng sau của các nước lớn. + Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên hướng biển, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lấy xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với Quốc phòng và An ninh ở các tỉnh, thành phố ven biển, hải đảo làm trọng tâm để làm chỗ dựa cho các lực lượng làm kinh tế biển và quản lý, bảo vệ biển, đảo. + Quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo cần thấm nhuần quan điểm quản lý, bảo vệ biển, đảo là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng dân sự và quân sự trên hướng biển, trong đó lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam là nòng cốt; vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh, đặc biệt là kết hợp giữa đấu tranh chính trị trên mặt trận đối ngoại với đấu tranh quân sự là cơ sở tạo nên sức mạnh quyết định, đồng thời phải lấy yếu tố nội lực, dựa vào sức mình là chính để ngăn chặn, đẩy lùi xung đột vũ trang, giành thắng lợi trong mọi tình huống để bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ quốc. D. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO 1. Tăng cường tiềm lực xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng - văn hóa, khoa học và giáo dục - Tăng cường tiềm lực xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải hoàn thiện hệ thống các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách về biển, đảo. - Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo. - Thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ven biển, đảo làm nền tảng giữ vững ổn định, bảo vệ biển, đảo. - Bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển. 2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo - Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên biển, vùng ven biển. - Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với Quốc phòng và An ninh trên biển. 114 - Xây dựng Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. 3. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường thuận lợi để phát triển Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông thời gian vừa qua, hoạt động đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng, góp phần to lớn bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, giữ vững hoà bình và ổn định trên biển. Hoạt động đối ngoại phục vụ mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển đảo phải ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi nguy cơ phá vỡ hoà bình, ổn định trong khu vực; ngăn chặn và làm thất bại ý đồ, hành động của nước ngoài nhằm biến vùng không tranh chấp thành "những khu vực tranh chấp" trên vùng biển và thềm lục địa của nước ta. Hoạt động đối ngoại về kinh tế có vai trò tích cực trong phát triển quan hệ quốc tế trong lĩnh vực khai thác tài nguyên biển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển. Hợp tác quốc tế và khu vực về nghiên cứu biển giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tăng thêm lòng tin giữa các bên hữu quan. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại về Quốc phòng và An ninh tạo sự tin cậy và không khí hoà dịu trong khu vực và thế giới; bảo đảm thi hành pháp luật trên biển trong các hoạt động chống buôn lậu, buôn bán ma tuý, chống cướp biển, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững an ninh, trật tự và ổn định lâu dài ở Biển Đông. Hợp tác quốc tế và khu vực về bảo vệ môi trường biển và tìm kiếm, cứu nạn trên biển sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, có lợi hơn cho mỗi quốc gia, các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy tiến trình đàm phán giải quyết tranh chấp giữa các nước về biển, đảo. Tích cực tuyên truyền đối ngoại bằng các hình thức đa dạng, phong phú làm cho thế giới ngày càng hiểu rõ hơn về lịch sử, đất nước và con người Việt Nam, về đường lối đối ngoại và cơ sở pháp lý, lịch sử của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đảo. 4. Tăng cường hoạt động pháp lý trên trường quốc tế, tạo cơ sở bảo vệ chủ quyền biển, đảo bền vững Hoạt động pháp lý là một lĩnh vực quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta hiện nay. Hoạt động pháp lý về biển nhằm thiết lập các điều khoản cần tuân theo giữa hai hoặc nhiều nước dưới các hình thức: luật, hiệp định, công ước, tuyên bố, thoả thuận... 115 Trong lịch sử nhân loại, các hoạt động pháp lý trên biển đã hình thành và phát triển để điều chỉnh, giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp về quyền lợi trên biển giữa các quốc gia, dân tộc. Kết quả quá trình đấu tranh thông qua các hội nghị do Liên Hợp quốc chủ trì là sự ra đời của Công ước về Luật biển năm 1982. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã chủ động, tích cực đàm phán với các bên hữu quan để giải quyết những vấn đề về vùng biển chồng lấn, tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Các hiệp định về phân định ranh giới trên biển và thềm lục địa được ký kết giữa Việt Nam với các nước là cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh và các quyền lợi quốc gia, dân tộc trên các vùng biển phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong những năm tới, chúng ta cần tăng cường các hoạt động pháp lý để đi đến ký kết các hiệp định nhằm giải quyết những vấn đề trên biển với các nước có liên quan, tạo môi trường thuận lợi, cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. II. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA A. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA 1. Khái niệm - Luật biên giới quốc gia của Việt Nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam”1. Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc giới trên thực địa, được đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đò và thể hiện bằng mặt phẳng thẳng đứng theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia VIệt Nam bao gồm biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất. + Biên giới quốc gia trên đất liền là phân định lãnh thổ trên bề mặt đất liền của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập dựa vào các yếu tố địa hình (núi sống, suối, hồ nước, thung lũng..); thiên văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học (đường nối liền các điểm qui ước). Biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa các quốc gia liên quan. Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài 4.450 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây, phía Đông giáp biển Đông. 1 Luật biên giới quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 8. 116 + Biên giới quốc gia trên biển là phân định lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia có bờ biển liền kề hay đối diện nhau; là ranh giới phía ngoài của lãnh hải. Biên giới quốc gia trên biển của quốc gia quần đảo là đường biên giới quốc gia phân định lãnh thổ quốc gia với biển cả. Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia, biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh đảo. Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luạt Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xác hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan. + Biên giới quốc gia trên không là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên vùng trời. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển, việc xác lập biên giới quốc gia trên không có ý nghĩa ngày càng quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền đối với vùng trời quốc gia. Đến nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao cụ thể của biên giới quốc gia trên không. + Biên giới quốc gia trong lòng đất là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thủy và lãnh hải, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà kỹ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay, chưa có quốc gia nào quy định độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất. + Khu vực biên giới là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế, quy định đặc biệt do chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có mọt phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền; khu vực biên giới qioocs gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo bien giới quốc gia có chiều rộng mười ki lô mét tính từ biên giới Việt Nam trở vào. - Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia luôn là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, là một biện pháp hiệu quả chống lại sự xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 xác định: “Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường Quốc phòng và An ninh và đối ngoại”1. 1 Luật biên giới quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 13 117 2. Đặc điểm - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia gắn liền với bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó bao gồm: Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất; xây dựng và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân dân tộc, phát huy vai trò tham mưu của lực lượng chuyên trách. B. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA - Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là nhiệm vụ to lớn, nặng nề và lâu dài nhằm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành. - Dựa vào nhân dân, trực tiếp là các đồng bào dân tộc ở biên giới, đồng thời coi trọng bộ đội biên phòng làm lực lượng chuyên trách, nòng cốt xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. C. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước, sự phân cấp và phối hợp chặt chẽ giữa trung ương với địa phương. - Dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và vai trò tham mưu của lực lượng chuyên trách nòng cốt, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia. - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia gắn với bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường. - Phát huy ưu thế chính trị, tinh thần, dựa vào sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp tác chiến với đich vận, tuyên truyền, giáo dục thuyết phục với xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. D. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA - Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất. - Xây dựng và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới. - Xây dựng và bảo vệ tài nguyên, môi trừơng và lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới và vùng biển quốc gia. 118 - Xây dựng và bảo vệ công trình quốc phòn trên khu vực biên giới, các công trình bảo vệ biên giới. - Xây dựng và bảo vệ việc chấp hành pháp luật, qui chế biên giới và các điều uớc quốc tế về biên giới. - Quản lý xuất nhập biên, xuất nhập cảnh, quá cảnh, tại các cửa khẩu biên giới, và các cửa khẩu cảng biển. - Quản lý hoạt động đối ngoại biên phòng. E. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước, huy động toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. - Xây dựng chiến lựơc quốc gia về biên giới. - Tăng cường hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại, để củng cố, phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc và các nước ASEAN. - Chủ đông đàm phán giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới với các nuớc có liên quan. - Đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng khu biên giới, hải đảo vững mạnh toàn diện. - Xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn biên giới. - Tăng cường xây dựng, củng cố lực lựong chuyên trách, nòng cốt vững mạnh và phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lựơng tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia là nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức thiêng liêng và cao cả. Bởi vì, đó chính là nhiệm vụ gìn giữ tài sản vô giá mà ông cha ta đã phải đổi bằng xương máu trong lịch sử tồn tại và phát triển của quốc gia, dân tộc. Sự nghiệp ấy đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của Đảng, Nhà nước và sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các Bộ, Ngành từ Trung ương đến địa phương cùng nhân dân cả nước, với tinh thần “Tất cả hướng về biên giới”, xây dựng biên giới ngày càng giàu mạnh. Trách nhiệm của sinh viên trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia Việt Nam trong thời kỳ mới - Sinh viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt, hiểu biết sâu sắc về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó xây dựng củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự chủ, độc lập, tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Thấy rõ ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và bất khả xâm phạm về chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xác định rõ vinh dự trách nhiệm của công dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng bảo vệ chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 119 - Thực hiện tốt chương trình môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng; hoàn thành tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong thời gian học tập tại trường. Sau khi tốt nghiệp sẵn sàng tự nguyện, tự giác tham gia quân đội nhân dân, công an nhân dân khi Nhà nước yêu cầu. Tình nguyện tham gia xây dựng và phục vụ lâu dài tại các khu kinh tế - quốc phòng, góp phần xây dựng khu biên giới, hải đảo vững mạnh, phát triển kinh tế, xã hội bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện nghiêm chỉnh Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sinh viên đang học tại các trường đại học cao đẳng cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia đối với sự toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ; quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, học tập tốt, thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Nêu khái niệm và nội dung bảo vệ chủ quyền biển, đảo? 2. Nêu mục tiêu, phương thức xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo? 3. Trình bày quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới Quốc gia? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên? 120 BÀI 11. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MANG VIỆT NAM Dân tộc và Tôn giáo là hai vấn đề có tính đặc trưng trong lịch sử tiến hóa của loài người, nó có quy luật hình thành, phát triển và vận động riêng song hành với sự ra đời các quốc gia, nhà nước và các thể chế chính trị. Do vậy cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng vấn đề nhân quyền tác động vào các cộng đồng dân tộc thiểu số, các tôn giáo nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn định chính trị, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của nhiều quốc gia và nước ta… Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập vấn đề Dân tộc và Tôn giáo… có một ý nghĩa chiến lược trong cuộc đấu tranh phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay nói chung và trên lĩnh vực Dân tộc và Tôn giáo nói riêng. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN TỘC Khái niệm dân tộc Theo J. Xta-lin: “Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định được thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hoá”. Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc. Thuật ngữ dân tộc ở Việt Nam được hiểu theo hai nghĩa: - Hiểu theo nghĩa của một quốc gia: các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung để giao tiếp; chung đặc điểm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần. - Hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc: là một cộng đồng chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung. B. TÌNH HÌNH DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA 1. Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới Hiện nay, trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp, khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát 121 triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc. Toàn cầu hoá và các vấn đề toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hoá. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, chống can thiệp áp đặt và cường quyền. Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia, các khu vực, các châu lục trên thế giới... Đúng như Đảng ta nhận định: “Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt…”. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đã gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường cho các quốc gia, đe doạ hoà bình, an ninh khu vực và thế giới. 2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc a) Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin: Đó là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc. - Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xoá bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hoá và thực hiện trên thực tế. Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc. - Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. - Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi. b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân tộc 122 đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng; đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án, vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. C. ĐẶC ĐIỂM CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Khái quát đặc điểm các dân tộc ở nước ta hiện nay Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc cùng sinh sống. Các dân tộc ở Việt Nam có đặc trưng sau: Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó xây dựng quốc gia dân tộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ dân tộc ta đã phải sớm đoàn kết thống nhất. Các dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản - quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết thống nhất đã trở thành giá trị tinh thần truyền thống quý báu của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước. Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa bàn rộng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu số nào cư trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác. Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân số như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu... đều Ba là, các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển không Theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 123 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H’mông, người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán Dìu, người Raglay. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều nhau. Có dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối khá như dân tộc Kinh, Hoa, Tày, Mường, Thái..., nhưng cũng có dân tộc trình độ phát triển thấp, đời sống còn nhiều khó khăn như một số dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên... Bốn là, mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hoá riêng, góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của văn hoá Việt Nam. Các dân tộc đều có sắc thái văn hoá về nhà cửa, ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hoá Việt Nam. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm chung thống nhất về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hoá các dân tộc ở Việt Nam. 2. Quan điểm chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay a) Quan điểm Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ; gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”1. Đại hội XII: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”2. - Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp Cách mạng nước ta. - Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất nước - Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. - Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; - Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. 1 2 Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.16. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016. tr. 164. 124 b) Chính sách dân tộc - Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. - Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số. - Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng các dân tộc thiểu số. - Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÔN GIÁO A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÔN GIÁO 1. Khái niệm tôn giáo - Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí, hành vi của con người. Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố: Hệ thống giáo lí tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo. - Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội. 2. Nguồn gốc của tôn giáo Có nguồn gốc từ các yếu tố kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lí. - Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên. Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ. Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia”. Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và xã hội; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,... vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại. 125 - Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình của nhận thức, con người có thể nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng xa lạ với hiện thực khách quan. - Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh. 3. Tính chất của tôn giáo Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị. - Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh và phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn tại rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và tư duy. - Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tôn giáo. - Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp. Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức bóc lột và mê hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác nhau lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. B. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA 1. Tình hình tôn giáo trên thế giới Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế giới có tới 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn 1 triệu tín đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo (bao gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2,1 tỉ tín đồ, chiếm 33% dân số thế giới; Hồi giáo: 1,5 tỉ tín đồ, chiếm 21% dân số thế giới; Ấn Độ giáo: 900 triệu tín đồ, chiếm 16% dân số thế giới và Phật giáo: 376 triệu, chiếm 6% dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn đã gần 4,9 tỉ người tin theo, chiếm 76% dân số thế giới. Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu; các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hoá, bình dân hoá, mềm hoá các giới luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng 126 tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các chức năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hoá, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi động và không kém phần phức tạp. Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hoá, thần bí hoá giáo chủ đang nổi lên; đồng thời, nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc độc lập. Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao lưu giữa các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đã giúp cho việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài nước chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc sau: - Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên chiến, xoá bỏ tôn giáo. - Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là: bất kì ai cũng được tự do theo tôn giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đều 127 được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật. - Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét, đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo pháp luật. - Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo. Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lí kịp thời theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng. C. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Theo thống kê, đến năm 2013, cả nước có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, cấp đăng ký hoạt động; có khoảng 24 triệu tín đồ tôn giáo; khoảng 83 nghìn chức sắc và nhà tu hành, hơn 250 nghìn chức việc trông coi việc đạo ở khoảng 25 nghìn cơ sở thờ tự trên cả nước. - Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. 128 - Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. + Một số tôn giáo đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn giáo. + Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị - xã hội. + Thành lập các Hội đoàn tôn giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm giảm vai trò, uy tín của đảng viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “Tà đạo” mang yếu tố mê tín, phản văn hóa, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. + Các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá Cách mạng nước ta. 2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay Trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước trước đây, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xem là quyền của công dân. Nhưng từ Hiến pháp 2013, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của mọi người. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”1. Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chỉ ra rằng, chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”2. Quan điểm về tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo không phải là một quan điểm mới của Văn kiện Đại hội XII, mà đã được nhắc nhiều trong các kỳ đại hội trước. Tuy nhiên, đây là quan điểm được Đảng nhấn mạnh tại Đại hội XII. Văn kiện ghi rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”3 Như vậy, quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay thể hiện ở các vấn đề sau: Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014, tr.20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,tr. 81. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 165. 1 2 129 Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngữơng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Ba là, tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo. Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước. III. ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM A. ÂM MƯU LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự. Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; xoá vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, thực hiện âm mưu “không đánh mà thắng”. Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm các mục tiêu cụ thể sau: Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hoá sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà nước ta, nên chúng thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hoá chế độ chính trị ở Việt Nam. 130 Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam. B. THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”; những vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hoá, tâm lí của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc, các tôn giáo; những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau: - Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. - Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo và giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế xã hội; mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam. - Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam như: truyền đạo trái phép để “tôn giáo hoá” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép vào các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên. Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của chúng ta. 3. Giải pháp đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch 131 Để vô hiệu hoá sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, cần tập trung vào những giải pháp cơ bản, cụ thể sau: - Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn dân. Đây là giải pháp đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức, tư tưởng của cả hệ thống chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn giáo về các nội dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, vô hiệu hoá được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch. Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp. Hiện nay cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc, các tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước, khơi dậy lòng tự tôn tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục để đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch, để đồng bào đề cao cảnh giác không bị chúng lừa gạt lôi kéo lợi dụng. Vận động đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực hiện đúng chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo. - Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò của mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Kiên quyết đấu tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề quan trọng để vô hiệu hoá sự chống phá của kẻ thù. - Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh 132 thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân tộc, vùng tôn giáo tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xoá đói giảm nghèo nâng cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ bản sắc văn hoá các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo phải bằng những hành động thiết thực cụ thể như: ưu tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất. - Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí và cán bộ chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người có tôn giáo. Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo. - Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch; kịp thời giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn xảo trá của chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh này. Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đồng bào gây bạo loạn. Khi xuất hiện điểm nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng, không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm đầu, ngoan cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động những người nhẹ dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn hối cải, phục thiện. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi dân tộc có những đặc trưng riêng về văn hóa, tâm lý, ý thức tộc người, có trình độ phát triển không đều nhau; mỗi tôn giáo có hệ thống giáo lý và tổ chức giáo luật khác nhau nhưng đều là bộ phận trong khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Để chống phá cách mạng Việt Nam, phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch tiến hành những âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm chia rẽ đồng bào thuộc các tộc người, các tôn giáo khác nhau, kích động sự chi rẽ kỳ thị dân tộc, tôn giáo, 133 xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc tôn giáo của Đảng, gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm ngỏi nổ cho âm mưu thủ đoạn gây bạo loạn lật đổ cách mạng từ bên trong. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải hết sức nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu thâm độc của kẻ thù nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU tộc? 1. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề dân 2. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo? 3. Trình bày âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch? 4. Nêu những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch? 134 BÀI 12. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN Xà HỘI Trong giai đoạn cách mạng hiện nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ngày đêm ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế gới và sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hôị có vị trí đặc biệt quan trọng và quyết định đến sự phát triển của đất nước. Do đó, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội. I. CÁC KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI A. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. An ninh quốc gia - An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc1. An ninh quốc gia bao gồm: an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hoá, xã hội, quốc phòng… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi xuyên suốt. - Bảo vệ An ninh quốc gia: Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm hại An ninh quốc gia. - Hoạt động xâm hại An ninh quốc gia: Là những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập chủ quyền, thống nhất tòan vẹn lãnh thổ của nước cộng hòa xã hôị chủ nghĩa Việt Nam. - Mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia là những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ sở chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hoá, xã hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật. - Nhiệm vụ bảo vệ An ninh quốc gia, bao gồm: + Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. + Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. + Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia. 1 Luật an ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 135 + Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về An ninh quốc gia. + Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm An ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ An ninh quốc gia. - Nguyên tắc bảo vệ An ninh quốc gia + Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. + Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước; huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ An ninh quốc gia làm nòng cốt. + Kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ An ninh quốc gia với xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội; giữa an ninh - quốc phòng với đối ngoại. + Chủ động phòng ngừa làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm An ninh quốc gia. - Cơ quan chuyên trách bảo vệ An ninh quốc gia: + Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ công an nhân dân. + Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh quân đội, tình báo quân đội nhân dân. + Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển: bảo vệ An ninh quốc gia ở biên giới trên đất liền và trên biển. - Các biện pháp bảo vệ An ninh quốc gia: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang. 2. Trật tự an toàn xã hội - Khái niệm: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. - Nội dung đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm: Chống Tội phạm; giữ gìn trật tự nơi công cộng; bảo đảm trạt tự, an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ nạn xã hội… - Nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội: Của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng công an nhân dân làm nòng cốt. B. NỘI DUNG BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI 1. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia - Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ: Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước; 136 bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt Nam đang công tác, học tập và lao động ở nước ngoài. - Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống cc biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc gia. Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh giỏi không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn định và phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn, vai trị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. - Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. - Bảo vệ an ninh tôn giáo. Đó là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các tôn giáo, giữa cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc. - Bảo vệ an ninh biên giới. Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý ngăn cách chủ quyền quốc gia và không gian hợp tác phát triển với các nước mà trước hết là với các nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia đang được Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ chiến lược cực kì quan trọng. Bảo vệ an ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực biên giới quốc gia, cả trên đất liền và trên biển, chống các hành vi xâm phạm chủ quyền biên giới từ phía nước ngoài, góp phần xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị với các nước láng giềng theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển, đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Bảo vệ an ninh thông tin. An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng, chính xác và bí mật của thông tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lý và 137 lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm khác nhằm khai thác, sử dụng hệ thống thông tin liên lạc hoặc tiến hành các hoạt động phá huỷ công trình, phương tiện thông tin liên lạc gây thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước ta; chống lộ, lọt những thông tin bí mật của Nhà nước; ngăn chặn các hoạt động khai thác thông tin trái phép, dò tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thông tin trên mạng... 2. Nội dung giữ gìn trật tự an toàn xã hội - Đấu tranh phòng, chống tội phạm (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lí trước pháp luật đảm bảo đúng người, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt, có thể tái hoà nhập cộng đồng xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội. - Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của trật tự an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng - nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người. - Đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Trật tự an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính...) mà là trách nhiệm của tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông phải được xử lý nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các vụ tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng. - Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh. Chú ý phòng ngừa không để xẩy ra tai nạn lao động và luôn luôn phòng chống thiên tai dịch bệnh. - Bài trừ các tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm những 138 nguyên tắc về lối sống, truyền thống văn hoá, đạo đức, trái với thuần phong mĩ tục, các giá trị xã hội tốt đẹp cho đến các hành vi vi phạm những quy tắc đã được thể chế hoá bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự) ảnh hưởng xấu về đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao gồm: mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan.... Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng, chống tệ nạn xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ, tích cực, kiên quyết và triệt để. - Bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là tập hợp những biện pháp giữ cho môi trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật) và môi sinh (đất, lòng đất, nước, không khí, khí hậu...), đảm bảo sự cân bằng sinh thái... nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống của con người. II. TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI A. MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH VỀ AN NINH QUỐC GIA Trong những năm qua, sau khi Liên Xô - Đông Âu tan rã đã có tác động tiêu cực và tạo thuận lợi cho các hoạt động chống phá của các tổ chức, thế lực phản động cả ở trong nước lẫn bọn phản động lưu vong bên ngoài. Chúng cho rằng thời cơ đã đến trong lúc chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và chúng đã hi vọng vào một cuộc “lật đổ” ở Việt Nam. Chính vì thế mà hoạt động chống phá của các tổ chức và các thế lực phản động nhằm cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có những diễn biến rất phức tạp. 1. Hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt Nam ở nước ngoài Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động người Việt lưu vong tại các nước tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động mang tính chính trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp dưới các danh nghĩa “từ thiện”. Các tổ chức phản động này có cơ sở vật chất tương đối khá gồm 50 nhà xuất bản, 500 tờ báo Việt ngữ, 6 chương trình truyền hình, 10 đài phát thanh. Các tổ chức phản động này đều có sự dung túng của chính quyền một số nước tư bản nên có điều kiện về kinh phí, trụ sở để hoạt động. Hiện nay tại các nước như: Mĩ, Pháp, Bỉ, canađa, ôxtrâylia,... có các tổ chức phản động lớn như các tổ chức của Võ Văn Ái, Hoàng Cơ Minh, Võ Đại Tôn.... Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong này đều kêu gọi các nước cấm vận, trừng phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó khăn, thiếu sót trong quản lí của ta để thực hiện kế hoạch “chuyển lửa về quê” đưa ra các lời kêu gọi lật đổ và tiếp tay, kích động cho các hoạt động của bọn phản động trong nước. Mặc dù chúng ta đã làm thất bại các hoạt động đó nhưng vẫn còn nhiều nhóm hoạt động rất ráo riết như các nhóm của Võ Văn Ái, đặc biệt là tổ chức phản động do Hữu Chánh cầm đầu trong những ngày gần đây lại bày trò đại hội lập ra “Chính phủ Việt Nam tự do”, đưa tên “tướng” Nguyễn Khánh lên làm “quốc trưởng” và ra tuyên bố sẽ về giải phóng Việt Nam. 139 Cùng với hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt động diễn biến hoà bình với 3 nội dung chủ yếu là : chiếm lĩnh thị trường ngoại giao hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xoá bỏ Việt Nam, làm thối rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam. 2. Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa Cùng với hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt động diễn biến hoà bình với 3 nội dung chủ yếu là: Chiếm lĩnh thị trường ngoại giao hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xoá bỏ Việt Nam, làm thối rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam. Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa như các tổ chức phản động của bọn ngụy quân, ngụy quyền còn chống đối không chịu cải tạo, cũng như bọn phản động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc và số cơ hội bất mãn trong những năm qua cũng diễn biến khá phức tạp, nhiều nơi chúng cấu kết với các tổ chức nước ngoài, được các tổ chức nước ngoài cung cấp tài liệu, tiền bạc, vũ khí để tập hợp lực lượng, nhen nhóm tổ chức, tiến hành các vụ gây rối bạo loạn. Một số đối tượng bất mãn viết tin tài liệu nói xấu chống lại Đảng và Nhà nước ta, đòi thay đổi đường lối rồi tán phát qua mạng internet hoặc phổ biến thông qua các cuộc gặp gỡ với các phóng viên báo chí nước ngoài. Có những đối tượng chống đối điên cuồng, quyết liệt như các tên : Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý,... Điển hình gần đây như các đối tượng Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ở Văn phòng luật sư Thiên Ân, Trần Khải Thanh Thuỷ... - An ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế Tình hình an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua còn nhiều bất cập. Phá hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lạnh, một hình thức chủ yếu trong cuộc đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc chống chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua các hoạt động phá hoại văn hoá tư tưởng được các bọn phản động nhất là bọn phản động bên ngoài tiến hành thông qua hoạt động của các đài phát thanh, mạng internet. Hiện tại có nhiều đài phát thanh và chương trình do bọn phản động lưu vong tham gia, trong đó có 5 chương trình, 300 báo được thực hiện ở Mĩ, có 175 tờ báo chống cộng như “Quê mẹ”, “Hoa sen”, “Công luận” hoạt động phá hoại văn hoá tư tưởng được tiến hành theo các chiến dịch, có sự phối hợp giữa các nước đế quốc với bọn phản động và gắn liền với các hoạt động tình báo gián điệp. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm vào xuyên tạc, nói xấu, kích động nhằm gây mất ổn định trong nước. - Lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế Trong những năm qua, tình hình lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế đã xảy ra ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. Các hoạt động nhằm 140 phá hoại về kinh tế được tiến hành cả bề rộng lẫn bề sâu thông qua các hoạt động lấy cắp bí mật kinh tế, tuyên truyền và kéo cán bộ quản lí kinh tế và khoa học kĩ thuật phá hoại cơ sở vật chất. Trong tình hình hiện nay, chúng nhằm vào phá hoại các chủ trương đường lối kinh tế, các công trình trọng điểm của ta. - An ninh biên giới Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập qua biên giới diễn ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều thiếu sót dẫn đến tình trạng nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên. Lợi dụng các mối quan hệ của các dân tộc hai bên biên giới, các đối tượng bên ngoài qua lại, móc nối, lôi kéo, chia rẽ các dân tộc, dòng họ trong nước hòng làm suy yếu, tiến tới gây bạo loạn ở những nơi này. Số ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ còn ở trong nước phần lớn đã cải tà, quy chính và đã nhận thức rõ được chính sách đúng đắn của Nhà nước, nhất là chính sách khoan hồng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không chịu cải tạo, chúng vẫn ngấm ngầm chống đối dưới nhiều hình thức, tìm mọi cách móc nối với các đối tượng từ ngoài vào để được giúp đỡ. - Điểm nóng về an ninh trật tự Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh trật tự, xuất phát từ những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái, thiếu sót của cán bộ cơ sở trong việc giải quyết đền bù đất đai... Do làm chưa triệt để, chưa công bằng nên đã để một bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích kích động dẫn đến manh động làm rối loạn an ninh trật tự ở một số địa phương. Đây chính là những nguyên nhân tiềm ẩn, là mảnh đất tốt mà các thế lực thù địch nhằm vào để kích động, gây ngòi nổ hòng gây mất ổn định trong xã hội ta. Tóm lại: Tình hình về an ninh quốc gia trong những năm qua nổi lên những vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm. Đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình hình mất ổn định, ảnh hưởng đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã xác định bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ cực kì quan trọng của tồn Đảng, toàn dân ta. B. TÌNH HÌNH VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI 1. Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội: Tội phạm kinh tế, tội phạm ma tuý trong những năm qua có những diễn biến rất phức tạp Số vụ phạm tội hàng năm bị phát hiện có sự tăng giảm không đều trong đó các vụ trọng án có chiều hướng tăng. Bình quân hàng năm có khoảng 70.000 vụ phạm tội được phát hiện trong đó các vụ án giết người, cướp tài sản, cướp giật có xu hướng tăng. Trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân xã hội. Các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an tồn xã hội ngày càng có xu hướng chuẩn bị trước, tình hình băng ổ nhóm và hiện tại các băng nhóm tội phạm câu kết với nhau tạo thành những tổ chức tội phạm rất nguy hiểm gây nhức nhối, bức xúc cho xã hội. 141 Các loại tội phạm hình sự khác như bọn đâm thuê, chém mướn, trả thù cá nhân bằng bom thư, bom mìn hoặc tạt axít trong những năm qua cũng rất đa dạng và là một nỗi nhức nhối của xã hội. Loại tội phạm này hoạt động rất manh động, bất chấp hậu quả gây ra cho dù người bị hại có thể không phải là người mà chúng cần trả thù, có những vụ tính chất đặc biệt nghiêm trọng, các vụ bắt cóc nhằm tống tiền cũng có chiều hướng tăng. Bọn tội phạm nhằm vào các gia đình giàu có rồi bắt cóc đòi tiền chuộc, có vụ chúng đòi tiền chuộc lên đến vài trăm triệu. Có thể thấy rằng, tội phạm hình sự hoạt động ngày càng táo bạo, manh động, chúng sử dụng đủ các loại hung khí, kể cả vũ khí nóng. Thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có cả lưu manh cũng như nông dân, cán bộ, đảng viên, trí thức, sinh viên. Trong đó đáng lo ngại là các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội đen trả thù. Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa dạng, từ những thủ đoạn đơn giản cổ điển nhưng hiệu quả như “vãi thóc gọi gà” của bọn lừa đảo đến những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát hiện. Về địa bàn hoạt động, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa bàn trong cả nước nhưng tập trung vào các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Nam Định. - Các loại án kinh tế, tuy số vụ không tăng nhiều nhưng quy mô, tính chất rất nghiêm trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng (VAT), các vụ tham ô với số tiền bị chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ đồng. Điển hình như các vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ công ty dầu khí, PMU18... đối tượng phạm tội kinh tế cho thấy hầu hết có sự liên kết với nhau. Đây cũng là một đặc điểm của loại tội phạm này. Vì thế, việc điều tra, khám phá gặp rất nhiều khó khăn. Loại tội phạm này thường có sự “bọc lót”, “che chắn” cho nhau, tài sản bị mất là tài sản nhà nước nên ý thức tự giác đấu tranh của công dân tại những cơ quan, doanh nghiệp này chưa cao, đây cũng là lí do giải thích tại sao công tác điều tra, thanh tra chưa đạt hiệu quả cao. Các lĩnh vực xảy ra tội phạm kinh tế thường có ở các ngành kinh tế như xây dựng cơ bản, ngân hàng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Tình trạng buôn lậu trốn thuế trong những năm qua vẫn chưa giảm đáng kể, chúng được thực hiện cả ở vùng cửa khẩu biên giới, trên biển, trên các tuyến vận chuyển, kể cả các tuyến hàng không. Mặt hàng buôn lậu đa dạng chủng loại từ vải vóc, máy móc đến điện thoại di động, thuốc chữa bệnh. Trong tình hình hiện nay, buôn lậu xảy ra phức tạp nhất ở các địa bàn trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các khu vực biên giới Tây Nam, biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung Quốc. Tội phạm kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất, mà còn làm mất đi cả một bộ phận cán bộ, đảng viên gây ảnh hưởng xấu về chính trị, xã hội, có những vụ được coi là giặc nội xâm (PMU18). - Trong các năm qua, chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với tội phạm về ma tuý, việc thực hiện chương trình quốc gia về phòng, chống ma tuý mặc dù đã đạt được những kết quả rất to lớn, nhưng tội phạm ma tuý vẫn chưa giảm cơ bản, thậm chí 142 còn xảy ra rất nghim trọng. Chúng ta đã phát hiện, xử lí hàng chục nghìn vụ buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, có những vụ rất lớn. Những năm gần đây, các Toà án đã tuyên án tử hình hàng trăm tên tội phạm ma tuý nhưng tội phạm ma tuý vẫn xảy ra rất nghiêm trọng. Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma tuý ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng sẵn sàng chống trả quyết liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đấu tranh với loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại tội phạm này tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các tỉnh biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, các tuyến trục đường 8, 7, 6. Các băng, nhóm, tổ chức tội phạm ma tuý thường có sự liên kết với nhau cả trong nước lẫn quốc tế, quy mô, tính chất ngày càng lớn và ác liệt. Chúng không từ một thủ đoạn tàn bạo nào, kể cả sử dụng trẻ em, con cháu để đưa vào con đường phạm tội, lợi dụng mọi phương tiện để vận chuyển trên một diện rộng nên công tác phát hiện, đấu tranh của ta gặp nhiều khó khăn. 2. Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi trường xảy ra phức tạp, thậm trí rất nghiêm trọng - Tệ nạn xã hội diễn ra hầu hết tất cả các địa phương trong cả nôùc, nó có một số đặc điểm sau: + Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến + Tệ nạn xã hội mang tính lây lan nhanh + Tệ nạn xã hội có quan hệ chặt chẽ với tội phạm Đối tượng tham gia: đủ mọi lứa tuổi, giới tính, thành phần xã hội. - Tình trạng tai nạn giao thơng, tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp rủi ro: xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng; trong đó tai nạn giao thơng chiếm tỷ lệ cao nhất, hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người, hàng tră nghìn người bị thương, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản; tai nạn nghề nghiệp ngày càng tăng: sập nhà, sập cầu khi đang xây dựng, sập hầm lò, cháy nổ,… - Ô nhiễm môi trường: đáng báo động. Tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn, ô nhiễm nguồn nước, vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh… Tóm lại, tình hình về trật tự, an tồn xã hội trong những năm qua đã v àđang là vấn đề nóng bỏng, bức xúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm khắc phục, giải quyết. Trên cơ sở đó, chúng ta mới giữ vững được trật tự an toàn xã hội cùng với bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia góp phần ổn định tình hình, làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. III. DỰ BÁO TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI A. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI SẼ DIỄN BIẾN PHỨC TẠP HƠN 143 - Một là, sau cuộc chiến tranh Irắc, các thế lực hiếu chiến tiếp tục thực hiện chiến lược “đánh đòn phủ đầu” lợi dụng đòn tấn công chống lại “chủ nghĩa khủng bố” ra sức lộng hành đe doạ hoà bình chủ quyền của các quốc gia dân tộc. - Hai là, quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục đan xen cả hai mặt đấu tranh và thoả hiệp. Một mặt, vì lợi ích của dân tộc, quốc gia và giai cấp mà họ đại diện, họ tìm cách xoa dịu các mâu thuẫn, tìm những điểm tương đồng để hợp tác tránh đối đầu. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đơn phương, sự lộng hành của các thế lực hiếu chiến sẽ gia tăng. - Ba là, phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh bảo vệ hồ bình, độc lập dân tộc sẽ tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh chống mặt trái của toàn cầu hoá do chủ nghĩa tư bản chi phối sẽ tiếp tục dâng cao. Tuy nhiên, các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội hiện nay vẫn chưa có sức mạnh thống nhất. - Bốn là, xu thế tồn cầu hố về kinh tế sẽ tiếp tục pht triển. Tính đến ngày 29/07/2016, WTO có 164 thành viên, trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều nước tham gia. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực vật liệu, công nghệ sinh học và tin học sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tình hình đó sẽ mở ra những cơ hội mới, đồng thời đặt ra nhiều thách thức mới. - Năm là, tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục không ổn định. Cuộc khủng hoảng của các trung tâm kinh tế lớn sẽ tiếp tục trầm trọng thêm gây bất ổn định trên thị trường tài chính. Khoảng cách giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển sẽ ngày càng rộng ra. Các cuộc tranh chấp trên biển và tranh chấp về nguồn dầu khí ở Trung Đông và ở Nga sẽ gay gắt hơn. Tuy vậy, những diễn biến phức tạp đó chưa làm đảo lộn chiều hướng đã diễn ra sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thời đại. B. TÌNH HÌNH KHU VỰC ĐÔNG NAM Á CÒN TIỀM ẨN NHIỀU NHÂN TỐ MẤT ỔN ĐỊNH - Chủ nghĩa khủng bố vẫn hoạt động ở một số nước gây ra những thảm hoạ cho nhân dân và chính quyền nơi đó; mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo làm bùng nổ các cuộc xung đột; sự tranh chấp giữ các nước trong khu vưc… - ASEAN tiếp tục là nhân tố quan trọng đối với hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. C. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI 1. Thuận lợi - Tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường. Sự nghiệp đổi mới đất nước giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt. 144 - Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh nghiệm, có đương lối đổi mới được kiểm chứng qua thực tế và được nhân dân ủng hộ. - Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết, sáng tạo… - Lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân vươn lên làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 2. Khó khăn - Nước ta phái đối diện với 4 mối đe doạ (nguy cơ) lớn: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hòa bình”. Các mối đe doạ trên diễn biến đan xen phức tạp, không thể xem nhẹ mối đe doạ nào. - Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém; các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân... - Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch gia tăng với thủ đoạn và hình thức ngày càng tinh vi. - Các hành động xâm hại độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ nước ta sẽ tiếp diễn. D. ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI Trong tình hình hiện nay, cần có cách nhìn mới về vấn đề đối tác, đối tượng đấu tranh theo nguyên tắc: - Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. - Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. - Trong đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Do đó, tránh khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý tình huống cụ thể. Để xác định đúng các đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh trật tự cần dựa vào các căn cứ sau: - Căn cứ vào nhiệm vụ và đối tượng đấu tranh của cách mạng trong từng giai đoạn. - Căn cứ vào nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. - Căn cứ vào thực tế hoạt động của các loại đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội từ trước đến nay ở nước ta. 145 1. Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia a) Gián điệp Là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, hoạt động cá nhân hay có tổ chức, chịu sự chỉ huy của nước ngoài tiến hành các hoạt động điều tra thu thập tình báo, gây cơ sở bí mật, phá hoại nhằm chống lại nước ta. b) Phản động Phản động: Phản động là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động phản cách mạng chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng không chịu sự chỉ huy của nước ngoài. Trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với những loại sau : - Các tổ chức và cá nhân phản động trong số người Việt Nam ở nước ngoài đang có những hoạt động chống Việt Nam. - Đối tượng phản động lợi dụng tôn giáo. - Đối tượng phản động lợi dụng dân tộc ít người, nhất là bọn có sự câu kết của các lực lượng phản động bên ngoài. - Đối tượng phản động trong ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ không chịu cải tạo. - Đối tượng có tư tưởng, quan điểm sai trái, những phần tử trong nội bộ bất mãn thoái hoá biến chất trở thành phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội; số cơ hội chính trị. 2. Đối tượng xâm phạm trật tự an toàn xã hội Đối tượng xâm phạm về trật tự an toàn xã hội là những người có hành vi phạm tội gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng, sức khỏe và danh dự phẩm giá của con người, đến trật tự an toàn xã hội nhưng không có mục đích chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các đối tượng xâm phạm trật tự an toàn xã hội hiện nay có những người phạm tội nhất thời, có đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, với tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Các đối tượng này bao gồm: + Các đối tượng xâm phạm trật tự xã hội (tội phạm hình sự). + Các đối tượng xâm phạm trật tự quản lí kinh tế và chức vụ (tội phạm kinh tế). + Các đối tượng về ma tuý (tội phạm ma tuý). Trong số các đối tượng trên cần tập trung vào đấu tranh với các đối tượng sau: + Tội phạm kinh tế, nhất là đối tượng tham nhũng, buôn lậu, sản xuất tàng trữ và tiêu thụ tiền giả. + Tội phạm về ma tuý. + Tội phạm hình sự, tập trung vào đối tượng hoạt động có tổ chức, lưu manh chuyên nghiệp, sử dụng bạo lực, tội phạm có quan hệ với nước ngoài. 146 3. Các tai nạn, tệ nạn xã hội Phòng ngừa và làm giảm đến mức thấp nhất hậu quả thiệt hại do các tai nạn xã hội (tai nạn giao thông, tai nạn do sử dụng, bảo quản chất nổ, chất cháy không đúng quy định, tai nạn do sự cố kĩ thuật, do thiên nhiên...) gây ra. Bài trừ các tệ nạn xã hội. Trước mắt phải đẩy lùi một bước các loại tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, mại dâm. IV. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI A. PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐẶT DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC, NHÂN DÂN LÀM CHỦ, CÔNG AN LÀ LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN Xà HỘI 1. Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt thể hiện: Đảng đề ra đường lối, chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội một cách đúng đắn, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách đó. 2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an tồn xã hội Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội là sự nghiệp của nhân dân, là nghĩa vụ đồng thời cũng là lợi ích thiết thực của nhân dân. An ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội có được bảo vệ tốt hay không thì vấn đề rất quan trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực chất đó là cuộc vận động phong trào cách mạng của quần chúng nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhân dân từ cơ sở. Nhân dân có điều kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó. Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thể hiện: - Quán triệt sâu sắc và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, thể lệ, nội quy về bảo vệ an ninh trật tự. - Đấu tranh kiên quyết với các thế lực thù địch, bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác, với mọi hành vi vi phạm pháp luật và những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội; kin quyết giữ vững an ninh trật tự ở mọi nơi, mọi lúc. - Tự giác tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, tích cực giúp đỡ các cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ. 147 - Tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí cuộc sống mới văn minh trật tự, yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác, sản xuất, chiến đấu. 3. Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Nhà nước có mạnh (hiệu lực) thì quyền làm chủ của nhân dân mới được đảm bảo vững chắc. Nội dung tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước: Phát huy mạnh mẽ tác dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén để xây dựng và quản lí nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên quan tâm xây dựng các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Phát huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về công tác bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lí của các cơ quan Nhà nước vào việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. 4. Công an là lực lượng nòng cốt Lực lượng Công an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành, các cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Lực lượng Công an phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất; tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an tòan xà hội. Qua thực tiễn tiến hnh cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an tồn xà hội có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải biết kết hợp tính tích cực cch mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn. Sự kết hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện, cung cấp tình hình, cơ quan chuyên môn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn của các ngành để tìm ra bản chất của vấn đề và biện pháp xử lí. Phải coi trọng cả hai mặt đó, không được coi nhẹ mặt nào. B. KẾT HỢP CHẶT CHẼ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VỚI NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an ninh trật tự và ngược lại an ninh trật tự vững chắc mới có điều kiện ổn định phát triển đất nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh trật tự được giữ vững, củng cố và phát triển là dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn định và phát triển. Hiện nay kết hợp chặt chẽ giữa an ninh và quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng 148 và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa quốc phòng với an ninh, an ninh với quốc phòng có nội dung rất rộng, hình thức và cơ chế kết hợp cũng rất phong phú và đa dạng. Một trong những nội dung quan trọng của việc kết hợp giữa an ninh với quốc phòng là kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng trật tự an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng tồn dân. C. BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA PHẢI KẾT HỢP CHẶT CHẼ VỚI GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TỒN Xà HỘI An ninh quốc gia và trật tự, an tồn xã hội là hai thành phần cấu thầnh trật tự xã hội. Bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia lã bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một trong những điều kiện cơ bản nhất để xây dựng sự vững mạnh về mọi mặt trong xã hội. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Trật tự, an tồn xã hội được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho an ninh quốc gia càng được củng cố vững chắc, hiệu lực quản lí của Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm vững chắc, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc. D. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN Xà HỘI Sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, với trách nhiệm công dân của người thanh niên trong thời đại mới, chúng ta phải làm gì để góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tòan xã hội? Muốn vậy, mỗi người sinh viên không những phải nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội mà còn vận động mọi người cùng tự giác chấp hành. Sinh viên trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hoá cần phải nhận thức đúng vai trị trách nhiệm của mình và tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, cụ thể là: - Nhận thức đúng cuộc đấu tranh để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi các thế lực thù địch và các phần tử chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang ra sức tiến hành các hoạt động “diễn biến hồ bình” bằng mọi thủ đoạn. Trong đó, chúng triệt để chú ý địa bàn là các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; lợi dụng lừa phỉnh sinh viên - những người rất năng động, sáng tạo nhưng chưa có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống là địa bàn và đối tượng để thực hiện “diễn biến hòa bình”. Do vậy, sinh viên cần phải cảnh giác, tích cực trong đấu tranh với những hành động sai trái, với các phần tử thoái hoá biến chất trong các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước nhưng không để các thế lực thù địch, các phần tử chống đối lợi dụng mình để thực hiện “diễn biến hồ bình” nhằm lm suy yếu, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Tích cực, tự giác tham gia các hoạt động cụ thể để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tòan xã hội. 149 + Phát hiện những tổ chức, người có hành vi tuyên truyền lôi kéo sinh viên tham gia các hoạt động trái quy định của pháp luật nhằm chống lại Đảng, Nhà nước để báo cho lãnh đạo của trường, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật biết, có ý thức bảo vệ bí mật nhà nước. + Tham gia xây dựng nếp sống văn minh trật tự ngay trong trường học, kí túc xá, khu vực dân cư mà mình sinh sống, bảo vệ môi trường, giúp đỡ các cơ quan chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tòan xã hội. + Tham gia các hoạt động xã hội để góp phần giữ gìn trật tự, an tồn xã hội như: chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ, giữ gìn trật tự, vệ sinh ở nơi công cộng. Bản thân không tham gia đua xe và cổ vũ đua xe trái phép, vận động nhiều người cùng tham gia chấp hành tốt những quy định của pháp luật như mình. + Bản thân luôn nhận thức được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội để không mắc phải, mặt khác sinh viên còn tuyên truyền vận động cho nhiều người khác thấy được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý, cờ bạc, mại dâm. Phát hiện những địa điểm tổ chức, đối tượng tham gia các tệ nạn xã hội để báo cáo cho lãnh đạo nhà trường, chính quyền địa phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật mà trực tiếp là lực lượng Công an nhân dân để có biện pháp đấu tranh kịp thời có hiệu quả. + Tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phát hiện, tố giác kịp thời các đối tượng, băng nhóm tổ chức tội phạm để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp giải quyết kịp thời. + Tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ chuyên môn có liên quan để có thể cống hiến cao nhất những khả năng của mình góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. - Chăm chỉ rèn luyện sức khỏe để tăng cường thể lực, luyện tập quân sự theo chương trình giáo dục quốc phịng để góp phần chuẩn bị cho lực lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. - Hướng nghiệp tham gia các lực lượng vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, như tham gia lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng… Với truyền thống của mình, bằng sự năng động, sáng tạo của sinh viên dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, của lãnh đạo các nhà trường, các tổ chức đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức của sinh viên chắc chắn sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp chúng ta sẽ đóng góp, cống hiến những khả năng cao nhất của mình cùng tòan Đảng, toàn dân và các cơ quan chuyên trách bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày nội dung bảo vệ an ninh Quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội? 2. Nêu quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh Quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội? 150 BÀI 13. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN Xà HỘI Tội phạm và tệ nạn xã hội được coi là những hiện tượng xã hội tồn tại song song cùng với sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu đạt được về mặt kinh tế thì cũng làm xuất hiện những vấn đề tiêu cực trong xã hội, đó là sự thay đổi lối sống với việc đề cao giá trị vật chất và sự hưởng thụ diễn ra ở bộ phận không nhỏ trong xã hội; đạo đức xã hội có nhiều sự biến đổi nhanh chóng; sự di dân cơ học từ các vùng nông thôn về các đô thị trong khi vẫn giữ thói quen, văn hoá của vùng nông thôn; sự ứng xử giữa con người với nhau cũng có những biến động so với trước đây; công tác quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn có những kẽ hỡ, hệ thống pháp luật vẫn đang trong quá trình hoàn thiện; khoảng cách của phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng và tình hình tham nhũng, lãng phí khiến một số người giàu lên nhanh chóng cũng như những tác động từ mặt trái của chính sách thu hút FDI nhằm tăng trưởng GDP ở một số địa phương dẫn đến mâu thuẫn giữa những người bị thu hồi đất với nhà đầu tư, chính quyền gây nên những bức xúc trong xã hội, tạo ra các vụ khiếu kiện đông người rất phức tạp… dẫn đến vi phạm pháp luật, phạm tội và làm phát sinh các tệ nạn xã hội. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM A. KHÁI NIỆM PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM 1. Khái niệm tội phạm Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự (Điều 8 - Bộ luật hình sự 2015). 2. Phòng chống tội phạm Là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của trình trạng phạm tội; ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội. - Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khỏe, danh dự, phẩm giá của mọi người dân. - Thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa. 151 3. Các hướng cơ bản trong phòng ngừa tội phạm - Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện tượng tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và phạm tội cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài. - Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động phòng ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra. Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện. 4. Mục đích của công tác phòng chống tội phạm Là khắc phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của trình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội. B. NỘI DUNG, NHIỆM VỤ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM 1. Nghiên cứu, xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của trình trạng phạm tội Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến lược phòng ngừa thích hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện nay bao gồm: - Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là: Hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy lạc của một bộ phận người trong xã hội; Đã làm xuống cấp nhiều mặt về văn hóa, đạo đức, lối sống làm mất đi truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; Đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, một bộ phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất chính từ đó dẫn đến tội phạm, mặt khắc không ít người không có tư liệu sản xuất phải ra thành phố, thị xã làm thuê kiếm sống bị tác động bởi những hiện tượng tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội. - Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế độ cũ để lại. - Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham lam ít kỉ, sa đọa, trụy lạc trong một bộ phận nhân dân. - Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư của chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong đó có tội phạm. - Sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc gia khác. 152 - Những sơ hở, thiếu sót trong các mặt công tác quản lý của Nhà nước, các cấp, các ngành bao gồm: sơ hở thiếu sót trong quản lý con người, quản lý văn hóa, quản lý nghề nghiệp kinh doanh… - Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hóa người dân. - Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém hiệu quả, một số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt động phát triển. Sự chậm đổi mới chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật bọc lộ những sơ hở khiến cho một số đối tượng lợi dụng để hoạt động phạm tội. - Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và của ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót; thể hiện trên các mặt: Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp tay cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm; Mối liên hệ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Hoạt động trao đổi thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt; Số vụ phát hiện, điều tra ít hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn còn nhiều; Hoạt động điều tra, xử lí tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lí chưa nghiêm minh. Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong nội bộ từng cơ quan chưa thực hiện thực sự khoa học, hiệu quả vận hành chưa cao. - Công tác quản lí Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công tác giáo dục cải tạo chưa xóa bỏ được tư tưởng phạm tội của các đối tượng, số đối tượng phạm tội trở lại còn nhiều. - Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả. Chưa phát huy được sức mạnh cua quần chúng trong công giáo dục, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội. 2. Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm Tùy thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của trình trạng phạm tội trên các lĩnh vực để soạn thảo đề xuất các biện pháp đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm: Các giải pháp phát triển kinh tế và các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phòng ngừa tội phạm kết hợp với thực hiện các chính sách xã hội cho phù hợp với các địa phương cụ thể. Nhà nước phải xây dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm nói chung, bảo đảm các yêu cầu, nội dung sau: Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử dụng đồng bộ hệ thống, các biện pháp phòng ngừa, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành, của công dân. 153 Mỗi cấp, mỗi ngành phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để xây dựng và tổ chức chương trình hành động cụ thể phòng chống tội phạm. Mỗi công dân phải nhân thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công tác phòng ngừa tội phạm. Nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên kiểm tra, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần nhằm duy trì và đẩy mạnh công tác phòng chống tội phạm. 3. Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm Các cấp, các ngành các tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình để xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm. - Chính quyền các cấp tổ chức triển khai thực hiện chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ở mỗi cấp (Trung ương, tỉnh, thành phố, quận huyện, xã phường). - Các bộ triển khai chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm có liên quan đến hoạt động của mình. - Từng hộ gia đình, mỗi cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm. 4. Tổ chức tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm theo quy định của pháp luật có trách nhiệm: chủ động phối kết hợp với các lực lượng có liên quan kịp thời phát hiện các thông tin về tội phạm và có liên quan đến tội phạm; tổ chức điều tra làm rõ các hành vi phạm tội, con người kẻ phạm tội; làm rõ những vấn đề cần chứng minh theo yêu cầu của pháp luật, phục vụ xử lí tội phạm; các cơ quan truy tố, xét xử cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử lí đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội. C. CHỦ THỂ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM 1. Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm - Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tội phạm trên những phương diện sau: Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống tội phạm; Thành lập các ủy ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung (Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, Pháp luật, Ủy ban quốc phòng an ninh); Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội; Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị quyết về phòng chống tội phạm ở địa phương mình. 154 - Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp Chức năng chính của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phòng chống tội phạm là quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết, thể hiện: + Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp quy hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng chống tội phạm. + Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành hoạt động phòng chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, tòa án. + Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp mình quản lí theo kế hoạch thống nhất. + Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng chống tội phạm: ngân sách nhà nước, phương tiện, điều kiện làm việc. + Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh hoạt động phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. + Đề ra các biện pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia hoạt động phòng chống tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến. + Các cơ quan quản lí kinh tế, văn hóa, giáo dục,dịch vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn. + Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh phát triển tội phạm thuộc lĩnh vực mình quản lý. + Đề ra những quy định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách đúng đăn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. + Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cơ quan có hiệu quả. + Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các cấp, làm tốt công tác phòng chống trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ. - Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản + Các tổ chức đoàn thể trên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, cụ thể: + Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm. + Tuyên truyền cho hội viên thấy được tính chất, thủ đoạn của tội phạm nâng cao ý thức cảnh giác. + Trực tiếp huy động các hội viên tham gia chương trình phòng chống tội phạm của Chính phủ trong phạm vi địa phương, nội bộ hiệp hội của mình. - Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án 155 + Nghiên cứu, phân tích trình trạng phạm tội, xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng chống thích hợp. + Sử dụng các biện pháp luật định và biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức năng, trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm. + Đối với lực lượng công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động phòng ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội phạm. + Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố. + Tòa án các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ. + Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những sơ hở thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. - Công dân + Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng chống tội phạm phải quán triệt: + Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm. + Tích cực, chủ động phát hiện mọi hành động của tội phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng. + Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hóa các đối tượng có liên quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư. + Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào: “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội ngay trong phạm vi gia đình (quản lí, giáo dục các thành viên trong gia đình). 2. Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm - Nguyên tắc Nhà nước quản lý - Kết hợp giữa chủ động phòng ngừa và chủ động tiến công (phối hợp và cụ thể) - Nguyên tắc pháp chế (tuân thủ pháp luật) - Nguyên tắc dân chủ, nhân đạo - Nguyên tắc khoa học và tiến bộ 156 D. PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác định ở hai mức độ khác nhau: Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng chống riêng (chuyên môn). - Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật, giáo dục. Đây là quá trình toàn xã hội phải tham gia nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm. - Phòng chống riêng (phòng chống của lĩnh vực chuyên môn) là việc áp dụng các biện pháp mang tính đặc trưng,, chuyên môn của từng ngành, từng lực lượng, trong đó có hoạt động của cơ quan công an với vai trò nòng cốt, xung kích. Khi nghiên cứu các biện pháp phòng chống tội phạm có thể phân loại thành các hệ thống biện pháp phòng chống như sau: - Theo nội dung tác động của phòng ngừa tội phạm: Biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, biện pháp tổ chức, biện pháp pháp luật. - Theo phạm vi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội như: Phòng ngừa trong các khu vực: kinh tế, tuyến giao thông trọng điểm. - Theo phạm vi đối tượng tác động của biện pháp phòng chống tội phạm, có: + Các biện pháp phòng chống tội phạm nói chung trong cả nước: Kinh tế, chính trị, giáo dục. + Biện pháp phòng chống cá biệt: Đối với từng đối tượng phạm tội cụ thể. - Theo chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm: + Biện pháp của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên môn phòng chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. + Biện pháp của các tổ chức xã hội: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ… + Biện pháp của công dân. E. PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM TRONG NHÀ TRƯỜNG 1. Trách nhiệm của nhà trường - Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm để cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình, của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó tự giác tham gia. - Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và tội phạm. - Xây dựng quy chế quản lý sinh viên, quản lý kí túc xá, các tổ chức sinh viên tự quản lí, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm soát trong khu vực nhà trường. - Tổ chức cho sinh viên tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội, không có hành vi hoạt động phạm tội. 157 - Tổ chức cho sinh viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật Hình sự, phòng chống tệ nạn xã hội. - Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nhà trường. - Phối hợp với lực lượng công an sơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp số sinh viên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản lý, giáo dục; đấu tranh xóa bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực xung quanh trường. 2. Trách nhiệm của sinh viên - Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi người. - Chấp hành nghiêm chỉnh những nội dung, quy định của nhà trường trong lĩnh vực sinh viên học tập, sinh hoạt tập thể. - Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào các tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh trong trường lớp; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn nghiện ma túy, cờ bạc, chơi lô đề,cá cược bóng đá… có thể dẫn đến tội phạm. - Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực nhà trường, lớp phát hiện và cung cấp cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội; tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an một cách công khai hay bí mật. II. CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN Xà HỘI A. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN Xà HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG HOẠT ĐỘNG TỆ NẠN Xà HỘI 1. Khái niệm tệ nạn xã hội Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội là những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội, như: Thói hư, tật xấu; Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu; Nếp sống xa đọa trụy lạc, mê tín đồng bóng, bói toán… Bản chất của tệ nạn xã hội là xấu xa, trái với nếp sống văn minh, trái với đạo đức, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống thực dụng, coi thường các chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp luật, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại nhân cách, phẩm giá con người, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, năng suất lao động, làm băng hoại giống nòi dân tộc.. là con đường dẫn đến tội phạm. 158 2. Mục đích công tác phòng chống tội phạm - Ngăn ngừa chặn đứng không để tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển, lan rộng trên địa bàn. - Từng bước xóa bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, bảo vệ thuần phong mĩ tục của dân tộc. - Phát hiện, đấu tranh, xử lí nghiêm minh những hành vi hoạt động tệ nạn xã hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. 3. Đặc điểm của tệ nạn xã hội - Có tính lây lan nhanh trong xã hội. - Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức: đối tượng tham gia rất đa dạng và phức tạp về thành phần. - Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để đối phó với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết với nhau thành đường dây, ổ nhóm. - Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện tượng tiêu cực xã hội khác và có sự chuyển hóa lẫn nhau. - Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người, các khu công nghiệp, du lịch những nơi trình độ của quần chúng nhân dân còn lạc hậu thấp kém và công tác quản lý xã hội còn nhiều sơ hở, thiếu sót. 4. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội Là quá trình nhà nước cùng các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức xã hội và công dân tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại trừ các loại tệ nạn xã hội góp phần bảo vệ và phát huy thuần phong mỹ tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. B CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN Xà HỘI 1. Chủ trương, quan điểm Nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động tệ nạn xã hội, xử lí thích đáng những tên hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có ổ nhóm, những tên cầm đầu hoặc tổ chức lôi kéo người khác đi vào con đường hoạt động tệ nạn xã hội. Chủ động phòng ngừa ngăn chặn không để tệ nạn xã hội lây lan phát triển gây tác hại đến đời sống nhân dân và trật tự xã hội. Giáo dục cải tạo những người mắc tệ nạn xã hội làm cho họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Quan điểm trên được thể hiện trên các mặt cụ thể sau: - Phòng ngừa là cơ bản, lồng ghép và kết hợp chặt chẽ công tác phòng chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương. Đây là phương hướng cơ bản nhất, vừa thực hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mang ý nghĩa kinh tế, vừa phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán của dân tộc. 159 Để có thể giải quyết, bài trừ triệt để tệ nạn xã hội đòi hỏi phải khắc phục từng bước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế xã hội, phải thực hiện đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, lồng ghép, gắn kết công tác phòng chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tê - văn hóa - xã hội ở địa phương như chính sách về lao động, việc làm, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, các chính sách về văn hóa, giáo dục nhằm điều chỉnh việc xây dựng các chuẩn mực xã hội và định hướng giá trị xã hội lành mạnh, phát huy và kế thừa các phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp.. Đẩy mạnh chương trình “xóa đói giảm nghèo”, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” nhằm từng bước ngăn chặn, loại trừ, xóa bỏ tệ nạn xã hội trên địa bàn. - Công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, phải được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành, trong đó lấy phòng chống từ gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học làm cơ sở. Trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội thì chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể ở cơ sở và gia đình giữ một vai trò rất quan trọng. Đây là lực lượng trực tiếp thực hiện, biến những chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội thành hiện thực. Là nơi thực hiện các cuộc vận động của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, góp phần đẩy lùi và bài trừ tệ nạn xã hội. Do đó cần xác định đúng vai trò của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội. - Kết hợp chặt chẽ giữa việc xử lí nghiêm khắc với việc cảm hóa, giáo dục, cải tạo đối với những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội. Xử lí nghiêm những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội chuyên nghiệp, những đối tượng chủ chứa, tổ chức, môi giới, cầm đầu trong các đường dây, ổ nhóm hoạt động tệ nạn xã hội, cần tích cực, kiên trì cũng như quan tâm tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần để động viên, giáo dục, cảm hóa đối tượng là nạn nhân của tệ nạn xã hội để họ yên tâm rèn luyện để trở thành công dân có ích cho xã hội. 2. Các quy định của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh công tác này, như: Bộ luật Hình Sự 2015; Nghị định 05/CP và 06/CP; Luật phòng, chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2008; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP (2013) của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình (gọi tắt là Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ); Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003; Luật xử lý hành chính 2012; Các nghị định khác của Chính phủ có liên quan… C. CÁC LOẠI TỆ NẠN Xà HỘI PHỔ BIẾN VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG 1. Tệ nạn nghiện ma túy 160 Là một loại tệ nạn xã hội mà nạn nhân có thói quen sử dụng chất ma túy dẫn đến trình trạng lệ thuộc vào ma túy khó có thể bỏ được. Nghiện ma túy gây hậu quả tác hại lớn cho bản thân người nghiện và cho xã hội. - Hình thức sử dụng ma túy chủ yếu là hút, hít, tiêm chích thuốc phiện, heroin. Hiện nay, hình thức sử dụng ma túy tổng hợp, thuốc lắc đang có xu hướng phát triển mạnh trong sinh viên và học sinh. - Nguyên nhân của trình trạng nghiện ma túy rất đa dạng: do hậu quả của lối sống đua đòi, lười lao động, ăn chơi với nhu cầu khoái cảm cao chọn ma túy để mua vui; do gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, bị lôi kéo, rủ rê hoặc bị khống chế… Quản lý sinh viên ngoại trú còn có nhiều bất cập; một số sinh viên nghiện ma túy nhưng không được phát hiện, giúp đỡ kịp thời nên càng lún sâu vào con đường nghiện ngập. - Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn ma túy: Phải từng bước kiềm chế, ngăn chặn không để tệ nạn ma túy lây lan phát triển, đặc biệt trong trường học, trong sinh viên và giáo viên. Không để có thêm sinh viên mắc vào nghiện ma túy trong trường học. Phát hiện, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành tệ nạn ma túy. Có hình thức xử lí nghiêm minh các đối tượng có liên quan đến ma túy, các đối tượng hoạt động có tính chất chuyên nghiệp. 2. Tệ nạn mại dâm Mại dâm là một loại tệ nạn xã hội bao gồm những hành vi nhằm thực hiện các dịch vụ quan hệ tình dục có tính chất mua bán trên cơ sở một giá trị vật chất nhất định ngoài phạm vi hôn nhân. Tệ nạn mại dâm bao gồm các hành vi: bán dâm, mua dâm, chứa mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại dâm và các hành vị khác liên quan đến tệ nạn mại dâm. Căn cứ vào tính chất của các hành vi, đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm bao gồm các loại đối tượng chủ yếu là người bán dâm, người mua dâm, người chứa mại dâm, người môi giới mại dâm. Trong những năm qua tình hình mại dâm có nhiều diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng lên cả về số vụ và tính chất mức độ nghiêm trọng, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo huyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân hoạt động điều tra của cơ quan công an. Đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, ở nhiều độ tuổi khác nhau và có quốc tịch khác nhau. - Đặc điểm đối tượng chủ chứa mại dâm: Chủ yếu là nữ, số đối tượng là nam giới chiếm tỉ lệ nhỏ hơn và tập trung ở độ tuổi từ 30 trở lên. Đa số chủ chức mại dâm có quốc tịch Việt Nam, một số ít có quốc tịch nước ngoài. Các đối tượng chủ chứa mại dâm có tiền án tiền sự chiếm khoảng trên 20%. Các chủ chứa mại dâm có trình độ văn hóa thấp kém, số chủ chứa có trình độ văn hóa trung học trở lên chiếm tỉ lệ không đáng kể. - Đặc điểm đối tượng môi giới mại dâm: Đa số đối tượng môi giới mại dâm là nam giới có độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỉ lệ trên 50%; phần lớn làm các nghề có 161 điều kiện để môi giới mại dâm như xe ôm, xích lô, bảo vệ… Các đối tượng môi giới mại dâm có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ gần khoảng 20%; phần lớn các đối tượng có trình độ văn hóa thấp, có khoảng trên 20% có trình độ trung học phổ thông trở lên. - Đặc điểm của đối tượng bán dâm: Hầu hết các đối tượng bán dâm là nữ, số đối tượng bán dâm là nam chiếm tỉ lệ không đáng kể và có độ tuổi chủ yếu là từ 18 đến 30. Điều đáng quan tâm hiện nay là tình trạng trẻ hóa đội ngũ gai bán dâm đang ngày càng gia tăng. Đa số đối tượng bán dâm không có nghề hoặc nghề tự do chiếm tỉ lệ cao, trình độ văn hóa thấp kém, một số ít đang là sinh viên…. Đa số gái mại dâm có điều kiện kinh tế khó khăn chiếm tỉ lệ trên 50%, chưa có chồng chiếm tỉ lệ cao, sống li thân hoặc li hôn chiếm tỉ lệ trên 30%, số có chồng làm gái mại dâm chiếm tỉ lệ nhỏ. - Đặc điểm đối tượng mua dâm: Phần lớn các đối tượng mua dâm là nam giới (tỉ lệ nữ không đáng kể); độ tuổi 30 trở lên chiếm tỉ lệ cao, khách mua dâm là người nước ngoài đang có xu hướng gia tăng. Các đối tượng mua dâm có nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau song chủ yếu tập trung ở những nghề buôn bán dịch vụ, tiểu thương và cán bộ công chức nhà nước. - Đặc điểm về phương thức, thủ đoạn hoạt động: Các đối tượng tổ chức hoạt động mại dâm ngày càng cao có nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt và có sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà hàng, khách sạn, vũ trường, nhà nghĩ…hình thành các ổ nhóm, đường dây hoạt động, có sự ăn chia về “quyền lợi”. Hoạt động núp dưới các danh nghĩa nhà hàng, khách sạn, các dịch vụ xã hội như masage, karaoke, giải khát… Các đối tượng hoạt động tệ nạn mại dâm theo phương thức gái gọi và thông qua gái mại dâm là một phương thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tượng buôn bán phụ nữ trẻ em vi mục đích mại dâm; có sự liên kết với các đối tượng tội phạm là người nước ngoài. - Đặc điểm về địa bàn hoạt động: Địa bàn hoạt động của tệ nạn mại dâm có ở khắp nơi song chủ yếu hoạt động của tệ nạn mại dâm là thành phố, thị xã, các khu công nghiệp, du lịch, nghỉ mát, những nơi có đông người cư trú. - Về hậu quả tác hại: Tệ nạn mại dâm làm xói mòn đạo đức dân tộc, là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Nguyên nhân của trình trạng trên là do một bộ phận nhân dân chưa được giáo dục đầy đủ về pháp luật, nếp sống lành mạnh, chạy theo lối sống xa hoa hưởng lạc. Mặt khác công tác quản lý, xử lí đối tượng trên chưa kiên quyết, triệt để, nhiều nơi chưa còn bị buông lỏng. Một số đối tượng còn có điều kiện dụ dỗ, rủ rê, lừa đảo, thậm chí ép buộc, cưỡng bức phụ nữ đi vào con đường mại dâm. - Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mại dâm: Kịp thời phát hiện và ngăn chặn không để tệ nạn mại dâm lây lan phát triển, đặc biệt giữ gìn môi trường lành mạnh trong nhà trường. Từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn mại dâm tiến tới đẩy lùi tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội; phát hiện, điều tra xử lí theo quy định của pháp luật. 162 3. Tệ nạn cờ bạc Là một loại tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi lợi dụng các hình thức vui chơi giải trí để cá cược, sát phạt nhau bằng tiền hoặc vật chất. - Tệ nạn cờ bạc bao gồm các hành vi: + Đánh bạc: là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được thua thông qua các trò chơi. + Tổ chức đánh bạc: là hành vi rủ rê, lôi kéo, tập hợp người khác cùng đánh bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc. + Gá bạc: là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc địa điểm khác để chứa các đám bạc từ đó trục lợi cho mình qua những người đánh bạc. + Đối tượng tham gia tệ nạn cờ bạc bao gồm: đối tượng tổ chức đánh bạc, đối tượng gá bạc và đối tượng đánh bạc. Tệ nạn cờ bạc trong những năm qua có những diễn biến hết sức phức tạp, có xu hướng tăng cả về số vụ và tính chất nghiêm trọng, xuất hiện nhiều hình thức mới trong hoạt động, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi xảo quyệt, hoạt động có sự câu kết với các đối tượng là người nước ngoài, hoạt động xuyên quốc gia. - Đặc điểm của tệ nạn cờ bạc: Tệ nạn cờ bạc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tổ tôm, chắc cạ, xóc đĩa, tam cúc, xì tố, xập xám, tá lả… và các hình thức cá cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan phát triển nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi, trình độ văn hóa khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nhà nước, sinh viên, đối tượng thất nghiệp, nghề nghiệp không ổn định, lưu mạnh…) Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Chúng hình thành các ổ nhóm, đường dây để hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường dây để hoạt động liên địa bàn, xuyên quốc gia. Tệ nạn cờ bạc có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự và các hiện tượng tiêu cực khác như mại dâm, ma túy; gây hậu quả tác hại lớn cho đời sống xã hội và gây khó khăn cho công tác giữ gìn trật tự xã hội. - Nguyên nhân dẫn đến trình trạng trên là do bản chất ăn bám, bóc lột, lười lao động, thích hưởng thụ cuộc sống cao sang của một số người; do cuộc sống gia đình gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống… cùng với sự thiếu sót trong quản lí kinh tế, xã hội của Nhà nước và các tổ chức. - Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn cờ bạc: Kịp thời phát hiện không để tệ nạn cờ bạc lây lan phát triển gây hậu quả tác hại, đặc biệt trong sinh viên và nhà trường. Tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn cờ bạc. Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ quan để đấu tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây tổ chức hoạt động; xử lí nghiêm minh các đối tượng hoạt động cờ bạc. 163 4. Tệ nạn mê tín dị đoan Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi biểu hiện thái quá lòng tin mù quáng vào những điều huyền bí không có thật, từ đó có những suy đoán khác thường, dẫn đến cách ứng xử mang tính chất cuồng tín, hành động trái với những chuẩn mực của xã hội, gây hậu quả xấu đến sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đến an ninh trật tự. - Đặc điểm của tệ nạn mê tín dị đoan: Là một biểu hiện của các hủ tục lạc hậu, tàn dư của chế độ cũ còn sót lại trong xã hội hiện nay; nó kích thích và phù hợp với tâm lí của một bộ phận người trong xã hội có trình độ nhận thức thấp kém. Tệ nạn mê tín dị đoan được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và có xu hướng lây lan phát triển nhanh nhất là ở những vùng sâu, vùng xa nhận thức của quần chúng còn lạc hậu. Đối tượng tham gia tệ nạn mê tín dị đoan phần lớn là phụ nữ, những người có trình độ nhận thức thấp kém, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc trở, cuộc sống éo le.. ngoài ra còn có một số cán bộ công nhân viên chức, một số có học thức cao và một bộ phận nhỏ sinh viên cũng mắc phải tệ nạn này. Đối tượng reo rắc mê tín dị đoan lợi dụng lòng tin, lợi dụng thần thánh, trời phật, may rủi có hành vi cầu cúng, đồng bóng, bói toán nhằm buôn bán thần thánh để kiếm lời hoặc tuyên truyền, reo rắc mê tín dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Địa bàn xảy ra có ở khắp mọi nơi song chủ yếu tập trung ở những nơi công tác quản lí xã hội, quản lý văn hóa còn bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ nhận thức của quần chúng còn lạc hậu. Tệ nạn mê tín dị đoan hiện đang được các đối tượng phản động và các thế lực phản cách mạng triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là ở vùng sâu, vùng đồng bào ít người trình độ nhận thức còn lạc hậu, thấp kém. Tệ nạn mê tín dị đoan gây nên những hậu quả xấu cho xã hội như làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe con người, gây thiệt hại đến tài sản của quần chúng, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự. - Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mê tín dị đoan: Nâng cao trình độ nhận thức cho toàn dân và sinh viên để họ tự giác đấu tranh với tệ nạn mê tín dị đoan; phân biệt được những hành vi mê tín dị đoan với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong quần chúng nhân dân, với những hoạt động lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc. Kịp thời phát hiện các hình thức hoạt động mê tín dị đoan để có biện pháp ngăn chặn. D. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ TRƯỜNG VÀ SINH VIÊN TRONG PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN Xà HỘI 1. Đối với nhà trường - Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục trong nhà trường về phòng chống tệ nạn xã hội; tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trong phòng chống các tệ nạn nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc; phân định rõ mê 164 tín dị đoan với các hoạt động tôn giáo, tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân; giáo dục lối sống lành mạnh, đâu tranh chống lối sống buông thả, lối sống trụy lạc, sống gấp. - Xác định rõ hậu quả tác hại từng loại tệ nạn xã hội, nguyên nhân và con đường lây lan; phối hợp với các cơ quan chức năng, lãnh đạo chỉ đạo các tổ chức Đoàn, Hội phụ nữ.. . trong đấu tranh phòng chống lại tệ nạn xã hội; phối hợp với các lực lượng công an cơ sỏ, chính quyền địa phương và gia đình quản lí chặt chẽ sinh viên ngoại trú để chủ động phát hiện các hành vi hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc, đồng bóng bói toán… có biện pháp ngăn chặn kịp thời. - Nắm chắc tình hình sinh viên có hành vị hoạt động các tệ nạn xã hội, cung cấp cho lực lượng bảo vệ, cơ quan công an những tụ điểm, tổ chức, đường dây hoạt động tệ nạn xã hội, phối hợp xử lí theo quy định của pháp luật. Phối hợp cùng chính quyền địa phương, lực lượng bảo vệ văn hóa làm trong sạch địa bàn trong trường và khu vực xung quanh. - Giúp cho sinh viên hiểu rõ các âm mưu của các thế lực phản động trong việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để chống phá cách mạng Việt Nam. Phát hiện các trường hợp rủ rê, lôi kéo sinh viên tham gia vào các tà đạo, các hoạt động tệ nạn xã hội. - Tổ chức cho sinh viên các lớp kí kết không tham gia các hoạt động tệ nạn xã hội; xây dựng các nội quy, quy chế quản lí kí túc xá, xây dựng các tổ tự quản trong học tập, rèn luyện, vui chơi. Tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu luật, pháp lệnh, các văn bản của Đảng, Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc đang có dấu hiệu tăng nhanh trong giới trẻ. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao để thu hút sinh viên tham gia. 2. Đối với sinh viên - Nhận thức rõ hậu quả của tệ nạn xã hội, con đường dẫn đến tội phạm; không tham gia các tệ nạn xã hội dưới bất kì hình thức nào; không bị lôi kéo cám dỗ bởi những khoái cảm, những lối sống trụy lạc, coi trọng đồng tiền, chà đạp lên đạo đức, pháp luật, bán rẻ sự nghiệp của bản thân. - Có trách nhiệm phát hiện các hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, các con đường dẫn đến tệ nạn, đường dây hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc… báo cáo kịp thời cho nhà trường hoặc lực lượng công an cơ sở. - Không có các hành vi mê tín dị đoan hoặc tham gia vào các hủ tục lạc hậu khác. Bằng kiến thức đã được học phân biệt được các trường hợp tự do hoạt động tín ngưỡng, các trường hợp tham quan di tích văn hóa với việc lợi dụng hoạt động mê tín dị đoan. Cảnh giác trước các hành vi của các đối tượng “buôn thần bán thánh” và âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thể lực phản động; phát hiện các hình thức biểu hiện mới của tệ nạn mê tín, của các loại tà đạo nảy sinh trong lớp, trong trường báo cáo với nhà trường, chính quyền địa phương để có biện pháp ngăn chặn kíp thời. - Chủ động phát hiện các trường hợp sinh viên trong lớp có những dấu hiệu khác thường, những hoàn cảnh éo le, gặp trắc trở trong học tập, trong tình yêu để có 165 biện pháp động viên giúp đỡ không để họ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội, tin vào cầu cúng, bói toán; đam mê, khoái cảm… gặp gỡ, động viên những sinh viên lầm lỗi, cảm hóa, giáo dục họ tiến bộ trở thành người có ích. - Kí cam kết không tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm… Có thái độ học tập nghiêm túc, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các tổ tự quản, thanh niên xung kích tuần tra kiếm soát bảo vệ kí túc xá, bảo vệ nhà trường. Để đấu tranh đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội có hiệu quả cần phải đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là giáo dục về đạo đức, lối sống, chính sách pháp luật. Thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội: Kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên truyền cá biệt; tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên truyền, vận động cá biệt đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại các địa bàn trọng điểm về trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các mô hình tổ chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh, trật tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhà trường; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình đặc điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên ký cam kết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường “An toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, có chính sách thỏa đáng đối với những trường hợp bị thương, hy sinh hoặc thiệt hại về tài sản khi tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Nêu nững nội dung của công tác phòng ngừa tội phạm, mối quan hệ giữa các nội dung của hoạt động phòng ngừa tội phạm? 2. Nêu và phân tích các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh, phòng chống tệ nạn xã hội? 3. Nêu nội dung, phương pháp phòng chống tệ nạn xã hội? Để làm tốt công tác phòng chống tệ nạn xã hội nói chung cần có những giải pháp nào? 166 BÀI 14. XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Cùng với những thành tích trong công tác bảo vệ an ninh trật tự, những năm qua, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được đẩy mạnh, có bước phát triển mới với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu quả, khơi dậy sức mạnh, tiềm lực to lớn của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh chính trị và phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những năm tới, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, đất nước ta đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức mới. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng rõ nét và nghiêm trọng hơn, vi phạm pháp luật và tội phạm có xu hướng gia tăng. Trong bối cảnh đó, để xây dựng, củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC A. QUAN ĐIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC 1. Một số quan điểm về quần chúng nhân dân Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền tảng cho một Đất nước, là gốc rễ của một dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. - Triết học duy tâm, tôn giáo có nhận thức sai lệch: Xã hội chia làm hai hạng người “Hạng thượng lưu” và hạng “thứ dân”; Thượng đế, tinh thần là tuyệt đối; vua là thiên tử, thay trời trị dân. - Các chế độ quân chủ tư sản hiện đại nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm gốc”, nhưng khác nhau về bản chất. - Chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên đã phát hiện và khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân quyết định sự phát triển của xã hội, chính nhân dân lao động là người làm nên lịch sử. Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhân thức về lịch sử, là một trong những cơ sở lý luận do chính Đảng của giai cấp vô sản. - Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta đã chứng minh từ thời các vua Hùng, Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung… đều dựa vào dân, khẳng định dân là gốc, biết sử dụng sức mạnh của dân để đánh tan các đội quân xâm lược hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Quốc, Mông Cổ. 167 - Kế thừa tư tưởng của ông cha ta về vai trò của nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn nêu cao tư tưởng cách mạng là của dân do dân và vì dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nguồn gốc sức mạnh truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những quan điểm về dân “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”… Dưới ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức làm nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh thắng hai cường quốc xâm lược là Pháp và Mỹ; đang từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta. Ngày nay trong giai đoạn đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có những thuận lợi mới, thời cơ mới, song vẫn còn nhiều trở lực và thách thức; Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương quan trọng về đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. 2. Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc - Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội. - Khi nào người dân có ý thức tự giác, có tinh thần làm chủ trong việc xây dựng cuộc sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở, thiếu sót mà địch và bọn tội phạm có thể lợi dụng. - Lực lượng Công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân giúp ta nhiều thì thành công nhiều, giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”. B. NHẬN THỨC VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC 1. Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức hoạt động tự giác, có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà nước và tính mạng, tài sản của nhân dân. 2. Vị trí, tác dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc - Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược, là một trong những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng Công an nhân dân, là nền tảng cơ bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. - Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp thu hút đông đảo quần chúng phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ an ninh trật tự. 168 3. Mục đích của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh - trật tự Huy động sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh với các loại tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phục vụ đắc lực việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, gắn với các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước, của các ban, ngành, đoàn thể, và của địa phương… góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4. Đặc điểm của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc - Đối tượng tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đa dạng, liên quan đến mọi người, mọi tầng lớp của xã hội. - Nội dung, hình thức, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở các địa bàn, lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau. - Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn liền với các cuộc vận động khác của Đảng và Nhà nước, gắn liền với việc thực hiện các chính sách của địa phương. II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC A. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÒNG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC 1. Giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước - Chống chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch. - Bảo vệ an ninh kinh tế , an ninh xã hội, bảo vệ bí mật quốc gia. - Chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn định chính trị - Giữ vững khối đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị, bảo vệ nội bộ, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch vững mạnh. 2. Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Vận động nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố giác, đấu tranh chống các loại tội phạm, góp phần giữ vững ổn định an ninh trật tự tại địa bàn - Vận động nhân dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa những người cần phải giáo dục tại cộng đồng dân cư, như: các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng tù tha, đối tượng đi cơ sở giáo dục, đi cơ sở chữa bệnh tha về còn có biểu hiện hoạt động phạm pháp; tham gia vận động người phạm tội đang lẩn trốn ra tự thú; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình trạng thanh thiếu niên phạm tội; tham gia quản lý giáo dục trẻ em làm trái pháp luật. - Vận động nhân dân chấp hành và tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng, trật tự đô thị, giữ gìn vệ sinh mỹ quan nơi công cộng, tham gia 169 phòng chống gây rối trật tự công cộng, ngăn chặn kịp thời các vụ việc lộn xộn xảy ra ở nơi công cộng. - Hướng dẫn và vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu, đấu tranh bài trừ văn hoá phẩm độc hại. - Xây dựng cơ quan đơn vị, cụm dân cư và từng gia đình an toàn, đoàn kết, xây dựng nếp sống văn hoá trong cộng đồng dân cư, giữ vững đạo đức trong sáng lành mạnh, giữ gìn thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, bảo vệ môi trường sống. 3. Xây dựng và mở rộng liên kết phối hợp chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội trong các phong trào của địa phương - Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch, thông tư liên ngành, các quy chế phối hợp hoạt động giữa Công an xã với Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các cơ quan, trường học đóng trên địa bàn. - Thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, kịp thời đề xuất lồng ghép nội dung, yêu cầu của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phù hợp, nhằm phát huy vai trò của quần chúng trong việc bảo vệ an ninh - trật tự. 4. Tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng tại cơ sở vững mạnh - Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để rèn luyện, thử thách xây dựng đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước ở cơ sở - Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để thường xuyên đóng góp ý kiến xây dựng cho tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, lực lượng Công an, kịp thời phát hiện đề nghị đưa ra khỏi tổ chức Đảng, chính quyền, lực lượng Công an những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức và năng lực công tác; đồng thời đề nghị bổ sung những nhân tố tích cực, ưu tú xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vào cấp uỷ chính quyền cơ sở, để xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, lực lượng Công an trong sạch vững mạnh. Bốn nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là những nội dung cơ bản của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Khi thực hiện những nội dung trên đây phải căn cứ vào tình hình điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, đặc biệt, phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo đảm Quốc phòng và An ninh ở từng địa phương, từng cơ sở để đề ra nội dung công tác cho sát hợp, có hiệu quả. B. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC 1. Nắm tình hình và xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc a) Nắm tình hình 170 Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trước hết phải điều tra nghiên cứu nắm vững tình hình mọi mặt liên quan đến an ninh trật tự, đây là công việc đầu tiên làm cơ sở để định ra nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành các bước tiếp theo. - Nội dung nắm tình hình bao gồm: + Vị trí địa lý, đặc điểm địa bàn về phân bố dân cư, phong tục tập quán, nghề nghiệp truyền thống, vấn đề tôn giáo, dân tộc có liên quan đến công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. + Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn như: Tình hình ân mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm; tình hình tai nạn, tệ nạn xã hội; tình hình các loại đối tượng cần quản lý giáo dục ở từng cụm dân cư. + Tình hình quần chúng chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương; những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tâm tư nguyện vọng của đại bộ phận quần chúng nhân dân. + Tình hình các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức động viên quần chúng tham gia phong trào hành động cách mạng của địa phương, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ những hiện tượng tiêu cực (tham nhũng cửa quyền, sách nhiễu quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân). + Tình hình diễn biến của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn qua từng thời kỳ; chú ý tới những mặt yếu kém, trì trệ, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra. + Những sơ hở thiếu sót của ta trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà kẻ xấu có thể lợi dụng để kích động quần chúng, chia rẽ nội bộ nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, với Chính quyền, với lực lượng vũ trang ở địa phương. - Phương pháp nắm tình hình: + Nghiên cứu khai thác các tài liệu sẵn có để nắm tình hình địa bàn như: tài liệu về tình hình an ninh trật tự ở địa phương qua các năm; báo cáo sơ kết, tổng kết về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc qua từng thời kỳ; tài liệu quản lý về nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý các nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, quản lý vũ khí, vật liệu nổ; tài liệu về tổ chức giữ gìn trật tự công cộng và các tài liệu quản lý hành chính khác mà chính quyền và các cơ quan chức năng đang quản lý. + Đi sát cơ sở tiếp xúc gặp gỡ, thu thập ý kiến của các tổ chức, các tầng lớp dân cư khác nhau như: Cán bộ công nhân viên đã nghỉ hưu, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, những người biết việc… để nắm tình hình + Trực tiếp điều tra khảo sát mọi hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và quần chúng nhân dân ở địa phương + Ngoài ra còn phải chú ý kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp nghiệp vụ khác để nắm tình hình. Kết hợp nắm tình hình 171 chung toàn địa bàn với đi sâu nắm tình hình cụ thể từng khu vực và nắm tình hình toàn diện các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng với đi sâu nắm vững những khía cạnh mà nội dung, yêu cầu của công tác vận động quần chúng đặt ra để rút ra những kết luận sát thực, làm cơ sở tham mưu cho cấp ủy Đảng đề ra chỉ thị, nghị quyết xây dựng và đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. b) Xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc Căn cứ chỉ thị nghị quyết của cấp ủy Đảng và tình hình thực tế ở địa phương để chủ động xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. - Nội dung của kế hoạch thể hiện những vấn đề cơ bản như sau: + Đánh giá tổng quát tình hình an ninh trật tự, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân, thực trạng phong trào toàn dân trong thời gian đã qua và xác định sự cần thiết phải tiến hành vận động xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời gian tới. + Xác định mục đích, yêu cầu cụ thể phải đạt được của phong trào toàn dân chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. + Xác định nội dung cụ thể của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và hình thức, biện pháp để thực hiện nội dung cụ thể đó. + Xác định cách thức tổ chức thực hiện kế hoạch, như: Phân công trách nhiệm và quy định mối quan hệ phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể; giữa các lực lượng tham gia xây dựng phong trào; phân chia các bước và thời gian thực hiện từng bước, tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xác định điều kiện vật chất cần có để bảo đảm xây dựng phong trào đạt kết quả. - Phương pháp xây dựng kế hoạch: + Trên cơ sở nội dung kế hoạch được xác định, tiến hành viết dự thảo kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đảm bảo đủ về nội dung, đúng về thể thức văn bản quản lý nhà nước quy định + Tiến hành gửi bản thảo kế hoạch đến tổ chức cá nhân có liên quan để lấy ý kiến, nhằm phát huy trí tuệ của tập thể, nâng cao tinh thần làm chủ, tính năng động, sáng tạo của từng người trong xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. + Tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể, tiến hành nghiên cứu bổ sung, xây dựng hoàn chỉnh bản kế hoạch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, xã phê duyệt và tổ chức thực hiện. 2. Tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự a) Tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân Tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí rất quan trọng, làm cho họ nâng cao nhận thức 172 chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, vai trò trách nhiệm, quyền lợi, từ đó tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự. - Nội dung tuyên truyền giáo dục: + Tuyên truyền để nhân dân nhân thức rõ về âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, nhận thức rõ bản chất sấu xa của chúng, thấy được tầm quan trọng, tính chất phức tạp, quyết liệt và lâu dài của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. + Tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu về đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các quy định, phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân đối với việc bảo vệ an ninh trật tự. Từ đó quần chúng ý thức rõ được việc tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự là thiết thực để bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc của bản thân, gia đình, xóm làng cũng như của toàn xã hội. Ngoài những nội dung trên, tùy theo tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc mà lựa chọn, xác định thêm những nội dung khác để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân cho thích hợp. - Phương pháp tuyên tuyền giáo dục: + Triệt để khai thác sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và các loại hình văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, áp phích khẩu hiệu, biểu ngữ… để tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân đạt hiệu quả. + Thông qua các hình thức sinh hoạt, hội họp của các tổ chức chính trị - xã hội và thông qua hệ thống giáo dục các cấp ở địa phương để tuyên truyền giáo dục quần chúng. + Sử dụng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo dục quần chúng theo từng chuyên đề nổi lên có liên quan trong từng thời gian + Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp quần chúng để tọa đàm, trao đổi, giải thích những vấn đề về bảo vệ an ninh trật tự, thuyết phục tranh thủ những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để họ đồng tình với chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ đó mà tích cực tham gia thuyết phục, giáo dục những người lừng chừng chậm tiến trong gia đình và cộng đồng + Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng trước hết phải tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhân thức cho cán bộ của các ban trong Đảng, trong chính quyền, cán bộ lãnh đạo các ngành, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, sau đó tuyên truyền giáo dục sâu rộng ra trong nhân dân, động viên mọi người cùng có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục lẫn nhau, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tư tưởng trong nhân dân. + Kết hợp tuyên truyền giáo dục rộng rãi với tuyên truyền giáo dục cá biệt bằng lời lẽ đơn giản và thực tế sinh động. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tuyên truyền giáo dục quần chúng thực hiện nội dung nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với việc 173 thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và với phong trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống hàng ngày của quần chúng nhân dân ở địa phương. b) Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là chỉ cho họ biết cách phòng ngừa, chủ động phát hiện và giúp đỡ cơ quan chức năng để đấu tranh có hiệu quả những hoạt động phá hoại của các thế lực phản động, hoạt động của các loại tội phạm; phòng ngừa các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội - Nội dung hướng dẫn quần chúng bao gồm: + Hướng dẫn quần chúng bảo vệ, thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xây dựng và thực hiện các quy định về công tác bảo vệ an ninh trật tự ở địa phương. + Hướng dẫn quần chúng nhân dân phòng ngừa tội phạm, tham gia hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; quản lý, giáo dục các đối tượng cần phải quản lý giáo dục ở địa phương. + Hướng dẫn quần chúng nhân dân phát hiện tố giác với Công an, chính quyền địa phương những người, sự việc, hiện tượng nghi vấn xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tích cực tham gia đấu tranh góp phầm làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bọn phản động và các loại tội phạm khác. + Hướng dẫn quần chúng nhân dân lên án, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, các lề thói hủ tục lạc hậu trong đời sống kinh tế xã hội, phòng ngừa và làm giảm các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường. + Hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể cách mạng, tham gia góp ý kiến xây dựng lực lượng Công an, dân quân tự vệ trong sạch vững mạnh. - Phương pháp hướng dẫn quần chúng: Phương pháp hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ việc bảo vệ những lợi ích cá nhân trước mắt đến lợi ích lâu dài của tập thể; từ việc bảo vệ lợi ích kinh tế đơn thuần đến bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng; từ việc bí mật tố giác và cung cấp tài liệu, tin tức về hoạt động của bọn tội phạm đến công tác đấu tranh trực diện với chúng một cách có tổ chức. 3. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các ngành, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa phương để tổ chức vận động toàn dân bảo vệ an ninh trật tự Để huy động được sức mạnh của toàn dân tham gia nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong quá trình xây dựng phong trào, cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa bàn. Nội dung phối hợp cần tập trung vào các vấn đề: 174 - Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ an ninh trật tự trên địa bàn phường, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn để xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng tự quản, Hội đồng bảo vệ trật tự xã hội, Ban bảo vệ dân phố, lực lượng dân phòng và lực lượng bảo vệ chuyên trách của các cơ quan doanh nghiệp - Phối hợp với các lực lượng, cơ quan đơn vị, tổ chức đoàn thể quần chúng để tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn giác ngộ cho người dân nắm vững những yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh - trật tự trên địa bàn, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự. Làm cho quần chúng nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, nội quy, quy tắc về an ninh trật tự, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, bọn phản động và bọn tội phạm khác, tình hình các tệ nạn xảy ra trên địa bàn. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác của người quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ đặt ra. - Phối hợp với cơ quan đơn vị, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc chỉ đạo hướng dẫn thực hiện các mục tiêu yêu cầu đề ra trong công tác tổ chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự. 4. Xây dựng các tổ chức, lực lượng quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc Xây dựng cá nhân và các tổ chức quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để thúc đẩy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tổ chức vận động nhân dân. Lực lượng quần chúng nòng cốt vừa là hạt nhân lãnh đạo phong trào, vừa là cầu nối giữa lực lượng Công an với nhân dân vừa là người đi đầu, trực tiếp hướng dẫn nhân dân thực hiện các quy định về an ninh trật tự. Vì vậy việc xây dựng lực lượng quần chúng nòng cốt ở cơ sở để duy trì và phát triển, đẩy mạnh phong trào, đây là một nội dung rất quan trọng không thể thiếu - Xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở gồm: + Loại tổ chức quần chúng có chức năng tư vấn: Tương ứng với loại hình này là Hội đồng an ninh trật tự ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) thành phần gồm Chủ tịch Ủy ban nhân nhân, Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc, Trưởng Công an, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Cựu chiến binh, Chủ tịch phụ nữ…đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, sự quản lý điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân nhân xã, phường, thị trấn. Ở cơ quan, doanh nghiệp thành phần gồm, Bí thư Đảng uỷ, Thủ trưởng cơ quan, Trưởng phòng (tổ trưởng) bảo vệ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ. + Loại có chức năng quản lý, điều hành: Tương ứng với loại hình này là Ban an ninh trật tự và Ban bảo vệ dân phố (ở nông thôn: ban an ninh trật tự được thành lập ở thôn, ấp, bản, làng; ở cơ quan, doanh nghiệp lớn ban an ninh trật tự được thành lập ở phân xưởng, xí nghiệp, Công ty… (nếu cơ quan, doanh nghiệp nhỏ và thôn nhỏ có nơi không cần thiết phải thành lập Ban an ninh trật tự); ở thành phố, thị xã Ban bảo vệ dân phố được thành lập theo các khu phố, cụm dân cư ). 175 + Loại có chức năng thực hành: tương ứng với loại hình này là các Tổ an ninh nhân dân, an ninh công nhân, Đội dân phòng, Đội thanh niên xung kích an ninh có nhiệm vụ trực tiếp thực thi các nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự ở các cơ sở. - Nội dung, yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự: + Cần phải lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn có uy tín với quần chúng, được quần chúng tin yêu, có khả năng và điều kiện đảm nhiệm các mặt công tác về an ninh trật tự ở cơ sở. + Lựa chọn người có khả năng tổ chức, điều hành các hoạt động có liên quan đến an ninh trật tự, bản thân có ý thức tự giác, tự nguyện và trách nhiệm cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành các thủ tục báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết định giao nhiệm vụ cho họ. + Bồi dưỡng, hướng dẫn để đội ngũ cán bộ cơ sở nắm vững chức năng nhiệm vụ, quyền hạn lề lối làm việc, mối quan hệ và phân công đảm nhiệm công việc cụ thể để cán bộ cơ sở có kế hoạch thực hiện + Thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn trong từng thời gian và nhiệm vụ đặt ra trong việc giữ gìn an ninh trật tự. Hướng dẫn để họ biết cách tổ chức vận động quần chúng ở địa bàn dân cư + Nắm vững những diễn biến hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch thăm hỏi động viên kịp thời đối với cán bộ tốt có năng lực, đồng thời uốn nắn các lệch lạc của cán bộ cơ sở; tạo điều kiện về vật chất và tinh thần, việc làm, đời sống, quan hệ sinh hoạt trong phạm vi điều kiện cho phép, để đội ngũ cán bộ nòng cốt ở cơ sở yên tâm phấn khởi công tác, tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở. - Phương pháp xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt được tiến hành như sau: + Xác định hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng. + Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng được xây dựng. + Đề xuất cấp ủy, chính quyền ra quyết định thành lập tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh trật tự. 5. Xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiên tiến làm cơ sở để tổ chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc Điển hình tiên tiên tiến là những cá nhân, đơn vị, cơ sở đạt dược thành tích xuất sắc nổi trội, có đặc thù chung phổ biến giúp các cá nhân, đơn vị khác học tập, noi theo. Nhân điển hình tiên tiến là việc tổ chức học tập, phát triển những nhân tố tích cực của phong trào toàn dân thành phổ biến rộng khắp. Thực chất của nhân điển hình tiên tiến là việc phổ biến kinh nghiệm điển hình, động viên thúc đẩy phong trào lên một bước mới có chất lượng cao hơn, đồng đều hơn. 176 Để nhân rộng điển hình tiên tiến cần làm tốt các công việc cụ thể sau đây: - Lựa chọn điển hình tiên tiến: + Căn cứ đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị; căn cứ vào kết quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và nhiệm vụ duy trì và phát triển phong trào ở địa phương để phát hiện, lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu, có thành tích nổi bật, có kinh nghiệm tốt, làm hạt nhân điển hình tiên tiến thúc đẩy phong trào bảo an ninh Tổ quốc. + Việc phát hiện, lựa chọn điển hình tiên tiến được tiến hành thông qua công tác kiểm tra hoạt động của phong trào, thông qua công tác tổ chức cho các cơ sở, đơn vị, quần chúng nhân dân bình chọn hoặc cơ quan chức năng ngay từ đầu có kế hoạch chủ động lựa chọn, cho đăng ký, sau đó tập trung bồi dưỡng một số cá nhân, tập thể đó trở thành điển hình tiên tiến của phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc. - Tổ chức rút kinh nghiệm điển hình tiên tiến: Lực lượng Công an chủ trì phối hợp với bộ phận chức năng tổ chức hướng dẫn cá nhân, đơn vị tiên tiến liên hệ kiểm điểm, đánh giá kết quả, rút ra những bài học kinh nghiệm và xây dựng hoàn thiện báo cáo điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. - Phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến: Phương pháp phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đẩy mạnh phong trào thi đua bảo vệ an ninh Tổ quốc, được tiến hành bằng cách tổ chức cho các cá nhân đơn vị, địa phương có phong trào ở mức trung bình hoặc yếu kém trực tiếp tiếp xúc, gặp gỡ, tham quan, trao đổi học tập kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến, để áp dụng các kinh nghiệm đó vào phong trào ở địa phương, đơn vị mình. Mở Hội nghị nhân điển hình tiên tiến: tổ chức ký kết giao ước thi đua về xây dựng điển hình, tạo thành phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt các điển hình tiên tiến Kết hợp sử dụng, phát huy ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hoá nghệ thuật như: Đài phát thanh, truyền hình, tranh ảnh, sách báo… để phổ biến kinh nghiệm của điển hình tiên tiến. 6. Lồng ghép nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của nhà trường và của địa phương Để thúc đẩy được phong trào và duy trì phong trào được thường xuyên, tránh được sự suy thoái của phong trào sau một thời gian hoạt động, thì việc kết hợp và lồng ghép nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương với các phong trào khác là một hình thức tốt để duy trì và thúc đẩy phong trào. Nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được kết hợp với các phong trào khác của nhà trường và của địa phương như: - Lồng ghép trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với nước, nội dung đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự là nội dung bảo vệ tài sản công dân phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của những người được chăm sóc tạo thành một phong trào chung của địa phương. 177 - Kết hợp đưa nội dung giáo dục những người cần phải giáo dục tại xã phường thị trấn là một nội dung của phong trào xây dựng làng văn hoá, khu phố văn hoá, từ đó tạo thành một nếp sống tốt, lành mạnh phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, xây dựng được tổ dân phố, cụm dân cư, làng xã an toàn. - Trong phong trào học sinh, sinh viên thanh lịch của nhà trường cần lồng ghép với phong trào chấp hành luật lệ giao thông, lấy đây là một nội dung tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá một học sinh, sinh viên thanh lịch… - Để có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc sâu rộng thu hút được nhiều tầng lớp tham gia trong đó có tầng lớp học sinh, sinh viên thì nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phải được lồng ghép trong các phong trào khác của Đoàn thanh niên và các phong trào của học sinh trong nhà trường như: “Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên”; Phong trào “Phòng chống ma tuý trong học đường”, phong trào ngày hè xanh, phong trào đảm bảo vệ sinh môi trường… Để lồng ghép được nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của nhà trường hoặc của đoàn thanh niên nhà trường, cơ quan công an cơ sở (phường, xã) là chủ thể tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, cần phải có kế hoạch, chủ động kết hợp với nhà trường và Đoàn thanh niên của các trường đóng trên địa bàn đưa các nội dung cần thiết phù hợp vào từng phong trào, tùng thời điểm thích hợp, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá sự hoạt động, tích cực hoặc thiếu tích cực của từng học sinh, sinh viên. III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC THAM GIA XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân và cũng là của toàn thể thanh niên Việt Nam. Để góp phần của mình vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc học sinh, sinh viên có trách nhiệm thực hiện tốt một số công việc sau đây: A. MỌI SINH VIÊN PHẢI CÓ NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐẦY ĐỦ VỀ TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ CỦA TỔ QUỐC Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước. Đối với sinh viên đang được học tập, rèn luyện trong nhà trường trước hết phải nhận thức được sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của tất cả mọi công dân Việt Nam trong đó lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt. Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm giữ gìn an ninh - trật tự là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp cần phải huy động sức mạnh của tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội, là thanh niên Việt Nam nói chung và là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nói riêng lại càng gương mẫu và tích cực tham gia vào các công tác giữ gìn an ninh Tổ quốc, cụ thể là các phong trào giữ gìn an ninh - trật tự của địa phương. 178 Để quán triệt được quan điển trên: Mỗi sinh viên trong thời gian học tập tại nhà trường phải say mê học tập, chăm rèn luyện, có nhận thức đúng những điều hay, lẽ phải, biết các việc nên làm và không được làm; nắm vững và chấp hành đầy đủ các nội quy quy định của nhà trường, các quy định của địa phương và pháp luật của nhà nước; phát hiện và mạnh dạn đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương hoặc ở trong nhà trường. Nhằm phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những tồn tại nhược điểm của sinh viên đóng góp tích cực cho công tác bảo vệ an ninh trật tự của địa phương và các phong trào khác của nhà trường, mỗi cá nhân phải học tập, rèn luyện tốt, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người sinh viên, kính trọng thầy cô giáo, tôn trọng các cơ quan chính quyền, tích cực tham gia các phong trào của nhà trường và địa phương. B. MỖI SINH VIÊN TỰ GIÁC CHẤP HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẢM BẢO AN NINH TRẬT TỰ CỦA NHÀ TRƯỜNG VÀ CỦA ĐỊA PHƯƠNG NƠI CƯ TRÚ Để đảm bảo an ninh trật tự, mọi công dân phải tự giác chấp hành các quy định của nhà nước và của địa phương về giữ gìn an ninh trật tự như: bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ việc thực hiện các chính sách của nhà nước, bảo vệ chính quyền, bảo vệ sự vững mạnh của các tổ chức đoàn thể xã hội; chống kẻ địch phá hoại về chính trị tư tưởng, về kinh tế văn hoá xã hội; xây dựng khối thống nhất toàn dân… - Mỗi sinh viên đều phải tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của đoàn thanh niên hoặc của địa phương tổ chức. - Không xem, đọc, lưu truyền các văn hoá phẩm độc hại, đồi truỵ, không nghe, không bình luận các luận điểm tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Nhà nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, không truy cập vào các Website có nội dung thiếu lành mạnh. - Không tự ý thành lập, tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị và các tổ chức có tính chất chính trị trái pháp luật Việt Nam. - Phát hiện và đề nghị với thầy cô giáo và các cơ quan chính quyền địa phơng nơi cư trú, học tập để có biện pháp ngăn chặn các hành vị hoạt động tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma tuý, mại dâm), các hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. - Tích cực và gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, các thể lệ hành chính quy định về lĩnh vực an ninh trật tự; luật lệ an toàn giao thông; an toàn phòng cháy chữa cháy; vệ sinh môi trường và các quy định khác. 1. Đối với sinh viên lưu trú trong ký túc xá - Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường, không được sử dụng một cách bừa bãi, làm hư hỏng mất mát tài sản và trang thiết bị trong ký túc xá. - Chấp hành tốt nội quy của ký túc xá, thực hiện đầy đủ những cam kết được ghi trong hợp đồng với Ban quản lý ký túc xá. - Không tàng trữ vũ khí, chất độc, chất nổ, chất dễ cháy, hoá chất độc hoặc hàng cấm khác trong ký túc xá. 179 2. Đối với sinh viên tạm trú trong các khu vực dân cư - Thực hiện đầy đủ các quy định về khai báo tạm trú tại khu vực dân cư theo quy định của pháp luật. - Chấp hành tốt các quy định của địa phương nơi cư trú như; vệ sinh mỹ quan, trật tự đô thị, bảo vệ môi trường. - Tích cực tham gia các phong trào giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn như: phòng chống các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lôi kéo học sinh, sinh viên vào các hoạt động chống đối Nhà nước; phòng ngừa các hoạt động của bọn tội phạn hình sự xâm phạm đến tính mạng và tài sản của sinh viên; ngăn ngừa, đấu tranh với các trường hợp sử dụng các chất ma tuý trong học sinh, sinh viên. C. TÍCH CỰC THAM GIA VÀO CÁC PHONG TRÀO BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ CỦA ĐỊA PHƯƠNG Phong trào toàn dân ở từng cụm dân cư, từng phường, xã có mạnh hay không là do sự đóng góp chung của tất cả mọi thành viên trong công đồng khu vực, từ trẻ đến già ; từ cán bộ, công nhân, viên chức đến học sinh sinh viên. Hoạt động này phải trở thành ý thức tự giác và tự quản của từng người dân, trong đó có sự đóng góp tích cực và quan trọng của sinh viên. Với trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự hiểu biết, năng động và sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của nhân loại, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng mỗi học sinh sinh viên cũng cần được sư hỗ trợ, định hướng và dìu dắt của Đảng, Nhà nước, nhà trường và của toàn xã hội, do đó mỗi người học không những chấp hành đúng và đủ các quy định của Nhà nước về đảm bảo an ninh trật tự mà còn phải tham gia tích cực vào các phong trào bảo vệ an ninh - trật tự của địa phương, như: “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phong trào “Toàn dân phòng chống ma tuý”, “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”; phong trào “Toàn dân tham gia cảm hoá giáo dục người lầm lỗi”; cũng như các phong trào bảo vệ an ninh trật tự khác: phong trào xây dựng cụm dân cư an toàn, số nhà an toàn; tham gia vào các tổ chức quần chúng “Đội thanh niên xung kích an ninh”, đội “thanh niên tự quản”… tích cực than gia tuần tra canh gác, phòng ngừa các hoạt động tội phạm. Để thực hiện được các nội dung trên sinh viên thông qua các hoạt động của Đoàn thanh niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. D. LUÔN LUÔN NÊU CAO Ý THỨC CẢNH GIÁC, TÍCH CỰC THAM GIA HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM Ở ĐỊA PHƯƠNG, PHÁT HIỆN NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC, NHỮNG HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT XẨY RA TRONG NHÀ TRƯỜNG VÀ NƠI CƯ TRÚ KỊP THỜI, CUNG CẤP CHO CƠ QUAN CÔNG AN ĐỂ CÓ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ GIẢI QUYẾT Để góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật tự, tạo thành phong trào toàn dân phòng chống tội phạm, sinh viên cần tích cực than gia vào các hoạt động giữ gìn an ninh trật tự của địa phương theo khả năng của mình như: 180 - Phát hiện các hành vi tuyên truyền, phát tán các văn hóa phẩm đồi truỵ, các tài liệu phản động báo cáo ngay với ban giám hiệu nhà trường, với thầy cô giáo chủ nhiệm hoặc cơ quan Công an để thu giữ kịp thời. - Phát hiện và ngăn chặn các vụ đánh nhau, gây rối trật tự công cộng báo cáo với nhà trường, ban bảo vệ dân phố, cơ quan Công an nơi gần nhất để có biện pháp ngăn chặn, tham gia phát hiện truy bắt các đối tượng phạm pháp bỏ trốn. - Phát hiện các hành vi vi phạm các quy định về trật tự an toàn xã hội như mang chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí thô sơ đến nhà trường. - Phát hiện và báo cáo kịp thời với nhà trường về những người hoặc các hiện tượng sinh viên có biểu hiện sử dụng các chất ma tuý, đua đòi ăn chơi tụ tập đua xe, đánh bạc ăn tiền… - Thường xuyên giúp đỡ các bạn gặp khó khăn về điều kiện học tập, động viên các bạn vượt khó để học tập tốt. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, Chính quyền luôn xác định công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là biện pháp cơ bản, chiến lược lâu dài trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc đã liên tục phát động và có bước phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm hoạt động có tổ chức, góp phần kéo giảm số vụ phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội. Trong thời gian tới, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, củng cố thế trận an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, trọng tâm là ở các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, biển đảo, vùng dân tộc ít người, vùng đồng bào theo tôn giáo, các nhà trường, khu kinh tế tập trung và các đô thị lớn. Chú trọng chỉ đạo xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, có hiệu quả theo hướng xã hội hoá ngày càng cao, với nhiều hình thức tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hoà giải về an ninh, trật tự từ cơ sở. Động viên, khích lệ nhân dân tích cực tham gia xây dựng khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường… an toàn về an ninh, trật tự; chủ động phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giáo dục, giúp đỡ, cảm hoá người vi phạm pháp luật tái hoà nhập cộng đồng; tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Kịp thời khen thưởng, động viên những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; có chính sách thoả đáng khi bị thương, hy sinh, hoặc bị thiệt hại về tài sản khi tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc? 2. Nêu phương pháp tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở? Đặc điểm địa lý và văn hoá xã hội của từng vùng miền có ảnh hưởng như thế nào đến phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc? 3. Sinh viên có trách nhiệm gì trong việc tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương nơi cư trú? 181 BÀI 15. AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CÁC ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM Trong lịch sử của mình, chưa có khi nào nhân loại đạt được những bước tiến dài trên con đường phát triển như ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa đến chính sự tồn vong của mình như bây giờ. Cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… đang đặt ra những yêu cầu bức thiết phải có sự nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế để đối phó, vì sự an nguy của mỗi quốc gia dân tộc cũng như của toàn nhân loại. I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BỐI CẢNH NẢY SINH A. KHÁI NIỆM “An ninh phi truyền thống” là một khái niệm mới xuất hiện và được bàn đến khá nhiều trong thời gian gần đây. Đây là mối quan tâm lớn của các quốc gia dân tộc trên thế giới, là một trong những chủ đề quan trọng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, được bàn luận trên nhiều diễn đàn quốc tế, cũng như trong nhiều nội dung của các quan hệ song phương và đa phương. Sau Chiến tranh lạnh, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, thế giới bước vào giai đoạn mà trong đó xu thế hợp tác và phát triển kinh tế là chủ yếu, đã và đang mang đến sự phồn thịnh cho nhiều quốc gia, khu vực. Tuy nhiên, quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế này cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, đe dọa đến an ninh, chủ quyền của các quốc gia dân tộc và cuộc sống của chính con người. Khái niệm an ninh phi truyền thống ra đời trong bối cảnh đó và được sử dụng rộng rãi, phổ biến trên nhiều diễn đàn quốc tế thảo luận về các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội, trong chiến lược Quốc phòng và An ninh của nhiều quốc gia dân tộc, cũng như trong hợp tác an ninh của nhiều khu vực và thế giới, sau khi diễn ra sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ. Tuy nhiên, cho đến nay, việc nhận thức và xác định những vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn chưa có sự thống nhất. Một số nghiên cứu viện dẫn quan niệm của Liên hợp quốc về vấn đề an ninh phi truyền thống trong 7 lĩnh vực chính: Kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị. Có nghiên cứu quy vấn đề an ninh phi truyền thống vào 5 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, môi trường, xã hội, chính trị và văn hóa. Một quan điểm khác phân chia các vấn đề an ninh phi truyền thống thành 6 nhóm chính: ô nhiễm môi trường, tình trạng thiếu hụt tài nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn khủng bố, dịch bệnh truyền nhiễm và thảm họa địa chất. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước ASEAN và Trung Quốc tại Phnôm Pênh (Campuchia) đã ra Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống, xác định an ninh phi truyền thống là 182 những vấn đề: Tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao. Có nhiều quan điểm khác nhau về an ninh phi truyền, nhưng khái quát nhất có thể hiểu: “An ninh phi truyền thống là sự ổn định và phát triển bền vững của các lợi ích quốc gia cơ bản, quan trọng mang tính phi quân sự có mối liên hệ, tương tác chặt chẽ với an ninh, phát triển của khu vực và thế giới”. Nhắc đến an ninh phi truyền thống không thể không nhắc đến mối đe dọa an ninh phi truyền thống với đặc trưng về nguồn gốc là ngoài vấn đề quân sự; phạm vi tác động, ảnh hưởng mang tính xuyên quốc gia. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống có sự gắn kết với an ninh phi truyền thống, là các yếu tố xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến an ninh phi truyền thống. B. ĐẶC ĐIỂM - Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống gồm hai loại là có bạo lực và phi bạo lực. - Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có xu hướng vận động, mở rộng, lan tràn xuyên quốc gia. - Mối đe dọa an ninh phi truyền thống đe dọa an ninh khu vực, an ninh quốc tế. - Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có quan hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và với các mối đe dọa an ninh truyền thống. - Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đa dạng về nguồn gốc, có quá trình tích lũy tiềm tàng. C. BỐI CẢNH NẢY SINH - Sự biến đổi của cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh Sự biến đổi cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh bản chất là hướng đến quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức với mối quan tâm hàng đầu là kết thúc sự đối đầu có tính cân bằng nhiều thập kỷ giữa Liên Xô và Mỹ, giữa phe các nước xã hội chủ nghĩa với phe các nước tư bản chủ nghĩa với kết quả sự sụp đổ mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Tổ chức Hiệp ước Vácsava. Đây là sự kiện gây chấn động, làm thay đổi sâu sắc cục diện quốc tế, buộc chính quyền các nước phải tập trung nghiên cứu, đánh giá và liên hệ đến tình hình, chiến lược an ninh của nước mình. Trong bối cảnh mới, bất kỳ quốc gia nào cũng trở thành đối tượng bị xâm hại của các vấn đề an ninh phi truyền thống, thậm chí trên một số lĩnh vực, sự tiên phong, chiếm lĩnh của các quốc gia cũng đem lại ưu thế như: Không gian mạng, vũ trụ... - Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi rộng, tốc độ nhanh Sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau của các nước trên các lĩnh vực như: Kinh tế, tài chính, tiền tệ, mậu dịch, đầu tư, thông tin... đã tạo ra sự lan truyền mạnh mẽ của các yếu tố tiêu cực như khủng hoảng tài chính kinh tế... làm tăng tính nhạy cảm của an ninh quốc gia. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia hoạt động phức tạp, khó đấu tranh, đặc biệt là tội phạm ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm môi trường... Toàn cầu hóa làm xuất hiện và nhân rộng một loạt các mạng lưới liên kết ở cấp độ 183 toàn cầu, thách thức biên giới lãnh thổ, giảm sự khác biệt về văn hóa, suy thoái các giá trị truyền thống, đặc trưng quốc gia. - Các quốc gia tập trung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội Sau chiến tranh lạnh, các quốc gia có xu hướng phân bố các nguồn lực đồng đều, theo hướng giảm bớt chi tiêu trong lĩnh vực quân sự, tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất, nghiên cứu, phát hiện các nguồn năng lượng mới, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đảm bảo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. - Khoa học và công nghệ phát triển Các thành tựu khoa học và công nghệ đã tạo ra những đột phá, được áp dụng nhanh chóng vào công tác bảo vệ an ninh của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các ngành: Vũ trụ và không gian, năng lượng, hóa học và sinh học, điện tử và phần mềm... Các quốc gia tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ, hình thành các lực lượng tác chiến mới, làm thay đổi phương thức chiến tranh truyền thống, “số hóa chiến trường”, xây dựng nền công nghiệp lưỡng dụng, rút ngắn thời gian sản xuất vũ khí, triển khai các hoạt động vũ trang. II. NỘI DUNG CỦA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG A. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu do có đường bờ biển dài. Hàng năm, nhiệt độ trung bình tăng khoảng 0,50C, lượng mưa có xu hướng biến động thất thường. Năm 2016, mùa khô nhiều nơi ở miền Nam và miền Trung lượng nước thiếu 30 - 40%, tình trạng xâm nhập mặn diễn ra sớm hơn 1 tháng, nhiều nơi đã vào sâu 80 - 100 km. Từ năm 2005 đến 2014, trung bình hàng năm Việt Nam có khoảng 649 đợt thiên tai như lũ lụt, hạn hán, mưa đá... trong đó lũ lụt xảy ra nhiều nhất chiếm 49% số đợt thiên tai. Trung bình hàng năm, Việt Nam phải gánh chịu 469.526 ngôi nhà bị phá hủy, 175.653 ngôi nhà bị hư hỏng, gây thiệt hại khoảng 5,2 tỷ USD, khoảng 3 triệu người chịu tác động của thiên tai. Trong 6 tháng đầu năm 2019, trên cả nước đã xảy ra 12 loại hình thiên tai bao gồm: 1 cơn bão; 105 trận dông lốc, sét; 4 đợt mưa lũ, lũ quét; 4 đợt rét đậm, rét hại; 6 đợt nắng nóng; 27 vụ sạt lở tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sạt lở Cửa Đại, Hội An và 4 trận động đất... Thiên tai đã khiến ít nhất 23 người bị chết và mất tích. Trong đó, có 2 người mất tích do bão số 1; 13 người chết do sét, lốc xoáy, mưa đá; 8 người chết do lũ, lũ quét, sạt lở đất. Bên cạnh đó, hơn 18.200 nhà bị sập đổ, hư hỏng; 27.370ha lúa và hoa màu bị đổ dập; 5.077ha cây công nghiệp, cây hàng năm và cây ăn quả bị thiệt hại, gãy đổ; 12.700 con gia súc, gia cầm bị chết. Trên 22.300m3 đất đá, bê tông; 1.427m đê, kè; hơn 1.100m bờ sông, bờ suối bị sạt lở. Tổng thiệt hại về kinh tế ước tính trên 337 tỷ đồng. Theo các kịch bản về biến đổi khí hậu đối với Việt Nam, dự kiến đến cuối thế kỷ XXI, 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (là 1 trong 3 đồng bằng dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng cùng với đồng bằng sông Nile, Ai Câp và đồng bằng 184 sông Ganges của Bangladesh), 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 35 diện tích của các địa phương khác thuộc khu vực ven 36 biển bị ngập mặn, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh bị ngập trên 20% diện tích thành phố. Khi đó 10 - 12% dân số Việt Nam bị tác động với tổn thất kinh tế khoảng 10% GDP. B. AN NINH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Giai đoạn trước năm 2007 là giai đoạn tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng khoảng 7,88% mỗi năm. Từ sau năm 2007, kinh tế Viêt Nam có sự bất ổn trong các biến số kinh tế vĩ mô. Thâm hụt vãng lai tăng đột ngột vượt ngưỡng an toàn, đặc biệt là năm 2008 xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ. Tốc độ gia tăng nợ công tăng nhanh, ngân sách trung hạn thiếu bền vững. Từ năm 2007 đến 2011, lạm phát tăng vọt, đỉnh điểm là năm 2008 và 2011. Tín dụng nền kinh tế luôn ở mức cao chỉ có năm 2009 bị giảm so với năm 2007. Từ năm 2012 trở lại đây, kinh tế từng bước ổn định và phát triển, có thặng dư thương mại, có thặng dư cán cân vãng lai, tăng dự trữ ngoại tệ tăng... Chính phủ nâng cao hiệu quả trong quản lý các dự án đầu tư, kịp thời điều chỉnh chính sách như mua bán ngoại hối, điều chỉnh lãi xuất... C. AN NINH NĂNG LƯỢNG Hệ thống năng lượng Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là dầu khí, than đá và điện lực. Tuy nhiên, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, an ninh năng lượng chưa được đảm bảo (dữ trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi xảy ra khủng hoảng, điện không đủ cung ứng...). Trung bình mỗi năm, nhu cầu sử dụng năng lượng tăng gấp 2 nhưng khả năng cung ứng trong nước chỉ đạt 60%; hiệu suất sử dụng thấp, chỉ đạt 28 - 32%. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan (6/2019), lượng nhập khẩu tăng 99,6% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt trên 20,64 triệu tấn, kim ngạch cũng tăng 64,8%, trị giá trên 1,99 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, xuất khẩu than của Việt Nam ra nước ngoài chỉ đạt 402.236 tấn, tương đương 61,85 triệu USD. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm 2019, nhóm hàng than đá nhập siêu 1,93 tỷ USD. Các nguồn năng lượng chủ yếu của Việt Nam chưa được đảm bảo. Trữ lượng dầu lửa và khí đốt ở Biên Đông do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan sẽ ngày càng khó khai thác. Trữ lượng than đá đang dần cạn kiệt, năm 2020, khả năng khai thác chỉ đáp ứng 60% nhu cầu trong nước và đến năm 2035 là 34%. Các nguồn năng lượng khác như năng lượng sóng, năng lượng gió, năng lượng mặt trời... chưa được sử dụng phổ biến. Kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã dừng triển khai. D. AN NINH MÔI TRƯỜNG Nạn khai thác tài nguyên khoáng sản trái phép, săn bắt, buôn bán, vận chuyển trái phép động, thực vật hoang dã, quý hiếm, tàn phá rừng diễn ra ở nhiều địa phương. Trong vòng 30 năm qua, xuất hiện 40 loại bệnh tật mới có nguồn gốc từ ô nhiễm môi trường, nhiều dịch bệnh nguy hiểm như: H5N1, SARS... 185 Trong sản xuất công nghiệp, ô nhiễm môi trường diễn ra nghiêm trọng với khoảng 60% lượng nước thải hàng ngày từ các khu, cụm công nghiệp được xả thẳng ra nguồn tiếp cận không qua xử lý như vụ sự cố môi trường tại 4 tỉnh miền Trung (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) do hành vi xả chất thải từ công ty Formosa Hà Tĩnh đã ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 100.000 người do không có việc làm ổn định, thu nhập thấp và 176.285 người phụ thuộc, thiệt hại sản lượng hải sản khai thác ven bờ và vùng lộng ước tính khoảng 1.600 tấn/tháng; diện tích nuôi tôm bị chết hoàn toàn là 5,7 ha tương tương 9 triệu tôm giống và khoảng 7 tấn tôm thương phẩm sắp đến kỳ thu hoạch; có trên 3.000 ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh đã thả giống bị ô nhiễm nặng, hệ sinh thái biển ảnh hưởng nghiêm trọng. Tình trạng nhập khẩu trái phép rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại, phế liệu chưa được làm sạch vào Việt Nam diễn biến phức tạp. Thống kê của Bộ Tài chính (năm 2018) cho thấy, có 23.453 container phế liệu đang lưu giữ tại các cảng biển, trong đó 9.825 container lưu trữ trên 90 ngày, chưa làm thủ tục hải quan tính đến đầu tháng 4. Lượng hàng phế liệu tồn nhiều nhất tại Cục Hải quan Bà Rịa Vũng Tàu với 9.468 container, tiếp theo là Hải Phòng và thành phố Hố Chí Minh lần lượt 6.082 và 4.689 container. E. AN NINH THÔNG TIN Tình trạng lộ, lọt thông tin bí mật nhà nước diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Một số cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước đã sử dụng máy tính có kết nối Internet để soạn thảo và lưu giữ thông tin mật mà không có các biện pháp bảo vệ. Nhiều tài liệu có độ mật cao về an ninh - quốc phòng đã bị lộ như các nghị quyết, kế hoạch, đề án, dự án của khối cơ quan đảng, nhà nước, ban, ngành, chương trình làm việc của các đồng chí lãnh đạo cấp cao... Tình trạng tung tin giả trên các trang mạng xã hội diễn biến phức tạp. Năm 2016, bộ Thông tin và truyền thông đã xử phạt 4 trường hợp tung tin giả, tin đồn thất thiệt. Nhiều vụ việc tung tin giả, tin đồn chỉ nhằm mục đích thu hút nhiều lượt người theo dõi... Năm 2018, đã có tới 26 cơ quan báo chí bị xử phạt hành chính, 1 báo điện tử bị đình bản tạm thời với lỗi chủ yếu là thông tin sai sự thật. Từ đầu năm 2019 cho đến 2/2020, đã liên tiếp xuất hiện các tin đồn liên quan đến kinh tế - xã hội khiến dư luận xôn xao, người dân thì hoang mang. “Nông sản gây ung thư”, “Cảnh báo buôn bán nội tạng người”, “bắt cóc trẻ em táo tợn”… là các vấn đề thường xuyên bị các tối tượng xấu khai thác. Liên quan đến dịch cúm Corona n-COV, tính đến ngày 07/2/2020, có tới 170 cá nhân tung tin sai lệch về dịch bệnh bị triệu tập, xử lý. Trong đó, có một số người nổi tiếng hoạt động trong ngành giải trí, có sức ảnh hưởng lớn. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho người dân hoang mang trước dịch bệnh. Ví dụ: Ngày 7/2/2020, Sở Thông tin - Truyền thông tỉnh Thanh Hóa cho biết, từ ngày 31/1 - 6/2, các cơ quan, đơn vị chức năng ở 10 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện tới 21 trường hợp người dân đăng tải thông 186 tin thất thiệt về virus Corona, trong đó đã xử phạt 9 trường hợp với tổng số tiền trên 85 triệu đồng…. Các thế lực thù địch và đối tượng phản động gia tăng các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tung tin, bịa đặt gây hoang mang dư luận, kích động biểu tình, bạo loạn; đẩy mạnh các hoạt động tấn công vào cơ sở dữ liệu của các cơ quan, tổ chức, tập đoàn kinh tế nhằm thu thập các thông tin, dữ liệu... Ý thức bảo vệ thông tin của người dân còn thấp, dễ bị dụ dỗ, tin theo các thông tin sai sự thật. Theo số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav cho thấy, 63% người dùng thường xuyên độc được tin tức giả mạo trên Facebook và trong đó có 40% là nạn nhân hàng ngày. F. AN NINH NGUỒN NƯỚC Việt Nam có hơn 2.360 con sông có chiều dài từ 10 km trở lên, 108 lưu vực sông trong đó có 16 lưu vực sông với diện tích lưu vực lớn hơn 2.500km 2. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng 830 tỷ m3/năm (nguồn nước dưới đất khoảng 63 tỷ m3/năm) và tập trung chủ yếu trên một số lưu vực sông lớn. Tuy nhiên, khoảng 63% tổng dòng chảy sông ngòi Việt Nam đến từ các nước láng giềng, riêng với khu vực sông Mê Công, tỷ lệ này là 90% và 38 lưu vực sông Hồng là hơn 50%. Từ đó, tạo sự bất lợi trong chủ động ứng phó, giải quyết các mối đe dọa an ninh nguồn nước. Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm các quốc gia thiếu nước (lượng nước mặt bình quân đầu người hiện là 3.850 m3/người/năm thấp hơn ngưỡng 4.000 m3/người/năm do Hội tài nguyên nước quốc tế quy định). Cùng với đó, nhu cầu về nước có xu hướng gia tăng. Năm 1990, nhu cầu nước cho dân dụng và công nghiệp khoảng 50 tỷ m3, năm 2000 là 65 tỷ m3, năm 2010 là 72 tỷ m3, năm 2020 là 80 tỷ m3. Dự kiến đến năm 2030 là khoảng 87 - 90 m3. Tuy nhiên, theo dự báo, nguồn nước Việt Nam giảm cả về số lượng lẫn chất lượng, đến năm 2025, giảm 40 tỷ m 3, tổng lượng nước mùa khô giảm đi khoảng 13 tỷ m3, 37% lượng nước hàng năm phát sinh ngoài lãnh thổ sẽ trở nên phức tạp khi diễn ra các tranh chấp nguồn nước. G. VẤN ĐỀ DÂN TỘC Việt Nam là ngôi nhà chung của 54 dân tộc với nguồn gốc lịch sử khác nhau: có dân tộc có nguồn gốc tại chỗ (dân tộc bản địa) như dân tộc Tày, dân tộc Mường, dân tộc Thổ…, có dân tộc có nguồn gốc từ nơi khác đến như: Dân tộc Thái, dân tộc Dao, dân tộc Nùng... Các dân tộc Việt Nam chung sống hòa bình, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình phát triển. Vấn đề dân tộc luôn bị các thế lực thù địch, đối tượng phản động lợi dụng nhằm thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng. Với chính sách “chia để trị”, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đẩy mạnh các hoạt động kích động, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, tạo dựng các xứ, các vùng dân tộc tự trị giả hiệu, biến nhiều vùng dân tộc thiểu số thành căn cứ phản cách mạng và lấy đó làm bàn đạp khống chế các khu vực xung quanh, như thành lập “Xứ Tây Kỳ tự trị”, “Xứ Thái tự trị”, “Xứ Nùng tự trị”, “Xứ Mường tự trị”... Hiện nay, các thế lực thù địch, đối tượng phản động gia 187 tăng các hoạt động tuyên truyền các tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị; kích động các hoạt động bạo loạn, phá rối an ninh... phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, ở Tây Nguyên đã xảy ra 2 vụ bạo loạn vào năm 2001 và năm 2004. H. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Trên đất nước ta từ ngàn xưa đến nay đã tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng và phong phú: Từ hình thức tôn giáo sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo phương Đông cổ đại đến tôn giáo phương Tây cận đại, từ tôn giáo thế giới, khu vực đến tôn giáo dân tộc. Hiện nay, nước ta tồn tại hầu hết tôn giáo lớn trên thế giới như: Hồi giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo... Các thế lực thù địch, đối tượng phản động thường lợi dụng các vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam như tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “không có tự do tôn giáo, đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền”, phát triển tôn giáo trái phép, kích động các hoạt động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, đưa ra các yêu sách... nhằm tách tôn giáo ra khỏi hoạt động quản lý của Nhà nước, biến tôn giáo trở thành lực lượng đối trọng với Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, các đối tượng đẩy mạnh quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, tạo cớ để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ. I. CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ Với âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý xã hội của Nhà nước, các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động kích động các hoạt động khủng bố, tạo bất ổn trong đời sống xã hội. Các đối tượng phản động người Việt tăng cường các hoạt động chống phá. Hiện nay, các đối tượng phản động người Việt lưu vong có hình thành có nhiều tổ chức khủng bố xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam như “Chính phủ Việt Nam tự do”, “Biệt đoàn sao trắng” của Nguyễn Hữu Chánh, “Việt Tân”... Trong thời gian tới, Việt Nam có nguy cơ là đối tượng bị khủng bố quốc tế tấn công vì trên lãnh thổ nước ta có mục tiêu tấn công (người Mỹ và các cơ quan đại diện Mỹ), các tổ chức khủng bố ở các nước láng giềng bị truy quét nên chạy sang nước ta… III. ỨNG PHÓ CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG A. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ ỨNG PHÓ VỚI CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII trở về trước, thuật ngữ an ninh phi truyền thống chưa được Đảng ta sử dụng chính thức nhưng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đã được mô tả như: Hội Nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) xác định 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nguy cơ về tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc VIII (6/1996) xác định: “Thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng 188 ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc gia nào có thể tự giải quyết, mà phải có sự hợp tác đa phương”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đối mới và lợi ích quốc gia dân tộc”, bổ sung thêm vấn đề chống tội phạm quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (04/2006), Đảng ta xác định bối cảnh tình hình là “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi h i các quốc gia và các tổ chức phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước ngh o ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (4/2011), Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ an ninh phi truyền thống. Báo cáo chính trị nêu rõ: “Trên thế giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng” và “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”. Từ nhận định, đánh giá tình hình đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định về mục tiêu, nhiệm vụ của Quốc phòng và An ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực th địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (01/2016), trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 21/01/2016 đã đánh giá “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới” và xác định nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh là “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực th địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; 189 bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”. Như vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác định các vấn đề an ninh phi truyền thống có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh truyền thống và đều là những mối đe dọa đến sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia. B. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ỨNG PHÓ VỚI CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM - Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của toàn dân về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. - Tăng cường tiềm lực quốc gia, xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc, tập trung giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội. - Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình, dự báo kịp thời các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. - Phát huy các nguồn lực xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Vấn đề an ninh phi truyền thống là một nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới. Đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc, vừa là điều kiện quan trọng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi sự đồng thuận và nỗ lực của toàn xã hội, sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, với những giải pháp, biện pháp phù hợp và hiệu quả. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Trình bày khái niệm và đặc điểm của an ninh phi truyền thống? 2. Nêu các nội dung cơ bản của an ninh phi truyền thống? Làm rõ nội dung An ninh thông tin? 3. Trình bày quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống? 190