TRƯỜNG SĨ QUAN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
TÀI LIỆU HỌC TẬP
MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH
Tp. Hồ Chí Minh năm 2020
0
HỌC PHẦN I.
ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÀI 1.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
Môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh là môn học chính khóa nằm trong
chương trình dạy học của các Trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học. Tầm quan trọng của môn học này là ở chỗ góp phần
giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là: Giúp học
sinh, sinh viên phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân; chuẩn bị cho học sinh, sinh viên tiếp tục học lên hoặc đi lên vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của môn học bao gồm đường lối quân sự của Đảng, công
tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kỹ năng quân sự cần thiết.
A. NGHIÊN CỨU VỀ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính chất lý luận của đảng về đường lối
quân sự, bao gồm: Những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh, Quân đội và bảo vệ Tổ quốc; Quan điểm của Đảng về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân; Chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc; Xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân; Phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh; Một số nội dung cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kỳ.
2. Tại sao phải nghiên cứu
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo
vệ tổ quốc mang tính cách mạng và xã hội sâu sắc. Đó là cơ sở lí luận để Đảng ta đề
ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời vùng biển, hải đảo mà còn phải bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ
nền văn hoá của dân tộc.
Các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân đều có tính kế thừa và phát
1
triển những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc “cả nước một lòng chung sức
đánh giặc”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ chống lớn”. Đó cũng chính là đặc trưng
nghệ thuật quân sự Việt Nam đã chiến thắng những kẻ thù hung hãn nhất.
Nghiên cứu đường lối quân sự của đảng góp phần hình thành niềm tin khoa
học, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lí tưởng cho sinh viên.
B. NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nhiệm vụ nội dung công tác Quốc phòng
và An ninh của đảng hiện nay, bao gồm: Phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; Xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp
quốc phòng; Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình
hình mới; Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam;
Những vấn đề cơ bản về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
Những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; Xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; An ninh phi truyền thống và đấu
tranh phòng chống các đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.
2. Tại sao phải nghiên cứu
Nhà nước quy định nhiệm vụ về quốc phòng, quân sự, an ninh cho các bộ,
ngành, cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị cơ sở. Do vậy, nghiên cứu về
công tác Quốc phòng và An ninh thực chất là nghiên cứu hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước về bảo vệ tổ quốc, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và an
ninh chính trị. Mọi công dân đều có trách nhiệm tham gia công tác quốc phòng,
luyện tập quân sự, giữ gìn bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường tiềm
lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phòng chống có hiệu quả chiến lược
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt
Nam, kể cả việc phòng chống chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Nghiên
cứu và thực hiện tốt công tác Quốc phòng và An ninh để xây dựng lòng tin chiến
thắng trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.
C. NGHIÊN CỨU VỀ QUÂN SỰ CHUNG, CHIẾN THUẬT, KỸ THUẬT
BẮN SÚNG NGẮN VÀ SỬ DỤNG LỰU ĐẠN; HIỂU BIẾT CHUNG VỀ QUÂN,
BINH CHỦNG
1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu các kiến thức, kĩ năng chiến thuật, kĩ thuật quân sự cần thiết
như: Đội ngũ đơn vị (trung đội); Sử dụng bản đồ địa hình quân sự; Phòng chống
địch tiến công bằng vũ khí công nghệ cao; Ba môn quân sự phối hợp; Trung đội
bộ binh tiến công; Trung đội bộ binh phòng ngự; Kỹ thuật bắn súng ngắn; Thực
hành sử dụng một số loại lựu đạn Việt Nam; Giới thiệu chung về tổ chức lực
lượng các quân, binh chủng (theo 4 nhóm ngành); Lịch sử, truyền thống quân,
binh chủng (theo 4 nhóm ngành).
2
2. Tại sao phải nghiên cứu
Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên
cần quan tâm nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng… hiểu rõ bản chất các nội
dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh; về khả năng sát thương, với các phương pháp
phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát
với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời
có thể ứng dụng các kĩ thuật này khi tham gia dân quân, tự vệ theo quy định của
pháp luật.
II. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh đòi hỏi phải nắm
vững cơ sở phương pháp luận, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối
tượng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này.
A. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu Giáo dục Quốc
phòng và An ninh là học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh, quân đội, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân… là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, vận
dụng đường lối quân sự của Đảng và những vấn đề cơ bản khác của Giáo dục
Quốc phòng và An ninh.
2. Các quan điểm tiếp cận khoa học
Việc xác định học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương
pháp luận, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, phát triển Giáo dục Quốc phòng và An ninh
phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm tiếp cận khoa học sau đây:
- Quan điểm hệ thống: Đặt ra yêu cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của
Giáo dục Quốc phòng và An ninh một cách toàn diện, tổng thể, trong mối quan hệ
phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học.
- Quan điểm lịch sử, lôgic: Trong nghiên cứu Giáo dục Quốc phòng và An ninh
đòi hỏi phải nhìn thấy sự phát triển của đối tượng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian,
không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát
nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng, an ninh.
- Quan điểm thực tiễn: Chỉ ra phương hướng cho việc nghiên cứu Giáo dục
Quốc phòng và An ninh là phải bám sát thực tiễn xây dựng quân đội và công an
nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
B. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu xây dựng, phát triển nội dung Giáo dục Quốc phòng và An
ninh với tư cách là một bộ môn khoa học cần chú ý sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học.
3
- Các phương pháp lí thuyết: Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá, mô
hình hoá, giả thiết nhằm thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn
bản, tài liệu về Quốc phòng và An ninh để rút ra các kết luận khoa học cần thiết,
không ngừng bổ sung phát triển làm phong phú nội dung Giáo dục Quốc phòng và
An ninh.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát thực tế,
nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng, an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm,
thực nghiệm… nhằm tác động trực tiếp vào đối tượng trong thực tiễn, từ đó khái
quát bản chất, quy luật của các hoạt động quốc phòng, an ninh; bổ sung làm phong
phú nội dung cũng như kiểm định tính xác thực, tính đúng đắn của các kiến thức
Giáo dục Quốc phòng và An ninh.
- Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo
đảm cho người học vừa có nhận thức sâu sắc về đường lối, nghệ thuật quân sự, nắm
chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến thuật, vừa rèn luyện phát triển được các kĩ năng công
tác quốc phòng, thuần thục các thao tác, hành động quân sự.
Đổi mới phương pháp dạy học Giáo dục Quốc phòng và An ninh theo hướng
tăng cường vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các
phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Trong quá trình học tập, nghiên cứu các vấn
đề, các nội dung Giáo dục Quốc phòng và An ninh cần chú ý sử dụng các phương
pháp tạo tình huống, nêu vấn đề, đối thoại, tranh luận, thực tập sát với thực tế
chiến đấu, công tác quốc phòng; tăng cường tham quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu
luận; tăng cường sử dụng các phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự hiện đại phục
vụ các nội dung học tập; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ
thông tin nhằm nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc
phòng và An ninh.
III. GIỚI THIỆU MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
A. ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ THIẾT BỊ HỌC TẬP
1. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh các trường đại học, cao
đẳng, các Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên được tổ chức trên cơ sở Nghị
định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng và An ninh và Nghị định của Chính
phủ về biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Giảng viên sĩ quan từ các
quân khu, các học viện, nhà trường quân đội được luân phiên làm công tác quản lí
và giảng dạy. Các trường chưa có giảng viên là sĩ quan biệt phái được biên chế
giảng viên cơ hữu hoặc hợp đồng, thỉnh giảng giảng viên ở các học viện các nhà
trường quân đội. Hệ thống Trung tâm Giáo dục quốc phòng sinh viên do Chính phủ
quy định, được phát triển trên phạm vi cả nước đang thu hút phần lớn sinh viên vào
học tập, rèn luyện trong môi trường văn hóa - quân sự.
2. Cơ sở vật chất và thiết bị học tập
Để đáp ứng yêu cầu học tập, rèn luyện của sinh viên, Nhà nước đã và đang đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất cho các Trung tâm Giáo dục quốc phòng. Tổ chức dạy,
4
học môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh phải bảo đảm đủ cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học được quy định trong danh mục và tiêu chuẩn bộ mẫu thiết bị dạy học tối
thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Khi học thực hành các kĩ năng quân sự
phải có sân tập, bãi tập, thao trường. Giáo trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh
dùng cho các trường đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là tài
liệu giảng dạy và nghiên cứu chính thức của giảng viên, sinh viên. Ngoài ra, sinh
viên tìm đọc thêm tài liệu tham khảo đã được giới thiệu trong giáo trình để nâng cao
kiến thức và sự hiểu biết về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
B. ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC
Là môn học được luật định, thể hiện rõ đường lối giáo dục của Đảng được thể
chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước nhằm giúp sinh viên
thực hiện mục tiêu “hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Luật giáo
dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Kế tục và phát huy những kết quả thực hiện Chương trình Huấn luyện quân sự
phổ thông (1961), Giáo dục quốc phòng (1991), trong những năm qua, để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới và phù hợp với quy chế giáo dục đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chương trình tiếp tục được đổi mới, bổ sung; đến
năm 2007 triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng và
An ninh, môn học Giáo dục quốc phòng được lồng ghép nội dung an ninh thành môn
học Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Như vậy, trong từng giai đoạn cách mạng,
chương trình môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh đều có những đổi mới phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và công tác Quốc phòng và An ninh trong từng
thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục - đào tạo với Quốc phòng - An ninh.
Giáo dục Quốc phòng và An ninh là môn học bao gồm: Kiến thức khoa học xã
hội nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học quân sự và thuộc nhóm các môn học chung,
có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chương trình môn học. Nội dung bao gồm kiến thức
cơ bản về đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, công tác quản lý Nhà nước về
quốc phòng, an ninh; về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc; về
nghệ thuật quân sự Việt Nam; về chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam và kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết
đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Giáo dục Quốc phòng và An ninh góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức
kỉ luật, tác phong khoa học ngay sau khi sinh viên đang học tập trong nhà trường và
khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất lượng môn học Giáo dục Quốc phòng
và An ninh là góp phấn đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật,
cán bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực
hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi
cương vị công tác.
C. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC
Môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh trình độ đại học, cao đẳng ban hành
theo Quyết định số 81/2007/QĐ-BGDĐT ngày 24/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
5
dục và Đào tạo. Chương trình được xây dung trên cơ sở phát triển trình độ các cấp
học dưới, bảo đảm liên thông, lôgíc; mỗi học phần là những khối kiến thức tương
đối độc lập, tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Kết cấu chương trình
gồm ba phần chính:
- Phần 1: Mục tiêu, thời gian, địa điểm thực hiện.
- Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chương trình.
Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam,
30 tiết.
Học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh, 30 tiết.
Học phần III: Quân sự chung, chiến thuật, kỹ thuật bắn súng ngắn và sử dụng
lựu đạn, 85 tiết.
Học phần IV: Hiểu biết chung về quân, binh chủng, 20 tiết.
- Phần 3: Tổ chức thực hiện chương trình; phương pháp dạy, học và đánh giá
kết quả học tập.
D. TỔ CHỨC DẠY HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
1. Hình thức tổ chức dạy học
Đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh trong các
trường trung cấp sư phạm và cơ sở giáo dục đại học được thực hiện theo Thông tư
liên tịch số 18/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 08 tháng 9 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn học Giáo dục Quốc
phòng và An ninh trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học.
2. Một số quy định về học tập đối với sinh viên
Khi học Giáo dục Quốc phòng và An ninh sinh viên phải ăn mặc gọn gàng,
thống nhất theo hướng dẫn của giảng viên. Tuyệt đối chấp hành các quy định, quy
tắc bảo đảm an toàn về người, vũ khí, trang thiết bị.
3. Điều kiện dự thi và phương pháp thi
Sinh viên có đủ số lần kiểm tra cho mỗi học phần; mỗi lần kiểm tra đạt từ 5 điểm
trở lên và có đủ 80% thời gian có mặt trên lớp sẽ được dự thi kết thúc học phần lần thứ
nhất. Mỗi sinh viên phải dự thi đủ các học phần quy định trong chương trình.
Học phần có từ 2 đến 3 đơn vị học trình kiểm tra ít nhất 1 lần; học phần có 4
đơn vị học trình trở lên kiểm tra ít nhất 2 lần. Số lần cụ thể do hiệu trưởng các
trường quy định.
4. Cấp chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh
Chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh cấp cho sinh viên để xác nhận kết
quả học tập môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Sinh viên đạt điểm trung bình
môn học từ 5 và không bị kỉ luật từ cảnh cáo trở lên được cấp Chứng chỉ Giáo dục
Quốc phòng và An ninh và được ghi kết quả xếp loại trong Chứng chỉ. Chứng chỉ
6
Giáo dục Quốc phòng và An ninh là một trong những điều kiện để xét tốt nghiệp
cao đẳng, đại học.
5. Đối tượng miễn giảm, tạm hoãn môn học
- Đối tượng miễn:
+ Sinh viên có giấy chứng nhận sĩ quan dự bị.
+ Có chứng chỉ Giáo dục Quốc phòng và An ninh.
+ Là người nước ngoài.
- Đối tượng được miễn các nội dung thực hành:
+ Là người khuyết tật.
+ Không đủ sức khỏe (từ 81% trở lên) về thể lực hoặc bệnh miễn dịch thuộc
diện miễn quân sự theo quy định hiện hành.
+ Đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công an.
- Đối tượng tạm hoãn:
+ Sinh viên do sức khỏe phải dừng học lâu dài, có xác nhận bệnh viện.
+ Sinh viên là phụ nữ mang thai hoặc trong thời gian thai sản.
Môn học giáo dục Quốc phòng và An ninh có vai trò, ý nghĩa rất to lớn trong
việc giáo dục nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi sinh viên
trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước hội nhập và phát triển
hiện nay, việc nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiểu biết về kiến thức Quốc phòng và
An ninh là một nhiệm vụ thiết thực hơn bao giờ hết. Vì vậy, bồi dưỡng và nâng cao
kiến thức về giáo dục Quốc phòng và An ninh là một nhiệm vụ quan trọng và rất có
ý nghĩa, giúp sinh viên ý thức đoàn kết dân tộc và không ngừng phấn đấu học tập
vươn lên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày đối tượng nghiên cứu của môn học Giáo dục Quốc phòng và An
ninh?
2. Trình bày phương pháp nghiên cứu môn học Giáo dục Quốc phòng và An
ninh? Trách nhiệm của bản thân đối với môn học?
7
BÀI 2.
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
Khi đánh giá về tình hình thế giới hiện nay, Đảng ta nhận định: “Tình hình
chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường;
tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh
mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực”1. Do, đó, việc chuẩn bị mọi mặt
cho đất nước để đối phó thắng lợi với chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là yêu cầu cơ bản lâu dài và nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội góp phần làm
rõ cơ sở lý luận của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội ta theo hướng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, khẳng định các chân lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của chiến tranh, quân đội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CHIẾN TRANH
A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHIẾN TRANH
1. Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội
- Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp. Trong lịch sử đã có
nhiều cách quan niệm khác nhau về hiện tượng chiến tranh. Một trong những
nhà tư tưởng quân sự được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá
cao là C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831). Ông quan niệm chiến tranh là một hành vi
bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình, là hoạt động mà
mỗi bên tham chiến huy động sức mạnh không hạn độ, đến tột cùng để giành
thắng lợi.
Với quan điểm này, C.Ph.Claudơvít đã bàn đến hành vi có tính đặc trưng của
chiến tranh là bạo lực và bạo lực đó kế tục chính trị. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít
chưa luận giải được đúng đắn bản chất chính trị của chiến tranh.
- Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa tư tưởng trên và đi đến
khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã - hội có tính lịch sử, đó là cuộc
đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các
nhà nước) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định.
+ Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội nghĩa là không phải là hiện
tượng tự nhiên bên ngoài xã hội, mà nó là hiện tượng chính trị xã hội, nó gắn với
giai cấp, Nhà nước, đảng phái.
1
8
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71
+ Trong chiến tranh đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản, lực lượng
vũ trang là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh.
+ Chiến tranh bao giờ cũng nhằm thực hiện mục đích chính trị của Nhà nước,
của giai cấp nhất định.
+ Chiến tranh có tính lịch sử nghĩa là nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch
sử nhất định, nó không tồn tại vĩnh viễn.
Đây là 4 đặc trưng của chiến tranh chúng có quan hệ biện chứng với nhau,
một hiện tượng được gọi là chiến tranh phải có đủ 4 đặc trưng trên nếu thiếu bất cứ
đặc trưng nào thì nó không phải là chiến tranh.
2. Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh
Nguồn gốc của chiến tranh là vấn đề cơ bản của mọi quan điểm khi giải thích
hiện tượng chiến tranh. Trong lịch sử cũng có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
gốc chiến tranh.
- Những quan điểm duy tâm tôn giáo tìm nguồn gốc chiến tranh từ lực lượng
siêu nhiên. Theo họ chiến tranh là do thượng đế, chúa trời và là sự trừng phạt của
thượng đế đối với loài người.
Ô.Guyt Xtanh nhà thần học phương Tây cho rằng, xã hội loài người là cuộc
đấu tranh giữa hai xứ sở đối lập, xứ sở của trời và xứ sở của người. Xứ sở của người
đầy tội lỗi, trái với ý trời và trời trừng phạt con người bằng chiến tranh.
- Các học giả theo chủ nghĩa Đác Uyn xã hội tìm nguồn gốc chiến tranh từ đấu
tranh sinh tồn của con người, có tính bản năng, sinh vật.
- Thuyết Man Tuýt lại tìm nguồn gốc chiến tranh từ nhân khẩu thừa. Quan
điểm này giải thích sản xuất vật chất tăng theo cấp số cộng, còn dân số tăng theo cấp
số nhân và đến một lúc nào đó sẽ tạo nhân khẩu thừa, để giải quyết tất yếu phải nổ
ra chiến tranh. Họ hô hào về những cái mồm thừa còn nguy hiểm hơn cả bom
nguyên tử để biện hộ cho hành động chiến tranh của chúng.
Những cách giải thích nguồn gốc chiến tranh trên không xuất phát từ
những những mâu thuẫn của hiện thực xã hội, mà từ lực lượng siêu nhiên, từ
bản năng sinh học hoặc từ chủ quan của con người. Với các cách giải thích này
thì chiến tranh không tránh khỏi đối với loài người và không loại trừ được ra
khỏi đời sống xã hội.
- Trái với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin tìm nguồn gốc chiến
tranh từ hiện thực xã hội, từ những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, nguồn gốc chiến tranh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
và đối kháng giai cấp không thể điều hoà. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất thì xuất hiện giai cấp, đối kháng giai cấp là tất yếu. Trước sự bóc lột của giai
cấp thống trị, giai cấp bị trị không ngừng đấu tranh, lúc ngấm ngầm, lúc công khai,
nhưng xu thế chung là ngày càng quyết liệt. Trước sức mạnh và sự phản kháng của
giai cấp bị trị, giai cấp thống trị cũng dùng các thủ đoạn, phương thức khác nhau và
phương thức cuối cùng là dùng sức mạnh quân sự, sức mạnh bạo lực để đàn áp. Giai
9
cấp bị trị chỉ có thể đánh đổ giai cấp thống trị về mặt nhà nước khi có lực lượng tiên
tiến lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh bạo lực cách mạng và
tiến hành chiến tranh cách mạng giành chính quyền.
Trong giai đoạn thống trị xã hội, giai cấp thống trị không thoả mãn với lợi ích
từ bóc lột nhân dân lao động ở nước mình, mà còn mở rộng phạm vi bóc lột ra nước
ngoài. Việc mở rộng lợi ích ra nước ngoài, giai cấp thống trị cũng dùng nhiều thủ
đoạn như mua chuộc, dụ dỗ... và khi các phương thức đó không đạt mục đích thì
chúng phát động chiến tranh và chiến tranh nổ ra. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, đối kháng giai cấp tồn tại thì chiến tranh là tất yếu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, không có đối kháng giai cấp, chiến tranh không xuất
hiện. Những cuộc xung đột có tính bạo lực trong xã hội này chỉ là tranh giành không
gian sinh sống, không mang nội dung chính trị, cho nên không phải là chiến tranh.
Ph.Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi
chưa có chế độ tư hữu, chưa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là
một hiện tượng chính trị xã hội cũng chưa xuất hiện. Mặc dù ở thời kỳ này đã xuất
hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhưng đó không phải là một cuộc chiến tranh
mà chỉ là một dạng lao động thời cổ.
Khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời với sự tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh cũng xuất hiện như một tất yếu lịch sử.
Từ đó đến nay, những xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối
kháng giai cấp đã nối tiếp nhau kéo theo chiến tranh diễn ra liên miên. Thực tế
cho thấy, từ khi chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời đến nay, loài người không có lúc
nào ngừng tiếng súng, không ở nơi này thì nơi khác. Có thể nói rằng, chừng nào
còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp thì chiến tranh
không thể tránh khỏi. Ph.Ăngghen khẳng định, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp
bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ
áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở
thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu.
Chiến tranh sẽ mất đi khi tiền đề kinh tế, chính trị cho nó xuất hiện không còn.
Chiến tranh cũng chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, không phải vĩnh viễn đối với loài
người. Muốn loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội thì xoá bỏ chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, xoá bỏ đối kháng giai cấp, xây dựng thành công chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và xã hội không giai cấp - chế độ cộng sản chủ nghĩa.
3. Bản chất của chiến tranh
Bản chất chiến tranh là vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong lịch sử,
cũng như hiện nay. Chiến tranh nổ ra với tính chất, quy mô và với không gian,
thời gian khác nhau, vì vậy nhận thức bản chất chiến tranh thường gặp khó khăn
đối với mọi người. Trong lịch sử đã có nhiều nhà tư tưởng, nhà quân sự khái quát
về bản chất chiến tranh. Thời Cổ đại, Arixtốt (384 - 322 TCN) đã khái quát,
chiến tranh là nghệ thuật chính trị. G.Hêghen (1770 -1830), nhà triết học duy tâm
10
cổ điển Đức quan niệm, chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị.
C.Ph.Claudơvít (1780 -1831) nhà quân sự tư sản Phổ cho rằng: “Chiến tranh của
một cộng đồng tiến hành bao giờ cũng là một hành vi chính trị, một sự kế tục của
các quan hệ chính trị, một sự thực hiện các quan hệ chính trị bằng các biện pháp
khác (thủ đoạn bạo lực)”1.
Các quan điểm trên có sự khác nhau, nhưng thống nhất với nhau ở nội dung
chính trị, ở hành động bạo lực của chiến tranh. Những quan điểm này đã có bước
tiến nhất định so với những quan điểm duy tâm tôn giáo về bản chất chiến tranh,
nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm, phản động. Những hạn chế, sai lầm của
những quan điểm trên là hiểu về chính trị chưa khoa học. Chính trị theo quan điểm
các nhà tư tưởng trên không phải của quan hệ giai cấp, dân tộc và nếu có thì chỉ đơn
thuần ở đường lối đối ngoại, không đề cập đến đối nội.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao quan điểm của các nhà
tư tưởng trên, đã kế thừa, phát triển và vạch ra bản chất chiến tranh. V.I.Lênin đã
dùng khái quát của C.Ph.Claudơvít và khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của
chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)”2. Về hình thức khái
quát của C.Ph.Claudơvít và V.I.Lênin không khác nhau, nhưng bản chất khác nhau
căn bản. Đối với C.Ph.Claudơvít, chính trị chỉ đơn thuần là quan hệ đối ngoại. Ông
không đề cập đến chính trị từ quan hệ đối nội, trong khi đó quan hệ đối nội còn
quyết định quan hệ đối ngoại.
Bản chất chiến tranh trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trên
hai mặt cơ bản:
- Trước hết chiến tranh là một hiện tượng chính trị xã hội. Chiến tranh thuộc
phạm trù xã hội, đồng thời là phạm trù chính trị. Chiến tranh không phải là mọi hiện
tượng xã hội, mọi hiện tượng chính trị, nhưng đã là chiến tranh phải thuộc phạm trù
xã hội, chính trị.
- Thứ hai, chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là kế tục chính trị
bằng thủ đoạn đặc thù, thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung
của chiến tranh, còn chiến tranh chỉ là một trong những phương thức tiến hành, thực
hiện mục đích chính trị. Trong các phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính
trị, chiến tranh là phương thức cuối cùng và cao nhất. Trước khi chiến tranh nổ ra,
các phương thức phi chiến tranh đã được vận dụng, tiến hành không có hiệu lực thì
phương thức cuối cùng là chiến tranh được thực hiện.
Tiếp cận bản chất chất chiến tranh trong sự thống nhất giữa hai mặt của chiến
tranh. Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang không tách rời. Như vậy, những xung
đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nội dung chính trị và
những phương thức thực hiện chính trị không sử dụng bạo lực vũ trang không phải
là chiến tranh.
Trong lịch sử, các thế lực tiến hành chiến tranh xâm lược, phản động thường
tìm cách che đậy nội dung chính trị để xuyên tạc bản chất chiến tranh. Những quan
1
2
C.Ph.Claudơvít, Bàn về chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 55
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 26, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 397
11
điểm cho tiến hành chiến tranh là thực hiện ý nguyện của chúa, giương ngọn cờ tôn
giáo… là tìm cách che đậy nội dung chính trị, xuyên tạc bản chất chiến tranh. Hiện
nay, các thế lực phản động, đặc biệt là đế quốc Mỹ cũng đưa ra lý do lật đổ một chế
độ độc tài, gia đình trị hoặc bảo vệ thế giới tự do… đều tìm cách che đậy nội dung
chính trị trong tiến hành chiến tranh xâm lược.
B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH
1. Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật, tác động
của chiến tranh đến đời sống xã hội
Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, của bọn đế quốc thực dân, Hồ Chí
Minh thấy rằng: Ở đâu dù chính quốc hay thuộc địa thì giai cấp tư sản với mọi âm
mưu thủ đoạn xảo trá, chúng bóc lột, hà hiếp quần chúng nhân dân lao động nhằm
vơ vét cho lợi ích của chúng. Một mặt, chúng bóc lột nhân dân lao động ở chính
quốc, mặt khác chúng ra sức khai thác, vơ vét của cải ở thuộc địa.
Chính sự phát hiện này, Hồ Chí Minh đã ví: “Chủ nghĩa đế quốc như con
đỉa có hai cái vòi, một cái vòi bám vào giai cấp công nhân ở chính quốc, một
vòi bám vào thuộc địa, muốn giết con vật này phải đồng thời cắt cả hai cái vòi
của nó”1. Rõ ràng sự ăn bám này đã dẫn đến giai cấp vô sản, quần chúng nhân
dân lao động ngày càng bần cùng, cuộc sống khổ sở, bị chúng trà đạp lên phẩm
giá con người.
Với bản chất của chúng như vậy, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: “Ngày nào còn
bọn đế quốc thì nguy cơ chiến tranh vẫn còn”2. Khi phân tích và luận giải, Hồ Chí
Minh đã vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa. Người phê phán,
vạch mặt cái gọi là khai hoá văn minh của thực dân Pháp, thực chất là sự bóc lột,
đầu độc, dùng chính sách ngu dân, Người viết: “Họ coi người An Nam như những
súc vật phải điều khiển bằng roi vọt”3. Điều đó thấy rõ bản chất cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Pháp, ở đây thực ra là sự áp đặt chế độ thống trị bóc lột của
chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa mà thôi.
Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định:
“Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và
độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, bắt
dân ta làm nô lệ”4.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành
ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta
chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền
và thống nhất đất nước.
2. Hồ Chí Minh xác định tính chất xã hội của chiến tranh
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Người đã xác định tính chất xã
hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 298
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 20
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 364
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 150
1
2
12
là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính
nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách
mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo
lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”1.
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của
toàn dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
3. Hồ Chí Minh khẳng định: Chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân
ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong
chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của
sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân
dân là một trong những di sản quý báu của Người.
Tư tưởng này được Người trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng sinh động
và sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh
toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Tư tưởng của Người được thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng,
ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng
phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”2. Qua đó thể hiện rõ mọi lực lượng
tham gia không phân biệt tầng lớp, giai cấp, tôn giáo nào. Với tất cả các loại vũ khí
trang bị có thể có được, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với vũ khí
trang bị; cho dù gươm giáo, cuốc thuổng, gậy gộc nhưng có ý chí quyết tâm và
tinh thần yêu nước thì sẽ bảo vệ được nền độc lập tự do của Tổ quốc, điều này
càng làm phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng chiến tranh của chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện cụ thể.
Để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Ba mươi mốt
triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt triệu
chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng” 3.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh toàn dân, trong đó
phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi
với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên
tất cả các mặt trận: quân sự; chính trị; kinh tế; văn hoá… Người chỉ rõ: “Nhưng
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 304
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 480
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 232
1
2
13
chiến tranh ngày nay, không những riêng về mặt quân sự mà bao gồm cả chính trị,
kinh tế, ngoại giao”1.
Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại mới và là một sự phát triển đỉnh cao tư tưởng vũ trang toàn dân của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận mác xít về
chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI
A. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ QUÂN ĐỘI
1. Khái niệm Quân đội
Theo Ph.Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do
nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh
phòng ngự”2.
Như vậy theo Ph.Ăngghen, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà
nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để
nhà nước, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền
(chủ nghĩa đế quốc), V.I.Lênin nhấn mạnh: Chức năng cơ bản của quân đội đế quốc
là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành
chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột đối với nhân dân lao
động trong nước.
2. Nguồn gốc ra đời của Quân đội
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lí luận đề cập đến
nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có
chủ nghĩa Mác - Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị
xã hội đặc thù này.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời
của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: Quân đội là một
hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người,
khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội.
Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc
lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao
động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ
bạo lực của nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai
cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn
chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp,
nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
1
2
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 250
Ph.Ăngghen: Tuyển tập Luận văn quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, tr. 9.
3. Bản chất giai cấp của Quân đội
Bản chất của quân đội được xác định bởi quân đội đó do giai cấp nào tổ chức
ra, công cụ bạo lực đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi ích của giai
cấp nào trong xã hội. Từ cách tiếp cận khoa học trên, các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định:
- Bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước
nhất định nhằm phục vụ cho giai cấp và nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng nó. Ở
phương diện này, quân đội của các giai cấp và nhà nước thống trị, bóc lột trong lịch
sử bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang để tiến hành chiến tranh và đàn áp nhân
dân lao động. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ, quân đội
mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hoà
tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân chủ nhất”1.
Bản chất của quân đội tương đối ổn định, song không phải là cái cố định, bất
biến, mà có sự vận động, biến đổi. Sự vận động, biến đổi đó tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố và theo hai chiều hướng hoặc tăng cường, hoặc là suy giảm. Quân đội là một tổ
chức, một lực lượng chính trị - xã hội của nhà nước, một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng nên sự tác động của các điều kiện kinh tế,
chính trị, giai cấp, môi trường xã hội tất yếu ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của
quân đội. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến bản chất giai cấp của quân đội, yếu tố
giai cấp luôn tác động trực tiếp, mạnh mẽ và quyết định nhất. Quân đội nào cũng do
nhà nước tổ chức ra và chịu sự chi phối bởi đường lối chính trị của một giai cấp. Bài
học xương máu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho thấy, khi
Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, sự biến chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
không tránh khỏi và hậu quả tất yếu của nó là làm cho quân đội mất phương hướng
chính trị. V.I.Lênin từng chỉ rõ, giai cấp vô sản muốn là giai cấp thống trị, thì nó
phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình.
Hiện nay, các học giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho quan điểm “siêu
giai cấp của quân đội và cho rằng, quân đội là công cụ của toàn xã hội, sự tồn
tại của nó là cần thiết để đảm bảo hoạt động “bình thường” của bất cứ hệ thống
xã hội nào. Do vậy, quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và không có bản chất
giai cấp; là lực lượng “trung lập về chính trị”. Thực chất của quan điểm trên là
che đậy bản chất phản động vốn có của quân đội tư sản đế quốc; thực hiện mưu
đồ “vô hiệu hoá” quân đội của các nước có chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ
nghĩa còn lại, làm cho quân đội xã hội chủ nghĩa dao động về tư tưởng, mất
phương hướng chính trị; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; tước bỏ quyền
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Cần thấy rằng, đây là một thủ
đoạn hết sức nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ
và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay để thực
hiện mục tiêu lật đổ và xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bởi vậy, cần đấ u
tranh vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của các luận điểm trên và
khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc do V.I.Lênin chỉ ra là, hiện nay cũng như
1
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 37, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 610
15
trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập được. Nghĩa là,
không có quân đội nào ra đời và tồn tại lại thoát ly khỏi các quan hệ chính trị,
giai cấp hiện thực; tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản với quân đội xã hội chủ nghĩa là vấn đề tất yếu đặt
ra. Mặt khác, cần chủ động đấu tranh ngăn chặn, khắc phục các tác động tiêu
cực làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân của quân đội xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
4. Sức mạnh chiến đấu của Quân đội
- Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, sức mạnh chiến đấu của quân
đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Con người, điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự, trong xây dựng sức mạnh chiến đấu
của quân đội các ông chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận
xét tài năng của các tướng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội
ngũ này.
- Bảo vệ và phát triển tư tưởng trên V.I.Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của
quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố quân số, tổ chức, cơ cấu biên chế;
yếu tố chính trị - tinh thần và kỉ luật; số lượng, chất lượng vũ khí trang bị kĩ thuật;
trình độ huấn luyện và thể lực; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh
lãnh đạo, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp. Giữa các yếu tố trên có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu tố là không
ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định, yếu tố chính trị tinh thần giữ vai
trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội (Đây là một yếu tố cơ bản, có
vai trò quyết định trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Quân đội có tinh thần
cao, nhất là tinh thần chiến đấu cao mới tích cực, chủ động, mưu trí, sáng tạo trong
chiến đấu, vượt qua được những khó khăn, gian khổ, ác liệt, những thử thách đối với
khả năng chịu đựng của con người, nhất là trong điều kiện chiến tranh hiện đại).
V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ
thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1.
5. Nguyên tắc xây dựng Quân đội kiểu mới của Lênin
V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ, phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về
quân đội và sự vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp
vô sản.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, các thế lực thù địch
điên cuồng chống phá nước Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I.
Lênin yêu cầu phải giải tán quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân)
của giai cấp vô sản. V.I. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
quân đội kiểu mới:
- Đảng Cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
- Đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân.
- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
1
16
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 147
- Xây dựng chính quy.
- Không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức.
- Phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng.
- Sẵn sàng chiến đấu.
Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết
định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân.
Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của
V.I.Lênin vẫn giữ nguyên giá trị; là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản
xác định phương hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình.
B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI
1. Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn
đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam
Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Người viết: “Dân tộc Việt
Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân
sự, có tổ chức”1.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của
quân đội ta hiện nay ra đời. Sự thành lập của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tính tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng
để giành và giữ chính quyền. Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao
gồm hai lực lượng là: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu
tranh chính trị, đấu tranh quân sự, và kết hợp chặt chẽ hai lực lượng, hai hình thức
đó. Theo Người: tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc
nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Vì vậy ngay từ đầu Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định phải “tổ chức quân đội công nông” chuẩn bị lực lượng cho
tổng khởi nghĩa. Xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động của dân tộc Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tổ chức lực lượng nhân dân Việt Nam - Quân đội nhân dân theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh phải trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. Về tổ chức, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Phải lựa chọn cán bộ, chiến sỹ từ các đội du kích, các
đội tự vệ để xây dựng quân đội chính quy. Khi xây dựng quân đội chính quy, vẫn
duy trì dân quân du kích và lực lượng vũ trang địa phương. Đó chính là hình thức tổ
cức lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân du kích. Bộ đội chủ lực, bồ đội địa phương hợp thành quân đội nhân dân.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân
Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 71-72
17
đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành
chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong xây dựng bản chất
giai cấp công nhân cho quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo
dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sở, nền
tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho
các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22/12/1958, Người vừa biểu
dương, vừa căn dặn: “Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao
cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân,
chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản
dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn
hoàn thành nhiệm vụ”1. Lời căn dặn của Người là sự khái quát các phẩm chất, tiêu
chí của bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi
chiêu đãi mừng quân đội ta tròn hai mươi tuổi ngày 22/12/1964, một lần nữa Chủ
tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực
vũ trang của giai cấp, nhà nước. Người viết : “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng”2.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ
chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm bọc,
đồng thời được kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn
năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nước gắn liền với giữ nước oanh liệt. Do đó,
ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, quân đội ta luôn thực sự là một
quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
3. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu
Đây là một trong những cống hiến của Hồ Chí Minh trong phát triển lý luận về
quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội
ta là một thể thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình
thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài Tình
đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt 3/3/1952, Người viết: “Quân đội ta là
quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân, đánh giặc để giành lại
độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi
ích của nhân nhân, quân đội không có lợi ích nào khác”3.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân và vì dân theo quan điểm Hồ
Chí Minh còn thể hiện rất rõ ở thái độ cũng như tinh thần phục vụ nhân dân. Tôn
trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân là yêu cầu
quan trọng xây dựng Quân đội ta. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Quân đội là quân đội nhân
dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến dấu, yêu nước, yêu dân cho nên hy sinh kham
khổ”. Quá trình giáo dục, rèn luyện Quân đội ta, người thường nhắc nhở: “Mình
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 247
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 349 - 350
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 426-427
1
2
18
đánh giặc là vì dân, nhưng mình không phải “cứu tinh” của nhân dân mà mình có
trách nhiệm phụng sự nhân dân”1. Người căn dặn: “Dù ở cương vị nào, chúng ta
đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân
dân”. Người yêu cầu bộ đội phải làm sao được dân yêu, dân tin, dân phục để từ đó
dân hết sức giúp đỡ mình thì nhất định thắng lợi trong chiến đấu, công tác và lao
động sản xuất…
4. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội
Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới
của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong
đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh.
Để phát huy nhân tố con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo
đến đời sống vật chất tinh thần của bộ đội, khuyên răn, động viên, và biểu dương
kịp thời những gương “người tốt, việc tốt”. Người nói: “Tướng là kẻ giúp nước,
tướng giỏi thì nước mạnh, tướng xoàng thì nước hèn” do đó, phải chăm lo xây dựng
cán bộ có đủ đức, đủ tài, Người đòi hỏi mỗi cán bộ phải có đủ tư cách: Trí, dũng,
nhân, tín, liêm, trung.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân
đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân
của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân
đội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc
biệt đối với quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: Tuyệt
đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ công tác
đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một quân
đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to lớn
trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo
nên những thế hệ “Bộ đội cụ Hồ”, một mẫu hình mới của con người xã hội chủ
nghĩa trong quân đội kiểu mới. Như vậy, không có một Đảng Cộng sản chân chính,
không có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trường xã hội
chủ nghĩa, thì quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững được bản chất giai
cấp công nhân, mục tiêu lí tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây
dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.
5. Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của Quân đội
Mục tiêu lí tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tưởng các
mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng
một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham
gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”2.
1
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 207
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 143
19
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình nhiệm vụ mới của cách
mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải
tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, sản xuất ra của cải vật chất và tiến hành
công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột.
Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân
sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội.
Với tư cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an
toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tư
tưởng, văn hoá; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống
cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nước, trong điều
kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh
tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu,
vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức
tạp nảy sinh; là đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân
xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa
Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó
khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp
hành đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta đã
chứng minh: quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng trên
cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải
phóng. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức nặng nề.
Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị, công cụ vũ trang sắc
bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng
lợi mọi nhiệm vụ... Để thực hiện vai trò đó, cần đổi mới nhận thức về các chức năng
của quân đội cho phù hợp với tình hình mới.
III. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Tổ quốc là một phạm trù lịch sử dùng để chỉ đất nước, con người gắn liền với
biên giới, lãnh thổ xác định, với những điều kiện kinh tế, tự nhiên, văn hóa, tâm lý,
tình cảm của cộng đồng người trên lãnh thổ đó và một thể chế chính trị - xã hội
tương ứng.
A. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân.
Trong điều kiện giai cấp tư sản nắm chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng, giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy chính giai
cấp công nhân là người đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn
công của bọn phản cách mạng.
20
- Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin là người có công đóng góp to lớn trong việc bảo
vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, Người khẳng định: “Kể từ ngày 25 tháng Mười năm 1917, chúng ta
là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”,
nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc”1.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ
và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng được đặt ra một cách
trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã hội chủ nghĩa, hai
nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
- Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc. Ngay từ
những năm cuối thế kỉ XIX, V.I.Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không đều
của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng thời ở
các nước. Do đó, trong suốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng
sản trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội
đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt.
- Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh
đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị
thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động và
chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai
cấp công nhân. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa xuất hiện, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa phải đương đầu chống trả
những âm mưu và hành động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc
tập trung bao vây hòng tiêu diệt nước Nga Xô viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát
triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách
mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước xã hội chủ nghĩa những bài học đắt
giá rằng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Có như vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển. Thực
tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của V.I.Lênin rằng: giành
chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó khăn hơn.
2. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc
Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, V.I.Lênin trực tiếp lãnh đạo
xây dựng đất nước, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nước và sự can thiệp
1
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 102
21
của đế quốc bên ngoài. Đó là những năm tháng cực kì gian khổ, khó khăn, Người
chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế
giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin luôn
nhắc nhở mọi người phải luôn nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối
không chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng. Người luôn lạc quan
tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Người khẳng định: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà
đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính
quyền của mình, chính quyền Xô viết, chính quyền của những người lao động, rằng
họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ cũng như con cái họ có
khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hoá, mọi thành quả lao động của con người”1.
3. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên tăng cường tiềm
lực quốc phòng gắn với phát triển kinh tế xã hội
Học thuyết Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin đã khẳng định: Bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng
chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn
bị chu đáo và kiên quyết. V.I.Lênin đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc
như: củng cố chính quyền Xô viết các cấp; bài trừ nội phản, tiêu diệt bọn bạch vệ;
đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật, vận dụng đường lối đối
ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, triệt để lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới.
V.I.Lênin cùng Đảng Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hoà
bình, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng bước biến các tiềm lực thành
sức mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
4. Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa
V.I.Lênin chỉ ra rằng: Đảng Cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc. Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng
kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh. Trong
quân đội, chế độ chính uỷ được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy từ đại biểu ưu tú
của công nông, thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng
trong quân đội. Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các
tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc
cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
B. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng
nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”2 .
1
2
22
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 378
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 553
Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19/2/1946, Người nói: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào
! Chúng ta phải đứng lên !...”. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, trước sự uy hiếp của thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cùng Đảng đề ra nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính
quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
một chân lý rằng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Hễ còn một tên xâm lược
trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”.
Trước khi đi xa, trong bản Di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều
người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn”. Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa
vụ và trách nhiệm của mọi công dân
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công
dân Việt Nam. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu
gọi: Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người kêu gọi nhân dân cả nước
quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp
trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc,
toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, là
sức mạnh của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, sức mạnh
truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn
dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ
rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới,
chúng ta nhất định thắng. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây
dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn
dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để
giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
23
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố
và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp tục đấu tranh để
thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp
phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á Đông và trên thế giới”1 và Người khẳng định:
“Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ, với sự đoàn kết nhất trí, lòng tin
tưởng vững chắc và tinh thần tự lực cánh sinh của mình, sự giúp đỡ vô tư của các
nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhất là
nhân dân các nước Á - Phi, nhân dân ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn;
làm tròn được nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ đã đề ra”2.
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là
cơ sở lí luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây
dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có
nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội
và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những
nội dung cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả
về lí luận và thực tiễn.
Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên,
xây dựng thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần
tích cực vào bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất
chiến tranh?
2. Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh?
3. Trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa?
4. Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?
1
2
24
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 483
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 489
BÀI 3.
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN
BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải
có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải
có được nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có
được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành ý thức
đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân. Từ đó, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình
trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I. VỊ TRÍ, ĐẶC TRƯNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH
NHÂN DÂN
A. VỊ TRÍ
1. Một số khái niệm
- Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: “Quốc phòng toàn dân là nền
quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương
hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại,
kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình,
ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật
đổ của các thế lực đế quốc, phản động; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc
xây dựng nền quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thuộc
trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang là
nồng cốt”1.
Luật quốc phòng, (điều 3) xác định: “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh
quốc phòng của đất nước được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần
mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”2.
- Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam xác định: An ninh nhân dân là:
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia, là sự nghiệp toàn dân, do nhân dân tiến
hành, lực lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các
biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành
động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với quốc phòng
toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1
2
Bộ quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2004, t. 84
Luật quốc phòng, Nxb. Lao động xã hội, H. 2010
25
2. Bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có vai trò nòng cốt trong
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ: đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân”1.
Luật an ninh quốc gia, (điều 3): “Nền an ninh nhân dân là sức mạnh về tinh
thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc
được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên
trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt”2.
2. Vị trí
Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân có vị trí cực kỳ quan trọng
trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi,
đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
B. ĐẶC TRƯNG
1. Mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng
Đặc trưng này thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền Quốc
phòng và An ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa với các nước đế quốc chủ nghĩa. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
2. Là nền Quốc phòng và An ninh của dân, do dân và vì dân
Đặc trưng vì dân, của dân, do dân của nền Quốc phòng và An ninh nước ta thể
hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Đặc trưng vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền quốc phòng toàn dân,
nền an ninh nhân dân cho phép ta huy động mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng
đều thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và đấu
tranh Quốc phòng và An ninh khác. Đồng thời, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về Quốc phòng và An ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả
năng của nhân dân.
3. Là nền Quốc phòng và An ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố
tạo nên
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân nước
ta được tạo bởi nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học,
quân sự, an ninh... cả ở trong nước và ngoài nước, của dân tộc và của thời đại; trong
đó, những yếu tố bên trong của dân tộc luôn giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề để tạo ra
sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân nhằm đánh thắng kẻ thù xâm lược.
1
2
26
Bộ quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, H. 2004, t. 26
Luật an ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2005
Xây dựng, phát huy được sức mạnh tổng hợp là biện pháp hữu hiệu nhất để chúng ta
khắc phục những khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hạn chế về trình độ phát
triển khoa học kỹ thuật.
4. Được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại
Dù trong điều kiện thời bình hay thời chiến, chúng ta cũng phải thường xuyên
đấu tranh toàn diện với các thế lực thù địch trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của chúng, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc tạo lập sức mạnh nền quốc phòng
toàn dân, nền an ninh nhân dân không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải
huy động được sức mạnh của toàn dân về mọi mặt: Chính trị, quân sự, an ninh,
kinh tế, văn hoá, khoa học…; phải kết hợp giữa Quốc phòng và An ninh với các
mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa Quốc phòng và An ninh
với hoạt động đối ngoại.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân toàn diện phải đi đôi
với xây dựng nền Quốc phòng và An ninh hiện đại. Theo đó, phải xây dựng Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân từng bước hiện đại; kết hợp giữa xây dựng con người có
giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại. Phát triển công
nghiệp quốc phòng, từng bước trang bị hiện đại cho các lực lượng vũ trang nhân dân;
kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh.
5. Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân
Sự gắn bó này là tất yếu khách quan. Bởi vì, nền quốc phòng toàn dân và
nền an ninh nhân dân đều được xây dựng nhằm mục đích tự vệ chính đáng của
đất nước; đều phải chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa bằng sức mạnh tổng hợp; đều có chung một tính chất là của dân, do
dân, vì dân, được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần của cả nước,
mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, ngày càng hiện đại.
Giữa nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương
thức tổ chức lực lượng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công.
Sự gắn bó và kết hợp chặt chẽ giữa nền quốc phòng và nền an ninh phải thường
xuyên, tiến hành đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
xây dựng, hoạt động trên phạm vi cả nước cũng như của từng vùng, miền, địa
phương, ở mọi ngành, mọi cấp...
II. XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH
NHÂN DÂN VỮNG MẠNH ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
A. MỤC ĐÍCH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH
NHÂN DÂN
- Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh
tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ… để giữ vững hoà bình, ổn định, ngăn
chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới
mọi hình thức và quy mô.
27
- Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chủ động hội
nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ. Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, xã hội…; giữ
vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
B. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH
NHÂN DÂN
- Xây dựng lực lượng Quốc phòng và An ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Lực lựng Quốc phòng và An ninh là những con người, tổ chức và những cơ sở
vật chất, tài chính đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng an
ninh. Từ đặc trưng của nền Quốc phòng và An ninh ở nước ta thì lực lượng Quốc
phòng và An ninh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bao gồm lực
lượng toàn dân (lực lượng chính trị) và lực lượng vũ trang nhân dân.
Lực lượng chính trị bao gồm các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã được phép thành
lập và quần chúng nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân
dân, dân quân tự vệ, công an nhân dân.
- Xây dựng lực lượng Quốc phòng và An ninh là xây dựng lực lượng chính trị
và lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
C. XÂY DỰNG TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH NGÀY CÀNG
VỮNG MẠNH
Tiềm lực Quốc phòng và An ninh là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có
thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực Quốc phòng và
An ninh được thể hiện ở tất trên cả lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung ở
tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học công nghệ; tiềm lực
quân sự, an ninh. Xây dựng tiềm lực Quốc phòng và An ninh là tập trung xây dựng
tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ và xây
dựng tiềm lực quân sự, an ninh.
1. Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần
- Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền của nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân là khả năng về chính trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực chính trị, tinh thần được biểu
hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lí điều hành của Nhà nước; ý chí, quyết
tâm của nhân dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh, tình huống. Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh
28
của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các
tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh.
- Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân cần tập trung: Xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự
lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh.
2. Xây dựng tiềm lực kinh tế
- Tiềm lực kinh tế của nền phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về
kinh tế của đất nước có thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng, an
ninh. Tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được biểu
hiện ở nhân lực, vật lực, tài lực của quốc gia có thể huy động cho Quốc phòng và
An ninh và tính cơ động của nền kinh tế đất nước trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Tiềm lực kinh tế tạo sức mạnh vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác.
- Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
là tạo nên khả năng về kinh tế của đất nước. Do đó, cần tập trung vào: đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh;
phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị kĩ thuật hiện đại cho quân đội và
công an. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cơ sở hạ tầng quốc phòng;
không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các lực lượng vũ trang
nhân dân. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang thời chiến và duy trì sự
phát triển của nền kinh tế.
3. Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ
- Tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân là khả năng về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn) và
công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động để phục vụ cho quốc phòng, an
ninh. Tiềm lực khoa học, công nghệ được biểu hiện ở: Số lượng, chất lượng đội ngũ
cán bộ khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất kĩ thuật có thể huy động phục vụ cho Quốc
phòng và An ninh và năng lực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học có thể đáp
ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh...
- Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân là tạo nên khả năng về khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai
thác, huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Do đó, phải tập trung đầu tư phát
triển tiềm lực khoa học, công nghệ trên một số lĩnh vực chủ yếu, chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ đầu ngành.
Đổi mới và từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm, tạo tiềm lực
khoa học, công nghệ đủ mạnh làm nồng cốt cùng với khoa học, công nghệ của đất
nước giải quyết các nhiệm vụ khoa học, công nghệ và môi trường trong lĩnh vực
quân sự. Phối hợp có kế hoạch giữa các ngành khoa học - công nghệ trong và ngoài
29
quân đội. Ứng dụng, cải tiến bảo quản, thiết kế chế tạo các vũ khí, phương tiện kỹ
thuật quân sự theo hướng ngày càng hiện đại phù hợp với điều kiện và cách đánh
của chiến tranh nhân dân Việt Nam, đồng thời nghiên cứu chống lại các thủ đoạn
của địch dùng khoa học, công nghệ phá hoại ta.
4. Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh
- Tiềm lực quân sự, an ninh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là
khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động tạo thành sức mạnh phục vụ cho
nhiệm vụ quân sự, an ninh, cho chiến tranh.
Tiềm lực quân sự, an ninh được biểu hiện ở khả năng duy trì và không ngừng
phát triển trình độ sẵn sàng chiến đấu, năng lực và sức mạnh chiến đấu của các lực
lượng vũ trang nhân dân; nguồn dự trữ về sức người, sức của trên các lĩnh vực đời
sống xã hội và nhân dân có thể huy động phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh,
cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, là biểu hiện tập trung,
trực tiếp sức mạnh quân sự, an ninh của nhà nước giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ
quốc trong mọi tình huống.
- Tiềm lực quân sự, an ninh được xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực
chính trị tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ. Do đó, xây dựng tiềm lực quân sự,
an ninh, cần tập trung vào: Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn
diện. Gắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với quá trình tăng cường
vũ khí trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong
lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Bố trí lực lượng luôn đáp ứng yêu cầu chuẩn bị đất nước về mọi mặt, sẵn
sàng động viên thời chiến. Tăng cường nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật
quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và nâng cao chất lượng
giáo dục quốc phòng.
D. XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOAN DÂN, AN NINH NHÂN
DÂN VỮNG CHẮC
Thế trận Quốc phòng và An ninh là sự tổ chức, bố trí lực lượng, tiềm lực mọi
mặt của đất nước và của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gồm:
1. Phân vùng chiến lược Quốc phòng và An ninh kết hợp với vùng kinh tế
trên cơ sở quy hoạch các vùng dân cư theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây
dựng đất nước
Thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ phân
vùng chiến lược Quốc phòng và An ninh với phân vùng kinh tế - xã hội và xây dựng
hậu phương chiến lược vững chắc, theo một ý định, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ.
Trong các quy hoạch, kế hoạch, phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội
và nhiệm vụ quốc phòng an ninh cùng đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh của từng địa
phương để phân bố lao động, dân cư, phát triển ngành nghề. Kết hợp xây dựng kinh
tế với xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân, hậu phương chiến lược và hậu cần tại chổ, nhất là các địa bàn
30
đặc biệt quan trọng. Có như vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả nước
và từng địa phương đối phó thắng lợi với mọi tình huống. Thời bình: đủ sức đánh
bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, giữ gìn an ninh chính trị trật tự
an toàn xã hội. Thời chiến, với thế trận Quốc phòng và An ninh và hậu phương tại
chỗ của từng vùng chiến lược, đảm bảo cho quân và dân ta đối phó kịp thời, đánh
trả, kìm giữ quân địch, tự lực, độc lập, tác chiến trong từng địa bàn, kể cả trong hoàn
cảnh bị bao vây, chia cắt chiến lược, tạo điều kiện cho cả nước giành thắng lợi trong
chiến tranh.
2. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tạo nền tảng của thế trận
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một chủ trương chiến lược
của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khu vực
phòng thủ tỉnh (thành phố) là một tổ chức Quốc phòng và An ninh địa phương theo
địa bàn hành chính, là bộ phận hợp thành và là nền tảng của thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Phải căn cứ vào đặc điểm, vị trí, yêu cầu của
từng tỉnh (thành phố) để xác định nội dung xây dựng cụ thể nhằm tạo ra sức mạnh
tổng hợp về Quốc phòng và An ninh trên từng địa phương, đối phó có hiệu quả với
mọi tình huống cả thời bình và thời chiến, bảo vệ tỉnh (thành phố) được xây dựng
toàn diện “Vững mạnh về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng - an ninh,
văn minh về văn hoá, xã hội” vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cấp bách trước mắt,
vừa đảm bảo cho nhiệm vụ cơ bản lâu dài.
3. Tổ chức phòng thủ dân sự, bảo đảm toàn dân đánh giặc và phòng tránh
khắc phục hậu quả chiến tranh
Phòng thủ dân sự là một bộ phận trong thế trận phòng thủ chung của cả nước,
là hệ thống các biện pháp nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và tiềm lực
mọi mặt của đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do vũ khí, phương
tiện chiến tranh của địch gây nên. Được tiến hành trong thời bình và thời chiến, kế
hoạch phòng thủ dân sự phải toàn diện, cụ thể, thiết thực phù hợp với yêu cầu kinh
tế quốc phòng.
Tổ chức phòng thủ dân sự cần tập trung: Trước hết phải xây dựng có trọng
điểm hệ thống công trình phòng thủ dân sự trong thời bình và hoàn thiện khi chiến
tranh. Cần có quy hoạch tổng thể, ở đâu có dân là ở đó có công trình phòng thủ dân
sự, chú trọng các khu vực đông người (trường học, xí nghiệp, cơ quan…) và các
mục tiêu trọng điểm. Yêu cầu cơ bản là phải bảo đảm an toàn cho dân và cơ sở vật
chất quan trọng.
Cùng với xây dựng các công trình phòng thủ dân sự phải có tổ chức hệ thống
chỉ đạo, điều hành từ trung ương đến cơ sở và thành lập các lực lượng chuyên trách,
gắn liền với cơ sở sản xuất, khu dân cư và đơn vị hành chính sự nghiệp. Có kế
hoạch bồi dưỡng và luyện tập các nội dung cụ thể như: Thông báo, báo động, sơ tán,
phòng tránh khắc phục hậu quả, chống sập, chống cháy nổ, cứu chữa người, cứu hộ
cứu nạn… Đồng thời thường xuyên tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân để mọi
người đều có kiến thức cơ bản, cần thiết về phòng thủ dân sự.
31
4. Kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân
Đặc điểm nổi bật của quá trình đấu tranh cách mạng ở nước ta là, kẻ thù bên
ngoài và kẻ thù bên trong luôn luôn cấu kết với nhau. Để tạo ra và phát huy sức
mạnh tổng hợp trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn
dân tất yếu phải kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân.
Sự kết hợp này được biểu hiện trong các hoạt động xây dựng và đấu tranh
Quốc phòng và An ninh trên tất cả các lĩnh vực như: tổ chức triển khai, bố trí sử
dụng lực lượng, cả vũ trang và phi vũ trang; phối hợp hoạt động giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở vững mạnh,
thực hiện nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhất là chuẩn
bị kế hoạch phối hợp đối phó với tình huống, địch can thiệp vũ trang hoặc tiến hành
chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG
TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN HIỆN NAY
A. THƯỜNG XUYÊN THỰC HIỆN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH
Giáo dục Quốc phòng và An ninh là một biện pháp cơ bản để thống nhất nhận
thức, nâng cao trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Giáo dục quốc phòng là một bộ phận cấu thành nền giáo dục quốc gia, có tác động
tích cực và trực tiếp đến trình độ giác ngộ của toàn dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Cần thực hiện nghiêm Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị
và Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng
và An ninh.
Nội dung chủ yếu của quốc phòng an ninh phải toàn diện trong đó coi trọng
giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân
dối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; âm mưu, thủ đoạn
của địch; đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng,
an ninh.
Đối tượng Giáo dục Quốc phòng và An ninh là toàn dân, trước hết là cán bộ,
đảng viên, những người trong các cơ quan đoàn thể, trường học… để từ đó làm
nồng cốt trong việc tổ chức giáo dục quốc phòng cho quần chúng nhân dân.
Yêu cầu đạt được: Làm cho mọi người, mọi tổ chức biết tự bảo vệ trước sự
chống phá của các thế lực thù địch.
Hình thức: Phải vận dụng nhiều hình thức, phương pháp giáo dục tuyên truyền
để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục quốc phòng an ninh.
Các ngành chức năng cần nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Giáo dục Quốc
phòng và An ninh cho phù hợp với từng đối tượng, từng cấp học, đồng thời phải
có biện pháp, hình thức tổ chức học tập hợp lý, có chính sách đầu tư đúng đắn
để công tác Giáo dục Quốc phòng và An ninh đi vào nề nếp, đạt hiệu quả ngày
càng cao.
32
B. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ
NƯỚC, TRÁCH NHIỆM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ
CHỨC VÀ NHÂN DÂN
Đại hội Đảng IX chỉ rõ: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”1. Quản lý nhà nước về quốc phòng
do hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước (cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp) ở các cấp thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao do
pháp luật quy định.
Do đó, phải cụ thể hóa các nội dung lãnh đạo về Quốc phòng và An ninh và bổ
sung cơ chế hoạt động của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đặc biệt chú
trọng khi sử trí các tình huống phức tạp.
Điều chỉnh cơ cấu quản lý Nhà nước về Quốc phòng và An ninh của bộ máy
Nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Cần có hệ thống pháp luật, chính sách
đầy đủ, đồng bộ, có cơ chế điều hành, tổ chức thực hiện và phương pháp quản lý
chặt chẽ phù hợp. Nội dung quản lý rất rộng, nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung vào
một số vấn đề chủ yếu: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
nghiên cứu và ban hành các luật về quốc phòng, thể chế hoá chủ trương, chính sách
của Đảng về xây dựng nền quốc phòng.
Tổ chức phân công cán bộ chuyên trách để phát huy vai trò làm tham mưu
trong tổ chức, thực hiện công tác quốc phòng, an ninh.
Chấp hành nghiêm Quy chế 107/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
phối hợp quân đội với công an và Nghị quuyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bộ Quốc phòng phải làm tốt chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng. Các
Bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành
khác, cùng các đoàn thể quần chúng thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng của phòng
mình, cấp mình, địa phương mình. Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa xây dựng và phát
triển kinh tế với củng cố quốc phòng. Nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng cho
cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, và sinh viên học sinh. Thường xuyên
kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cơ quan và cán bộ chuyên trách về quốc
phòng từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
C. NÂNG CAO Ý THỨC TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN CHO SINH VIÊN
TRONG XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN
Xây dưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn
dân. Mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng đều phải tham gia theo phạm vi và
khả năng của mình.
Đối với sinh viên, phải tích cực học tập nâng cao trình độ hiểu biết về mọi
mặt, nắm vững kiến thức quốc phòng, an ninh, nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 45-46
33
hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch, trên cơ sở đó, tự giác, tích cực luyện tập kĩ năng quân sự, an ninh và
chủ động tham gia các hoạt động về Quốc phòng và An ninh do nhà trường, xã,
phường, thị trấn triển khai.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, yêu cầu khách quan
là phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Đây là
một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
Sinh viên là lực lượng trí thức, cần nhận thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm,
tích cực, tự giác tham gia vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tiềm lực và thế
trận quốc phòng toàn dân, đảm bảo cho đất nước hoà bình, ổn định, vững bước đi
tới tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Nêu vị trí, đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân?
2. Trình bày mục đích, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân vững mạnh. Liên hệ thực tiễn và trách nhiệm của bản thân?
34
BÀI 4.
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Chiến tranh nhân dân là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự
của tổ tiên ta và là “bộ phận quan trọng nhất, bao trùm nhất trong đường lối, nghệ
thuật đấu tranh cách mạng của Đảng”. Nó đã tạo thành một sức mạnh to lớn, góp
phần làm nên những chiến công hiển hách, quét sạch ách thống trị tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ và mới trên đất nước ta, giành lại độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc.
Do đó, nắm vững mục đích, đối tượng của chiến tranh và quan điểm của Đảng
ta về chiến tranh là cơ sở để chúng ta đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái,
góp phần xây dựng ý chí quyết tâm, bản chất cách mạng của quân đội ta. Quán triệt
đường lối chính trị, quân sự của Đảng; phân tích đánh giá tính chất xã hội - chính trị
các cuộc xung đột và chiến tranh hiện nay trên lập trường của giai cấp công nhân.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ
TỔ QUỐC
A. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ
TỔ QUỐC
Chiến tranh nhân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc chiến
tranh do toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lực
lượng tiến hành chiến tranh là toàn thể nhân dân, bao gồm lực lượng chính trị của
quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân
ba thứ quân làm nòng cốt.
1. Mục đích của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Mục đích của chiến tranh nhân dân là nhằm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể:
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo và thềm lục địa.
- Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, đấu tranh không khoan nhượng với tất cả các
lực lượng và những hành động làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
35
2. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
- Đối tượng tác chiến: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động có hành
động phá hoại, xâm lược lật đổ cách mạng, hiện nay chúng thực hiện chiến lược
“Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật độ để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và sẵn
sàng sử dụng lực lượng vũ trang hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ.
- Âm mưu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lược nước ta.
+ Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài
vào với hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong; đồng thời kết hợp với các biện pháp
phi vũ trang để lừa bịp dư luận.
+ Lực lược tham gia với quân đông, vũ khí trang bị hiện đại.
Ví dụ: Cuộc chiến tranh Mĩ tiến công Nam Tư, Mĩ và liên quân đã sử dụng 3
tàu sân bay, 1200 máy bay hiện đại, thực hiện 35000 lượt oanh kích với 79000 tấn
bom đạn, 10000 quả tên lửa đánh liên tục 78 ngày đêm theo thuyết “5 vòng tròn”
mục tiêu: Cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, các cơ sở sản xuất then chốt; đánh vào tâm lí
tinh thần dân chúng; các cơ sở giao thông; bộ đội tác chiến.
+ Khi tiến công thường trong giai đoạn đầu sẽ vao vây, phong toả, sau sử dụng
hoả lực đánh bất ngờ, ồ ạt. Giai đoạn thực hành thôn tính lãnh thổ có thể đồng thời
hỗ trợ bạo loạn lật đổ ở bên trong của các lực lượng phản động và sử dụng các biện
pháp chính trị, ngoại giao để lừa bịp dư luận.
- Khi tiến hành chiến tranh xâm lược, địch có điểm mạnh, yếu sau:
- Hiện nay chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giao, núp dưới chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “nhân đạo” để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
Chúng ra sức tổ chức các lực lượng chống đối trong nước, tạo dựng ngọn cờ,
gây sung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, gây bạo loạn chính trị.
Ví dụ: Từ 28/1/2001 đến ngày 7/2/2001, tại địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, các
thế lực thù địch đã chỉ đạo bọn phản động trong nước, kích động đồng bào dân tộc
tiên hành bạo loạn mang màu sắc chính trị, nhằm mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa, đòi thành lập nhà nước “Đề Ga tự trị”.
+ Mạnh:
=> Có tiềm lực quân sự, kinh tế, khoa học lớn hơn ta nhiều lần.
=> Có vũ khí trang bị kĩ thuật hiện đại đang khống chế được liên hợp quốc và
các nước đồng minh, lập được các căn cứ quân sự trên một số nước.
=> Quá trình chiến tranh, xâm lược sẽ cấu kết với lực lượng phản động người
Việt và lực lượng phản động một số nước trong khu vực Đông Nam á, thực hiện
ngoài đánh vào trong đánh ra.
+ Yếu:
=> Là cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, nhất định sẽ bị nhân dân ta và đa
số nhân dân thế giới phản đối, lên án. Mâu thuẫn nội bộ của chúng, nhất định sẽ
bùng nổ, nhất là cuộc chiến tranh bị sa lầy, kéo dài, có thương vong.
36
=> Tiến hành chiến tranh xâm lược, kẻ địch phải đương đầu với dân tộc Việt
Nam - có truyền thồng chống xâm lược kiên cường, bất khuất.
=> Hiện nay nước ta: tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân mạnh, được chuẩn
bị trên cả nước thống nhất. Tiềm lực đó sẽ được sử dụng trong cuộc chiến tranh
nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện, lấy lực lượng vũ trang
nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định
chúng ta sẽ làm hạn chế những mặt mạnh của địch, buộc chúng sa lầy bị động.
=> Địa hình, thời tiết nước ta phức tạp, khó khăn cho quân địch khi triển
khai sử dụng lực lượng, phương tiện cũng như thực hiện cách đánh hiện đại và
việc tổ chức công tác bảo đảm hậu cần kĩ thuật, nhất là khi chiến tranh kéo dài,
bị sa lầy.
B. TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ
TỔ QUỐC
1. Tính chất của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
- Là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, dưới sự lãnh đạo của
Đảng: toàn dân đánh giặc, đánh địch trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế,
văn hóa xã hội, ngoại giao,…
- Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do
của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả
của cách mạng.
- Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại: địch sẽ sử dụng vũ khí công nghệ cao,
trang bị kỹ thuật hiện đại. Do đó, đòi hỏi ta phải sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày
càng nhiện đại, kết hợp vũ khí hiện đại với thô sơ nhằm chống lại chúng.
2. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
- Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta tiến hành chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu lớn của
thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, chúng ta có
thể tập hợp, động viên và phát huy cao độ, đông đảo được sức mạnh của toàn dân cả
nước, chung sức đánh giặc.
- Trong cuộc chiến tranh, nhân dân ta phải bảo vệ được độc lập thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cuộc chiến tranh mang tính
độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời cũng
được sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cả loài người tiến bộ trên thế giới, tạo sức
mạnh tổng hợp của quốc gia và quốc tế, dân tộc và thời đại để đánh thắng chiến
tranh xâm lược của kẻ thù.
- Chiến tranh diễn ra khẩn trương, quyết liệt phức tạp ngay từ đầu và trong suốt
quá trình chiến tranh. Tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, địch sẽ thực hiện
phương châm chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh. Quy mô chiến tranh có thể lớn
và ác liệt ngay từ đầu. Kết hợp tiến công hoả lực với tiến công trên bộ, tiến công từ bên
37
ngoài kết hợp với bạo loạn lật đổ ở bên trong và bao vây phong toả đường không,
đường biển và đường bộ để nhằm tới mục tiêu chiến lược trong thời gian ngắn.
- Hình thái đất nước được chuẩn bị sẵn sàng, thế trận Quốc phòng và An ninh
nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh
tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ ngày đầu và lâu dài.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
BẢO VỆ TỔ QUỐC
A. TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC
1. Vị trí
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc. Khẳng
định, đây là cuộc chiến tranh của nhân dân và vì nhân dân. Là điều kiện để phát huy
cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh.
2. Nội dung thể hiện
- Trong điều kiện mới, ta vẫn phải “ lấy nhỏ thắng lớn”, “ lấy ít địch nhiều”, để
đánh thắng những đội quân mạnh hơn ta gấp nhiều lần, Đảng ta không chỉ dựa vào
lực lượng vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh
nhân dân, toàn dân đánh giặc...
- Động viên toàn dân đánh giặc, chúng ta phải động viên và tổ chức quần
chúng cùng lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu
chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có
trong tay, bằng những cách đánh độc đáo, sáng tạo… Toàn dân đánh giặc phải có
lực lượng nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: dân quân tự
vệ, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong
trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở; bộ đội địa phương và dân quân tự vệ làm nòng
cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Bộ đội chủ lực cùng lực
lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến
trường cả nước.
- Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống, đồng thời là quy luật giành
thắng lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh
hơn ta nhiều lần. Tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh thắng các triều
đại phong kiến phương Bắc xâm lược, cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc
ta đã đánh thắng giặc Pháp và chống Mỹ xâm lược. Ngày nay, chúng ta phải kế thừa
và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều kiện mới, thực
hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lược của địch.
3. Biện pháp thực hiện
Để tiến hành chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới đòi hỏi phải:
- Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
- Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện,
trong đó lấy xây dựng chất lượng chính trị làm cơ sở.
38
- Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến
tranh gần đây ở trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới.
Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc.
B. TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH TOÀN DIỆN, KẾT HỢP CHẶT CHẼ
GIỮA ĐẤU TRANH QUÂN SỰ, CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO, KINH TẾ, VĂN
HOÁ VÀ TƯ TƯỞNG, LẤY ĐẤU TRANH QUÂN SỰ LÀ CHỦ YẾU, LẤY
THẮNG LỢI TRÊN CHIẾN TRƯỜNG LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỂ GIÀNH
THẮNG LỢI TRONG CHIẾN TRANH
1. Vị trí
Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn
hành động cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh.
2. Nội dung thể hiện
- Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh
thần của quốc gia nhưng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự
vệ, cách mạng. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại
chiến tranh tổng lực của địch chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân
sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng.
- Tất cả các mặt trận đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau và tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự giành thắng lợi trên chiến trường và
cùng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cuộc
chiến tranh.
- Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nước
trong lịch sử ông cha ta cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta
đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhưng
chủ yếu đã đánh địch và thắng địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã
giành được thắng lợi, giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay
diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nước đứng trước những thuận
lợi mới và những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nỗ
lực phấn đấu làm thất bại âm mưu và các mục tiêu chiến lược của địch, giành thắng
lợi toàn diện cho chiến tranh.
3. Biện pháp thực hiện
- Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng, tạo thế và lực cho từng
mặt trận đấu tranh tạo nên sức mạnh, trước mắt đấu tranh làm thất bại chiến lược
“Diễn biến hóa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Động viên sức mạnh của toàn dân
tiến hành trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh xâm lược.
- Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên
từng mặt; đồng thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh
trong từng giai đoạn cũng như quá trình phát triển của chiến tranh. Song phải luôn
quán triệt lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố
quyết định để kết thúc chiến tranh.
39
C. CHUẨN BỊ MỌI MẶT TRÊN CẢ NƯỚC CŨNG NHƯ TỪNG KHU VỰC
ĐỂ ĐỦ SỨC ĐÁNH ĐƯỢC LÂU DÀI, RA SỨC THU HẸP KHÔNG GIAN, RÚT
NGẮN THỜI GIAN CỦA CHIẾN TRANH GIÀNH THẮNG LỢI CÀNG SỚM
CÀNG TỐT
- Kẻ thù xâm lược là những nước lớn, có tiềm lực quân sự lớn mạnh hơn ta
nhiều lần. Chúng dựa vào áp đảo quân số và vũ khí trang bị để thực hiện đánh
nhanh thắng nhanh.
- Vì vậy, trước hết ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu
vực đủ sức đánh được lâu dài, làm thất bại âm mưu thủ đoạn “đánh nhanh, thắng
nhanh” của địch. Đồng thời phải ra sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối
phó và giành thắng lợi trong thời gian cho phép. Trên cơ sở đó, ta dồn sức để rút
ngắn thời gian của chiến tranh, giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Ngăn chặn địch
không cho chúng mở rộng chiến tranh, mặt khác phải chuẩn bị sẵn sàng để đánh
thắng địch trong điều kiện chiến tranh mở rộng.
D. KẾT HỢP KHÁNG CHIẾN VỚI XÂY DỰNG, VỪA KHÁNG CHIẾN
VỪA XÂY DỰNG, RA SỨC SẢN XUẤT, THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, GIỮ GÌN
VÀ BỒI DƯỠNG LỰC LƯỢNG TA CÀNG ĐÁNH CÀNG MẠNH
Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trước
kia cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Nếu chiến tranh xảy ra,
chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến đó sẽ
diễn ra quyết liệt ngay từ đầu. Quy mô chiến tranh, thương vong về người, tiêu hao
về vật chất kĩ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống
nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trương. Muốn duy trì được sức mạnh để đánh thắng kẻ
thù xâm lược, ta cần phải có tiềm lực kinh tế quân sự nhất định bảo đảm cho tác
chiến giành thắng lợi. Vì vậy trong chiến tranh ta phải: Vừa kháng chiến, vừa duy trì
và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất kĩ thuật cho chiến tranh, ổn định đời
sống nhân dân. Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy
của địch đánh địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta, không ngừng tăng thêm tiềm
lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh.
E. KẾT HỢP ĐẤU TRANH QUÂN SỰ VỚI BẢO ĐẢM AN NINH CHÍNH
TRỊ, GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, TRẤN ÁP KỊP THỜI MỌI ÂM
MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG PHÁ HOẠI GÂY BẠO LOẠN
- Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn
lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Nếu chiến tranh nổ ra, địch sẽ tăng cường
đánh phá ta bằng nhiều biện pháp: Tiến hành chiến tranh tâm lí, chiến tranh gián
điệp, lợi dụng dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động chống đối để kích động, chia
rẽ, làm mất ổn định chính trị, gây rối loạn lật đổ ở hậu phương ta để phối hợp lực
lượng tiến công từ ngoài vào.
- Vì vậy, đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường, ta phải kịp thời trấn áp
mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch ở hậu phương ta, bảo đảm an ninh chính
trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện
sức người, sức của cho tiền tuyến càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
40
F. KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI, PHÁT
HUY TINH THẦN TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, TRANH THỦ SỰ GIÚP ĐỠ QUỐC
TẾ, SỰ ĐỒNG TÌNH, ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN TIẾN BỘ TRÊN THẾ GIỚI
- Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo sẽ bị nhân dân
tiến bộ trên thế giới phản đối.
- Đoàn kết mở rộng quan hệ tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà
bình trên thế giới, kể cả nhân dân nước có quân xâm lược.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
BẢO VỆ TỔ QUỐC
A. TỔ CHỨC THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
- Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức, bố trí lực lượng để tiến hành
chiến tranh và hoạt động tác chiến.
- Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nước nhưng phải có trọng tâm, trọng
điểm. Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, đồng thời phối hợp với
bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch liên tục, dài ngày.
B. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
- Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện,
lấy lực lưọng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- Lực lượng toàn dân được tổ chức chặt chẽ gồm lực lượng chính trị quần
chúng rộng rãi và lực lượng quân sự.
- Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọng
cả chất lượng và số lượng, trong đó lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị
làm cơ sở.
C. PHỐI HỢP CHẶT CHẼ CHỐNG QUÂN ĐỊCH TIẾN CÔNG TỪ BÊN
NGOÀI VÀO VÀ BẠO LOẠN LẬT ĐỔ TỪ BÊN TRONG
Khi tiến hành xâm lược nước ta, quân xâm lược luôn cấu kết chặt chẽ với lực
lượng phản động bên trong, kết hợp tấn công quân sự từ bên ngoài với bọa loạn lật
độ từ bên trong. Do đó, đòi hỏi ta phải phối hợp chống quân địch tiến công từ bên
ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ bên trong, không để kẻ địch cấu kết với nhau.
Đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị, chủ động, kịp thời dập tắt khi có
bạo loạn xảy ra, lực lượng vũ trang và các cấp, các ngành, địa phương phải có kế
hoạch và chủ động đề ra phương án phòng, chống bạo loạn lật đổ, không để bị
động, bất ngờ.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ
Tổ quốc?
2. Nêu các quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa? Làm rõ quan điểm 1?
41
BÀI 5.
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT NAM
Lực lượng vũ trang nhân dân là một đội quân kiểu mới, sinh ra và phát triển từ
các đội vũ trang cách mạng, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc.
Chính vì vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn mang đậm bản chất cách
mạng của giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân; luôn chiến đấu hy sinh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện đổi mới toàn diện đất nước, chủ động mở cửa, hội nhập hiện nay đòi
hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và
nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
I. ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY
DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
A. KHÁI NIỆM
Lực lượng vũ trang nhân dân là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân
dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quản lí, có nhiện vụ “chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả
cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là lực lượng xung kích trong khởi
nghĩa toàn dân giành chính quyền, là lực lượng nòng cốt của quốc phòng toàn dân
và chiến tranh nhân dân”.
Nội dung chủ yếu của khái niệm:
- Là tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lí.
- Nhiệm vụ:
+ Chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
+ Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng...
+ Cùng toàn dân xây dựng đất nước.
+ Là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân.
B. ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN
1. Cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch chống phá ta quyết liệt
42
- Đất nước đã hoà bình thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm
vụ chiến lược, đây là điều kiện thuận lợi cho xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau để cùng thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, trong
khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được
một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến
hoà bình” chống phá cách mạng.
Đây là một khó khăn lớn cho ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, vì
chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc chúng xác định chống phá ta
về mọi mặt, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là một trọng điểm, với mục tiêu là
vô hiệu hoá, phi chính trị hoá lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó, cần phải nắm chắc
âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hoà bình” của địch để có kế hoạch phòng
ngừa, bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt.
2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay
đổi, có nhiều diễn biến phức tạp
Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức
tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài
nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ,
chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là
trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng
quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa
một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo
trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở
thành Cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn
định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài1.
3. Sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, đất nước ta
bước sang thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá
- Thuận lợi cơ bản
+ Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được
nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát…
+ Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng và An ninh được tăng cường; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước…
+ Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế,
uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Công tác xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng...
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 71-73
43
- Thách thức lớn:
+ Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt
kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được.
+ Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi.
Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp
nghiêm trọng…1.
4. Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân
Trong những năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã có bước trưởng thành
lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức
mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba chức năng,
xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp mà Đảng, Nhà nước giao cho. Song, trên thực tế cần tập trung tháo
gỡ một số vấn đề sau:
- Về chất lượng chính trị: Trên thực tế, trình độ lí luận, tính nhạy bén, sắc sảo và
bản lĩnh chính trị của không ít cán bộ, chiến sĩ ta chưa tương xứng với vị trí, yêu cầu,
nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang
nhân dân còn có những mặt hạn chế, chưa đáp ứng được các tình huống phức tạp
(nếu xảy ra). Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội dung bất cập,
chưa thật sát nhiệm vụ và năng lực thực hành theo cương vị đảm nhiệm.
- Về trình độ chính quy của Quân đội và công an chưa đáp ứng được yêu cầu
tác chiến hiện đại và chưa tương xứng với công tác xây dựng. Chấp hành kỉ luật của
một bộ phận lực lượng vũ trang còn chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ
việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang.
- Về trang bị của lực lượng vũ trang còn lạc hậu và thiếu đồng bộ.
- Vấn đề nghiên cứu phát triển hoàn thiện nền khoa học nghệ thuật quân sự
Việt Nam trong thời kỳ mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt chẽ
giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn...
C. NHỮNG QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI
1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với lực lượng vũ trang nhân dân
- Ý nghĩa: Đây là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang sẽ quyết
1
44
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.58-61.
định bản chất cách mạng, mục tiêu, phương hướng chiến đấu, đường lối tổ chức và
cơ chế hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm nắm chắc Quân đội và
công an trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm
qua đã minh chứng điều đó.
- Nội dung: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn duy nhất nắm quyền lãnh đạo
lực lượng vũ trang nhân dân theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, Đảng
không nhường hoặc chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất cứ giai cấp, lực lượng, tổ chức
nào. Đảng có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo mọi hoạt động
của lực lượng vũ trang.
Đảng lãnh đạo trên mọi hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức... cả trong xây dựng và chiến đấu.
2. Tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang
- Cơ sở: Từ truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta. Từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và
thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong mấy chục năm qua.
- Nội dung: Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững tính
độc lập tự chủ, chủ động không bị chi phối ràng buộc.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện. Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về khoa
học - công nghệ để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Tập trung
từng bước hiện đại hoá trang bị kĩ thuật, quản lí khai thác bảo quản có hiệu quả
trang bị hiện có...
Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây
dựng chính trị làm cơ sở
- Cơ sở: Xuất phát từ lí luận Mác - Lênin về mối quan hệ giữa số lượng và chất
lượng. Truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của ông cha ta “binh quý hổ tinh, bất
quý hổ đa”... Từ đòi hỏi yêu cầu cao của nhiệm vụ đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta luôn coi trọng xây
dựng chất lượng, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở... Do đó lực lượng vũ trang nhân
dân của ta hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho...
Từ sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ nhằm phi chính trị hoá Quân đội.
- Nội dung: Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng.
Nâng cao chất lượng là chính, đồng thời có số lượng phù hợp với tình hình
nhiệm vụ và khả năng kinh tế của đất nước. Phải có cơ cấu hợp lí giữa các thứ quân,
giữa lực lượng thường trực với lực lượng dự bị động viên.
Thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, diễn tập để nâng cao trình độ sẵn
sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân.
45
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có chất lượng toàn diện cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức. Về chính trị phải thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, giáo
dục cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân nhân dân tin tưởng vào
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tin tưởng tuyệt đối, tự
giác chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương chính sách pháp luật.
Chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh (tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân...). Chăm lo
xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội ngũ cán bộ chính trị, đảng viên có phẩm
chất năng lực tốt đủ sức lãnh đạo đơn vị.
4. Đảm bảo lực lượng vũ trang nhân dân luôn trong tư thế sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu thắng lợi
- Cơ sở: Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản,
thường xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho
lực lượng vũ trang nhân dân chủ động đối phó kịp thời và thắng lợi trong mọi tình
huống có thể xảy ra.
- Nội dung: Lực lượng vũ trang nhân dân phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến
đấu, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong
mọi tình huống.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt, duy trì và chấp
hành nghiêm các chế độ, quy định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban, trực chiến, trực
chỉ huy...
II. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN
DÂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Phương hướng chung: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung
ương khoá IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc xác định: “Tập trung xây dựng lực
lượng Quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành tuyệt đối với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Với tổ chức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân sách hợp
lí, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây
là cơ sở để xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang.
Đối với Quân đội phải tiếp tục đẩy mạnh “Xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
A. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN THEO HƯỚNG CÁCH MẠNG
CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, TỪNG BƯỚC HIỆN ĐẠI
1. Xây dựng Quân đội cách mạng
- Vị trí: Là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng Quân đội của
Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng.
- Nội dung:
+ Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội, làm cho lực lượng này
tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
46
+ Chấp hành mọi đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
+ Kiên định mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, vững vàng trước mọi khó khăn
thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
+ Trước diễn biến tình hình phải phân biệt được đúng sai.
+ Có tinh thần đoàn kết quân dân, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế tốt.
+ Kỉ luật tự giác nghiêm minh, dân chủ rộng rãi...
2. Xây dựng Quân đội chính quy
- Là thực hiện thống nhất về mọi mặt (tổ chức, biên chế, trang bị). Dựa trên
những chế độ, điều lệnh quy định, đưa mọi hoạt động của Quân đội vào nề nếp.
Nhằm thống nhất ý chí và hành động về chính trị, tư tưởng và tổ chức của của Quân
đội để tăng cường sức mạnh chiến đấu tổng hợp.
- Nội dung:
+ Thống nhất về bản chất cách mạng, mục tiêu chiến đấu, về ý chí quyết tâm,
nguyên tắc xây dựng Quân đội về tổ chức biên chế trang bị.
+ Thống nhất về quan điểm tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, về phương
pháp huấn luyện giáo dục.
+ Thống nhất về tổ chức thực hiện chức trách nề nếp chế độ chính quy, về quản
lí bộ đội quản lí trang bị.
3. Xây dựng Quân đội tinh nhuệ
- Biểu hiện mọi hoạt động của Quân đội trên các lĩnh vực đạt hiệu quả cao.
- Nội dung: Được xây dựng toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, tổ chức,...
+ Tinh nhuệ về chính trị: Đứng trước diễn biến của tình hình, có khả năng phân
tích và kết luận chính xác đúng, sai từ đó có thái độ đúng đắn với sự việc đó.
+ Tinh nhuệ về tổ chức: Tổ chức gọn nhẹ nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
+ Tinh nhuệ về kĩ chiến thuật: Phải giỏi sử dụng các loại binh khí kĩ thuật hiện
có, biết sử dụng trang bị vũ khí hiện đại. Giỏi các cách đánh, vận dụng mưu trí sáng
tạo các hình thức chiến thuật. Giỏi vận động nhân dân và bảo vệ nhân dân.
4. Xây dựng Quân đội từng bước hiện đại
- Đi đôi với chính quy, tinh nhuệ phải tiếp tục từng bước hiện đại hoá Quân đội
về trang bị, vũ khí. Hiện đại hoá là một tất yếu, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu
của Quân đội.
- Nội dung: Từng bước đổi mới vũ khí, trang bị kĩ thuật cho Quân đội.
+ Xây dựng rèn luyện cán bộ, chiến sĩ Quân đội có bản lĩnh trí tuệ và năng lực
hành động, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại. Phát triển các quân binh chủng kĩ
thuật; có nghệ thuật quân sự hiện đại, khoa học quân sự hiện đại; có hệ thống công
47
nghiệp quốc phòng hiện đại; có kỹ thuật nghiệp vụ an ninh tiên tiến, bảo đảm cho
Quân đội hoạt động trong mọi điều kiện, tình huống.
+ Những nội dung trên là cả một quá trình phấn đấu lâu dài mới đạt được, hiện
nay ta phải thực hiện bước đi: “từng bước” nghĩa là phải dần dần bằng khả năng của
nền kinh tế và trình độ khoa học của đất nước.
Quá trình hiện đại hoá Quân đội phải gắn với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, với từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng, sản
xuấtmới, kết hợp phục hồi sửa chữa cải tiến vũ khí trang bị hiện có và mua một
số vũ khí cần thiết.
B. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN
Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, huấn luyện và quản lý tốt khi
cần sẽ huy động nhanh chóng theo kế hoạch.
Số liệu tham khảo:
Nước
Mĩ
Trung Quốc
Nhật Bản
Thái Lan
Singapo
Lực lượng thường trực
152,3 vạn
270 vạn
2,4 vạn
33,1 vạn
5,3 vạn
Lực lượng dự bị động viên
213 vạn
300 vạn
Phòng vệ 4,8 vạn
50 vạn
18,2 vạn
C. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh rộng khắp coi trọng cả số và
chất lượng, lấy chất lượng làm chính (Học ở bài 10).
Bác Hồ nói: Dân quân tự vệ và du kích là một lực lượng vô địch, là bức tường
sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ thù hung bạo thế nào, hễ đụng đến lực lượng đó, bức
tường đó thì địch nào cũng phải tan rã.
- Năm 1990, Chính phủ đã ban hành Điều lệ dân quân tự vệ.
- Pháp lệnh Dân quân tự vệ, năm 2004.
- Luật Dân quân tự vệ, năm 2009. Đây là sự thể chế hoá đường lối quan điểm
của Đảng về nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng.
Nội dung: Dân quân tự vệ được xây dựng rộng khắp ở tất cả thôn, xóm, bản
làng, nông trường, công trường, doanh nghiệp, nhưng có trọng điểm, chú ý có hình
thức phù hợp trong các thành phần kinh tế.
Chú trọng xây dựng cả số lượng và chất lượng, lấy chất lượng làm chính, tổ
chức biên chế phải phù hợp. Huấn luyện phải thiết thực, hiệu quả.
Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dân quân tự vệ. Thực hiện tốt các chính
sách đối với dân quân tự vệ.
48
III. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG NHÂN DÂN
A. CHẤN CHỈNH TỔ CHỨC BIÊN CHẾ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN
1. Bộ đội chủ lực
Tổ chức các đơn vị phải gọn, mạnh, cơ động, có sức chiến đấu cao. Bố trí các
binh đoàn chủ lực phải gắn với thế trận Quốc phòng và An ninh nhân dân trên cả
nước cũng như từng vùng chiến lược.
2. Bộ đội địa phương
Phải căn cứ vào tình hình cụ thể để tổ chức và bố trí cho phù hợp với từng địa
phương và thế trận cả nước.
3. Bộ đội biên phòng
Cần có số lượng phù hợp, chất lượng cao, tổ chức hợp lý để hoàn thành nhiệm
vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, vùng biển, đảo… theo
nhiệm vụ được giao.
4. Dân quân tự vệ
Được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị ở từng đơn vị hành chính, đơn vị
sản xuất và dân cư ở cơ sở, có số lượng phù hợp, chất lượng cao.
B. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HUẤN LUYỆN, GIÁO DỤC, XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC QUÂN SỰ VIỆT NAM
- Yêu cầu huấn luyện, phải đúng hướng, đáp ứng nhiệm vụ, sát thực tế, phù
hợp với khả năng trang bị, địa hình, thời tiết và cách đánh của ta.
- Đặc biệt cần có sự chuyển hướng về nội dung huấn luyện “phòng tránh, đánh
trả trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao”. Thực hiện đúng phương
châm “cơ bản, toàn diện, thiết thực, vững chắc”.
- Phải đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt
Nam trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
C. TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU VỀ VŨ KHÍ, TRANG BỊ KỸ
THUẬT CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
- Kết hợp chặt chẽ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Trước
hết cần bảo đảm duy trì được một số cũ khí trang bị hiện có, cải tiến sản xuất các vũ
khí và vật tư cần thiết.
- Giải quyết yêu cầu cấp bách về vũ khí, trang bị kĩ thuật theo hướng từng bước
hiện đại. Trước mắt phấn đấu duy trì tốt vũ khí trang bị hiện có trong biên chế và dự
trữ. Tập trung bảo đảm trang bị cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, ưu
tiên các quân chủng, binh chủng kỹ thuật và bộ đội biên phòng.
D. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN
DÂN CÓ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC TỐT
Một trong những thành công của Đảng là đã xây dựng được đội ngũ cán bộ
vững mạnh. Phải xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân có số
49
lượng đủ, chất lượng cao, có cơ cấu tổ chức hợp lí: “Chất lượng người cán bộ là sự
thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác thể hiện ở kết quả hoàn
thành nhiệm vụ”.
E. THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC VÀ ĐẦY ĐỦ CÁC CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
- Chính sách của Đảng và nhà nước có vai trò to lớn trong việc phát huy tính
tích cực, tự giác, động viên tình cảm, ý chí của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
vũ trang.
- Chính sách trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ. Kết hợp giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
- Trong chính sách phải thể hiện được hoạt động của lực lượng vũ trang nhân
dân là một ngành lao động đặc biệt làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc”.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ta vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc là
nhiệm vụ chiến lược toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có các bước phát triển mới để làm thất bại mọi âm
mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch. Thấm nhuần đường lối đổi mới, đường lối
quân sự của Đảng, nhân dân ta nhất định xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh để bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân là một nội dung cơ bản trong đường lối quốc phòng đường lối quân sự của
Đảng ta. Sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình quốc tế,
khu vực có nhiều diễn biến phức tạp... đã và đang đặt ra những yêu cầu mới cao hơn.
Sinh viên là lực lượng trẻ chủ nhân, tương lai của đất nước đang được Đảng và
Nhà nước giáo dục đào tạo thành những cán bộ khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ, người
trí thức xã hội chủ nghĩa. Do vậy, sinh viên ngoài nội dung học tập chuyên môn,
chuyên ngành, rèn luyện nâng cao đạo đức thể chất. Còn cần phải tích cực tham gia
công tác phong trào của đoàn thanh niên, hội sinh viên; tích cực tham gia vào các hoạt
động Quốc phòng và An ninh của Nhà trường. Góp phần xây dựng Nhà trường vững
mạnh toàn diện. Sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang nhân dân khi Tổ quốc cần.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Nêu các nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân?
2. Trình bày phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình
hiện nay?
50
BÀI 6.
KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An
ninh và đối ngoại là vấn đề rộng, bao quát toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội,
Quốc phòng và An ninh và đối ngoại của đất nước, luôn có sự vận động phát triển,
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại, là cụ thể hóa trong tổ chức thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG
- AN NINH
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với Quốc phòng An ninh
Kinh tế, Quốc phòng và An ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc
gia, dân tộc, độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
riêng và chịu sự chi phối của hệ thống qui luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan
hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định
đến Quốc phòng - An ninh; ngược lại, Quốc phòng và An ninh cũng có tác động tích
cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
2. Xuất phát từ vai trò quyết định của kinh tế đối với bản chất chế độ xã
hội và Quốc phòng - An ninh
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của Quốc phòng - An
ninh. Lợi ích kinh tế, suy đến cùng là nguyên nhân làm nãy sinh các mâu thuẫn
và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động Quốc phòng An ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của Quốc phòng An ninh. Xây dựng sức mạnh Quốc phòng và An ninh vì mục đích bảo vệ và đem
lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội xã hội
chủ nghĩa qui định; còn tăng cường sức mạnh Quốc phòng và An ninh vì mục đích
bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do
bản chất của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
3. Xuất phát từ vai trò của kinh tế đối với việc cung cấp cơ sở vật, chất
nhân lực, vật lực cho hoạt động Quốc phòng - An ninh
Tiềm lực, sức mạnh của nền quốc phòng mạnh hay yếu phụ thuộc vào tiềm lực
và sức mạnh của nền kinh tế.
51
Kinh tế quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho
Quốc phòng - An ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ
trang, quyết định đến đường lối chiến lược Quốc phòng - An ninh.
4. Quốc phòng và An ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà nó còn tác
động trở lại với kinh tế - xã hội trên cả hai góc độ tích cực và tiêu cực
- Tác động tích cực:
Thứ nhất, Một nền Quốc phòng và An ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà
bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc Quốc phòng và An ninh trong thời
bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển.
- Sự tác động tiêu cực:
Thứ nhất, Quốc phòng và An ninh là lĩnh vực phi kinh tế, tiêu tốn của cải do
nền kinh tế sản xuất ra.
Thứ hai, Lực lượng lao động của xã hội cung cấp cho Quốc phòng và An ninh
bao giờ cũng là lực lượng trẻ, khoẻ, có tri thức. Khi trực tiếp tham gia các lực lượng
vũ trang và các hoạt động Quốc phòng và An ninh không những lực lượng lao động
này không làm ra của cải xã hội, chỉ tiêu tốn những của cải đó, mà sau quá trình
tham gia đó, xã hội còn phài dành một phần của cải để giải quyết các vấn đề chính
sách xã hội của lực lượng vũ trang.
Thứ ba, Hoạt động Quốc phòng và An ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi
trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, nhất là khi chiến tranh
xảy ra.
Thứ tư, Chi phí cho Quốc phòng và An ninh tạo áp lực lớn cho phát triển kinh
tế - xã hội.
B. CƠ SỞ THỰC TIỂN
1. Các quốc gia trên thế giới
Các nước trên thế giới thường xuyên quan tâm chăm lo việc kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng và An ninh kể cả những nước
mà hàng trăm năm nay chưa có chiến tranh.
Từ thực tiễn phong trào cách mạng thế giới cả những bài học thành công và
không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa trong bảo vệ Tổ quốc.
2. Thực tiễn kết hợp ở Việt Nam
- Kinh nghiệm kết hợp trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
+ Trong thời bình các triều đại phong kiến Việt Nam luôn lấy lợi ích quốc gia
dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ nước, chuẩn bị lực lượng trong dân, bồi dưỡng
sức dân với tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc”, “Dân giàu nước mạnh”, “Quốc phú
binh cường”; thực hiện “Khoan thư sức dân”, “Ngụ binh ư nông”, “động vi binh,
tĩnh vi dân”.
52
+ Trong thời chiến ông cha ta đã dùng kế sách “bách tính giai binh” tức là trăm
Họ đều là lính, cả nước đồng lòng đánh giặc, thực hiện “vườn không nhà trống” đây
là nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc.
- Từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam, do nắm bắt được quy
luật, biết kế thừa kinh nghiệm lịch sử nên đã thực hiện việc phát triển kinh tế - xã
hội gắn với Quốc phòng và An ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương,
giải pháp sáng tạo, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng Việt
Nam từ sau năm 1945 đến nay.
+ Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng
ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu, vừa tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm”….
+ Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975) Ở Miền Bắc, để
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho Miền Nam đánh
giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: Trong xây dựng kinh tế, phải
thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải
khéo léo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế.
Ở Miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh
địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa Miền Nam vững
mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi
đến thắng lợi.
+ Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1975. Đại hội IV,
Đại hội V: Coi vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là
một bộ phận cấu thành đường lối xây dựng kinh tế của Đảng.
+ Thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới
Đại hội VI-VII: Tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc được hình thành tiếp tục khẳng
định, đặt cơ sở khoa học cho nhận thức về bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; Tư
duy mới này đã làm xuất hiện phạm trù kép Quốc phòng - An ninh.
Đại hội VIII của Đảng đã coi kết hợp phát triển kinh tế với Quốc phòng và An
ninh trở thành một trong sáu quan điểm lớn của Đảng.
Đại hội IX, X vấn đề kinh tế được mở rộng thành kinh tế - xã hội, kết hợp kinh
tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng - An ninh.
Đến Đại hội XI: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với Quốc phòng - An ninh; Quốc
phòng và An ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”1.
Đại hội XII: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với Quốc phòng và An
ninh và Quốc phòng và An ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội chú trọng vùng sâu, vùng xa,
biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa Quốc phòng và An ninh và đối ngoại;
tăng cường hợp tác quốc tế về Quốc phòng - An ninh” 2.
1
2
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 234
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 34
53
II. NỘI DUNG KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG
CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh
và đối ngoại là sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội với
Quốc phòng và An ninh và đối ngoại thành một thể thống nhất trên phạm vi cả
nước, trên từng vùng và từng địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý,
điều hành của Nhà nước; các lĩnh vực chủ động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện
cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc
gia để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát
triển đất nước được thực hiện thắng lợi, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, chế
độ chính trị - xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc luôn ở trong trạng thái tự bảo vệ và
được bảo vệ.
A. KẾT HỢP TRONG XÁC ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An
ninh và đối ngoại phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế của quốc gia.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các kỳ đại hội trước, nhất là Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với
Quốc phòng và An ninh và Quốc phòng và An ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội
trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót
trong việc kết hợp kinh tế và Quốc phòng và An ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn
chiến lược. Đây là quan điểm cơ bản của Đảng thể hiện sâu sắc vấn đề có tính
nguyên tắc về mối quan hệ biện chứng trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thực tiễn, kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường Quốc phòng và An ninh trên các địa bàn chiến lược đã, đang đạt hiệu
quả thiết thực, trở thành điều kiện tiên quyết bảo đảm huy động tổng hợp mọi nguồn
lực, tiềm năng, lợi thế,… để xây dựng, phát triển từng khu vực, địa bàn và đất nước
nhanh, bền vững.
Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và
An ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch
định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực
hiện các giải pháp chiến lược.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh
sẻ phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng
lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
54
B. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG
CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG PHÁT TRIỂN CÁC
VÙNG LÃNH THỔ
Nội dung chung
- Kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội với Quốc phòng và An ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh,
thành phố.
- Kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế
địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu
liên hoàn, các xã phường chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, thành phố,
huyện, quận.
- Kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại dân
cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng Quốc phòng
và An ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển,
đảo là ở đó có dân và có lực lượng Quốc phòng và An ninh để bảo vệ cơ sở, bảo
vệ Tổ quốc.
- Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội với xây dựng các công
trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường... bảo đảm tính
“lưỡng dụng” trong mỗi công trình được xây dựng.
- Kết hợp xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây
dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và hậu phương vững chắc cho
mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh.
1. Vùng kinh tế trọng điểm
Hiện nay nước ta xác định có 3 vùng kinh tế trọng điểm: phía Bắc (Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh); phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu); Miền trung (Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Dung Quất - Quãng Ngãi). Các vùng
kinh tế trọng điểm nói trên đều là nòng cốt cho phát triển kinh tế của từng vùng và
cho cả nước.
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính chất đô
thị hoá cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các liên doanh có
vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung của các mối giao thông quan
trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ….
Về Quốc phòng - An ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các
khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối tượng,
mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng có khả
năng là hương tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch;
hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ với nước ta. Vì vậy, phải thực hiện tốt phát triển kinh tế - xã
hội gắn với củng cố tăng cường Quốc phòng - An ninh.
55
Nội dung kết hợp là:
- Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp
cần lựa chọn quy mô trung bình, bố trí phân tán trải đều trên diện rộng, không
nên xây dựng tập trung những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an
ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi
có chiến tranh.
- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ từng kinh tế với kết cấu hạ tầng
của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các
công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường các công trình phòng thủ dân sự…
- Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế phải có sự
gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng Quốc phòng - An ninh, các tổ chức chính
trị, các đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọ đối tác đầu tư, bố trí xen
kẽ, tạo thế đan, cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công
nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các các vùng kinh tế trọng điểm phải
nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng
nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra.
2. Vùng núi biên giới
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài 4.550 km giáp với Trung Quốc,
Lào, Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người,
mật độ dân số thấp (khoảng 20-40 người/1km2), kinh tế chưa phát triển, trình độ dân
trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn. Vùng núi biên giới có tầm quan trọng
đặt biệt trong chiến lược phòng thủ và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung kết hợp là:
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế củng cố Quốc phòng và An ninh ở các
vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chổ và có chính sách phù hợp để
động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới.
- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và Quốc phòng - An ninh.
Trước hết, cần tập trung xã dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng
cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát
triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo.
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi nguồn lực của cả Trung ương và các địa
phương để cùng giải quyết.
- Đặc biệt các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách
động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng
các khu kinh tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng - kinh tế, nhằm tạo thế và lực
mới cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh Quốc phòng - An ninh.
56
3. Vùng biển đảo
Nước ta là quốc gia biển, có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với
bờ biển dài hơn 3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ
quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và
quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Việt Nam có trên 3000 đảo, quần đảo lớn nhỏ, với diện
tích hơn 1 triệu km2 (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền).
Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa mở
lớn là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông ra thái bình dương, mở cử mạnh
mẽ ra nước ngoài và hội nhập quốc tế.
Biển Việt Nam có vị trí đặc biệt trong phát triển kinh tế, công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước và với quốc phòng an ninh, là địa thế hiểm yếu để xây dựng thế
trận phòng thủ.
Nội dung kết hợp:
- Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế
biển và xây dựng thế trận Quốc phòng và An ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình
mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng và An
ninh một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các
tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, bám trụ phát
triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc lâu dài.
- Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo
bám trụ làm ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ,
sinh sống, làm ăn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở
vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển. Thông qua đo, vừa
thể hiên chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn chiếm biển,
đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hoà bình các tranh chấp
trên biển, đảo.
- Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây
dựng lực lượng dân quân biển, các Hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát
biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt đông vi phạm chủ quyền
biển, đảo của nước ta… Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh trên
biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ biển, đảo
vững chắc.
- Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở các vùng
biển, đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận
phòng thủ trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải
Quân, cảnh sát biển, Phòng không, không quân… để đủ sức mạnh canh giữ, bảo
vệ vùng biển, đảo.
57
C. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG,
CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG CÁC NGÀNH, CÁC LĨNH
VỰC KINH TẾ CHỦ YẾU
1. Kết hợp trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc, nguyên
nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho công nghiệp quốc
phòng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu; sản xuất vũ khí,
trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động Quốc phòng - An ninh.
Nội dung kết hợp kinh tế - xã hội với Quốc phòng và An ninh và đối ngoại
trong phát triển công nghiệp là:
- Kết hợp ngay từ khâu quy hạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành công
nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế kém phát triển. thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nông
nghiệp, nông thôn.
- Tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc
phòng như cơ khí chế tạo, điện tử, điện tử, công nghiệp, điện tử kỉ thuật cao,
luyện kim, hoá chất, đóng tàu để vừa đáp ứng trang bị cơ giới cho nền kinh tế,
vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao phục vụ Quốc
phòng - An ninh.
- Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa
có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự.
- Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất ra
hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nước ta (bao gồm cả
công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới; ưu
tiên những ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao.
- Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào
công nghiệp và phát triển lực lượng tự bảo vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp
trong cả thời bình và thời chiến.
- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực
hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quí hiếm cho sản xuất quân sự.
2. Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp
Hiện nay nước ta có hơn 70% dân số 50% lực lượng lao động ở nông thôn và
làm nghề nông, lâm, ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc là từ khu vực này.
Nội dung kết hợp:
- Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo và
lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp
58
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, làm ra nhiều
sản phẩm hàng hoá có giá trị cao phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có
lượng dự trữ dồi dào về mọi mặt cho Quốc phòng - An ninh.
- Phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, nâng
cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại.
- Gắn với việc động viên đưa dân ra ra lập nghiệp ở các đảo để xây dựng các làng
xã , huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát triển các hợp tác xã, các
đội tàu thuyền đánh bắt xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ, lực lượng dân quân biển đảo;
phối hợp chặt chẻ với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển để bảo vệ biển, đảo.
- Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh, định cư, xây
dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc biệt là
ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
3. Kết hợp trong giao thông vận tải, bưu điện, y tế, khoa học - công nghệ,
giáo dục và xây dựng cơ bản
- Trong giao thông vận tải:
+ Phát triển giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường thuỷ,
đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng giao lưu
với bên ngoài.
+ Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các
tuyến trục đường Bắc - Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn đường Hồ
Chí Minh.
+ Trong thi công thiết kế các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các
tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến,
nhất là các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng
vận chuyển lớn ,liên tục.
+ Phải thiết kế, xây dựng lại đường ống dẫn dầu Bắc - Nam, chôn sâu bí mật,
có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình
và thời chiến.
+ Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ, cần
chú trọng cải tạo, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, cảng
biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ phương tiện.
+ Việc nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu trong nội địa,
sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm đường băng cho máy
bay khi cần thiết trong chiến tranh.
+ Trong một số tuyến đường xuyên Á, sau này được xây dựng qua Việt Nam, ở
những nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các khu
vực phòng thủ kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng các tuyến đường
này khi tiến công xâm lược nước ta với quy mô lớn.
+ Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.
59
- Trong bưu chính viễn thông:
+ Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành thông tin liên lạc quốc gia với ngành thông
tin quân đội, công an để phát triển hệ thống rhông tin quốc gia hiện đại.
+ Có phương án thiết kế xây dựng và bảo đảm hệ thống thông tin liên lạc một
cách vững chắc trong mọi tình huống.
+ Có phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và
có khả năng chống nhiễu cao, phòng chống chiến tranh thông tin điện tử của địch.
+ Khi hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin
điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá
hoại của địch.
+ Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến.
- Trong xây dựng cơ bản:
+ Khi xây dựng bất cứ công trình nào, ở đâu, quy mô nào cũng phải tính đến
yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hoá phục vụ được cho cả quốc phòng, an ni ninh,
cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân sự.
+ Khi xây dựng các thành phố đô thị, phải gắn với các khu vực phòng thủ địa
phương, phải xây dựng các công trình ngầm (nhà cao tầng có công trình ngầm, giao
thông có đường ngầm)
+ Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn đều
phải tính đến khã năng bảo vệ và di dời khi cần thiết.
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong
nghiên cứu sáng chế, chế tạo những vât liệu siêu bền, có khã năng chốnh xuyên,
chống mặn, chống bức xạ, dể vận chuyển phục vụ xây dựng các công trình
phòng thủ, công sự trận địa của lực lượng vũ trang và của khu vực phòng thủ
tỉnh, thành phố.
+ Khi cấp giấy phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngoài, phải có ý
kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền.
- Trong khoa học và công nghệ, giáo dục
+ Phải phối hợp chặt chẻ toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công
nghệ then chốt của cả nước và các ngành khoa học của Quốc phòng và An ninh
trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ
cho cả xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
+ Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề tài
khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ cho
nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vừa phục vụ nhu cầu Quốc phòng
- An ninh, bảo vệ tổ quốc.
+ Coi trọng bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước.
60
- Trong lĩnh vực y tế:
+ Phối, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong nghiên
cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân,
bộ đội và người nước ngoài
+ Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên địa bàn, đặt biệt là miền núi, biên
giới, hải đảo.
+ Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh
xảy ra.
+ Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, klhám chữa bệnh cho
nhân dân thời bình và thời chiến.
D. KẾT HỢP TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC BẢO
VỆ TỔ QUỐC
- Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh
tế và nhu cầu phòng thủ đất nước.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật trong
huấn luyện, chiến đấu và sãn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.
- Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát
triển kinh tế - xã hội.
- Phát huy vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp
trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn
nước ngoài.
E. KẾT HỢP TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
- Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, phải hướng vào việc phát triển kinh tế trong
nước, đồng thời phải giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ
lực hoặc đe doạ vũ lực trong mở rộng quan hệ đối ngoại.
- Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: Kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác; Kết hợp
trong việc phân bổ đầu tư; Kết hợp trong xây dựng và quản lý các khu chế xuất, các
đặc khu kinh tế; đồng thời phải chú trọng bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần
cảnh giác cho cán bộ, nhân viên là người Việt Nam làm việc trong các cơ sở đối
ngoại và kinh tế đối ngoại.
Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước
ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống Việt Nam;
đồng thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung
cấp tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
A. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP TRONG THỰC HIỆN KẾT HỢP
61
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC
PHÒNG - AN NINH
- Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc kết hợp được thể hiện ở chổ:
+ Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra
những quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh một cách
đúng đắn.
+ Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính
quyền, đoàn thể, các chủ trương kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh
Tổ chức tốt việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ trương và
chỉ đạo thực tiễn thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng và An ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp
uỷ đảng.
- Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố Quốc phòng và An ninh phải:
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy định, kế hoạch kết hợp phát triển kinh
tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ở bộ, ngành, địa phương
cơ sở của mình dài hạn và hàng năm
+ Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lý, điều hành của chính
quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông
tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẩn chỉ đoạ cấp dưới và kiểm tra ở mọi
khâu, mọi bước của quá trình thực hiện, kết hợp phát triển Quốc phòng và An ninh
với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh ở ngành, địa phương mình.
B. BỒI DƯỠNG NÂNG CAO KIẾN THỨC, KINH NGHIỆM KẾT HỢP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC ĐỐI TƯỢNG
- Đối tượng bồi dưỡng: Phải phổ cập kiến thức Quốc phòng và An ninh cho
toàn dân nhưng trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ,
ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
- Nội dung bồi dưỡng: Phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để
chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhàm nâng
cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với
từng loại đối tượng và quần chung nhân dân.
- Hình thức bồi dưỡng: Phải kết hợp bồi dưỡng tại trường với bồi dưỡng tại
chức, kết hợp lí thuyết với thực hành. Thông qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc
62
diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các bộ, ngành, địa phương cơ sở để nâng cao hoàn
thiện sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cảu đội ngũ cán bộ và của toàn dân,
toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng
và An ninh trong tình hình mới.
C. XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC TỔNG KẾT PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC
ĐỐI TƯỢNG TRONG THỜI KÌ MỚI
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh và đối ngoại trong
thời kỳ mới, phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu
khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài). Trên cơ sở đó xác
định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn: như
chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bố đầu tư; chính sách
điều động nhân lực, bố trí dân cư…
D. HOÀN CHỈNH HỆ THỐNG PHÁP LUẬT, CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO CÁC ĐỐI
TƯỢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Mọi chủ trương đường lối chính sách của đảng và Nhà nước liên quan đến xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng và An ninh đều phải được thể chế hoá thành luật pháp, pháp
lệnh, nghị định…. một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện
nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
Đảng và nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư cả
trong nước và vốn đâu tư nước ngoài để kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố Quốc phòng - An ninh; nhất là đối với các công trình trọng điểm, ở
những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo.
Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần đối với các
tổ chức, các nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học,
các dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có hiệu quả cao phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới.
E. CỦNG CỐ KIỆN TOÀN VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ THAM MƯU CỦA
CƠ QUAN CHUYÊN TRÁCH QUỐC PHÒNG - AN NINH
Căn cứ NQ 119/2004NĐ - CP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về Công tác
Quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa
phương, cần nghiên cứu bổ sung mở rộng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
chuyên trách quản lý nhà nước về Quốc phòng và An ninh nói chung và về kết hợp
63
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố Quốc phòng và An ninh trong
thời kì mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng
nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham
mưu cho Đảng, Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố Quốc phòng và An ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kì mới.
Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và
có sự phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng - An ninh.
Kết hợp kinh tế với Quốc phòng - An ninh, Quốc phòng và An ninh với kinh
tế là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp củng cố Quốc phòng và
An ninh bảo vệ Tổ quốc, thực chất là thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
cách mạng của nước ta. Để thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn
với Quốc phòng và An ninh mọi cấp, mọi ngành, từ Trung ương đến các địa phương
phải nhận thức đầy đủ mối quan hệ hữu cơ và nhu cầu cấp thiết của việc phát triển
kinh tế - xã hội gắn với Quốc phòng và An ninh ở nước ta hiện nay để chủ động, tự
giác thực hiện một cách nghiêm túc ngay từ đầu ở mọi khâu, mọi bước theo chức
năng, nhiệm vụ, phạm vi của mình. Cần được nghiên cứu đầy đủ, vận dụng sáng tạo
để đạt hiệu quả cao, đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Phân tích tính tất yếu phải kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay?
2. Nêu mục tiêu, yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay?
3. Nêu các giải pháp chủ yếu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay? Phân tích giải
pháp: Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường củng cố Quốc phòng - An ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay cho
các đối tượng?
64
BÀI 7.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta luôn phải chống lại
kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần về quân sự, kinh tế. Song với lòng yêu nước, ý
chí kiên cường, cách đánh mưu trí, sáng tạo, cha ông ta đã đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lược, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc như chiến thắng Bạch
Đằng, Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử … Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, tinh thần yêu nước và cách đánh của quân dân ta lại được phát huy lên một
tầm cao mới và đã đánh thắng hai kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự
mạnh là thực dân pháp và đế quốc Mĩ. Từ thực tiễn chống giặc ngoại xâm của dân
tộc, đã hình thành nên nghệ thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật chiến tranh
nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật
quân sự Việt Nam không ngừng phát triển, góp phần thiết thực vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
I. TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG
CHA TA
Cách đây mấy nghìn năm, từ khi các Vua Hùng mở nước Văn Lang, lịch sử
dân tộc Việt Nam bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước. Do yêu cầu tự vệ trong
chống giặc ngoại xâm và yêu cầu làm thủy lợi của nền kinh tế nông nghiệp đã tác
động mạnh mẽ đến sự hình thành nhà nước Văn Lang đây là nhà nước đầu tiên của
nước ta, có lãnh thổ khá rộng và vị trí địa lý quan trọng, bao gồm vùng Bắc bộ và
bắc Trung Bộ ngày nay, nằm trên đầu mối những đường giao thông qua bán đảo
Đông Dương và vùng Đông Nam Á.
Nền văn minh sông Hồng còn gọi là văn minh Văn Lang, mà đỉnh cao là văn
minh Đông Sơn rực rỡ, thành quả đáng tự hào của thời đại Hùng Vương.
Do có vị trí địa lý thuận lợi, nước ta luôn bị các thế lực ngoại xâm nhòm ngó.
Sự xuất hiện các thế lực thù địch và âm mưu thôn tính của chúng là nguy cơ trực
tiếp đe dọa vận mệnh nước ta. Do vậy, yêu cầu chống giặc ngọai xâm, bảo vệ độc
lập và cuộc sống đã sớm xuất hiện trong lịch sử dân tộc ta. Người Việt muốn tồn tại,
bảo vệ cuộc sống và nền văn hóa của chính mình chỉ có con đường duy nhất là đoàn
kết đứng lên đánh giặc, giữ nước.
A. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH NGHỆ
THUẬT ĐÁNH GIẶC
1. Về địa lý, địa hình
Nhà nước Văn lang trước kia, Nhà nước Việt Nam ngày nay có vị trí chiến
lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông, có hệ thống giao thông
đường bộ, đường biển, đường sông, đường không, bảo đảm giao lưu trong khu vực
châu Á và thế giới thuận lợi. Từ lâu, nhiều kẻ thù luôn nhòm ngó, đe dọa và tiến
65
công xâm lược. Để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc. ông cha ta đã
đoàn kết phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trạn đánh giặc.
2. Về kinh tế
Kinh tế nước ta là tự cung, tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính,trong đó
trồng trọt, chăn nuối là chủ yếu, trình độ canh tác thấp. Trong quá trình phát triển
tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi đội với giữ nước, thực
hiện nhiều kế sách như “phú quốc, binh cường”, “ngụ binh ư nông” … Tích cực
phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định, nâng cao đời sống của nhân dân, đồng
thời, phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra vũ khí để chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ Tổ quốc.
3. Về chính trị, văn hóa - xã hội
Nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa thuận, đoàn kết.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sớm xây dựng, xác định được
chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng được
nền văn hóa mang bản sắc Việt Nam. Đất nước bao gồm làng, xã, thôn, bản có
nhiều dân tộc cùng chung sống. Mỗi dân tộc, làng xã có phong tục, tập quán riêng,
tạo nên nét đặc sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình đó, dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hóa truyền thống:
đoàn kết, yêu nước, thương nòi, sống hòa thuận, thủy chung; lao động cần cù sáng
tạo, đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất.
B. CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC
1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến
chống quân Tần. Đó là cuộc kháng chiến gian khổ từ năm 214 tr. CN của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Vua Hùng và Thục Phán. Nhân sự suy yếu của triều đại
Hùng Vương cuối cùng, Thục Phán một thủ lĩnh người Âu Việt đã thay thế Vua
Hùng, thống nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Lạc thành lập Nhà nước Âu Lạc, dời
đô về Cổ Loa, Hà Nội. Nhà nước Âu Lạc kế thừa Nhà nước Văn Lang trên mọi
lĩnh vực.
Sau cuộc kháng chiến chống quân Tần, cuộc kháng chiến của nhân dân Âu Lạc
do An Dương Vương lãnh đạo chống quân xâm lược của Triệu Đà từ năm 184 đến
179 tr. CN bị thất bại. Từ đây đất nước ta rơi vào thảm họa hơn một nghìn năm
phong kiến Trung Hoa đô hộ, lịch sử gọi là thời kì Bắc thuộc.
2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc
lập từ thế kỷ II tr.CN đến đầu thế kỷ X
Trong hơn một nghìn năm (từ năm 179 tr.CN đến năm 938), nước ta liên tục bị
triều đại phong kiến phương Bắc từ nhà Triệu, nhà Hán, nhà Lương … đến nhà Tùy,
nhà Đường đô hộ. Trong thời gian này, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần bất khuất,
kiên cường và bền bỉ, đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn, phát huy tinh hoa của
nền văn hóa dân tộc và quyết đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc.
66
- Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 đã giành được độc lập.
Nền độc lập được khôi phục và giữ vững trong ba năm.
- Năm 248, Triệu Thị Trinh phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân của người con gái
núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) làm cho quân thù nhiều phen kinh hồn, bạt vía.
Sau gần nửa năm chiến đấu khiến cho toàn thể Giao Châu chấn động. Mặc dù bà
Triệu cùng nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng kẻ thù có sức mạnh vượt trội
và đàn áp rất khốc liệt, nên khởi nghĩa bị thất bại.
- Mùa xuân năm 542, phong trào yêu nước của người Việt lại bùng lên mạnh
mẽ, rầm rộ. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Lý Bôn, anh hùng hào kiệt bốn phương
cùng toàn dân vùng lên lật đổ chính quyền nhà Lương. Sau đo, nghĩa quân liên tiếp
đánh thắng hai cuộc phản công của kẻ thù. Đầu năm 544, Lý Bôn lên ngôi hoàng đế
(Lý Nam Đế) đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.
- Khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687.
- Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722.
- Khởi nghĩa của Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766 đến 791.
- Trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn và họa xâm lăng của quân
Nam Hán, Ngô Quyền là một danh tướng của Dương Đình Nghệ đã đứng lên lãnh
đạo quân dân ta, kiên quyết đánh giặc, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Trận quyết chiến
trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền cùng quân và dân ta đã nhấn chìm toàn bộ đoàn
thuyền của quân Nam hán, khiến Hoàng Thao phải bỏ mạng, vua Nam Hán phải bải
binh, chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đất nước ta mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử dân tộc, kỉ nguyên của độc lập, tự chủ.
3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỉ X - XVIII
- Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất năm 981 nhà Tiền Lê
Thời nhà Đinh, công cuộc xây dựng đất nước đang được xúc tiến thì năm 979,
Đinh Tiên Hoàng bị ám hại. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước thừa dịp âm
mưu lật đổ và thôn tính.
Lúc bấy giờ, ở Trung quốc, nhà Tống đã thành lập và đang phát triển. So với
Nam Hán, thì nhà Tống là một triều đại cường thịnh của một quốc gia phong kiến
lớn nhất châu Á đương thời. Nhân dịp suy yếu của nhà Đinh, nhà Tống quyết định
phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt.
Trong khi vua Đinh còn trẻ, chưa đủ khả năng và uy tín tổ chức lãnh đạo cuộc
kháng chiến, vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, triều thần và quân sĩ đã suy tôn Lê
Hoàn, người đang giữ chức thập đạo tướng quân lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi, lập
nên triều đại nhà Tiền Lê và đảm nhiệm sứ mạng lịch sử, tổ chức và lãnh đạo thắng
lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống.
- Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ 2 (1075 - 1077) của nhà Lý
Tuy bị đại bại trong lần xâm lược năm 981, nhà Tống vẫn chưa chịu từ bỏ tham
vọng xâm lược nước ta. Khoảng giữa thế kỉ XI, vua Tống Thần Tông ra lệnh chuẩn
bị lực lượng đánh Đại Việt lần nữa, nhằm giành thắng lợi ở Đại Việt để tạo thế uy
67
hiếp nước Liêu, nước Hạ. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt,
lúc đó nắm giữ binh quyền trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, nhận thấy không thể bị
động đối phó, đợi quân giặc tiến công sang, mà phải chủ động tiến công trước để
đẩy kẻ thù vào thế bị động. Với chủ trương thực hiện “tiên phát chế nhân”, “Ngồi
yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”, Lý
Thường Kiệt đã chủ động đưa quân tiến công sang đất Tống tiêu diệt lực lượng ở
các căn cứ xuất phát của kẻ thù, rồi rút về phòng thủ đất nước. Biết quân Tống thế
nào cũng kéo quân sang phục thù, Lý Thường Kiệt đã khẩn trương chuẩn bị kháng
chiến, xây dựng tuyến Như Nguyệt để chặn giặc; đồng thời, triển khai lực lượng, bố
trí thế trận chống giặc ngoại xâm. Trận phản công Như Nguyệt (tháng 3/1077), quân
và dân Đại Việt đã quét sạch quân xâm lược Tống ra khỏi biên cương của Tổ quốc.
- Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỉ XIII
Từ năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo công cuộc
dựng nước và giữ nước (1226 - 1400), đã lãnh đạo nhân dân ta ba lần kháng chiến
chống quân Nguyên giành thắng lợi vẻ vang, bổ sung những nét đặc sắc vào nền
nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất vào năm 1258, quân và dân ta đã đánh thắng 3
vạn quân Nguyên.
Cuộc kháng chiến lần thứ hai vào năm 1285, quân và dân ta đã đánh thắng 60
vạn quân Nguyên.
Cuộc kháng chiến lần thứ ba vào năm 1287 - 1288, quân và dân ta đã đánh
thắng 50 vạn quân Nguyên.
Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), dân tộc ta phải liên tiếp ba lần đứng lên
chống xâm lược. Kháng chiến chống quân Nguyên không chỉ là cuộc đọ sức quyết
liệt giữa một đế quốc đầu sỏ mạnh nhất thế giới lúc đó với một dân tộc nhỏ bé
nhưng kiên quyết đứng lên chống xâm lược để bảo vệ đất nước, mà còn là cuộc đấu
tranh gay gắt về tài trí giữa hai nền nghệ thuật quân sự của Đại Việt và quân xâm
lược Nguyên Mông.
- Cuộc kháng chiến chống Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo.
Vào cuối thế kỉ XIV, triều đại nhà Trần từng bước suy tàn, Hồ Quý Ly là một
quý tộc có thanh thế đã phế truất vua Trần, lập ra vương triều nhà Hồ. Tháng
5/1406, dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh đưa quân xâm lược nước ta.
Trong tác chiến, nhà Hồ quá thiên về phòng thủ, coi đó là phương thức cơ bản, dẫn
đến sai lầm về chỉ đạo chiến lược. Mặt khác, không phát động được toàn dân đánh
giặc, tổ chức phản công chiến lược không đúng thời cơ, bị tổn thất nặng, nên bị thất
bại. Đất nước ta một lần nữa bị phong kiến phương Bắc đô hộ.
- Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn
Trãi lãnh đạo.
Mặc dù chiếm được Đại Việt, nhưng giặc Minh không khuất phục được dân tộc
ta, các cuộc khởi nghĩa của các tầng lớp nhân dân yêu nước vẫn liên tiếp nổ ra, tiêu
biêu là khởi nghĩa Lam Sơn. Sau 10 năm (1418 - 1427) chiến đấu bền bỉ, ngoan
68
cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành chiến tranh giải phóng, hoàn
thành nhiệm vụ vẻ vang, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Thắng lợi vĩ đại đó chứng
tỏ nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng của ông cha ta đã đạt
đến đỉnh cao và để lại nhiều bài học lịch sử quý giá.
- Khơi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 - 1785,
kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh 1788 - 1789.
Sau khi đánh thắng giặc Minh xâm lược, Lê Lợi lên ngôi, lập nên triều Hậu Lê
(triều Lê Sơ), đây là giai đoạn hưng thịnh nhất của phong kiến Việt Nam. Nhưng
thời gian hưng thịnh của đất nước không kéo dài, từ năm 1553 đến năm 1788 xảy ra
cuộc nội chiến triền miên giữa các thế lực mà điển hình nhất là vua Lê - chúa Trịnh.
Trong thời gian đó, có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra như khởi nghĩa của Nguyễn Hữu
Cầu, khởi nghĩa Tây Sơn. Quân Tây Sơn tiến công vào Gia Định, hang ổ cuối cùng
của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn phải sống lưu vong nhờ sự giúp đỡ của vua Xiêm
(Thái Lan). Năm 1784, nhà Tây Sơn tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm và tiến công ra Bắc,
xóa bỏ giới tuyến sông Gianh, chấm dứt toàn bộ thể chế “vua Lê, chúa Trịnh”. Năm
1788 trước nguy cơ xâm lược của 29 vạn quân vào mùa xuan Kỉ Dậu 1789. Tiếp
theo là triều đại của Nguyễn Ánh (Gia Long), Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và
Bảo Đại là ông vua cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam.
D. NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, với
truyền thống đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, với tài thao lược kiệt
suất của ông cha ta, nhân dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ
thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm,
dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ
thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông.
Trong quá trình đó, nghệ thuật quân sự Việt Nam từng bước phát triển và được thể
hiện rất sinh động trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, trên các
phương diện tư tưởng chỉ đạo tác chiến, mưu kế đánh giặc …
1. Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến
Giải phóng bảo vệ đất nước là nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu cao nhất của
các triều đại phong kiến trong chiến tranh giữ nước. Do đó, ông cha ta luôn nắm
vững tư tưởng tiến công, coi đó như là một quy luật để giành thắng lợi trong suốt
quá trình chiến tranh. Thực hiện tiến công liên tục, mọi lúc, mọi nơi, từ cục bộ đến
toàn bộ, để quét sạch quân thù ra bờ cõi. Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ
đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng
đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh, phòng,
khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy
yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến công.
Sử sách còn ghi lại, thời nhà Lý đã chủ động đánh bại ở phía Nam (quân
Chiêm Thành), phá tan âm mưu liên kết của nhà Tống với chiêm Thành. Trước
nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã sử dụng biện pháp “tiên pháp
69
chế nhân” chủ động tiến công trước để đẩy kẻ thù vào thế bị động. Ông đã tận dụng
thế “thiên hiểm” của địa hình, xây dựng tuyến phòng thủ sông Như Nguyệt, thực
hiện trận quyết chiến lược, chủ động chặn và đánh địch từ xa để bảo vệ Thăng Long.
Vào thế kỉ XIII, các quốc gia châu Âu, châu Á đang run sợ trước vó ngựa của
giặc Nguyên Mông, thì cả ba lần tiến quân xâm lược Đại Việt vào các năm 1258,
1285, 1288, giặc Nguyên Mông đều thảm bại, mặc dù có số lượng quân lớn hơn
nhiều lần quân đội nhà Trần. Có được thắng lợi đó là do ta đã thực hiện toàn dân
đánh giặc, “cả nước chung sức, trăm họ là binh”, trong đó, tích cực chủ động tiến
công giặc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh.
Trước đối tượng tác chiến là giặc Nguyên mông có sức mạnh lớn hơn, ông cha
ta đã kịp thời thay đổi phương thức tác chiến, tránh quyết chiến với địch khi chúng
còn đang rất mạnh, chủ động rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng và tạo thế, thời
cơ để phản công. Rút lui chiến lược tạm nhường Thăng Long cho giặc trong một
thời gian nhất định, là để bảo toàn lực lượng và đó là một nét độc đáo trong nghệ
thuật tác chiến, chứ không phải là tư tưởng rút lui. Quân địch tạm chiếm được
Thăng Long mà không chiém được “Thủ đô” của kháng chiến, bởi vì chỉ chiếm
được “thành không, nhà trống”. Trong khoảng thời gian đó quân đội nhà Trần và
nhân dân cả nước đã tích cực tác chiến nhỏ lẻ, tiêu hao nhiều lực lượng địch, làm
cho chúng rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan”, tạo thời cơ tốt nhất để phản
công chiến lược, quét sạch quân thù ra khỏi đất nước (lần thứ nhất sau 9 ngày tính từ
khi giặc Nguyên vào Thăng Long, lần thứ hai sau 5 tháng, lần thứ ba sau 3 tháng).
Đến thời Nguyễn Huệ, tư tưởng tiến công địch để giải phóng Thăng Long lại
được phát triển lên một tầm cao mới. Với cách đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ và
mãnh liệt, giải quyết chiến tranh nhanh gọn trong một đợt tổng giao chiến, Ông đã
chủ động tiến công địch khi chúng còn rất mạnh (29 vạn quân Thanh và bè lũ bán
nước đang chuẩn bị đón tết Kỉ Dậu năm 1789), do đó, đã giành thắng lợi trọn vẹn.
2. Về mưu kế đánh giặc
Mưu là để lừa địch, đánh vào chổ yếu, chô sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho
chúng bị động, lúng túng đối phó. Kế là để điều địch theo ý của ta, giành quyền chủ
động buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Trong cuộc chiến tranh giải
phóng, với ý chí kiên cường của dân tộc, triều đại nhà Lý, Trần, Hậu Lê … đã tạo
được thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, kết hợp các cachá
đánh, các lực lượng cùng đánh. Trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước,
ông cha ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quân triều đình, quân địa phương và dân binh,
thổ binh các làng xã cùng đánh địch, làm cho lực lượng địch luôn bị phân tán, không
thực hiện được hợp quân tại Thăng Long. Để bảo vệ Thăng Long Lý Thường Kiệt
đã xây dựng tuyến phòng ngự sông Như Nguyệt để chặn giặc, khi quân nhà Tống
tiến công vượt sông không thành công phải chuyển vào phòng ngự, Ông đã dùng
quân địa phương và dân binh liên tục gây rối làm cho địch mệt mỏi, căng thẳng, tạo
thời cơ cho quân đội nhà Lý chuyển sang phản công giành thắng lợi hoàn toàn.
Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo mà còn hết sức mềm
dẻo, khôn khéo đó là “biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ”. Biết kết hợp chặt chẽ
70
giữa tiến công quân sự với binh vân, ngoại giao tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế
mạnh của giặc, trong đó tiến công quân sự luôn giữ vai trò quyết định. Lê Lợi,
Nguyễn Trãi không những giỏi trong bày mưu lập kế để đánh giặc trên chiến
trường, mà còn thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người. Sau khi đánh
tan đạo quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy, đã vây chặt thành Đông Quan, buộc
Vương Thông phải đầu hàng vô điều kiện, nhưng các ông đã cấp thuyền, ngựa và
lương thảo cho hàng binh nhà Minh về nước trong danh dự, để muôn đời dập tắt
chiến tranh.
Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến
trường, tạo ra một “thiên la, địa võng” để diệt địch. Làm cho “địch đông mà hóa ít,
địch mạnh mà hóa yếu”, đi đến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích, phục kích, lực
lượng tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào trạng thái “tiến thoái lưỡng nan”. Trong tác chiến,
ông cha ta đã triệt để khoét sâu điểm yếu của địch là tác chiến ở chiến trường xa,
tiếp tế khó khăn, nên đã tập trung triệt phá lương thảo, hậu cần của địch. Ngoài thực
hiện kế “thanh dã”, làm cho kẻ thù rơi vào trạng thái “người không có lương ăn,
ngựa không có nước uống”, quân đội nhà Trần tổ chức lực lượng đón đánh lực
lượng vận chuyển lương thực, hậu cần và đánh phá kho tàng của địch. Điển hình
như đội quân của Trần khánh Dư đã tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương thảo của
giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy ở bến Vân Đồn, làm cho giặc Nguyên ở Thăng
Long vô cùng hoảng loạn.
3. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc
Thực hiện toàn dân đánh giặc là một trong hững nét độc đáo trong nghệ thuật
quân sự của tổ tiên ta, được thể hiện cả trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng.
Nét độc đáo đó xuất phát từ lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta, từ chính chất
tự vệ, chính nghĩa của các cuộc kháng chiến. Hễ kẻ thù đụng đến nước ta thì “vua
tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước chung sức, trăm họ là binh”, giữ vững quê
hương, bảo vệ xã tắc.
Từ lời thề của Hai Bà Trưng và nghĩa quân: “Một xin rửa sạch nước thù; Hai
xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng; Ba kẻ oan ức lòng chồng; Bốn xin vẻn vẹn sở công
lệnh này”1 đến Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, nghệ thuật “lấy đại nghĩa thắng
hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã liên tục
phát triển dựa trên nền tảng của chiến tranh nhân dân, thực hiện tốt đổi yếu thành
mạnh, kết hợp lực, thế, thời, mưu, để đạt mục đích là cùng giành lại và giữ vững chủ
quyền đất nước với tư tưởng “dập tắt muôn đời chiến tranh”, “đem lại thái bình muôn
thủa”. Nội dung cơ bản của thực hiện toàn dân đánh giặc là: “Mỗi người dân là một
người lính, đánh giặc theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là
một pháo đài diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân
dân liên hoàn, vững chắc làm cho địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu, roi vào
trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy”. Trong đánh giặc, ông cha ta đã tận dụng
địa hình, xây dựng thé trận làng, nước vững chắc, vận dụng sáng tạo cách đánh của
nhiều lực lượng, nhiều thứ quân. Vận dụng rộng rãi, sáng tạo nhiều hình thức đánh
1
Giáo tình lịch sử quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 22
71
giặc để đạt hiệu quả cao như: phòng ngự sông Như Nguyệt, phục kích Chi Lăng, phản
công Chương Dương, Hàm Tử, tiếm công Ngọc Hồi, Đống Đa…
4. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh
Đây là nét đặc sắc và tất yếu của nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc
ta luôn phải chống lại các đội quân xâm lược coa quân số, vũ khí trang bị lớn hơn
nhiều lần. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính
là sản phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu
thua, nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định
đúng về sức mạnh trong chiến tranh, đó là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ
không thuần túy là sự so sánh, hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.
Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ có
khỏng 10 vạn quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố
khác để tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần thứ
2 là 60 vạn quân, lần 3 là khoảng 50 vạn quân. Nhà Trần đã “lấy đoản binh chế
trường trận” hạn chế sức mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quân số có lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, nhưng đã
đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng “tránh
thế ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh “vây thành để diệt viện”.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây Sơn có
khoảng 10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và quân bán nước
Lê Chiêu Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần tốc bất ngờ.
5. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao và binh vận
Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia trong tham chiến.
Trong chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã biết kết hợp chặt chẽ các mặt trận nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Mỗi mặt trận đều có vị trí tác dụng
khác nhau, nhưng cùng thống nhất ở mục đích tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi
trong chiến tranh.
Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sạnh đại
đoàn kết dân tộc, là cơ sở để tạo ra sức mạnh quân sự.
Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá
hủy phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh,
tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển.
Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân
dân ta,, phân hóa, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận
ngoại giao kết hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến
tranh càng sớm càng tốt.
Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan
trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
72
6. Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh
Trong các triều đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và thực hiện các trân.
đánh quyết định để giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh. Thời nhà Lý có phòng
ngự sông Cầu, đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức tác chiến phong
ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thuật. Tác chiến phòng ngự trên
sông Cầu không chỉ chặn đứng 30 vạn quân Tống, mà còn làm thất bại ý đồ đánh
nhanh, thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng, khiến
quân địch phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động phòng ngự.
Thời nhà Trần, chống giặc Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một
cuộc rút lui chiến lược, làm thất bại kế hoạch hợp vây của quân địch trong cuộc truy
đuổi, giặc Nguyên không thực hiện được những đòn quyết chiến với chủ lực ta, trái
lại chúng đã vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt, Do vây, quân
Nguyên đã sa vào tình trạng muốn đánh mà không đánh được, “lực càng yếu, thế
càng suy”, điều đó đã tạo ra thời cơ phản công cho ta.
Thời hậu Lê, sau 10 năm bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang giải phóng dân tộc, giải
phóng Thăng Long. Thắng lợi đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ
chức và tiến hành các trận đánh quyết định giữ một vai trò rất quan trọng, đặc biệt ở
giai đoạn cuối của mỗi cuộc chiến tranh. Trong chỉ đạo tác chiến Lê Lợi và Nguyễn
Trãi chủ trương “tránh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở”.
Khi nghe tin viện binh nhà Minh sắp sang, nhiều tướng sĩ yêu cầu Lê Lợi hạ gấp
thành Đông Quan (Thăng Long) để diệt trừ nội ứng, rồi sau đó sẽ dốc toàn lực để
đánh viện binh. Lê lợi đã phân tích một cách sáng suốt và quyết định: “Đánh thành
là hạ sách… sao bằng nuôi dưỡng sức quân, giữ lấy nhụê khí để đợi viện binh của
giặc. Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai, đó mới
là kế sách vẹn toàn”. Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu tiến công chiến lược là kiệt
xuất trong tổ chức, thực hành trận quyết chiến Xương Giang - Chi Lăng, buộc lũ
giặc Vương Thông ở trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt đã chứng tỏ trài
năng quân sự suất sắc của ông trong tổ chức và thời gian thực hành các trận đánh
lớn của ông cha ta.
Nghệ thuật quân sự cuả Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập
trung, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược,
đặc biệt là giải phóng Thăng Long trong mùa xuân Kỉ Dậu 1789. Khi chọn đánh
Thăng Long là địa bàn tập trung hầu hết quân địch, nơi bộ chỉ huy quân Thanh và
triều đình Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rõ trong cái mạnh của địch,
chúng bộc lộ những điểm yếu và sơ hở. Điểm yếu cơ bản của quân tướng nhà Thanh
là rất chủ quan, ngạo mạn, cho rằng, Tây Sơn không dám và không thể tiến công
chúng, do đó thế trận rất lỏng lẻo.
Trong thực hành tác chiến, Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thời gian thống tổ
chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, khiến quân địch hoàn toàn bị động. Trong cách
đánh, Nguyễn Huệ rất chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch
bằng các đòn thọc sâu, hiểm hóc. Đây vừa là nghệ thuật kết hợp tiến công chiến
73
diện với bên sườn, vừa là tiến hành nhiều trận đánh diễn ra đồng thời, liên tiếp
nhanh mạnh, bất ngờ, khiến địch không thể ứng cứu được cho nhau và nhanh chóng
thất bại.
II. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG LÃNH ĐẠO
Kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân sự Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với thắng lợi của hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ
phận hợp thành: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận
của nghệ thuật quân sự Việt Nam là một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt
chẽ, thúc đấy nhau phát triển, trong đó chiến lược quân sự giữ vai trò chủ đạo
A. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên
Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên
đã hình thành và không ngừng phát triển, trở thành những bài học vô giá cho các thế
hệ sau. Nhiều tư tưởng quân sự kiệt suất như: “Binh thư yếu lược”, “Hổ trướng khu
cơ”, “Bình ngô đại cáo”; những trận đánh điển hình như: Như Nguyệt, Chi Lăng,
Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa… đã để lại những kinh nghiệm quý gia. Kinh nghiệm
truyền thống đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kế tình hình thừa, vận
dung, phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh,
quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã hôi chủ nghĩa và kinh nghiệm nghệ thuật quân sự được
đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tổng kết, là cơ
sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang, chiến
tranh giải phóng ở Việt Nam.
3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc
của tổ tiên, vận dụng lí luận Mác - Lênin về quân sự, kinh nghiện của các nước trên
thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển
nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh nghiệm du
kích Tàu”, “du kích Nga”… phát triển nguyên tắc chiến đáu tiến công, chiến đấu
phòng ngự… qua các thời hì đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra
phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng
thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thức thắng lợi.
B. NỘI DUNG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ KHI CÓ ĐẢNG
LÃNH ĐẠO
1. Chiến lược quân sự
74
Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược được
hoạch định để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang)
thắng lợi; bộ phận hợp thành (quan trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật
quân sự1.
a) Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến
Đây là vấn đề quan trọng của chiến tranh cách mạng, nhiệm vụ của chiến lược
quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và phương thức đối phó hiệu
quả nhất. Thực tiến ở nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945, lúc đó xuất hiện
nhiều kẻ thù: quân đội Anh, Tưởng, Ấn Độ, Nhật và quân Pháp. Tất cả kẻ thù trên
đều chung một mục đích là tiêu diệt Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn non
trẻ. Trước tình hình đó Đảng ta xác định kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của cách mạng
Việt Nam là thực dân Pháp. Đây là tư duy chính xác, khoa học của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong thời điểm lịch sử “ngàn cân treo sợi tóc”. Từ đó, đối tượng
tác chiến của quân và dân ta là quân đội Pháp xâm lược.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, khi đế quốc Mĩ không chịu kí Hiệp
định Giơnevơ, tạo cớ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, ngay
từ tháng 9/1954, Đảng ta đã nhận định, đế quốc Mĩ đang trở thành kẻ thù trực tiếp
của, nguy hiểm của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là sự phán đoán
chính xác trong xác định kẻ thù của cách mạng nói chung, của chiến lược quân sự
nói riêng.
b) Đánh giá đúng kẻ thù
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh, yếu của
kẻ thù. Bước vào kháng chiến chống Pháp, so sánh lực lượng địch, ta hết sức chênh
lệch, nhưng với phương pháp xem xét biện chứng, Đảng ta đã phân tích, chỉ ra sự
phát triển trong so sánh lực lượng và cho rằng: “Lực lượng của Pháp như Mặt Trời
lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ” còn “lực lượng của ta ngày
càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến…”2. Đối với đế
quốc Mĩ, dù có quân đông, súng tốt, tiền nhiều nhưng chúng có điểm yếu căn bản là
đi xâm lược, bị nhân dân thế giới và ngay cả nhân dân Mĩ phản đối, Đảng ta đã đánh
giá đúng kẻ thù, đưa ra nhận định “Mĩ giàu nhưng không mạnh”, đay là một tư duy
chính xác, khoa học vượt trên mọi tư duy của thời đại trong thời điểm lịch sử. Từ
những nhận định trên của Đảng ta, chiến lược quân sự Việt Nam đã tiếp thêm sức
mạnh cho nhân dân ta quyết tâm đánh Mĩ và biết thắng Mĩ.
c) Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc
Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc là một vấn đề mang tính nghệ thuật
cao tro ng chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm giành thắng lợi trọn vẹn nhất
nhưng hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, chúng ta mở đầu chiến
tranh đều vào những thời điểm đáp ứng mọi điều kiện của hoàn cảnh lịch sử, do đó
1
2
Bộ Quốc Phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004. tr. 213
Giáo tình lịch sử quân sự, tập 3, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 65
75
có sức lôi quấn toàn dân tộc và có sức thuyết phục trên trường quốc tế mạnh mẽ.
Trong kháng chiến chống Pháp, mở đầu chiến tranh vào ngày 19/12/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “…Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, giặc pháp càng lần
tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa …”. Trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ, Đảng ta đã chọn đúng thời điểm sau năm 1960, chuyển từ khởi nghĩa
từng phần lên chiến tranh cách mạng, cách mạng miền Nam đã có bước trưởng
thành, đây là thời điểm sau đồng khởi nghĩa và không cho Mĩ tạo cớ phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta chọn thời điểm sau khi giành thắng
lợi ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mĩ ta chọn thời điểm kết
thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tại các thời điểm đó, thế và lực
cách mạng đều mạnh, có đủ điều kiện để quyết định kết thúc chiến tranh, tự quyết
định vận mệnh của đất nước, mà không phụ thuộc vào những yếu tố tác động
khách quan.
d) Phương châm tiến hành chiến tranh
Để chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù có sức mạnh hơn ta nhiều lần về
kinh tế, quân sự, khoa học, công nghệ, Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân
dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện trên tất cả các mặt trận quân
sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… trong đó, mặt trận quân sự giữ vai trò
quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành chiến tranh với tinh thần “tự lực cánh
sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, nhưng kháng chiến lâu dài không
đồng nghĩa với kéo dài vô thời hạn, mà phải biết lựa chọn thời điểm có lợi nhất để
kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.
e) Phương thức tiến hành chiến tranh
Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nước ta là chiến tranh cách mạng,
chính nghĩa và tự vệ. Do đó, Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiến hành chiến tranh là
chiến tranh nhân dân kết hợp giỡa địa phương với các binh đoàn chủ lực, kết hợp
chặt chẽ tiến công địch bằng hại lực lượng chính trị, quân sự; bằng ba mũi giáp công
quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng
bằng và đô thị, làm cho địch bị động, lúng tuíng trong đối phó, dẫn đến sai lầm về
chiến lược, sa lầy về chiến thuật và thất bại.
2. Nghệ thuật chiến dịch
Nghệ thuật chiến dịch, lí luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành chiến dịch và
các hoạt đọng tác chiến tương đương; bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự,
khâu nối liền giữa chiến lược quân sự và chiến thuật
Chiến dịch được hình thành trong kháng chiến chống Pháp, được đánh dấu
bằng chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947. Trong kháng chiến chống Pháp, ta đã
tiến hành hơn 40 chiến dịch ở các quy mô khác nhau và hơn 50 chiến dịch trong
kháng chiến chống Mĩ. Sự hình thành chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến
dịch, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam là toàn diện, tập trung
những vấn đề chủ yếu sau.
76
a) Loại hình chiến dịch
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, Quân đội nhân dân Việt Nam và các
lực lượng vũ trang đã tổ chức thực hành các loại hình chiến dịch:
Chiến dịch tiến công. Ví dụ: Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, chiến dịch Tây
Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975.
Chiến dịch phản công. Ví dụ: chiến dịch phản công Việt Bắc năm 1947, chiến
dịch phản công đường số 9 - Nam Lào 1971.
Chiến dịch phòng ngự. Ví dụ: chiến dịch phòng ngự Quảng Trị năm 1972
Chiến dịch phòng không , như chiến dịch phòng không Hà Nội 1972
Chiến dịch tiến công tổng hợp, như chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8
b) Quy mô chiến dịch
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ quy mô chiến dịch được phát triển
cả về số lượng và chất lược.
Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, quy mô chiến dịch của ta còn rất
nhỏ bé, lực lượng tham gia từ 1 đến 3 trung đoàn, vũ khí trang bị chiến đấu thô sơ.
Đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng
tham gia lên tới 5 đại đoàn cùng nhiều lực lượng khác.
Trong kháng chiến chống Mĩ giai đoạn đầu lực lượng chỉ có từ 1 đến 2 trung
đoàn, sau đó phát triển đến các sư đoàn. Đến cuối cuộc kháng chiến, đặc biệt là chiến
dịch Hồ Chí Minh, lực lượng bộ binh là 5 quân đoàn và nhiều quân, binh chủnh khác,
phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng. Trong hai cuộc kháng chiến, ở những
giai đoạn đầu các chiến dịch chủ yếu diễn ra ở địa hình rừng núi, nhưng giai đoạn
cuối đã diễn ra trên tất cả địa hình để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
c) Nghệ thuật chiến dịch là cách đánh chiến dịch
Thời kì đầu do so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch, bộ đội ta mới
có kinh nghiệm chiến đấu những trận đánh nhỏ lẻ, chưa có kinh nghiệm tác chiến ở
quy mô chiến dịch. Nhưng từ trong thực tiễn chiến tranh, trình độ chỉ huy và thực
hành tác chiến của bộ đội ta đã ngày càng trưởng thành. Từ chiến dịch Việt Bắc
1947 đến chiến dịch Biên Giới 1950 và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ
thuật chiến dịch đã có bước phát triển vượt bậc như: nghệ thuật lựa chọn khu vực
tác chiến chủ yếu, nghệ htuật chẩn bị thế trận chiến dịch, nghệ thuật tập trung ưu thế
lực lượng bảo đảm đánh chắc thắng trận mở màn chiến dịch, nghệ thuật xử trí chính
xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch…
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển
vượt bậc, đó là: Xác định đúng phương châm tác chiến chiến dịch, việc thay đổi
phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”
thể hiện sự phân tích khao học, khách quan tình hình địch, ta và địa hình. Xây dựng
thế trận vững chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập Điện Biên Phủ với
các chiến trường khác. Phát huy cao nhất sức mạnh tác chiến hiệp đồng các binh
chủng, tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh dứt điểm từng trận then chốt, tiêu diệt
77
từng bộ phận địch, phá vỡ từng mảng phòng ngự của chúng. Vận dụng sáng tạo
cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm kết hợp với đột
phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luần sâu, tạo thế chia cắt địch;
kết hợp các đợt đánh lớn, đánh vừa và thường xuyên vây lấn, ngày càng siết chặt
vòng vây, tạo thời cơ thực hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Trong kháng chiến chống Mĩ, nghệ thuật chiến dịch đã kế thừa những kinh
nghiệm của kháng chiến chống pháp và nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến
dịch đã chỉ đạo chiến thuật đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ
đoạn tác chiến của quânMĩ, Ngụy và chư hầu. Đặc biệt trong Tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân năm 1975, nghệ thuật chiến dịch đã có bước phát triển nhảy vọt.
Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, đảm bảo đánh địch trên thế mạnh, hình thành
sức mạnh áp đảo địch trong chiến dịch. Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đánh
chiến dịch (vận dụng hai cách đánh lần lượt và đồng loạt). Nghệ thuật phát huy sức
mạnh của các binh chủng, quân chủng trong tác chiến hiệp đồng quy mô lớn. Nghệ
thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác chiến ba thứ quân, lấy đòn đánh
lớn của chủ lực làm trung tâm phối hợp. Nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật
sáng tạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến dịch, Nghệ thuật khuếch trương kết
quả của trận then chốt trước với trận then chốt sau trong chiến dịch tiến công.
3. Chiến thuật
Chiến thuật là lý luận và thực tiễn về tổ chức và thực hành chiến đấu của phân
đội, binh đội, binh đoàn lực lượng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân
sự Việt Nam.
Chiến thuât hình thành phát triển gắn liền với lịch sử xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của quân đội ta. Sự phát triển đó là kết quả của sự chỉ đạo chiến lược,
chiến dịch, nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận chiến dấu của bộ đội ta trước
một đối tượng địch, địa hình cụ thể. Nội dung của chiến thuật được thể hiện:
a) Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật vào các trận chiến đấu
Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, lực lượng, vũ
khí trang bị của ta còn hạn chế, do đó, tư tưởng tác chiến của bộ đội ta là “quán triệt
tư tưởng tiến công, triệt để dùng du kích chiến, vận động chiến để tiêu diệt địch”
Các trận chiến đấu ở giai đoạn này chủ yếu diễn ra ở quy mô trung đội, đại đội, tiểu
đoàn, lấy đánh địch ngoài công sự là phổ biến. Chiến thuật thường vận dụng là tập
kích, phục kích, vận đông tiến công trong đó, phục kích có lợi hơn tập kích.
Các giai đoạn sau của hai cuộc kháng chiến, bộ đội ta đã trưởngt thành,
khôngg những đánh giỏi vận động chiến (đánh địch ngoài công sự), mà từng bước
vận dụng công kiên chiến (đánh địch trong công sự).
Giai đoạn cuối của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ do yêu cầu của
chiến lược, chiến dịch, phải đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của địch để giữ
vững vùng giải phóng, chiến thuật phòng ngự xuất hiện. Chiến thuật phòng ngự
được vận dụng như phòng ngự đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phòng ngự
Quảng Trị năm 1972, phòng ngự Thượng Đức năm 1874… Ngoài ra, các đơn vị còn
78
vận dụng các hình thức chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường không, hoàn
thành nhiệm vụ cấp trên giao.
b) Quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu
Giai đoạn đầu của hai cuộc kháng chiến, lực lượng tham gia các trận chiến đấu
chủ yếu trong biên chế và được tăng cường một số hỏa lực như súng cối 82mm,
DKZ… Các giai đoạn sau, quy mô lực lượng tham gia các trận chiến đấu ngày càng
lớn, đã có nhiều trận đánh hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh,
phòng không… Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều.
c) Cách đánh
Cách đánh là nội dung quan trọng nhất của lí luận chiến thuật. Mỗi binh chủng,
mỗi hình thức chiến thuật đều có những cách đánh cụ thể, phù hợp với đối tượng và
địa hình. Nội dung cách đánh trong từng hình thức chiến thuật phát triển từ cách
đánh của lực lượng bộ binh là chủ yếu đến cáh đánh hiệp đồng binh chủng. Cách
đánh của ta thể hiện tính tích cực, chủ động tiến công, bám thắt lưng địch, chia địch
ra mà đánh, trói địch lại mà diệt. Kết hợp chặt chẽ giữ hành động tiến công và
phong ngự của ba thứ quân để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao.
III. VẬN DỤNG MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ VÀO SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KÌ MỚI
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN
Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã hình thành, phát triển trong quá trình dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh dạo cách
mạng Việt Nam, nghệ thuật quân sự ngày càng phát triển, đó là nghệ thuật chiến tranh
nhân dân, nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh …
Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vẫn còn giữ nguyên giá trị để chúng
ta tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kì mới.
A. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG TÍCH CỰC TIẾN CÔNG
Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật quân sự của cha ông ta trước
đây luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động tiến công địch. Ngày nay, với sức
mạnh của cả nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự của ta
càng có điều kiện phát huy mặt mạnh của mình, khoét sâu chỗ yếu của địch để
“kiên quyết không ngừng thế tiến công”, tiến công địch vào đúng thời cơ, địa điểm
thích hợp.
Ngày nay, kẻ thù của đất nước ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
có ưu thế về tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, nhưng do tiến
hành chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, nên chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở. Trên cơ sở
đánh giá đúng mạnh, yếu của địch và ta, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của
mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt mọi hình thức và quy mô tác chiến, mọi cách
đánh, mới có thể tiến công địch một cách liên tục mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến
công trên mặt trận quân sự, mà phải tiến công toàn diện trên mọi mặt trận, đặc biệt
79
là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng
người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh.
Như vậy, trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy
lòng dũng cảm, trí thông minh sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con
người và vũ khí, nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể
giành quyền chủ động trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có
lợi nhất.
B. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC
Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ nghệ thuật quân sự
truyền thống của dân tộc. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, nghệ thuật quân sự chỉ đạo mọi hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang và
nhân dân. Đó là một nguyên tắc trong nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc.
Nguyên tắc đó phải được thể hiện cụ thể trong việc xác định phương hướng, mục
tiêu, đối tượng và thời cơ tiến công... trong kế hoạch chiến lược, chiến dịch, cũng
như từng trận đánh cụ thể.
Trong hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán
với đánh tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ
quân đều có vị trí tác dụng và có những quy luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải
phối hợp tác chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong
chiến dịch và chiến đấu. Có kết hợp đánh phân tán, rộng khắp của lực lượng vũ
trang địa phương với đánh tập trung của lực lượng cơ động, kết hợp đánh nhỏ, đánh
vừa, đánh lớn mới phát huy được uy lực của mọi vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, làm
cho binh lực của địch bị phân tán, dàn mỏng, khiến cho chúng đông mà hoá ít, mạnh
mà hoá yếu và luôn bị động đối phó ; trên cơ sở đó, thực hiện những đòn đánh quyết
định, tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho ta.
C. NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI
VÀ MƯU KẾ
Trong đấu tranh vũ trang, trước một đối tượng có sức mạnh vượt trội về quân
sự, khoa học công nghệ phải biết kết hợp chặt chẽ các yếu tố : lực lượng, thế trận,
thời cơ và mưu trí, sáng tạo. Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng nơi, đúng
lúc mới đạt hiệu quả cao, lực nhỏ hoá lớn, yếu hoá mạnh. Tạo thế, tạo lực để sẵn
sàng đánh địch khi thời cơ có lợi nhất. Đặt thế, lực vào đúng thời cơ có lợi thì “sức
dùng một nửa mà công được gấp đôi”. Muốn đánh thắng, còn phải dùng mưu kế,
hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta. Luôn chú ý lừa địch và giữ bí
mật, bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện lực lượng
quân sự địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao.
Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các
yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức
mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam,
trong đó, cần đặc biệt chú trọng “nhân hoà”. Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời,
mưu và các yếu tố khác, ta mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp, đánh thắng kẻ thù
có kinh tế, quân sự mạnh khi chúng liều lĩnh xâm lược nước ta.
80
D. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG LẤY ÍT ĐÁNH NHIỀU, BIẾT TẬP TRUNG
ƯU THẾ LỰC LƯỢNG CẦN THIẾT ĐỂ ĐÁNH THẮNG ĐỊCH
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn phải chống
lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo
ra nghệ thuật “lấy ít địch nhiều”, nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những
thời điểm quan trọng để đánh thắng quân xâm lược. Ngày nay, vận dụng tư tưởng
lấy ít đánh nhiều, ta phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn dân, của cả ba
thứ quân, tạo ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế.
Mặt khác, phải tận dụng địa hình, tận dụng được yếu tố bí mật, bất ngờ, tiết kiệm
được lực lượng để đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
E. KẾT HỢP TIÊU HAO, TIÊU DIỆT ĐỊCH VỚI BẢO VỆ VỮNG CHẮC
CÁC MỤC TIÊU
Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ thể khác nhau, nhưng mục
đích chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là
tiêu diệt lực lượng địch phải đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu. Muốn giành
thắng lợi triệt để trong chiến tranh, chúng ta phải kết hợp đánh tiêu hao với đánh
tiêu diệt lớn quân địch. Đánh tiêu hao rộng rãi bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến
tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện cho tác chiến tập trung của chiến tranh
bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện đánh lớn, tiêu diệt lớn quân địch. Đi đôi với
tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của địch, phải bảo vệ vững chắc mục tiêu của ta, là vấn
đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu nghệ thuật quân sự của các thế hệ ông cha ta, chúng ta có quyền tự
hào về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ
non sông đất nước. Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng kẻ thù còn đó,
chúng đang tìm mọi thủ đoạn để xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy,
trách nhiệm của sinh viên rất nặng nề đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trước hết, mỗi sinh viên cần phát huy tinh thần tự lực, vượt qua khó khăn để
hoàn thành nhiệm vụ học tập, đặc biệt là không ngừng bồi đắp lòng yêu quê hương,
đất nước. Mặt khác, phải phấn đấu, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, sẵn
sàng làm nhiệm vụ khi Tổ quốc cần.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Nêu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta? Làm rõ nội dung nghệ thuật chiến
tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc ?
2. Nêu nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta? Làm rõ nội dung nghệ thuật lấy
nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh?
3. Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo? Làm rõ nội dung chiến lược quân sự ?
81
HỌC PHẦN II.
CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
BÀI 8.
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”,
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Chủ nghĩa đế quốc cho rằng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là nguy cơ, là hiểm
hoạ đối với chúng. Do vậy khi chủ nghĩa xã hội mới được hình thành trên cơ sở lí
luận thì chúng đã kiên quyết chống phá, và khi chủ nghĩa xã hội được thiết lập ở
Liên Xô và các nước Đông Âu thì chúng càng điên cuồng chống phá chủ nghĩa xã
hội. Nhưng sau nhiều năm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế
giới chúng đã rút ra bài học là không thể dùng sức mạnh quân sự đơn thuần để chiến
thắng chủ nghĩa xã hội mà cần sử dụng các biện pháp tổng lực: Chống phá về kinh
tế chính trị, văn hoá, văn nghệ, quân sự, ngoại giao “Diễn biến hoà bình” thì mới có
thể chiến thắng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy từ giữa thế kỷ XX, chiến lược “Diễn
biến hòa bình” bắt đầu hình thành. Ban đầu “Diễn biến hòa bình” được sử dụng như
một biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược “ngăn chặn” , “phản ứng linh hoạt”... của
chủ nghĩa đế quốc để chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới.
Gần đây, “Diễn biến hòa bình” đó trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động âm mưu lật đổ chế độ chính trị - xã hội các nước xã hội
chủ nghĩa. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đó gúp phần quyết
định làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Hiện nay: Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện “Diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ chống phá quyết liệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó Việt Nam là
một trọng điểm. Vì vậy chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ là
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA
CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
A. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
“Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các
nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi
quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành1.
Mục tiêu cơ bản của chiến lược là: Nhằm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội hiện thực,
xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005,
tr. 303
1
82
Thủ đoạn để thực hiện mục tiêu trên rất đa dạng, vừa trắng trợn vừa tinh vi,
vừa công khai vừa lén lút. Chủ nghĩa đế quốc thường sử dụng các thủ đoạn như:
Xuyên tạc lịch sử, bội nhọ Đảng Cộng sản, tuyen truyền tư tưởng tư sản và tô hồng,
ca tụng xã hội tư sản hiện đại; bao vây, cô lập kinh tế, đồng thời sử dụng viện trợ để
gây sức ép, thao túng, làm chuyển hóa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo con đường
tư bản chủ nghĩa; dùng các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề dân tộc,
tôn giáo kích động gây mâu thuẫn nội bộ, kéo dài, mua chuộc các phần tử thoái hóa,
biến chất, bất mãn, bất đồng quan điểm, xây dựng và cài cắm lực lượng chống đối từ
bên trong, tạo nên lực lượng chống chủ nghĩa xã hội từ trong lòng các nước xã hội
chủ nghĩa.
Những thủ đoạn trên của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tác động
toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng - văn hóa, quốc phòng
- an ninh, đối ngoại; phối hợp tác động cả bên ngoài và bên trong, cả tổ chức và con
người, với tất cả các tầng lớp, thành phần xã hội trong các nước xã hội chủ nghĩa để
gây nên “tự diễn biến” từ từ, thầm lặng, làm mục rỗng từ bên trong, dẫn tới sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh
phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa . Chiến lược “Diễn biến hòa bình”
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai
đoạn khác nhau.
- Giai đoạn từ 1945 - 1980:
+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của
một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh
chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược toàn cầu: “Ngăn chặn” sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do Tổng thống Mỹ Truman khởi
xướng ngày 12/3/1947, trong đó coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây,
can thiệp vũ trang, cùng với tiến hành chiến tranh để “ngăn chặn” ảnh hưởng của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Trước đó ngày 22/12/1946, Kenman đại diện lâm thời của Hoa Kỳ tại Liên
Xô trình lên chính phủ Mĩ bức điện 8000 từ về kế hoạch chống Liên Xô toàn diện
hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; thậm chí dùng vũ
lực can thiệp. Cũng trong thời gian này, giám đốc CIA tuyên bố: Mục tiêu là phải
reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí thay giá trị
của Liên Xô bằng đồ rởm và tìm mọi cách ủng hộ và nâng đỡ đám “nghệ sĩ” để họ
truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội vào Liên Xô. Tóm lại,
mọi thứ vô đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí chống Liên Xô được nâng lên hàng
quốc sách ở Mĩ, gọi là “chiến tranh tâm lí tổng lực”.
+ Tháng 4/1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng
viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các Đảng Cộng sản để
phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu,
83
hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Trong hai năm 1949 - 1950 Mĩ đó chi 50 triệu đô la
cho hoạt động chiến tranh tâm lí chống Liên Xô
+ Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do có đài phát thanh riêng. Tháng 7
năm 1947, khi đó trở về Oasinhtơn giữ chức Phó giám đốc học viện quốc phòng,
chuyên trách về đối ngoại, Kennan lại trình bầy những biện pháp bổ sung cho chiến
lược “ngăn chặn”: bên cạnh việc tăng cường vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực, cần
tăng cường viện trợ cho các nước xung quang Liên Xô.
Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Truman ý tưởng “Diễn biến hòa
bình” đó được bổ sung cho chiến lược tiến công quân sự của Mĩ chống Liên Xô.
+ Từ năm 1953, Aixenhao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ
II đến năm 1961, chính phú Mĩ đó đề ra chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” Aixenhao
dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện “ngăn chặn” chủ nghĩa
cộng sản. Mĩ đó đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp vào nội bộ chính trị các nước
trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính
để phá hoại chủ nghĩa xã hội và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang” của
Kenman được tán dương và hưởng ứng, bổ sung bởi các học giả của tập đoàn thống
trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng “hòa bình giải phóng” của AlenDalet. Như vậy, ý tưởng
“Diễn biến hòa bình” được bổ sung và trở thành biện pháp của chiến lược “Ngăn
chặn” của đế quốc Mĩ.
+ Tháng 01/1961 Kennơđi thay Aixenhao và đưa ra chiến lược “phản ứng linh
hoạt” cùng chiến lược “hoà bình”, thực hiện chính sách “mũi tên và cành ô liu”. Từ
đây, “Diễn biến hòa bình” bước đầu trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế
quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự.
+ Tháng 12/1963 Kennơđi bị ám sát, phó tổng thống Giôn xơn thay thế, kiêm
nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc đẩy chạy đua vũ trang, triệt để dùng sức mạnh
quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà điển hình là: các vụ
bạo loạn ở Cộng hòa dân chủ Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956), Tiệp Khắc
(1968). Do lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên bang Xô Viết lớn
mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ ạt”
và tìm kiếm những biện pháp mới đi cùng các hoạt động quân sự chống phá hệ
thống xã hội chủ nghĩa.
+ Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục bộ”
đưa 50.000 quân vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho thất bại. Tháng 3/1968
GiônXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom Miền Bắc Việt Nam, Phải tiến hành
đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến lược phản ứng linh hoạt” bị phá sản.
+ Từ 1968 - 1972 Nichxơn trúng cử tổng thống trong bối cảnh so sánh lực
lượng Mĩ - Xô thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược đang ở thế cân bằng,
thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam. Nichxơn thực hiện chiến lược
quân sự “răn đe thực tế” mục đích là ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trên toàn thế giới.
84
+ Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao “cây gậy và củ
cà rốt” tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đó chủ trương tăng cường
tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa , tiến hành thẩm thấu tư tưởng văn
hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy tiến trình, “Diễn biến hòa
bình” đối với các nước xã hộ chủ nghĩa. Chính Ních xơn đã nêu ra chính sách đối
ngoại của Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay
cho đối đầu. Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Níchxơn để thực hiện “Diễn
biến hòa bình” .
+ Tháng 12/1957, Tổng thống Aixenhao tuyên bố “Mĩ sẽ giành thắng lợi bằng hòa
bình” và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa .
- Giai đoạn từ năm 1980 đến nay:
+ Chủ nghĩa tư bản đạt được ổn định và có bước phát triển. Nhiều nước xã hội
chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải cách sai lầm, dẫn
đến khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc hoàn chỉnh
chiến lược “Diễn biến hòa bình” và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp đổ Liên Xô,
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Có thể
lấy năm 1988, Níchxơn xuất bản cuốn sách “1999, chiến thắng không cần chiến
tranh” làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” .
+ Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển hình là Việt
Nam - Trong nhiệm kỳ 2 (những năm 80) của tổng thống Rigân, điều chỉnh chiến
lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự” sang chiến lược “Diễn biến hòa
bình” với các nước xã hội chủ nghĩa mà khởi nguồn là chính sách ngoại giao của
cựu ngoại trưởng Mĩ Hen.Kitxingiơ và công cuộc cải tổ chính trị của nguyên
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M.C.Gobachov mà kết quả của nú là sự tan
ró của các nước xã hộ chủ nghĩa ở Đụng Âu và Liên Xô, sự thoái trào của chủ
nghĩa xã hội.
+ Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược “Diễn biến
hòa bình” để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Các thế
lực thự địch cho rằng, phải làm xói mòn tư tưởng, đạo đức và niềm tin cộng sản của
thế hệ trẻ để “tự diễn biến”, tự suy yếu, dẫn đến sụp đổ, tan ró chế độ xã hội chủ
nghĩa ở một số nước còn lại.
B. BẠO LOẠN LẬT ĐỔ
Là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay
lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối
loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương
hay trung ương1.
- Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang hoặc
bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang.
Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005,
tr. 63.
1
85
- Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động gắn liền với chiến lược “diễn biến hòa bình” để xoá bỏ chủ nghĩa
xã hội. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường kích động những
phần tử quá khích, làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội ở một số khu vực và trong
một thời gian nhất định (thường chỉ diễn ra trong không gian hẹp và thời gian ngắn)
tiến tới lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức độ, từ quy mô nhỏ đến
lớn. Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất
nước, trọng điểm là những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hoá của Trung
ương và địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà cơ
sở chính trị của địa phương yếu kém.
II. CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA
CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
A. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng
điểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội.
Từ đầu năm 1950 - 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để xâm
lược và muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng
đó bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đũn tấn cụng bằng quân sự để xâm
lược Việt Nam không thành công, chúng đó chuyển sang chiến lược mới như “bao
vây cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao” kết hợp với “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Lợi dụng thời kì nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ xã hộ chủ nghĩa ở
Liên Xô, Đông Âu, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”
đối với Việt Nam.
Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước theo định hướng xã hộ chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thự địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn
chống phá cách mạng nước ta. Chúng đó tuyên bố xoá bỏ “cấm vận kinh tế” và
bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt
động xâm nhập như: “Dính líu”, “ngầm”, “sâu, hiểm” nhằm chống phá cách mạng
Việt Nam.
Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử
dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam là thực hiện âm mưu xoá bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con
đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc,... Để đạt được mục tiêu
đó, các thế lực thù địch không từ bỏ bất kì thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo
86
lực phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,... Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện,
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh
vi khó nhận biết, cụ thể:
- Thủ đoạn về kinh tế: Chúng muốn chuyển hoá nền kinh tế thị trường định
hướng xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam dần dần theo quỹ đạo kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa. Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trũ
chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu
tư vốn, chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để đặt ra các điều kiện và gây sức ép
về chính trị, từng bước chuyển hoá Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.
- Thủ đoạn về chính trị: Các thế lực thù địch kích động đũi thực hiện chế độ
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, “tự do hoá” mọi mặt đời sống xã hội, từng
bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hộ chủ nghĩa
ở Việt Nam. Chúng tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước
và ngoài nước, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”
để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Tận dụng những sơ hở trong đường lối của
Đảng, chính sách của nhà nước ta, sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh
quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Thủ đoạn về tư tưởng - văn hoá: Chúng thực hiện nhiều hoạt động nhằm xoá
bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phá vỡ nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức truyền bá tư tưởng tư sản vào các tầng lớp nhân
dân. Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập những sản phẩm văn hoá đồi
trụy, lối sống phương Tây, để kích động lối sống tư bản trong thanh niên từng bước
làm phai mờ bản sắc văn hoá và giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam.
- Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc: Chúng lợi dụng những khó khăn
ở những vùng đồng bào dân tộc ít người, những tồn tại do lịch sử để lại, trình độ dân
trí của một bộ phận đồng bào còn thấp và những khuyết điểm trong thực hiện các
chính sách dân tộc, tôn giáo của một bộ phận cán bộ để kích động tư tưởng đòi li
khai, tự quyết dân tộc.
Lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để truyền đạo trái
phép để thực hiện âm mưu tôn giáo hoá dân tộc, từng bước gây mất ổn định xã hội
và làm chệch hướng chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Các thế lực thù địch lợi dụng
xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện xâm nhập, tăng cường hoạt động tình
báo thu thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng trong lĩnh vực Quốc phòng và An ninh và đối với lực lượng vũ trang. Đối
với quân đội và công an, các thế lực thù địch chủ trương vô hiệu hoá sự lãnh đạo
của Đảng với luận điểm “phi chính trị hoá” làm cho các lực lượng này xa rời mục
tiêu chiến đấu.
87
- Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại: Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương
Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế
giới để tuyên truyền và hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Hạn
chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới,
tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Đặc biệt, chúng rất coi
trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các
nước xã hội chủ nghĩa, hạ thấp uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
- Kích động, phối hợp hành động của lực Iượng phản động trong nước và phản
động ngoài nước
Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng
trực tiếp chống phá ta từ bên trong.
Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức
phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động,
vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong
hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề
kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng,
gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình
hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc
hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là
“hậu bình thường hoá” quan hệ Việt - Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống
ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại - tấn công mãnh liệt vào Việt
cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như: Chính
sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án Việt
Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính sách
đó, chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu cụ thể. Đối
với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”.
Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn
luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền thông nhằm
“đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm của đồng bào
trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để liên kết các hội
đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và
liên kết hai lực lượng đó lại…
Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên
tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình
huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc
nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân
dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp,
lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và
chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.
88
B. BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
- Các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu
vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất món trong nước gây rối,
làm mất ổn định xã hội ở một số vực nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam bộ của Việt Nam. Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo, mua
chuộc quần chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa
phương. Vùng Tây Bắc, chúng kích động người H’Mông để thành lập khu tự trị
riêng. Vùng Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga, chờ
thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch đó sử dụng để tiến hành bạo loạn lật
đổ chính quyền ở một số địa phương nước ta là: kích động sự bất bình của quần
chúng, dụ dỗ và cưỡng ép nhân dân biểu tình làm chỗ dựa cho lực lượng phản động
trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp khống chế cơ quan quyền lực của địa
phương. Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng
phạm vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để
tăng sức mạnh.
- Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm
mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, quy mô, địa
điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc xử lý trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ
là: nhanh gọn, kiên quyết, linh hoạt, đúng đối tượng, sử dụng lực lượng và phương
thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng kéo dài.
III. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG CHÂM
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN
LẬT ĐỔ
A. MỤC TIÊU
Mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch tiến
hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ xã hộ chủ nghĩa ở nước ta theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
là phải làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của kẻ
thù đối với cách mạng Việt Nam. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước,
tạo môi trường hòa bình để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc.
B. NHIỆM VỤ
Đại hội XI: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch”1. Đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 57
89
các nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh hiện nay, đồng thời, còn là nhiệm vụ thường
xuyên và lâu dài. Chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch đối với nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu. Xử lí nhanh chóng, hiệu
quả khi có bạo loạn xảy ra và luôn bảo vệ tốt chính trị nội bộ.
Đại hội XII: “Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin,
quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”1.
C. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
- Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực.
Thực chất chiến lược diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch sử dụng để
chống phá cách mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phản cách
mạng của chủ nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó là nhằm xoá bỏ sự lãnh
đạo của Đảng, làm sụp đổ chế độ xã hộ chủ nghĩa ở Việt Nam và chuyển hoá theo
quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do đó, cuộc đấu tranh sẽ hết sức gay go, quyết liệt và
lâu dài trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Chống “diễn biến hòa bình” là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ Quốc
phòng và An ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch sử dụng
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều đũn tấn công “mềm” trên tất cả các
lĩnh vực để chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, Đảng ta đó xác định nội dung bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là toàn diện, coi trọng giữ vững an
ninh kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh chống
“diễn biến hòa bình”.
Các thế lực thù địch sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đánh vào mọi tầng lớp nhân dân lao động, mọi tổ
chức chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực. Do đó, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
D. PHƯƠNG CHÂM TIẾN HÀNH
- Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững bên trong với chủ động ngăn chặn, phòng
ngừa và chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biền hoà
bình” của các thế lực thù địch. Do đó, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân phải thấy
1
90
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 201
rừ tớnh chất nham hiểm của chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Từ đó, phải nâng cao
cảnh giác cách mạng, chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong
chiến lược “Diễn biến hòa bình” của kẻ thù nhằm chống phá cách mạng nước ta.
- Chủ động, kiên quyết, khôn khéo xử lí tình huống và giải quyết hậu quả khi có
bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bao giờ cũng chủ động chống phá công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng bước làm suy yếu từ bên trong và khi có thời cơ
tiến hành lật đổ chế độ xã hội. Thực tế chứng minh, chủ động tấn công sẽ tạo thuận
lợi giành thắng lợi trong chiến tranh nói chung và trong phòng chống chiến lược
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta.
- Xây dựng tiềm lực vững mạnh của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của
kẻ thù đối với Việt Nam. Trên thực tế, kẻ thù thường cấu kết lực lượng phản động ở
ngoài nước với những phần tử cực đoan, chống đối ở trong nước và bằng nhiều thủ
đoạn tinh vi và thâm hiểm, tổng hợp. Do vậy, phải thường xuyên coi trọng xây dựng
tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội, xõy dựng lực lượng vũ trang
vững mạnh về mọi mặt. Chú trọng tuyên truyền giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân
lao động hiểu rừ õm mưu, thủ đoạn cơ bản trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”
mà kẻ thù sử dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN
HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
A. ĐẨY LÙI TỆ QUAN LIÊU, THAM NHŨNG, TIÊU CỰC TRONG XÃ
HỘI, GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRÊN CÁC LĨNH
VỰC, CHỐNG NGUY CƠ TỤT HẬU VỀ KINH TẾ
Muốn ngăn chặn, đấu tranh đạt hiệu quả, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn
trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với nước ta thì
phải giữ vững sự ổn định xã hội và làm cho đất nước ngày càng vững mạnh về mọi
mặt. Tệ quan liêu, tham nhũng được kẻ thù lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ,
kích động nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương,
chống Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định xã hội. Do đó, việc đẩy lùi tệ quan
liêu, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên
các lĩnh vực, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và
thúc đẩy yếu tố bên trong của đất nước luôn ổn định.
B. NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ
LỰC THÙ ĐỊCH, NẮM CHẮC MỌI DIỄN BIẾN KHÔNG ĐỂ BỊ ĐỘNG VÀ
BẤT NGỜ
Chủ động nắm địch, phát hiện kịp thời những âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu. Do vậy phải giáo dục rộng rãi trong toàn xã hội để mọi người dân Việt Nam,
mọi tổ chức chính trị - xã hội đều nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn trong chiến
91
lược “Diễn biến hoà bình” của kẻ thù chống phá cách mạng Việt Nam. Cần phải đấu
tranh phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác cách mạng trong một bộ phận
nhân dân, sinh viên trước âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm trong chiến lược “Diễn biến
hoà bình” của kẻ thù chống phá nước ta hiện nay. Mỗi người dân Việt Nam phải có
tri thức, có bản lĩnh chính trị, có phương pháp xem xét phát hiện và báo cáo kịp thời
thủ đoạn chống phá của kẻ thù cho cơ quan chức năng xử lí, không để bất ngờ.
C. XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC CHO TOÀN DÂN
Đối với nước ta, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn
biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mĩ và các thế lực thù địch lợi
dụng sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu, lợi dụng cuộc chiến
chống khủng bố, tấn công quyết liệt vào độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân
tộc, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta. Vì vậy, khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh
giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các
thành quả cách mạng.
Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân
phải mang tính toàn diện, nhưng tập trung vào : Giáo dục tình yêu quê hương, đất
nước ; tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá đất
nước ta ; quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới ; tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc,
quyết tử để Tổ quốc quyết sinh... hình thức giáo dục phải đa dạng, phù hợp với
từng đối tượng.
D. XÂY DỰNG CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VỮNG MẠNH VỀ MỌI
MẶT
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh sẽ bảo đảm cho chế độ xã hội
luôn ổn định, phát triển. Do vậy, phải luôn luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vững mạnh ; theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện
nay là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp nhân dân, mọi thành phần
kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi miền đất nước ; đoàn kết trong Đảng
và ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, người trong nước và
người đang sinh sống ở nước ngoài.
Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng
viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở các cấp, nhất là ở cơ sở. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả, nền nếp hoạt động
của các tổ chức quần chúng... Duy trì nghiêm kỉ luật của Đảng ở các cấp, xử lí kịp
thời những đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm, khen thưởng kịp thời những
đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương, Điều lệ
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
92
E. CHĂM LO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG Ở ĐỊA PHƯƠNG
VỮNG MẠNH
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên phải rộng khắp ở tất cả
các làng, bản, phường, xã, thị trấn, các cơ quan, tổ chức và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bảo đảm triển khai thế trận phòng thủ ở các địa phương, cơ sở. Phải chú
trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng nhưng lấy chất
lượng là chính.
Ở mỗi địa phương, phải chú trọng kết hợp phát động phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở. Quần chúng là nền
tảng, là gốc rễ của dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì
vậy, quần chúng cũng là đối tượng để kẻ thù lợi dụng, mua chuộc nhằm thực hiện
âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ nhằm
chống phá cách mạng nước ta.
F. XÂY DỰNG, LUYỆN TẬP CÁC PHƯƠNG ÁN, CÁC TÌNH HUỐNG
CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA ĐỊCH
Mỗi thủ đoạn, hình thức, biện pháp mà kẻ thù sử dụng trong chiến lược “Diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, cần có phương thức xử lí cụ thể, hiệu quả.
Khi mỗi tình huống bạo loạn xảy ra, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân và của cả hệ thống chính trị, xử trí theo nguyên tắc nhanh gọn - kiên quyết - linh
hoạt - đúng đối tượng - không để lan rộng, kéo dài. Từ đó, xây dựng đầy đủ luyện
tập các phương án sát với diễn biến từng địa phương, từng đơn vị, từng cấp, từng
ngành. Hoạt động xử lí bạo loạn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của
chính quyền, các ngành, quân đội và công an làm tham mưu.
G. ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT
NƯỚC VÀ CHĂM LO NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CHO
NHÂN DÂN LAO ĐỘNG
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là để tạo ra cơ sở vật chất, phát triển lực lượng sản xuất
và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ; đồng thời, là điều kiện
để tăng năng suất lao động của xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân lao động, để tạo nên sức mạnh của thế trận “lòng dân”.
Những giải pháp trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một chỉnh
thể thống nhất nhằm đấu tranh ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù sử dụng để chống phá cách mạng Việt
Nam hiện nay. Vì vậy trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ này không nên coi
nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một giải pháp nào. Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước,
đồng thời cũng là một đối tượng mà các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng,
chống phá nhằm làm suy thoái về đạo đức, lối sống và phai nhạt niềm tin, lí tưởng
xã hộ chủ nghĩa. Vì vậy cần phải có nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành công
93
dân tốt, cống hiến cho đất nước, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, kiên quyết không để kẻ thù lợi dụng, kịp thời phát hiện và tích cực đấu tranh,
ngăn ngừa, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trong chiến lược “Diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ, góp phần thực hiện thực thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội đã và đang
thực hiện âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ để chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chúng luôn coi Việt Nam là một trọng điểm.
Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ
tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù thấy được tính chất phức tạp,
quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết, kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta xác định, chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ
cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày mục tiêu, nhiệm vụ phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”,
bạo loạn lật đổ ở nước ta hiện nay?
2. Trình bày quan điểm và phương châm phòng chống chiến lược “Diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ ở nước ta hiện nay?
94
BÀI 9.
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ, LỰC LƯỢNG DỰ BỊ
ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc, ở bất kỳ giai đoạn nào, thời đại
nào, dân tộc ta cũng có một truyền thống đoàn kết bền vững, một tinh thần. Những
điều đó đã viết lên lịch sử oai hùng của dân tộc với những chiến công hiển hách.
Trải quan thời gian, lịch sử của dân tộc luôn được viết thêm những trang mới huy
hoàng. Các thế hệ đi sau luôn kế thừa và phát huy truyền thống của cha ông trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong các cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền, chiến tranh giải phóng dân
tộc trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kế thừa và phát triển
những truyền thông quân sự quốc phòng lên một bước mới. Từ những kinh nghiệm
và nững bài học xương máu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước và yêu cầu của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay mà ta có thể khẳng định rằng xây dựng nền quốc
phòng toàn dân với các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và động viên
công nghiệp quốc phòng vững mạnh là nhiệm vụ chiến lược và thường xuyên lâu
dài, vừa khẩn trương cấp bách trong cục diện đất nước ngày nay, đó là nhiệm vụ của
toàn dân, toàn quân ta.
I. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ
A. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA LỰC LƯỢNG
DÂN QUÂN TỰ VỆ
1. Khái niệm
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quân chúng, không thoát ly sản xuất,
công tác, vừa là dân lại vừa là quân, vừa có nghĩa vụ xây dựng đất nước vừa có
nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ quốc. Là một trong các thành phần của lực lượng vũ
trang nhân dân, được tổ chức rộng rãi trong phạm vi toàn quốc. Đặt dưới sự lãnh
đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền, sự chỉ huy thống nhất
của quân đội mà trực tiếp là cơ quan quân sự địa phương các cấp. Lực lượng này
được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
gọi là tự vệ (Điều 1 Luật Dân quân tự vệ).
2. Vị trí, vai trò (Điều 8)
- Dân quân tự vệ là một lực lượng chiến lược trong chiến tranh nhân dân,
quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ địa phương.
Đánh giá về vai trò dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân quân,
tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức
95
tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng
đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”1.
- Trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện hai
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta
phải đối phó với chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh
thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Do đó, lực lượng dân quân tự vệ là một
trong những công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo
vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân tại địa
phương, cơ sở.
3. Nhiệm vụ
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ
sở; phối hợp với các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quân, cảnh sát biển và lực lượng
khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền
trên các vùng biển Việt Nam.
- Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng
khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ;
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước.
- Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm
vụ phòng thủ dân sự khác.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây dựng cơ sở
vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, cơ sở.
- Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Luật Dân quân tự vệ quy định dân quân tự vệ có 6 nhiệm vụ, so với Pháp lệnh
năm 2004 thêm 1 nhiệm vụ (nhiệm vụ 5). Các nhiệm vụ còn lại được quy định đầy
đủ, chặt chẽ hơn và sát với yêu cầu các nhiệm vụ của dân quân tự vệ.
B. NỘI DUNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ
1. Phương châm xây dựng: Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “vững
mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”.
- Vững mạnh: Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị tư
tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế trang
bị hợp lí, thống nhất, có kỉ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu tốt. Mỗi
tổ chức dân quân tự vệ phải luôn vững vàng.
- Rộng khắp: Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở hầu hết các làng, bản,
xóm, ấp xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có tổ chức Đảng,
1
96
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.132
chính quyền và có dân, đều phải tổ chức dân quân tự vệ, kể cả các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều
kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức dân quân tự vệ nếu có yêu cầu thì giám đốc
doanh nghiệp đề nghị và được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung
ương) đồng ý thì công dân được tham gia dân quân tự vệ ở địa phương (nơi cư trú).
Giám đốc doanh nghiệp phải bảo đảm thời gian và tạo điều kiện cho công nhân
tham gia dân quân tự vệ hoạt động.
- Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ những công
dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các quy định ở địa phương, có sức khoẻ phù hợp.
2. Tổ chức, biên chế, trang bị
Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải phù hợp
với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh thời bình, thời chiến, đặc
điểm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và điều kiện cụ thể của từng bộ, ngành, địa
phương và cơ sở.
- Về tổ chức: Dân quân tự vệ có 2 lực lượng chính: Lực lượng nòng cốt (lực
lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu).
Lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt: Bao gồm dân quân tự vệ bộ binh, binh
chủng và dân quân tự vệ biển (đối với vùng biển), được tổ chức thành lực lượng cơ
động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng điểm về quốc
phòng an ninh, biên giới ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu cao thì được xem
xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực.
Nhiệm vụ của lực lượng cơ động là chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi viện cho
lực lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu trên địa bàn địa
phương khác. Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là chiến đấu, sẵn sàng chiến
đấu trên địa bàn địa phương theo kế hoạch, phương án, khi cần có thể tăng cường
cho lực lượng chiến đấu cơ động.
Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ nòng
cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi quy định (nam
từ đủ 18 đến hết 45, nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi).
Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả chiến đấu,
bảo vệ và sơ tán nhân dân.
- Biên chế: Biên chế dân quân tự vệ được thống nhất trong toàn quốc. Số lượng
cán bộ, chiến sĩ từng đơn vị do Bộ Quốc phòng quy định. Về quy mô: Tổ chức gồm:
Tổ, Tiểu đội, Khẩu đội; Trung đội; Đại đội, Hải đội; Tiểu đoàn, Hải đoàn; Quy mô
tổ chức: Thôn, Xã, Huyện, Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương…
- Vũ khí trang bị của dân quân tự vệ: Dân quân tự vệ được trang bị vũ khí,
công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật. Việc trang bị, chế độ đăng ký quản lý, sử
dụng vũ khí công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật của dân quân tự vệ theo quy
định của pháp luật.
97
Vũ khí trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn: Do Bộ Quốc phòng cấp, các
địa phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song dù từ nguồn nào, vũ khí trang
bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản lý. Do vậy,
phải được đăng ký, quản lý, bảo quản chặt chẽ; sử dụng đúng mục đích và đúng quy
định của pháp luật.
Vũ khí, trang bị phải được quản lý tập trung tại trụ sở cấp xã, nơi làm việc
của ban chỉ huy quân sự cơ quan, phải bảo dưỡng thường xuyên và có tủ sắt cất
giữ, cơ quan quân sự các cấp tăng cường công tác kiểm tra vũ khí trang bị của dân
quân tự vệ.
3. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự
- Giáo dục chính trị: Nhằm làm cho mọi người nâng cao nhận thức về chính
trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó
phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ quê
hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình.
Nội dung giáo dục cần tập trung:
+ Không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giác ngộ giai cấp
cho cán bộ, chiến sỹ dân quân tự vệ, trên cơ sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác
cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
+ Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa; mục tiêu lý tưởng của Đảng. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng và
nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố quốc
phòng - an ninh, chống “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch: công tác quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Một số nội dung cơ bản về hiến pháp, pháp luật, luật dân quân tự vệ, nội
dung phương pháp tiến hành vận động quần chúng...
+ Trong thời bình, giáo dục theo kế hoạch hàng năm, gắn với huấn luyện quân
sự. Khi cần thiết hoặc có chiến tranh, thời gian giáo dục chính trị có thể kéo dài từ
hai đến sáu tháng liên tục theo chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu huấn luyện
do Bộ quốc phòng quy định.
Thời gian giáo dục chính trị khoảng 15% - 20% so với tổng số thời gian huấn
luyện chung của lực lượng dân quân tự vệ.
- Huấn luyện quân sự
Hàng năm lực lượng dân quân tự vệ được huấn luyện theo nội dung chương
trình do Bộ Quốc phòng quy định chung, các nội dung phù hợp và sát với cơ sở do
chỉ huy quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể.
+ Mục đích nhằm nâng cao kiến thức về quân sự cho lực lượng dân quân tự vệ.
Sẵn sàng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ thôn, xóm, làng xã, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
+ Thời gian huấn luyện quân sự khoảng 80 - 85% so với tổng thời gian quy
định, trong đó kỹ thuật các quân binh chủng 35%, hậu cần quân y khoảng 10%.
98
Sau mỗi khoá huấn luyện, dân quân tự vệ đều phải kiểm tra và được cấp giấy
chứng nhận theo phân cấp quản lý.
C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân quân tự vệ
- Cơ sở: Xuất phát từ vai trò của giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của
dân quân tự vệ. Từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới rất
nặng nề. Từ âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù…
- Nội dung giáo dục:
+ Phải thường xuyên giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược xay
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi
người đối với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh...
+ Cần tập trung phổ biến luật dân quân tự vệ.
+ Nghị định, thông tư về thi hành luật dân quân tự vệ cho các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân, để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đúng về công
tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Đó là cơ sở để huy động sức mạnh của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng dân quân tự vệ, làm cho công tác
dân quân tự vệ trở thành việc làm thường xuyên của dân, do dân, vì dân.
2. Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn địa phương trong xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ
- Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là trách nhiệm chung của các cấp, các
ngành và của toàn dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của địa phương, tỉnh, (thành
phố), huyện (quận), xã (phường).
- Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ phải được kết hợp với các hoạt động phục
vụ nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh tại địa phương. Một mặt thông qua hiệu quả
hoạt động phát hiện các ưu điểm, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao
chất lượng mọi mặt của các đơn vị dân quân tự vệ.
- Mặt khác, có tác dụng kiểm tra và thúc đẩy trách nhiệm của các cấp, các
ngành ở địa phương đối với xây dựng dân quân tự vệ.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ.
Kết hợp lực lượng dân quân tự vệ với các thành phần lực lượng khác nhất là lực
lượng an ninh chuyên trách, trong xây dựng thế trận Quốc phòng và An ninh trên
địa bàn, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động, chiến đấu và công tác.
3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh
toàn diện
- Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là xây dựng địa phương vững mạnh
trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó có một nội dung quan
trọng là xây dựng về quốc phòng - an ninh.
99
- Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nội dung quốc phòng làm tốt
sẽ bảo đảm sự ổn định ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần
xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện.
- Ngược lại, cơ sở vững mạnh toàn diện là môi trường xã hội có tính quyết định
đến xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh; là hậu phương trực tiếp vững
chắc của lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu ở cơ sở, bảo đảm cho lực lượng dân
quân tự vệ luôn sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
4. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với lực lượng dân quân tự vệ
- Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm chăm sóc của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với lực lượng dân quân tự vệ.
- Trước mắt, cần phối hợp các ban ngành tổ chức hướng dẫn, thực hiện tốt chế
độ, chính sách, chế độ khen thưởng, ngân sách bảo đảm trong tổ chức huấn luyện,
hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ đã được pháp lệnh về dân quân tự vệ và
Nghị định của chính phủ số 184/CP ngày 02/11/ 2004 quy định.
II. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN
A. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN
1. Khái niệm
Lực lượng dự bị động viên gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật đã
xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội duy trì tiềm
lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc.
Quân nhân dự bị gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ
quan, binh sĩ dự bị. Phương tiện kỹ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường, xếp
dỡ, thông tin liên lạc, y tế và một số loại phương tiện khác. Danh mục phương tiện
kỹ thuật do Chính phủ quy định.
Quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng
thường trực của quân đội, thông qua các đơn vị dự bị động viên. Trong thời bình,
lực lượng dự bị động viên được đăng kí, quản lý, huấn luyện theo chương trình quy
định và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
2. Vị trí, vai trò
- Công tác xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên giữ vị trí rất quan
trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là một trong những nhiệm
vụ cơ bản nhất góp phần xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận
chiến tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở rộng lực lượng quân đội
khi chuyển đất nước sang trạng thái chiến tranh.
- Lực lượng dự bị động viên phối hợp chặt chẽ với dân quân tự vệ, công an...
làm tăng thêm sức mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ, bảo
đảm sự vững chắc của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở.
100
- Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên là biểu hiện quán triệt quan
điểm về sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với nhiệm vụ
xây dựng và củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
- Lực lượng dự bị động viên được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường
trực của quân đội. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt
cho cả xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và cả trong thực hiện chiến lược quốc
phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
B. NHỮNG QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ
BỊ ĐỘNG VIÊN
1. Xây dựng lực lượng dự bị động viên bảo đảm số lượng đủ, chất lượng
cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm
Việc tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên ở nước ta là một vấn đề hệ
trọng, quan hệ đến vận mệnh của quốc gia, đặc biệt khi phải đối phó với chiến tranh
quy mô lớn. Do đó, ngay từ thời bình, phải xây dựng lực lượng dự bị động viên
hùng hậu theo kế hoạch đã xác định mới có khả năng giành thắng lợi khi có lệnh
động viên.
Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải có chất lượng cao, được thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tinh thần, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ kĩ thuật,
chiến thuật, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị, khả năng bảo đảm.
2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị
Xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt được
thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp. Chính phủ, chính
quyền địa phương các cấp điều hành. Các đơn vị quân đội, cơ quan quân sự với các
cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội... hiệp
đồng thực hiện và sự chăm lo xây dựng của toàn xã hội.
3. Xây dựng lực lượng dự bị động viên đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng các
cấp ở địa phương, bộ, ngành
Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm cho lực lượng này luôn có nội dung,
phương hướng, mục tiêu xây dựng đúng đắn, nhằm bảo đảm sức mạnh của quân đội
đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
C. NỘI DUNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN
1. Phương thức xây dựng lực lượng dự bị động viên
- Phương thức chung: Địa phương chuyển việc giao nguồn cho các đơn vị chủ
lực sang tổ chức hình thành các đơn vị dự bị động viên theo nhiệm vụ trên giao.
Trong đó địa phương thực hiện là chính (trừ vũ khí trang bị và huấn luyện), các đơn
vị chủ lực nhận nguồn cung cấp biểu biên chế, phối hợp cùng địa phương tổ chức
thực hiện.
101
- Phương thức cụ thể: Tổ chức các đơn vị dự bị động viên theo khung thường
trực và đơn vị không biên chế khung thường trực.
2. Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên
- Tạo nguồn, đăng kí, quản lý lực lượng dự bị động viên:
+ Tạo nguồn: Sĩ quan dự bị; hạ sĩ quan, chiến sĩ dự bị; phương tiện kĩ thuật.
+ Đăng kí quản lý nguồn: Việc đăng kí, quản lý lực lượng dự bị động viên phải
có kế hoạch thường xuyên, chặt chẽ và chính xác, đăng kí quản lý cả con người và
phương tiện kĩ thuật.
Đối với quân nhân dự bị, được tiến hành đăng kí, quản lý tại nơi cư trú, do Ban
chỉ huy quân sự xã (phường), ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh) thực hiện.
Đối với phương tiện kĩ thuật, phải đăng kí, quản lý chính xác thường xuyên cả
số lượng, chất lượng, tình trạng kĩ thuật của từng phương tiện.
- Tổ chức, biên chế đơn vị dự bị động viên: Là tổ chức sắp xếp quân nhân dự
bị, phương tiện kĩ thuật thành từng đơn vị dự bị động viên theo kế hoạch gồm các
loại hình: Đơn vị biên chế thiếu, đơn vị biên chế khung thường trực, đơn vị
không có khung thường trực, đơn vị biên chế đủ nhân đôi và đơn vị chuyên môn
thời chiến.
- Giáo dục chính trị, huấn luyện diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên
+ Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng
lực lượng dự bị động viên. Nội dung giáo dục cần tập trung vào đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm quốc phòng toàn
dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng dự bị động viên, âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù đối với cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
+ Công tác huấn luyện: Theo phương châm “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả,
tập trung có trọng tâm, trọng điểm”. Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh,
binh chủng; chiến thuật từng người đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu
thương và hoạt động chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Có thể huấn
luyện tập trung tại các đơn vị dự bị động viên hoặc phân tán tại các địa phương, cơ
sở. Cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt những phương pháp huấn luyện thích hợp sát
đối tượng, sát thực tế.
- Bảo đảm hậu cần, kĩ thuật, tài chính cho xây dựng lực lượng dự bị động viên:
Yêu cầu phải bảo đảm đúng mức, đủ để triển khai xây dựng lực lượng dự bị động
viên chất lượng ngày càng cao.
D. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG
VIÊN
- Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về
vị trí, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dự bị
động viên.
102
- Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và
các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.
- Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm
công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên.
- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với lực lượng dự bị động viên.
III. ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
A. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC, YÊU CẦU ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP
QUỐC PHÒNG
1. Khái niệm
Động viên công nghiệp quốc phòng là huy động một phần hoặc toàn bộ năng
lực sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội của doanh nghiệp công nghiệp ngoài
lực lượng quốc phòng, nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa
phương,… phục vụ cho quốc phòng, nhằm giành thế chủ động, bảo toàn, phát huy
tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân,
giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm trên thể hiện khái quát một số nội dung chính sau đây:
- Động viên công nghiệp quốc phòng được chuẩn bị từ thời bình, là việc làm
thường xuyên từ Trung ương đến địa phương.
- Động viên công nghiệp quốc phòng không áp dụng đối với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Có thể tổng động viên hoặc động viên cục bộ: Chiến tranh tương lai nếu xảy
ra là một cuộc chiến tranh hiện đại, đối phương chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ
cao, bất ngờ, tiến công từ xa vào các mục tiêu trọng yếu trên phạm cả nước, bằng
pháo binh, không quân, tên lửa hành trình... Vì vậy, động viên công nghiệp quốc
phòng chúng ta phải được chuẩn bị từ thời bình, bảo đảm cho đất nước luôn ở trạng
thái sẵn sàng đáp ứng được với mọi tình huống.
2. Nguyên tắc động viên công nghiệp quốc phòng
- Động viên công nghiệp quốc phòng được tiến hành trên cơ sở năng lực sản
xuất, sửa chữa đã có của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm
trang thiết bị chuyên dùng để hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị cho
Quân đội.
- Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng cho các
doanh nghiệp công nghiệp phải bảo đảm tính đồng bộ theo nhu cầu sản xuất, sửa
chữa trang bị của Quân đội và phù hợp với năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của
doanh nghiệp.
- Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp công nghiệp,
người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng.
103
3. Yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng
- Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải bảo đảm bí
mật, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng tăng cường sức mạnh
về mọi mặt, sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh.
Đây là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ
động viên công nghiệp quốc phòng. Trước hết về kế hoạch động viên công nghiệp
quốc phòng của các cấp, theo quy định của Nhà nước thuộc tài liệu tuyệt mật, vì vậy
việc xây dựng, quản lí, khai thác kế hoạch phải tuân thủ chặt chẽ theo quy định của
pháp luật ; các doanh nghiệp công nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện chế độ quản
lí, sử dụng, bảo mật theo đúng quy định.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, việc bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả là một
yêu cầu rất quan trọng, nhất là trong điều kiện ngân sách bảo đảm cho động viên
công nghiệp quốc phòng của Nhà nước và Bộ quốc phòng còn nhiều hạn hẹp.Khi có
lệnh thực hành động viên công nghiệp, nếu không bảo đảm đủ số lượng, đúng thời
gian quy định theo kế hoạch được giao sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của quân đội.
- Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải bảo đảm cho
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời
chiến. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong chuẩn bị và thực hành động viên
công nghiệp xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của các địa phương trong thế trận
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Trên đây là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định đến kết quả của công tác động
viên công nghiệp quốc phòng. Vì vậy, kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng
của các cấp các ngành phải theo đúng quy định của nhà nước thuộc tài liệu mật, phải
tuân thủ chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
B. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
1. Chuẩn bị động viên công nghiệp quốc phòng
- Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa
trang bị, nội dung khảo sát gồm:
Đặc điểm tình hình; cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng cán bộ, công nhân,
viên chức và những người lao động khác; Nhiệm vụ sản xuất, công suất thiết kế,
công suất thực tế; số lượng, chất lượng trang thiết bị hiện có; phương hướng sản
xuất và đổi mới công nghệ. Căn cứ vào nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của
Quân đội và kết quả khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp
công nghiệp Chính phủ quyết định các doanh nghiệp công nghiệp đủ điều kiện động
viên công nghiệp quốc phòng.
- Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng, nội dung gồm:
Quyết định của Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng công ti; kế hoạch thông
báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; quyết định di chuyển địa điểm;
kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch bảo đảm vật tư cho sản xuất, sửa chữa trang
104
bị theo chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch nghiên cứu khoa học,
ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên công nghiệp quốc phòng
(nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên cứu khoa học; kế hoạch bảo
đảm kinh phí cho động viên công nghiệp quốc phòng.
Trên cơ sở kế hoạch của cấp trên, các doanh nghiệp công nghiệp lập kế hoạch
động viên công nghiệp quốc phong cho doanh nghiệp mình.
Nội dung gồm: Kế hoạch bảo dưỡng trang thiết bị do Nhà nước giao; kế hoạch
thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch di chuyển địa
điểm; kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch bảo đảm vật tư cho sản xuất, sửa chữa
trang bị theo chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch sản xuất, sửa
chữa trang bị; kế hoạch ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên
công nghiệp công nghiệp (nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên
cứu khoa học; kế hoạch bảo đảm kinh phí
- Giao chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng
- Hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị
- Quản lí, duy trì dây chuyền sản xuất
- Bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động và diễn tập động viên công
nghiệp quốc phòng
- Dự trữ vật chất
2. Thực hành động viên công nghiệp quốc phòng
- Quyết định và thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng (do
Chính phủ quy định).
- Tổ chức di chuyển địa điểm các đơn vị công nghiệp phải di chuyển.
- Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính.
- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị.
- Giao, nhận sản phẩm động viên công nghiệp quốc phòng.
C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH THỰC HIỆN ĐỘNG VIÊN CÔNG
NGHIỆP QUỐC PHÒNG
1. Nhà nước, Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa
phương, tổng công ti, thực hiện nghiêm Pháp lệnh động viên công nghiệp quốc
phòng. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, Tổng công ti phối hợp hiệp đồng
chặt chẽ thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng.
2. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, các Tổng công ty cần quán triệt
sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về Pháp lệnh, Nghị định, các văn bản hướng dẫn
về động viên công nghiệp quốc phòng của Nhà nước, Chính phủ.
3. Các doanh nghiệp công nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên
công nghiệp quốc phong cần chủ động lập kế hoạch động viên công nghiệp quốc
phòng và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, chỉ tiêu trên giao.
105
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và dộng viên công
nghiệp quốc phòng có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
chủ động ngăn chặn đối phó với mọi tình huống nhất là khi chiến tranh xẩy ra nhằm
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị ở nước ta.
Sinh viên là đội ngũ tri thức trẻ, cần nhận thức đúng đắn về trách nhiệm và
nghĩa vụ trong xây dựng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên và dộng viên
công nghiệp quốc phòng để góp phần của một công dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ?
2. Trình bày những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động
viên?
3. Trình bày một số biện pháp chính thực hiện động viên công nghiệp quốc
phòng?
106
BÀI 10.
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VÀ
BIÊN GIỚI QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một chỉnh thể thống
nhất, bất khả xâm phạm, với diện tích đất liền là 331.689 km2, có bờ biển dài
khoảng 3.260 km, có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền)
với 4.450 km đường biên giới, là nơi sinh sống của gần 100 triệu dân thuộc 54 dân
tộc anh em đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam
cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù địch chưa từ
bỏ âm mưu can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị - xã hội, xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới Quốc gia nước ta. Đại hội XII của Đảng xác
định: “Mục tiêu trọng yếu của Quốc phòng và An ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích Quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền
văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh Quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội”1.
I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
A. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN, ĐẢO
1. Khái niệm
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng pháp luật của Nhà nuớc với quá trình kinh tế - xã hội, các hoạt động trên
biển, đảo nhằm duy trì và phát triển các mối quan hệ, các hoạt động đó trong trật tự,
theo đúng định hướng của Nhà nước trong việc thăm dò, khai thác tiềm năng của
biển, thực thi và bảo vệ chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
trên các vùng biển, hải đảo và thềm lục địa của quốc gia phù hợp với luật pháp quốc
tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo đảm thi hành pháp luật của
Nhà nước, các điều ước quốc tế, hiệp định với các nước có liên quan mà Việt Nam
đã ký kết hoặc tham gia, trên các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia. Thông
qua các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc thi hành pháp luật trên biển;
kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm ở trên biển, bảo đảm cho pháp luật
về biển của Nhà nước được thi hành chính xác và nghiêm minh. Trên cơ sở đó, bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển và
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.147-148
107
thềm lục địa của quốc gia; bảo vệ nguồn lợi cho đất nước; bảo vệ tài nguyên, môi
trường biển, sự phát triển bền vững của kinh tế biển; duy trì an ninh chính trị, bảo
đảm an toàn cho sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân; phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và xâm phạm chủ quyền
trên vùng biển và thềm lục địa của quốc gia là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta.
2. Đặc điểm
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo có nội dung toàn diện phù hợp với
luật pháp quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đã ký với các nước có liên quan.
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo bao gồm: Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển. Vùng biển bao gồm vùng nội
thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các
đảo và quần đảo.
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ các quyền của quốc gia
về biển phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định mà nước ta đã ký với các
nước có liên quan. Đó là quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai
thác tài nguyên thiên nhiên của biển, lòng đất dưới đáy biển, vùng trời, các đảo
và quần đảo.
- Xây dựng và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo quốc gia là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài. Diện tích biển của Việt Nam chiếm khoảng 29% Biển Đông,
rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. Việt Nam còn có chủ quyền với hàng
nghìn hòn đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa. Tài
nguyên vùng biển và ven biển nước ta được đánh giá rất phong phú và đa dạng,
phân bố rộng khắp trên dải đất liền ven biển đến các vùng nước ven bờ, các hải đảo
và các vùng biển. Cả nước có 63 tỉnh, thành phố thì có 28 tỉnh, thành ven biển, trong
đó có 11 huyện đảo. Trên 50% số dân của nước ta sống ở các tỉnh ven biển. Đó vừa
là những điều kiện khách quan thuận lợi để chúng ta phát triển đa dạng các ngành
kinh tế biển, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn trong quản lý, bảo vệ biển đảo
và khai thác lợi thế kinh tế từ biển, đảo.
Biển Đông là một biển lớn của Thái Bình Dương, nằm ở phía Đông lục địa
Việt Nam, tiếp giáp với nhiều nước và vùng lãnh thổ như: Trung Quốc (gồm cả Đài
Loan), Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Xingapo, Inđônêsia, Brunây và
Philippin. Vấn đề tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa giữa các nước
trong khu vực tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, làm cho tình hình trong khu
vực vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp hơn.
108
Vì vậy, xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài; phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chính trị, kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại.
B. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
1. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân
tộc trên biển, đảo
Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển, đảo cần thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia trên các vùng biển.
Vùng biển nước ta bao gồm vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các hải đảo và quần đảo, trong đó có hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông.
Bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là bảo vệ
đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên
nhiên của biển ở những nơi đó; thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của quốc gia. Như vậy, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển gắn bó mật thiết. Các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi
trường... ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là biểu hiện của quyền làm chủ
trên biển của quốc gia. Những hành động khảo sát, tìm kiểm, thăm dò, khai thác tài
nguyên... trái phép của tầu thuyền nước ngoài ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam là vi phạm chủ quyền, gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia của Việt
Nam và trái với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là
Công ước về Luật Biển năm 1982).
2. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng
ven biển
An ninh, trật tự an toàn xã hội là nhu cầu và điều kiện cần thiết để con người
tồn tại và hoạt động ở mọi môi trường địa lý. Biển là môi trường có điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt và nhiều biến động, lại là môi trường mở, thường xuyên có sự
giao lưu quốc tế, nên đòi hỏi về bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội lại càng
cao hơn. Diễn biến của tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên biển rất phức
tạp, đặc biệt là phải tiến hành trong điều kiện quy chế pháp lý không đồng nhất
giữa các vùng nước khác nhau trên biển. Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên
biển không chỉ mang tính chất đối nội mà còn mang tính chất đối ngoại; là sự thể
109
hiện năng lực làm chủ vùng biển quốc gia của nước ven biển trước cộng đồng thế
giới và khu vực.
Nội dung chủ yếu của bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội và
văn hóa trên biển và vùng ven biển của nước ta là:
- Bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa
học công nghệ, quốc phòng - an ninh...
- Ngăn chặn kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các
hoạt động phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi truỵ và thực hiện
các hành vi tội phạm khác.
- Bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân
trên biển và ven biển.
- Bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên biển và ven biển.
- Bảo vệ môi trường, xử lý các vụ ô nhiễm môi trường trên biển và ven biển.
- Phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai.
- Thực hiện tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn.
- Phòng ngừa, chế ngự, xử lý các xung đột do tranh chấp lợi ích giữa các tổ
chức và cá nhân trong sử dụng và khai thác biển.
C. MỤC TIÊU, PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN, ĐẢO
1. Mục tiêu
Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1.
Như vậy, Đảng ta có tầm nhìn sâu, rộng hơn về không gian và thời gian bảo vệ
Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông có nhiều diễn biến
phức tạp mới rất khó đoán định, không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp
trong một sớm, một chiều, nên Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.81.
110
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa
một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”1.
Quán triệt quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu xây dựng và bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta là:
- Giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển,
đảo gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển đảo gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc hiến định. Hiến pháp năm
1992, quy định: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có độc lập,
có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển
và các hải đảo. Thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bao gồm lãnh thổ đất liền, vùng biển, lòng đất, vùng trời, các đảo, các
quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ là một trong những nguyên tắc cơ bản
được pháp luật quốc tế hiện đại công nhận, bắt nguồn từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia, tôn trọng quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Bất khả xâm phạm lãnh
thổ có nghĩa là không được xâm phạm lãnh thổ của một quốc gia bằng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hay bằng bất cứ cách nào khác. Toàn vẹn lãnh thổ có nghĩa là nghiêm cấm
chia cắt lãnh thổ hoặc xâm chiếm một phần lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào.
Mặc dù, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia của dân tộc
đã được luật pháp quốc tế công nhận, song các nước đế quốc và các thế lực bành
trướng vẫn luôn tìm mọi âm mưu và thủ đoạn để xâm phạm, can thiệp bằng nhiều
hình thức khác nhau. Lịch sử dân tộc ta cho thấy, để thực hiện được mục tiêu giữ
vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã phải trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh gian khổ, hy sinh nhiều xương
máu mới giành được. Điều đó cũng cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng. Giờ đây và những năm tới, nhân dân ta quyết tâm đẩy
mạnh công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với
Việt Nam, Tổ quốc là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc phải gắn với Đảng Cộng
sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo.
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.78-79.
111
Vì vậy, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích
quốc gia, dân tộc trên biển đảo phải gắn với chủ nghĩa xã hội, gắn với bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu bất di bất dịch của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta.
- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài là lợi ích cao nhất.
Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của dân tộc ta đã
trải qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược với những chặng đường đầy khó
khăn, gian khổ, sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ. Do đó, hơn ai hết, dân tộc
Việt Nam thiết tha yêu chuộc hoà bình, độc lập, tự do, mong muốn giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định lâu dài, bền vững để xây dựng và phát triển đất nước.
Ngày nay, chúng ta kiên trì phấn đấu theo quan điểm của Đảng là thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển, tạo môi
trường hoà bình, ổn định, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương các quan hệ
quốc tế trong đường lối đối ngoại của Đảng ta thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ,
không để bất cứ một thế lực nào lôi kéo. Độc lập, tự chủ chính là tự mình quyết định
các vấn đề về đường lối, chính sách, các mục tiêu và các quyết sách về đối nội và
đối ngoại phù hợp với mục tiêu và nghĩa vụ quốc gia, thích ứng với xu thế thời đại.
Đó chính là thực hiện quyền tự quyết trong quan hệ quốc tế, không chịu sự áp đặt về
ý đồ và quyền lợi từ bất cứ phía nào. Đa phương hoá là nói đến nhiều đối tác trong
quan hệ, nhưng vẫn có ưu tiên nhất định đối với bạn bè truyền thống và đối tác
chiến lược; đa dạng hoá là nói đến việc sử dụng nhiều hình thức quan hệ để thực
hiện đa phương hoá. Đây là chính sách ngoại giao mềm dẻo, cho phép nước ta
“thêm bạn, bớt thù”, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài cho phát triển đất nước.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta, một mặt chủ động, tích cực, kiên quyết
đấu tranh với những hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc,
chống âm mưu “diễn biến hoà bình” và các hoạt động lợi dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”, “tự do tôn giáo” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta; mặt
khác, chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ
112
trên biển và đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp
tác, góp phần củng cố hoà bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực
của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta đã ký Thoả thuận khai thác chung vùng biển chồng lấn với Malaysia; ký
Hiệp định phân định vùng biển chồng lấn với Thái Lan và thực hiện tuần tra chung
trên vùng biển chồng lấn; ký Hiệp định về biên giới trên bộ và phân định vịnh Bắc
Bộ với Trung Quốc; ký Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa với Inđônêxia;
ký Hiệp định về biên giới trên bộ với Campuchia...
Như vậy, mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, đảo thể hiện cụ thể đường lối nhất
quán của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp
với mục tiêu chung của Đảng và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Chỉ có giữ vững hoà bình, ổn định lâu dài mới có thể xây dựng và phát
triển đất nước. Hoà bình, ổn định là điều kiện tiên quyết để xây dựng đất nước giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định lâu dài trở thành lợi ích cao nhất hiện nay.
2. Phương thức
- Trên cơ sở nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên
hứơng biển, lấy khu vực phòng thủ ven biển làm chỗ dựa, lực lượng hải quân nhân
dân Việt Nam làm nòng cốt.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp
sức mạnh của mọi ngành, mọi lực lựơng trên biển, vận dụng linh hoạt các hình thức
đấu tranh với tinh thần tự lực là chính để quản lí, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia
trên các vùng biển.
- Duy trì, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trên biển và vùng ven biển;
sẵn sàng ngăn chặn đẩy lùi đánh bại các hành động xâm lấn của kẻ thù để bảo vệ
biển đảo.
- Để thực hiện phưong thức trên cần giải quyết tốt những vấn đề sau:
+ Khi xử lý các vấn đề, các tình huống xảy ra trên biển, đảo cần hết sức khẩn
trương, thận trọng. Bối cảnh hiện nay và trong những năm tới, tình hình trên Biển
Đông vẫn là điểm nóng thu hút dư luận của cộng đồng quốc tế và còn diễn biến hết
sức phức tạp. Cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không mơ hồ, chủ quan khi phân
tích, đánh giá tình hình trên biển, dự báo đúng âm mưu, ý đồ, khả năng, thủ đoạn
của các đối tượng để có biện pháp đối phó kịp thời, phù hợp. Trong mọi trường hợp
đều phải tính đến những tác động có thể có đối với mục tiêu hoà bình, ổn định để xử
lý, nhằm triệt tiêu những nhân tố đối phương có thể lợi dụng để gây mất ổn định,
dẫn tới xung đột vũ trang trên biển, đẩy đất nước vào tình thế khó khăn. Đồng thời
113
kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra; chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn, có phương án xử lý với các tình huống phức tạp có thể xảy ra như:
biến động chính trị trong nước; bạo loạn lật đổ, ly khai ở một vùng hoặc nhiều vùng,
gây nguy cơ chia rẽ đất nước; xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển do tranh
chấp chủ quyền, tài nguyên với các nước quanh Biển Đông, sự can thiệp, thoả thuận
dàn xếp, đứng đằng sau của các nước lớn.
+ Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân
trên hướng biển, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, lấy xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; kết hợp chặt chẽ
kinh tế với Quốc phòng và An ninh ở các tỉnh, thành phố ven biển, hải đảo làm
trọng tâm để làm chỗ dựa cho các lực lượng làm kinh tế biển và quản lý, bảo vệ
biển, đảo.
+ Quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo cần thấm nhuần quan điểm
quản lý, bảo vệ biển, đảo là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy sức mạnh
tổng hợp của mọi lực lượng dân sự và quân sự trên hướng biển, trong đó lực lượng
Hải quân nhân dân Việt Nam là nòng cốt; vận dụng linh hoạt các hình thức đấu
tranh, đặc biệt là kết hợp giữa đấu tranh chính trị trên mặt trận đối ngoại với đấu
tranh quân sự là cơ sở tạo nên sức mạnh quyết định, đồng thời phải lấy yếu tố nội
lực, dựa vào sức mình là chính để ngăn chặn, đẩy lùi xung đột vũ trang, giành thắng
lợi trong mọi tình huống để bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ quốc.
D. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
1. Tăng cường tiềm lực xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng - văn hóa, khoa học và giáo dục
- Tăng cường tiềm lực xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải hoàn thiện
hệ thống các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách về biển, đảo.
- Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo.
- Thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ven biển,
đảo làm nền tảng giữ vững ổn định, bảo vệ biển, đảo.
- Bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển.
2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên biển, vùng ven biển.
- Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với Quốc phòng và An ninh trên biển.
114
- Xây dựng Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong tình hình mới.
3. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường
thuận lợi để phát triển
Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông thời gian vừa qua, hoạt động
đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng, góp phần to lớn bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia, giữ vững hoà bình và ổn định trên biển.
Hoạt động đối ngoại phục vụ mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển đảo phải ngăn
chặn, tiến tới đẩy lùi nguy cơ phá vỡ hoà bình, ổn định trong khu vực; ngăn chặn và
làm thất bại ý đồ, hành động của nước ngoài nhằm biến vùng không tranh chấp
thành "những khu vực tranh chấp" trên vùng biển và thềm lục địa của nước ta.
Hoạt động đối ngoại về kinh tế có vai trò tích cực trong phát triển quan hệ quốc
tế trong lĩnh vực khai thác tài nguyên biển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế
biển. Hợp tác quốc tế và khu vực về nghiên cứu biển giúp tăng cường sự hiểu biết
lẫn nhau, tăng thêm lòng tin giữa các bên hữu quan.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại về Quốc phòng và An ninh tạo sự tin cậy và không
khí hoà dịu trong khu vực và thế giới; bảo đảm thi hành pháp luật trên biển trong các
hoạt động chống buôn lậu, buôn bán ma tuý, chống cướp biển, tìm kiếm cứu hộ, cứu
nạn trên biển, góp phần giữ vững an ninh, trật tự và ổn định lâu dài ở Biển Đông.
Hợp tác quốc tế và khu vực về bảo vệ môi trường biển và tìm kiếm, cứu nạn
trên biển sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, có lợi hơn cho mỗi quốc gia, các nước trong
khu vực và thế giới, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy tiến trình đàm phán giải
quyết tranh chấp giữa các nước về biển, đảo.
Tích cực tuyên truyền đối ngoại bằng các hình thức đa dạng, phong phú làm
cho thế giới ngày càng hiểu rõ hơn về lịch sử, đất nước và con người Việt Nam, về
đường lối đối ngoại và cơ sở pháp lý, lịch sử của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ
chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đảo.
4. Tăng cường hoạt động pháp lý trên trường quốc tế, tạo cơ sở bảo vệ chủ
quyền biển, đảo bền vững
Hoạt động pháp lý là một lĩnh vực quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo của nước ta hiện nay. Hoạt động pháp lý về biển nhằm thiết lập các
điều khoản cần tuân theo giữa hai hoặc nhiều nước dưới các hình thức: luật, hiệp
định, công ước, tuyên bố, thoả thuận...
115
Trong lịch sử nhân loại, các hoạt động pháp lý trên biển đã hình thành và phát
triển để điều chỉnh, giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp về quyền lợi trên biển
giữa các quốc gia, dân tộc. Kết quả quá trình đấu tranh thông qua các hội nghị do
Liên Hợp quốc chủ trì là sự ra đời của Công ước về Luật biển năm 1982.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã chủ động, tích cực đàm phán với
các bên hữu quan để giải quyết những vấn đề về vùng biển chồng lấn, tranh chấp
chủ quyền biển, đảo. Các hiệp định về phân định ranh giới trên biển và thềm lục địa
được ký kết giữa Việt Nam với các nước là cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ chủ
quyền an ninh và các quyền lợi quốc gia, dân tộc trên các vùng biển phù hợp với
luật pháp quốc tế.
Trong những năm tới, chúng ta cần tăng cường các hoạt động pháp lý để đi đến
ký kết các hiệp định nhằm giải quyết những vấn đề trên biển với các nước có liên
quan, tạo môi trường thuận lợi, cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ chủ quyền biển đảo
của Tổ quốc.
II. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA
A. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN
GIỚI QUỐC GIA
1. Khái niệm
- Luật biên giới quốc gia của Việt Nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc
gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng
đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo
trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng
trời của nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam”1.
Biên giới quốc gia của Việt Nam được xác định bằng hệ thống các mốc quốc
giới trên thực địa, được đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đò và thể hiện bằng mặt
phẳng thẳng đứng theo lãnh thổ Việt Nam. Biên giới quốc gia VIệt Nam bao gồm
biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất.
+ Biên giới quốc gia trên đất liền là phân định lãnh thổ trên bề mặt đất liền
của vùng đất quốc gia. Trong thực tế, biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập
dựa vào các yếu tố địa hình (núi sống, suối, hồ nước, thung lũng..); thiên văn (theo
kinh tuyến, vĩ tuyến); hình học (đường nối liền các điểm qui ước). Biên giới quốc
gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ
tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa
các quốc gia liên quan. Việt Nam có đường biên giới quốc gia trên đất liền dài
4.450 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía Tây,
phía Đông giáp biển Đông.
1
Luật biên giới quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 8.
116
+ Biên giới quốc gia trên biển là phân định lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia có
bờ biển liền kề hay đối diện nhau; là ranh giới phía ngoài của lãnh hải. Biên giới quốc gia
trên biển của quốc gia quần đảo là đường biên giới quốc gia phân định lãnh thổ quốc gia
với biển cả. Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia,
biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải bao quanh đảo.
Biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được hoạch định và đánh dấu bằng
các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo,
lãnh hải của quần đảo của Việt Nam, được xác định theo Công ước của Liên Hợp
quốc về Luạt Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xác hội chủ
nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
+ Biên giới quốc gia trên không là biên giới phân định vùng trời giữa các quốc
gia liền kề hoặc các vùng trời quốc tế, được xác định bởi mặt phẳng thẳng đứng từ biên
giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển lên vùng trời. Trong điều kiện
khoa học và công nghệ phát triển, việc xác lập biên giới quốc gia trên không có ý nghĩa
ngày càng quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền đối với vùng trời quốc gia. Đến
nay chưa có quốc gia nào quy định độ cao cụ thể của biên giới quốc gia trên không.
+ Biên giới quốc gia trong lòng đất là phân định lãnh thổ quốc gia trong lòng
đất phía dưới vùng đất quốc gia, nội thủy và lãnh hải, được xác định bởi mặt phẳng
thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất liền và biên giới quốc gia trên biển xuống
lòng đất. Độ sâu cụ thể của biên giới trong lòng đất được xác định bằng độ sâu mà
kỹ thuật khoan có thể thực hiện. Đến nay, chưa có quốc gia nào quy định độ sâu cụ
thể của biên giới trong lòng đất.
+ Khu vực biên giới là vùng lãnh thổ tiếp giáp biên giới quốc gia có quy chế,
quy định đặc biệt do chính phủ ban hành nhằm bảo vệ an toàn biên giới. Khu vực
biên giới Việt Nam bao gồm: khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị
trấn có mọt phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia Việt Nam trên
đất liền; khu vực biên giới qioocs gia Việt Nam trên biển được tính từ biên giới
quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã phường, thị trấn giáp biển và đảo,
quần đảo; khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo bien giới
quốc gia có chiều rộng mười ki lô mét tính từ biên giới Việt Nam trở vào.
- Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích quốc gia
trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị, trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia luôn là một
vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển đất nước. Xây dựng và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, là một biện pháp hiệu quả chống lại sự xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003
xác định: “Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát
triển kinh tế- xã hội với tăng cường Quốc phòng và An ninh và đối ngoại”1.
1
Luật biên giới quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 13
117
2. Đặc điểm
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia gắn liền với bảo vệ Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là cuộc đấu tranh toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó bao gồm: Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất; xây dựng và bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân dân tộc, phát huy
vai trò tham mưu của lực lượng chuyên trách.
B. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA
- Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là nhiệm vụ to lớn, nặng nề và lâu dài
nhằm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành.
- Dựa vào nhân dân, trực tiếp là các đồng bào dân tộc ở biên giới, đồng thời coi
trọng bộ đội biên phòng làm lực lượng chuyên trách, nòng cốt xây dựng và bảo vệ
chủ quyền biên giới quốc gia.
C. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI
QUỐC GIA
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước, sự phân cấp và phối hợp
chặt chẽ giữa trung ương với địa phương.
- Dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và vai trò tham
mưu của lực lượng chuyên trách nòng cốt, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với xây
dựng và bảo vệ biên giới quốc gia.
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia gắn với bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường.
- Phát huy ưu thế chính trị, tinh thần, dựa vào sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; kết hợp tác chiến với đich vận, tuyên truyền, giáo dục thuyết phục với xử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
D. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA
- Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển, trên không và
trong lòng đất.
- Xây dựng và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới.
- Xây dựng và bảo vệ tài nguyên, môi trừơng và lợi ích quốc gia trên khu vực
biên giới và vùng biển quốc gia.
118
- Xây dựng và bảo vệ công trình quốc phòn trên khu vực biên giới, các công
trình bảo vệ biên giới.
- Xây dựng và bảo vệ việc chấp hành pháp luật, qui chế biên giới và các điều
uớc quốc tế về biên giới.
- Quản lý xuất nhập biên, xuất nhập cảnh, quá cảnh, tại các cửa khẩu biên giới,
và các cửa khẩu cảng biển.
- Quản lý hoạt động đối ngoại biên phòng.
E. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước, huy động toàn dân
tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
- Xây dựng chiến lựơc quốc gia về biên giới.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại, để củng cố, phát triển
quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc và các nước ASEAN.
- Chủ đông đàm phán giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới với các nuớc có
liên quan.
- Đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng khu biên giới,
hải đảo vững mạnh toàn diện.
- Xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn biên giới.
- Tăng cường xây dựng, củng cố lực lựong chuyên trách, nòng cốt vững mạnh
và phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lựơng tham gia bảo vệ chủ quyền biên
giới quốc gia.
Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia là nhiệm vụ nặng nề
nhưng hết sức thiêng liêng và cao cả. Bởi vì, đó chính là nhiệm vụ gìn giữ tài sản vô
giá mà ông cha ta đã phải đổi bằng xương máu trong lịch sử tồn tại và phát triển của
quốc gia, dân tộc. Sự nghiệp ấy đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của Đảng,
Nhà nước và sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các Bộ, Ngành từ Trung
ương đến địa phương cùng nhân dân cả nước, với tinh thần “Tất cả hướng về biên
giới”, xây dựng biên giới ngày càng giàu mạnh.
Trách nhiệm của sinh viên trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và
biên giới quốc gia Việt Nam trong thời kỳ mới
- Sinh viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt,
hiểu biết sâu sắc về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; từ đó xây dựng củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự
chủ, độc lập, tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Thấy rõ ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và bất khả xâm phạm về chủ quyền biển,
đảo và biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xác định rõ
vinh dự trách nhiệm của công dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng bảo vệ chủ
quyền biển, đảo và biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
119
- Thực hiện tốt chương trình môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh đối với
sinh viên các trường đại học, cao đẳng; hoàn thành tốt các nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng trong thời gian học tập tại trường.
Sau khi tốt nghiệp sẵn sàng tự nguyện, tự giác tham gia quân đội nhân dân,
công an nhân dân khi Nhà nước yêu cầu. Tình nguyện tham gia xây dựng và phục
vụ lâu dài tại các khu kinh tế - quốc phòng, góp phần xây dựng khu biên giới, hải
đảo vững mạnh, phát triển kinh tế, xã hội bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện nghiêm chỉnh Luật Biên giới quốc gia của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sinh viên đang học tại các trường đại học cao đẳng cần nhận thức sâu sắc tầm
quan trọng của chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia đối với sự toàn vẹn, thống
nhất lãnh thổ; quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc
xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và biên giới quốc gia. Trên cơ sở đó nâng
cao ý thức, trách nhiệm công dân, học tập tốt, thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Nêu khái niệm và nội dung bảo vệ chủ quyền biển, đảo?
2. Nêu mục tiêu, phương thức xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo?
3. Trình bày quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và bảo vệ chủ
quyền biên giới Quốc gia? Liên hệ trách nhiệm của sinh viên?
120
BÀI 11.
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC,
TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MANG VIỆT NAM
Dân tộc và Tôn giáo là hai vấn đề có tính đặc trưng trong lịch sử tiến hóa của
loài người, nó có quy luật hình thành, phát triển và vận động riêng song hành với sự
ra đời các quốc gia, nhà nước và các thể chế chính trị. Do vậy cuối thế kỷ XX và
đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng vấn
đề nhân quyền tác động vào các cộng đồng dân tộc thiểu số, các tôn giáo nhằm phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn định chính trị, phá hoại sự nghiệp
xây dựng và phát triển của nhiều quốc gia và nước ta… Vì vậy, việc nghiên cứu,
học tập vấn đề Dân tộc và Tôn giáo… có một ý nghĩa chiến lược trong cuộc đấu
tranh phòng chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay nói chung và trên lĩnh vực Dân
tộc và Tôn giáo nói riêng.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN TỘC
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN TỘC
Khái niệm dân tộc
Theo J. Xta-lin: “Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định được thành lập
trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và
tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hoá”.
Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: Dân tộc là cộng đồng người ổn
định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững
về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lí, ý
thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc.
Thuật ngữ dân tộc ở Việt Nam được hiểu theo hai nghĩa:
- Hiểu theo nghĩa của một quốc gia: các thành viên cùng dân tộc sử dụng một
ngôn ngữ chung để giao tiếp; chung đặc điểm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần.
- Hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc: là một cộng đồng chính trị - xã
hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung.
B. TÌNH HÌNH DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới
Hiện nay, trước sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn
cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức
tạp, khó lường. Như Đảng ta đã nhận định: trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát
121
triển vẫn là xu thế lớn trong quan hệ giữa các dân tộc. Toàn cầu hoá và các vấn đề
toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc
tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hoá. Đồng thời các dân tộc đề cao ý thức độc lập,
tự chủ, tự lực tự cường, chống can thiệp áp đặt và cường quyền.
Mặt khác, quan hệ dân tộc, sắc tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức
tạp, nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân
tộc, sắc tộc, xu hướng li khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia, các
khu vực, các châu lục trên thế giới... Đúng như Đảng ta nhận định: “Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can
thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt…”. Vấn đề quan hệ dân tộc, sắc tộc đã
gây nên những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường
cho các quốc gia, đe doạ hoà bình, an ninh khu vực và thế giới.
2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc
a) Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin: Đó là các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân
tất cả các dân tộc.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ,
trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi
lĩnh vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc
gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xoá bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột
dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hoá và thực hiện trên thực tế.
Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng
quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
- Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân
tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình,
bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp
với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính
đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để
can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đoàn kết công nhân các dân tộc
trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực
lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn đề
dân tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để
giành thắng lợi.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc
Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách mạng,
đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân tộc
122
đúng đắn, góp phần cùng toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc; xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn
diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng; đó là những luận điểm cơ bản chỉ
đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ
độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con
đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân
xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan
tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc
hẹp hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án,
vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối
đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
C. ĐẶC ĐIỂM CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ QUAN ĐIỂM CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái quát đặc điểm các dân tộc ở nước ta hiện nay
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc cùng sinh sống.
Các dân tộc ở Việt Nam có đặc trưng sau:
Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó xây dựng
quốc gia dân tộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc
ở Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách
quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ dân tộc ta đã phải sớm đoàn
kết thống nhất. Các dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng
chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản
- quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết thống nhất đã trở thành giá trị tinh thần
truyền thống quý báu của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và
phát triển đất nước.
Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa bàn
rộng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu số nào cư
trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác. Nhiều tỉnh
miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân số như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...
đều
Ba là, các dân tộc ở nước ta có quy mô dân số và trình độ phát triển không
Theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573
người. Dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm
123
86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa,
Nùng, H’mông, người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán Dìu, người Raglay. Đa số các
dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền
Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ
Măm chỉ có trên 300 người.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đều nhau. Có dân
tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối khá như dân tộc Kinh, Hoa,
Tày, Mường, Thái..., nhưng cũng có dân tộc trình độ phát triển thấp, đời sống còn
nhiều khó khăn như một số dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên...
Bốn là, mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hoá riêng, góp phần làm
nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của văn hoá Việt Nam. Các dân tộc đều có
sắc thái văn hoá về nhà cửa, ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hoá
Việt Nam. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm chung thống nhất về văn hoá, ngôn
ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống
nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hoá các dân tộc ở Việt Nam.
2. Quan điểm chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
a) Quan điểm
Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất quán: “Thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; tạo mọi điều kiện
để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ; gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”1.
Đại hội XII: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc
bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp
nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”2.
- Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp Cách
mạng nước ta.
- Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là
vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất nước
- Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta
trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc.
- Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng;
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn
trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
1
2
Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.16.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016. tr. 164.
124
b) Chính sách dân tộc
- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khu vực
biên giới.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở vùng
dân tộc thiểu số.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
vững chắc ở vùng các dân tộc thiểu số.
- Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể
đối với các vùng, các dân tộc để động viên đồng bào phát huy nội lực, ý chí tự lực,
tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
dân trí.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÔN GIÁO
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1. Khái niệm tôn giáo
- Khái niệm tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện
thực khách quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí, hành
vi của con người.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố: Hệ
thống giáo lí tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín
đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.
- Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là những hiện
tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ
phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời
sống vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã
hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
2. Nguồn gốc của tôn giáo
Có nguồn gốc từ các yếu tố kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lí.
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng
sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên.
Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên có sức mạnh, quyền
lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.
Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp
thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã
viết: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất
nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia”. Hiện nay, con
người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và xã hội; các cuộc xung đột giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,... vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để
tôn giáo tồn tại.
125
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn
hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận của con người.
Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn
giáo. Mặt khác, trong quá trình của nhận thức, con người có thể nảy sinh những yếu
tố suy diễn, tưởng tượng xa lạ với hiện thực khách quan.
- Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi,
buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được
bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết ơn, sự tôn kính
đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong
tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh.
3. Tính chất của tôn giáo
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có tính lịch sử, tính quần
chúng, tính chính trị.
- Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh và
phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn tại rất lâu
dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng
bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã trở
thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân cư. Hiện nay, một bộ
phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tôn giáo.
- Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp. Giai
cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức bóc lột và mê
hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn
là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác nhau lợi dụng tôn giáo để
thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
B. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tình hình tôn giáo trên thế giới
Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế giới có
tới 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn 1 triệu tín đồ.
Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo (bao gồm Công giáo,
Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2,1 tỉ tín đồ, chiếm 33% dân
số thế giới; Hồi giáo: 1,5 tỉ tín đồ, chiếm 21% dân số thế giới; Ấn Độ giáo: 900 triệu
tín đồ, chiếm 16% dân số thế giới và Phật giáo: 376 triệu, chiếm 6% dân số thế giới.
Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn đã gần 4,9 tỉ người tin theo, chiếm 76% dân số
thế giới.
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn ra
theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu;
các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hoá, bình dân hoá, mềm hoá các giới luật lễ
nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng
126
tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các chức năng phi tôn giáo theo hướng
thế tục hoá, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho
sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi động và không kém phần phức tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu
hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hoá, thần bí hoá giáo chủ đang nổi lên; đồng thời,
nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ chức tôn giáo là một
trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới
hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để
chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân tộc độc lập.
Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động, ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở rộng giao
lưu giữa các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo thế giới đã giúp cho
việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng tinh thần hợp tác hữu nghị,
hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội và đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ
những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam;
góp phần đào tạo chức sắc tôn giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng
lợi dụng sự mở rộng giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong
và ngoài nước chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát
triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
- Một là, giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên,
nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo phải
sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế
giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được
sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên chiến, xoá bỏ tôn giáo.
- Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của
quyền tự do tín ngưỡng là: bất kì ai cũng được tự do theo tôn giáo mà mình lựa
chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo đều
127
được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của
công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến
bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt
động theo đúng pháp luật.
- Ba là, quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời
sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét,
đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan
điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khuôn cứng nhắc. Những hoạt
động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được
khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo
pháp luật.
- Bốn là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong
giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối kháng
về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo chống
lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn giáo. Mâu
thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc giữa người
có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo.
Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt
khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi
dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn
đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng
nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; phát huy tinh thần yêu nước của
những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo; kiên quyết vạch trần và xử lí kịp thời
theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.
C. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Theo thống kê, đến
năm 2013, cả nước có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công
nhận, cấp đăng ký hoạt động; có khoảng 24 triệu tín đồ tôn giáo; khoảng 83 nghìn
chức sắc và nhà tu hành, hơn 250 nghìn chức việc trông coi việc đạo ở khoảng 25
nghìn cơ sở thờ tự trên cả nước.
- Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển
tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng
cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan hệ với các tổ
chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang
đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi.
128
- Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.
+ Một số tôn giáo đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương
thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự
của tôn giáo.
+ Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo kích động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị - xã hội.
+ Thành lập các Hội đoàn tôn giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm
giảm vai trò, uy tín của đảng viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “Tà
đạo” mang yếu tố mê tín, phản văn hóa, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
+ Các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá Cách
mạng nước ta.
2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước trước đây, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo được xem là quyền của công dân. Nhưng từ Hiến pháp 2013,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của mọi người. Điều 24 Hiến pháp
2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”1.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chỉ ra rằng, chúng ta thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn
giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. “Tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành
động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn
hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”2.
Quan điểm về tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo không
phải là một quan điểm mới của Văn kiện Đại hội XII, mà đã được nhắc nhiều
trong các kỳ đại hội trước. Tuy nhiên, đây là quan điểm được Đảng nhấn mạnh
tại Đại hội XII. Văn kiện ghi rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo,... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước”3
Như vậy, quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
thể hiện ở các vấn đề sau:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014, tr.20.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,tr. 81.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 165.
1
2
129
Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngữơng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Ba là, tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các
tôn giáo.
Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo,
tham gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng
quy định của pháp luật.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù
hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
III. ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN
TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
A. ÂM MƯU LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của các thế
lực thù địch. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà
bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm
hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi
nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.
Như vậy, vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà
các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam; xoá vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, thực hiện âm mưu “không
đánh mà thắng”.
Để thực hiện âm mưu chủ đạo đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và
không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu
khối đại đoàn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các
tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hoá sự quản lí của Nhà nước đối với các
lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc,
tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng, nhà nước ta, nên chúng
thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối
trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hoá chế độ chính
trị ở Việt Nam.
130
Chúng tạo dựng các tổ chức phản động trong các dân tộc thiểu số, các tôn giáo
như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Tin Lành Đề Ga, Nhà nước
Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crôm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục
chống phá cách mạng Việt Nam.
B. THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin
và làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”;
những vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hoá, tâm lí của đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc,
các tôn giáo; những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, chính sách
dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau:
- Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm,
chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những thiếu
sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ
can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
- Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương - giáo và
giữa các tôn giáo hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế xã hội; mua chuộc, lôi kéo,
ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép,
gây mất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam
đàn áp các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy
yếu cách mạng Việt Nam.
- Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động
người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong
các dân tộc, các tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam
như: truyền đạo trái phép để “tôn giáo hoá” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh giành
đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Điển hình là các vụ bạo
loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004, việc truyền đạo Tin Lành trái phép vào các
vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên.
Âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực thù địch rất nham hiểm. Tuy nhiên, âm mưu thủ đoạn đó của
chúng có thực hiện được hay không thì không phụ thuộc hoàn toàn vào chúng, mà
chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến
công của chúng ta.
3. Giải pháp đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch
131
Để vô hiệu hoá sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực
thù địch thì giải pháp chung cơ bản nhất là thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế
- xã hội, mà trực tiếp là chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân các dân tộc, các tôn giáo, củng cố xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, theo mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, cần tập trung vào
những giải pháp cơ bản, cụ thể sau:
- Một là, ra sức tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước; về âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch cho toàn dân. Đây là giải pháp
đầu tiên, rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở nâng cao nhận thức, tư tưởng của cả hệ thống
chính trị, của toàn dân mà trực tiếp là của đồng bào các dân tộc, tôn giáo về các nội
dung trên, thì chúng ta mới thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, vô hiệu hoá
được sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch.
Nội dung tuyên truyền giáo dục phải mang tính toàn diện, tổng hợp. Hiện nay
cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc, tôn giáo, chính sách dân tộc, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo. Phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của nhà
nước, khơi dậy lòng tự tôn tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc,
tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên tuyên truyền,
giáo dục để đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế
lực thù địch, để đồng bào đề cao cảnh giác không bị chúng lừa gạt lôi kéo lợi dụng.
Vận động đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, thực
hiện đúng chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo.
- Hai là, tăng cường xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng
cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước mọi âm mưu thủ đoạn nham hiểm của kẻ
thù. Cần tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa
trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực
hiện đại đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài. Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tập hợp
nhân dân, nâng cao vai trò của mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Kiên quyết đấu
tranh loại trừ nguy cơ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Riêng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo, trước tiên cần phải thực hiện tốt chính
sách dân tộc, tôn giáo. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc, các tôn giáo. Chống kì thị chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chống tư tưởng dân
tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti mặc cảm dân tộc, tôn giáo. Chủ
động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo,
bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là tiền đề quan trọng để vô hiệu hoá sự
chống phá của kẻ thù.
- Ba là, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý
nghĩa nền tảng để vô hiệu hoá sự lợi dụng của kẻ thù. Khi đời sống vật chất, tinh
132
thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, thực hiện
tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù nào có thể lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.
Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả các chương trình, dự án ưu tiên
phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân tộc, vùng tôn giáo tạo mọi điều kiện
giúp đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo nhanh chóng xoá đói giảm nghèo nâng
cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ bản sắc văn hoá các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch
về phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các tôn giáo; sự kì thị, chia rẽ dân tộc,
tôn giáo. Thực hiện bình đẳng đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo phải bằng những
hành động thiết thực cụ thể như: ưu tiên đầu tư sức lực tiền của giúp đồng bào phát
triển sản xuất.
- Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị; của những người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo tham gia vào phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Tích cực xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, vùng tôn giáo. Thực hiện chính sách
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cả cán bộ lãnh đạo quản lí
và cán bộ chuyên môn kĩ thuật, giáo viên là người dân tộc thiểu số, người có tôn
giáo. Bởi đây là đội ngũ cán bộ sở tại có rất nhiều lợi thế trong thực hiện chính sách
dân tộc, tôn giáo. Đổi mới công tác dân vận vùng dân tộc, tôn giáo theo phương
châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, vững chắc; sử dụng nhiều phương
pháp phù hợp với đặc thù từng dân tộc, từng tôn giáo.
- Năm là, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu
thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch; kịp thời
giải quyết tốt các điểm nóng. Cần thường xuyên vạch trần bộ mặt phản động của kẻ
thù để nhân dân nhận rõ và không bị lừa bịp. Đồng thời, vận động, bảo vệ đồng bào
các dân tộc, tôn giáo để đồng bào tự vạch mặt bọn xấu cùng những thủ đoạn xảo trá
của chúng. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu
tranh này.
Kịp thời chủ động giải quyết tốt các điểm nóng liên quan đến vấn đề dân tộc,
tôn giáo. Chủ động, kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo kích động lôi kéo đồng bào gây bạo loạn. Khi xuất hiện điểm
nóng, cần tìm rõ nguyên nhân, biện pháp giải quyết kịp thời, không để lan rộng,
không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lí nghiêm minh theo pháp luật những kẻ cầm
đầu, ngoan cố chống phá cách mạng. Đồng thời, kiên trì thuyết phục vận động
những người nhẹ dạ, cả tin nghe theo kẻ xấu quay về với cộng đồng; đối xử khoan
hồng, độ lượng, bình đẳng với những người lầm lỗi đã ăn năn hối cải, phục thiện.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa tôn giáo, mỗi dân tộc có những đặc
trưng riêng về văn hóa, tâm lý, ý thức tộc người, có trình độ phát triển không đều
nhau; mỗi tôn giáo có hệ thống giáo lý và tổ chức giáo luật khác nhau nhưng đều là
bộ phận trong khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Để chống phá cách mạng
Việt Nam, phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch tiến
hành những âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm chia rẽ đồng bào thuộc các
tộc người, các tôn giáo khác nhau, kích động sự chi rẽ kỳ thị dân tộc, tôn giáo,
133
xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc tôn giáo của Đảng, gây rối loạn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm ngỏi nổ cho âm mưu thủ đoạn gây bạo loạn lật
đổ cách mạng từ bên trong. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải hết sức nâng cao cảnh
giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại những âm mưu thâm độc của kẻ
thù nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
tộc?
1. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề dân
2. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn
giáo?
3. Trình bày âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá
cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?
4. Nêu những giải pháp cơ bản đấu tranh phòng chống sự lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch?
134
BÀI 12.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ
GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
đang ngày đêm ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới nhằm đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển so với các nước trong khu vực
và trên thế gới và sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hôị có vị trí đặc
biệt quan trọng và quyết định đến sự phát triển của đất nước. Do đó, bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của mọi cá nhân và tổ
chức trong xã hội.
I. CÁC KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ AN NINH
QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
A. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. An ninh quốc gia
- An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc1.
An ninh quốc gia bao gồm: an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hoá, xã hội, quốc phòng… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi xuyên suốt.
- Bảo vệ An ninh quốc gia: Là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh làm
thất bại các hoạt động xâm hại An ninh quốc gia.
- Hoạt động xâm hại An ninh quốc gia: Là những hành vi xâm phạm chế độ
chính trị, kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập chủ quyền,
thống nhất tòan vẹn lãnh thổ của nước cộng hòa xã hôị chủ nghĩa Việt Nam.
- Mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia là những đối tượng, địa điểm, công
trình, cơ sở chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hoá, xã
hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ an ninh
quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm,
nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.
- Nhiệm vụ bảo vệ An ninh quốc gia, bao gồm:
+ Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
+ Bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích
khác của quốc gia.
1
Luật an ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
135
+ Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về An ninh quốc gia.
+ Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt
động xâm phạm An ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ An ninh quốc gia.
- Nguyên tắc bảo vệ An ninh quốc gia
+ Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
+ Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà
nước; huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng
chuyên trách bảo vệ An ninh quốc gia làm nòng cốt.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ An ninh quốc gia với xây dựng, phát triển kinh
tế - văn hóa, xã hội; giữa an ninh - quốc phòng với đối ngoại.
+ Chủ động phòng ngừa làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm An
ninh quốc gia.
- Cơ quan chuyên trách bảo vệ An ninh quốc gia:
+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh sát, cảnh vệ
công an nhân dân.
+ Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh quân đội, tình báo quân đội
nhân dân.
+ Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển: bảo vệ An ninh quốc gia ở biên giới trên
đất liền và trên biển.
- Các biện pháp bảo vệ An ninh quốc gia: Vận động quần chúng, pháp luật,
ngoại giao, kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.
2. Trật tự an toàn xã hội
- Khái niệm: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi
người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn
mực đạo đức, pháp lý xác định.
- Nội dung đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm: Chống Tội phạm;
giữ gìn trật tự nơi công cộng; bảo đảm trạt tự, an toàn giao thông; phòng ngừa tai
nạn; bài trừ tệ nạn xã hội…
- Nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội: Của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng
công an nhân dân làm nòng cốt.
B. NỘI DUNG BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN
TOÀN XÃ HỘI
1. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia
- Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ: Đó là các hoạt động bảo vệ chế độ chính trị
và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt
Nam; giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước;
136
bảo vệ các cơ quan đại diện, cán bộ, lưu học sinh và người lao động Việt Nam đang
công tác, học tập và lao động ở nước ngoài.
- Bảo vệ an ninh kinh tế. Đó là bảo vệ sự ổn định, phát triển vững mạnh của
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chống cc
biểu hiện chệch hướng và các hoạt động phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội, phá hoại nền kinh tế, gây ảnh hưởng tác hại đến lợi ích của quốc gia.
Bảo vệ đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, các nhà khoa học, các nhà kinh doanh giỏi
không để nước ngoài lôi kéo mua chuộc gây tổn thất hoặc làm chuyển hướng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng. An ninh văn hoá, tư tưởng là sự ổn định và
phát triển bền vững của văn hoá, tư tưởng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ an ninh văn hoá, tư tưởng là bảo vệ sự đúng đắn,
vai trị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống
tinh thần của xã hội; bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, bảo vệ bản sắc văn
hoá dân tộc; bảo vệ đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hoá, văn
nghệ. Đấu tranh chống lại sự công kích, bôi nhọ, nói xấu của các thế lực thù địch
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn các hoạt động
truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, thiếu lành mạnh, không phù hợp với
thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
- Bảo vệ an ninh dân tộc. Đó là bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm
bảo cho tất cả các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát
triển theo đúng Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh
với các hoạt động lợi dụng dân tộc ít người để làm việc trái pháp luật, kích động gây
chia rẽ giữa các dân tộc, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Bảo vệ an ninh tôn giáo. Đó là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của
Đảng và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với
các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Thực hiện
đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các tôn giáo, giữa cộng đồng
dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo,
phụng sự Tổ quốc.
- Bảo vệ an ninh biên giới. Biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý ngăn cách chủ
quyền quốc gia và không gian hợp tác phát triển với các nước mà trước hết là với các
nước láng giềng. Vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia đang được
Đảng, Nhà nước đặt ra như là một nhiệm vụ chiến lược cực kì quan trọng. Bảo vệ an
ninh biên giới là bảo vệ nền an ninh, trật tự của Tổ quốc ở khu vực biên giới quốc gia,
cả trên đất liền và trên biển, chống các hành vi xâm phạm chủ quyền biên giới từ phía
nước ngoài, góp phần xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị với các nước láng
giềng theo tinh thần “giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là vùng biển,
đảo”. Chống các thế lực thù địch lợi dụng việc xuất, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam để
tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bảo vệ an ninh thông tin. An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng, chính
xác và bí mật của thông tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lý và
137
lưu giữ tin. Bảo vệ an ninh thông tin là một bộ phận quan trọng của công tác bảo vệ
an ninh quốc gia nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm khác nhằm khai thác, sử
dụng hệ thống thông tin liên lạc hoặc tiến hành các hoạt động phá huỷ công trình,
phương tiện thông tin liên lạc gây thiệt hại cho an ninh quốc gia của nước ta; chống
lộ, lọt những thông tin bí mật của Nhà nước; ngăn chặn các hoạt động khai thác
thông tin trái phép, dò tìm mật mã, mật khẩu để đánh cắp thông tin trên mạng...
2. Nội dung giữ gìn trật tự an toàn xã hội
- Đấu tranh phòng, chống tội phạm (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và
các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh)
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành vi
phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho xã hội;
điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lí trước pháp luật đảm
bảo đúng người, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp họ nhận thức được
lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt, có thể tái hoà nhập cộng đồng xã hội, trở thành người
lương thiện, sống có ích cho xã hội.
- Giữ gìn trật tự nơi công cộng. Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự
được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi
công cộng mà mọi người phải tuân theo. Trật tự công cộng là một mặt của trật tự an
toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ
sinh, nếp sống văn minh; sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục,
tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính
là giữ gìn trật tự, yên tĩnh chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở
những nơi công cộng - nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo
sự tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.
- Đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Trật tự an toàn giao thông là trạng thái
xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia
giao thông, nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn,
hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm
bảo trật tự an toàn giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức
năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính...) mà là trách nhiệm của
tất cả mọi người khi tham gia giao thông. Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm
túc Luật giao thông, mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
phải được xử lý nghiêm khắc, những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện
gây ra các vụ tai nạn giao thông phải được khắc phục nhanh chóng.
- Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh. Chú ý
phòng ngừa không để xẩy ra tai nạn lao động và luôn luôn phòng chống thiên tai
dịch bệnh.
- Bài trừ các tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm những
hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm những
138
nguyên tắc về lối sống, truyền thống văn hoá, đạo đức, trái với thuần phong mĩ tục,
các giá trị xã hội tốt đẹp cho đến các hành vi vi phạm những quy tắc đã được thể chế
hoá bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự) ảnh hưởng xấu về đạo đức và gây hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao gồm: mại dâm,
nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan.... Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội của tình trạng
phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng, chống tệ nạn xã
hội là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng
những biện pháp đồng bộ, tích cực, kiên quyết và triệt để.
- Bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là tập hợp những biện pháp giữ cho
môi trường trong sạch, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh
vật, thực vật, động vật) và môi sinh (đất, lòng đất, nước, không khí, khí hậu...),
đảm bảo sự cân bằng sinh thái... nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho cuộc sống
của con người.
II. TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
A. MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH VỀ AN NINH QUỐC GIA
Trong những năm qua, sau khi Liên Xô - Đông Âu tan rã đã có tác động tiêu
cực và tạo thuận lợi cho các hoạt động chống phá của các tổ chức, thế lực phản động
cả ở trong nước lẫn bọn phản động lưu vong bên ngoài. Chúng cho rằng thời cơ đã
đến trong lúc chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và chúng đã hi vọng vào một cuộc
“lật đổ” ở Việt Nam. Chính vì thế mà hoạt động chống phá của các tổ chức và các
thế lực phản động nhằm cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có
những diễn biến rất phức tạp.
1. Hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt Nam ở nước ngoài
Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động người Việt lưu vong tại
các nước tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động
mang tính chính trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ
chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp dưới các danh nghĩa “từ thiện”. Các tổ chức
phản động này có cơ sở vật chất tương đối khá gồm 50 nhà xuất bản, 500 tờ báo
Việt ngữ, 6 chương trình truyền hình, 10 đài phát thanh. Các tổ chức phản động này
đều có sự dung túng của chính quyền một số nước tư bản nên có điều kiện về kinh
phí, trụ sở để hoạt động. Hiện nay tại các nước như: Mĩ, Pháp, Bỉ, canađa,
ôxtrâylia,... có các tổ chức phản động lớn như các tổ chức của Võ Văn Ái, Hoàng
Cơ Minh, Võ Đại Tôn....
Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong này đều kêu gọi các nước cấm vận,
trừng phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó khăn, thiếu sót trong
quản lí của ta để thực hiện kế hoạch “chuyển lửa về quê” đưa ra các lời kêu gọi lật
đổ và tiếp tay, kích động cho các hoạt động của bọn phản động trong nước.
Mặc dù chúng ta đã làm thất bại các hoạt động đó nhưng vẫn còn nhiều nhóm
hoạt động rất ráo riết như các nhóm của Võ Văn Ái, đặc biệt là tổ chức phản động
do Hữu Chánh cầm đầu trong những ngày gần đây lại bày trò đại hội lập ra “Chính
phủ Việt Nam tự do”, đưa tên “tướng” Nguyễn Khánh lên làm “quốc trưởng” và ra
tuyên bố sẽ về giải phóng Việt Nam.
139
Cùng với hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các
thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Việt Nam
với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt
động diễn biến hoà bình với 3 nội dung chủ yếu là : chiếm lĩnh thị trường ngoại giao
hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xoá bỏ Việt Nam, làm thối
rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam.
2. Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa
Cùng với hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt lưu vong thì các
thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Việt Nam
với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt
động diễn biến hoà bình với 3 nội dung chủ yếu là: Chiếm lĩnh thị trường ngoại giao
hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xoá bỏ Việt Nam, làm thối
rữa từ bên trong đi đến thôn tính Việt Nam.
Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa như các tổ chức phản động của
bọn ngụy quân, ngụy quyền còn chống đối không chịu cải tạo, cũng như bọn phản
động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc và số cơ hội bất mãn trong những năm qua
cũng diễn biến khá phức tạp, nhiều nơi chúng cấu kết với các tổ chức nước ngoài,
được các tổ chức nước ngoài cung cấp tài liệu, tiền bạc, vũ khí để tập hợp lực lượng,
nhen nhóm tổ chức, tiến hành các vụ gây rối bạo loạn. Một số đối tượng bất mãn
viết tin tài liệu nói xấu chống lại Đảng và Nhà nước ta, đòi thay đổi đường lối rồi
tán phát qua mạng internet hoặc phổ biến thông qua các cuộc gặp gỡ với các phóng
viên báo chí nước ngoài. Có những đối tượng chống đối điên cuồng, quyết liệt như
các tên : Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý,... Điển hình gần đây như các đối tượng
Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân ở Văn phòng luật sư Thiên Ân, Trần Khải
Thanh Thuỷ...
- An ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế
Tình hình an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua còn
nhiều bất cập. Phá hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lạnh, một hình
thức chủ yếu trong cuộc đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc chống chủ nghĩa
xã hội. Trong những năm qua các hoạt động phá hoại văn hoá tư tưởng được các
bọn phản động nhất là bọn phản động bên ngoài tiến hành thông qua hoạt động của
các đài phát thanh, mạng internet. Hiện tại có nhiều đài phát thanh và chương trình
do bọn phản động lưu vong tham gia, trong đó có 5 chương trình, 300 báo được thực
hiện ở Mĩ, có 175 tờ báo chống cộng như “Quê mẹ”, “Hoa sen”, “Công luận” hoạt
động phá hoại văn hoá tư tưởng được tiến hành theo các chiến dịch, có sự phối hợp
giữa các nước đế quốc với bọn phản động và gắn liền với các hoạt động tình báo
gián điệp. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm vào xuyên tạc, nói xấu, kích động
nhằm gây mất ổn định trong nước.
- Lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế
Trong những năm qua, tình hình lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế đã
xảy ra ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. Các hoạt động nhằm
140
phá hoại về kinh tế được tiến hành cả bề rộng lẫn bề sâu thông qua các hoạt động
lấy cắp bí mật kinh tế, tuyên truyền và kéo cán bộ quản lí kinh tế và khoa học kĩ
thuật phá hoại cơ sở vật chất. Trong tình hình hiện nay, chúng nhằm vào phá hoại
các chủ trương đường lối kinh tế, các công trình trọng điểm của ta.
- An ninh biên giới
Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập qua biên giới
diễn ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều thiếu sót dẫn
đến tình trạng nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên. Lợi dụng các mối
quan hệ của các dân tộc hai bên biên giới, các đối tượng bên ngoài qua lại, móc nối,
lôi kéo, chia rẽ các dân tộc, dòng họ trong nước hòng làm suy yếu, tiến tới gây bạo
loạn ở những nơi này. Số ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ còn ở
trong nước phần lớn đã cải tà, quy chính và đã nhận thức rõ được chính sách đúng
đắn của Nhà nước, nhất là chính sách khoan hồng. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận
không chịu cải tạo, chúng vẫn ngấm ngầm chống đối dưới nhiều hình thức, tìm mọi
cách móc nối với các đối tượng từ ngoài vào để được giúp đỡ.
- Điểm nóng về an ninh trật tự
Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh trật tự, xuất phát từ
những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái, thiếu sót của
cán bộ cơ sở trong việc giải quyết đền bù đất đai... Do làm chưa triệt để, chưa công
bằng nên đã để một bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích kích động dẫn
đến manh động làm rối loạn an ninh trật tự ở một số địa phương. Đây chính là
những nguyên nhân tiềm ẩn, là mảnh đất tốt mà các thế lực thù địch nhằm vào để
kích động, gây ngòi nổ hòng gây mất ổn định trong xã hội ta.
Tóm lại: Tình hình về an ninh quốc gia trong những năm qua nổi lên những
vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm. Đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình hình
mất ổn định, ảnh hưởng đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Đảng và Nhà nước ta
đã xác định bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ cực kì quan trọng của tồn Đảng,
toàn dân ta.
B. TÌNH HÌNH VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
1. Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội: Tội phạm kinh tế, tội
phạm ma tuý trong những năm qua có những diễn biến rất phức tạp
Số vụ phạm tội hàng năm bị phát hiện có sự tăng giảm không đều trong đó
các vụ trọng án có chiều hướng tăng. Bình quân hàng năm có khoảng 70.000 vụ
phạm tội được phát hiện trong đó các vụ án giết người, cướp tài sản, cướp giật có
xu hướng tăng. Trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là nguyên
nhân xã hội.
Các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an tồn xã hội ngày càng có xu hướng
chuẩn bị trước, tình hình băng ổ nhóm và hiện tại các băng nhóm tội phạm câu kết
với nhau tạo thành những tổ chức tội phạm rất nguy hiểm gây nhức nhối, bức xúc
cho xã hội.
141
Các loại tội phạm hình sự khác như bọn đâm thuê, chém mướn, trả thù cá nhân
bằng bom thư, bom mìn hoặc tạt axít trong những năm qua cũng rất đa dạng và là
một nỗi nhức nhối của xã hội. Loại tội phạm này hoạt động rất manh động, bất chấp
hậu quả gây ra cho dù người bị hại có thể không phải là người mà chúng cần trả thù,
có những vụ tính chất đặc biệt nghiêm trọng, các vụ bắt cóc nhằm tống tiền cũng có
chiều hướng tăng. Bọn tội phạm nhằm vào các gia đình giàu có rồi bắt cóc đòi tiền
chuộc, có vụ chúng đòi tiền chuộc lên đến vài trăm triệu. Có thể thấy rằng, tội phạm
hình sự hoạt động ngày càng táo bạo, manh động, chúng sử dụng đủ các loại hung
khí, kể cả vũ khí nóng.
Thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có cả lưu manh
cũng như nông dân, cán bộ, đảng viên, trí thức, sinh viên. Trong đó đáng lo ngại là
các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội đen trả thù.
Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa dạng, từ những thủ đoạn đơn
giản cổ điển nhưng hiệu quả như “vãi thóc gọi gà” của bọn lừa đảo đến những thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát hiện.
Về địa bàn hoạt động, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa
bàn trong cả nước nhưng tập trung vào các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương,
Nam Định.
- Các loại án kinh tế, tuy số vụ không tăng nhiều nhưng quy mô, tính chất rất
nghiêm trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng (VAT), các
vụ tham ô với số tiền bị chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ đồng. Điển hình như các vụ
Lã Thị Kim Oanh, vụ công ty dầu khí, PMU18... đối tượng phạm tội kinh tế cho
thấy hầu hết có sự liên kết với nhau. Đây cũng là một đặc điểm của loại tội phạm
này. Vì thế, việc điều tra, khám phá gặp rất nhiều khó khăn. Loại tội phạm này
thường có sự “bọc lót”, “che chắn” cho nhau, tài sản bị mất là tài sản nhà nước nên
ý thức tự giác đấu tranh của công dân tại những cơ quan, doanh nghiệp này chưa
cao, đây cũng là lí do giải thích tại sao công tác điều tra, thanh tra chưa đạt hiệu quả
cao. Các lĩnh vực xảy ra tội phạm kinh tế thường có ở các ngành kinh tế như xây
dựng cơ bản, ngân hàng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Tình trạng buôn lậu trốn thuế trong
những năm qua vẫn chưa giảm đáng kể, chúng được thực hiện cả ở vùng cửa khẩu
biên giới, trên biển, trên các tuyến vận chuyển, kể cả các tuyến hàng không. Mặt
hàng buôn lậu đa dạng chủng loại từ vải vóc, máy móc đến điện thoại di động, thuốc
chữa bệnh. Trong tình hình hiện nay, buôn lậu xảy ra phức tạp nhất ở các địa bàn
trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các khu vực biên giới Tây Nam,
biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung Quốc.
Tội phạm kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất, mà còn làm
mất đi cả một bộ phận cán bộ, đảng viên gây ảnh hưởng xấu về chính trị, xã hội, có
những vụ được coi là giặc nội xâm (PMU18).
- Trong các năm qua, chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với tội phạm về ma tuý,
việc thực hiện chương trình quốc gia về phòng, chống ma tuý mặc dù đã đạt được
những kết quả rất to lớn, nhưng tội phạm ma tuý vẫn chưa giảm cơ bản, thậm chí
142
còn xảy ra rất nghim trọng. Chúng ta đã phát hiện, xử lí hàng chục nghìn vụ buôn
lậu, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, có những vụ rất lớn. Những năm gần
đây, các Toà án đã tuyên án tử hình hàng trăm tên tội phạm ma tuý nhưng tội phạm
ma tuý vẫn xảy ra rất nghiêm trọng.
Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma tuý ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Chúng sẵn sàng chống trả quyết liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ,
chiến sĩ hy sinh trong đấu tranh với loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại
tội phạm này tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng
và các tỉnh biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, các tuyến trục đường
8, 7, 6.
Các băng, nhóm, tổ chức tội phạm ma tuý thường có sự liên kết với nhau cả
trong nước lẫn quốc tế, quy mô, tính chất ngày càng lớn và ác liệt. Chúng không từ
một thủ đoạn tàn bạo nào, kể cả sử dụng trẻ em, con cháu để đưa vào con đường
phạm tội, lợi dụng mọi phương tiện để vận chuyển trên một diện rộng nên công tác
phát hiện, đấu tranh của ta gặp nhiều khó khăn.
2. Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi trường xảy ra phức
tạp, thậm trí rất nghiêm trọng
- Tệ nạn xã hội diễn ra hầu hết tất cả các địa phương trong cả nôùc, nó có một
số đặc điểm sau:
+ Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến
+ Tệ nạn xã hội mang tính lây lan nhanh
+ Tệ nạn xã hội có quan hệ chặt chẽ với tội phạm
Đối tượng tham gia: đủ mọi lứa tuổi, giới tính, thành phần xã hội.
- Tình trạng tai nạn giao thơng, tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp rủi ro:
xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng; trong đó tai nạn giao thơng
chiếm tỷ lệ cao nhất, hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người, hàng
tră nghìn người bị thương, thiệt hại nghiêm trọng về tài sản; tai nạn nghề nghiệp
ngày càng tăng: sập nhà, sập cầu khi đang xây dựng, sập hầm lò, cháy nổ,…
- Ô nhiễm môi trường: đáng báo động. Tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn, ô
nhiễm nguồn nước, vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh…
Tóm lại, tình hình về trật tự, an tồn xã hội trong những năm qua đã v àđang là
vấn đề nóng bỏng, bức xúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm khắc
phục, giải quyết. Trên cơ sở đó, chúng ta mới giữ vững được trật tự an toàn xã hội
cùng với bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia góp phần ổn định tình hình, làm nền
tảng cho sự phát triển của đất nước.
III. DỰ BÁO TÌNH HÌNH AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN
TOÀN XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
A. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI SẼ DIỄN BIẾN PHỨC
TẠP HƠN
143
- Một là, sau cuộc chiến tranh Irắc, các thế lực hiếu chiến tiếp tục thực hiện
chiến lược “đánh đòn phủ đầu” lợi dụng đòn tấn công chống lại “chủ nghĩa khủng
bố” ra sức lộng hành đe doạ hoà bình chủ quyền của các quốc gia dân tộc.
- Hai là, quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục đan xen cả hai mặt đấu tranh và
thoả hiệp. Một mặt, vì lợi ích của dân tộc, quốc gia và giai cấp mà họ đại diện, họ
tìm cách xoa dịu các mâu thuẫn, tìm những điểm tương đồng để hợp tác tránh đối
đầu. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đơn phương, sự lộng hành của các
thế lực hiếu chiến sẽ gia tăng.
- Ba là, phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh bảo vệ hồ bình, độc
lập dân tộc sẽ tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh chống mặt trái của toàn cầu hoá
do chủ nghĩa tư bản chi phối sẽ tiếp tục dâng cao. Tuy nhiên, các lực lượng đấu
tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội hiện nay vẫn chưa có sức mạnh
thống nhất.
- Bốn là, xu thế tồn cầu hố về kinh tế sẽ tiếp tục pht triển. Tính đến ngày
29/07/2016, WTO có 164 thành viên, trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều nước
tham gia. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên các lĩnh vực vật liệu, công
nghệ sinh học và tin học sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tình hình đó sẽ mở ra những cơ
hội mới, đồng thời đặt ra nhiều thách thức mới.
- Năm là, tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục không ổn định. Cuộc khủng
hoảng của các trung tâm kinh tế lớn sẽ tiếp tục trầm trọng thêm gây bất ổn định trên
thị trường tài chính. Khoảng cách giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước
đang phát triển sẽ ngày càng rộng ra. Các cuộc tranh chấp trên biển và tranh chấp về
nguồn dầu khí ở Trung Đông và ở Nga sẽ gay gắt hơn.
Tuy vậy, những diễn biến phức tạp đó chưa làm đảo lộn chiều hướng đã diễn ra
sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu. Hoà bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn của thời đại.
B. TÌNH HÌNH KHU VỰC ĐÔNG NAM Á CÒN TIỀM ẨN NHIỀU NHÂN
TỐ MẤT ỔN ĐỊNH
- Chủ nghĩa khủng bố vẫn hoạt động ở một số nước gây ra những thảm hoạ cho
nhân dân và chính quyền nơi đó; mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo làm bùng nổ các
cuộc xung đột; sự tranh chấp giữ các nước trong khu vưc…
- ASEAN tiếp tục là nhân tố quan trọng đối với hoà bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở khu vực.
C. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ
AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM TỚI
1. Thuận lợi
- Tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường. Sự nghiệp đổi mới
đất nước giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt, đời sống
nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt.
144
- Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh nghiệm, có
đương lối đổi mới được kiểm chứng qua thực tế và được nhân dân ủng hộ.
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết, sáng tạo…
- Lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân
dân vươn lên làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Khó khăn
- Nước ta phái đối diện với 4 mối đe doạ (nguy cơ) lớn: tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa;
nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hòa bình”. Các mối đe doạ trên diễn biến
đan xen phức tạp, không thể xem nhẹ mối đe doạ nào.
- Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém; các vấn đề
kinh tế - xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân...
- Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch gia
tăng với thủ đoạn và hình thức ngày càng tinh vi.
- Các hành động xâm hại độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ nước ta sẽ
tiếp diễn.
D. ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐẤU TRANH TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ
AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
Trong tình hình hiện nay, cần có cách nhìn mới về vấn đề đối tác, đối tượng
đấu tranh theo nguyên tắc:
- Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác
của chúng ta.
- Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
- Trong đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối
tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Do đó, tránh khuynh
hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong
xử lý tình huống cụ thể.
Để xác định đúng các đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh trật tự
cần dựa vào các căn cứ sau:
- Căn cứ vào nhiệm vụ và đối tượng đấu tranh của cách mạng trong từng
giai đoạn.
- Căn cứ vào nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, bảo vệ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Căn cứ vào thực tế hoạt động của các loại đối tượng xâm phạm an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội từ trước đến nay ở nước ta.
145
1. Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia
a) Gián điệp
Là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, hoạt động cá nhân hay có tổ chức,
chịu sự chỉ huy của nước ngoài tiến hành các hoạt động điều tra thu thập tình báo,
gây cơ sở bí mật, phá hoại nhằm chống lại nước ta.
b) Phản động
Phản động: Phản động là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động
phản cách mạng chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng không chịu sự chỉ huy của
nước ngoài.
Trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với những loại sau :
- Các tổ chức và cá nhân phản động trong số người Việt Nam ở nước ngoài đang
có những hoạt động chống Việt Nam.
- Đối tượng phản động lợi dụng tôn giáo.
- Đối tượng phản động lợi dụng dân tộc ít người, nhất là bọn có sự câu kết của
các lực lượng phản động bên ngoài.
- Đối tượng phản động trong ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ
không chịu cải tạo.
- Đối tượng có tư tưởng, quan điểm sai trái, những phần tử trong nội bộ bất mãn
thoái hoá biến chất trở thành phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội; số cơ
hội chính trị.
2. Đối tượng xâm phạm trật tự an toàn xã hội
Đối tượng xâm phạm về trật tự an toàn xã hội là những người có hành vi phạm
tội gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng,
sức khỏe và danh dự phẩm giá của con người, đến trật tự an toàn xã hội nhưng
không có mục đích chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong các đối tượng xâm phạm trật tự an toàn xã hội hiện nay có những người
phạm tội nhất thời, có đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, với tính chất và mức độ
nguy hiểm khác nhau. Các đối tượng này bao gồm:
+ Các đối tượng xâm phạm trật tự xã hội (tội phạm hình sự).
+ Các đối tượng xâm phạm trật tự quản lí kinh tế và chức vụ (tội phạm kinh tế).
+ Các đối tượng về ma tuý (tội phạm ma tuý).
Trong số các đối tượng trên cần tập trung vào đấu tranh với các đối tượng sau:
+ Tội phạm kinh tế, nhất là đối tượng tham nhũng, buôn lậu, sản xuất tàng trữ
và tiêu thụ tiền giả.
+ Tội phạm về ma tuý.
+ Tội phạm hình sự, tập trung vào đối tượng hoạt động có tổ chức, lưu manh
chuyên nghiệp, sử dụng bạo lực, tội phạm có quan hệ với nước ngoài.
146
3. Các tai nạn, tệ nạn xã hội
Phòng ngừa và làm giảm đến mức thấp nhất hậu quả thiệt hại do các tai nạn xã
hội (tai nạn giao thông, tai nạn do sử dụng, bảo quản chất nổ, chất cháy không đúng
quy định, tai nạn do sự cố kĩ thuật, do thiên nhiên...) gây ra. Bài trừ các tệ nạn xã hội.
Trước mắt phải đẩy lùi một bước các loại tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, mại dâm.
IV. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG
TÁC BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
A. PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA CẢ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐẶT DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC, NHÂN DÂN
LÀM CHỦ, CÔNG AN LÀ LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT TRONG SỰ NGHIỆP
BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
1. Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định
thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội.
Chỉ có Đảng lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ
thống chính trị, của toàn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và triệt để trong cuộc
đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Đảng lãnh đạo
tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt thể hiện: Đảng đề ra đường lối, chính sách và phương
pháp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội một cách đúng đắn,
đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách đó.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự, an tồn xã hội
Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội là sự nghiệp của nhân
dân, là nghĩa vụ đồng thời cũng là lợi ích thiết thực của nhân dân. An ninh quốc gia,
trật tự, an tồn xã hội có được bảo vệ tốt hay không thì vấn đề rất quan trọng là do sự
giác ngộ của nhân dân về quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực đó. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân thực chất đó là cuộc vận động phong trào cách mạng của quần
chúng nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhân dân từ cơ sở. Nhân dân có điều
kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó.
Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động thể hiện:
- Quán triệt sâu sắc và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ, thể lệ, nội quy về bảo vệ an ninh trật tự.
- Đấu tranh kiên quyết với các thế lực thù địch, bọn phản cách mạng và bọn
phạm tội khác, với mọi hành vi vi phạm pháp luật và những hiện tượng tiêu cực
trong đời sống xã hội; kin quyết giữ vững an ninh trật tự ở mọi nơi, mọi lúc.
- Tự giác tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, tích cực
giúp đỡ các cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công an nhân dân, các lực
lượng bảo vệ ở địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ.
147
- Tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí cuộc sống mới văn minh trật
tự, yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác, sản xuất, chiến đấu.
3. Tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân lao
động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó có công tác bảo
vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Nhà nước có mạnh (hiệu lực)
thì quyền làm chủ của nhân dân mới được đảm bảo vững chắc.
Nội dung tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước: Phát huy mạnh mẽ tác
dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén để xây
dựng và quản lí nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên quan tâm xây
dựng các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự, an tồn xã hội. Phát huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và uỷ ban
nhân dân các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định
về công tác bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lí của các cơ quan
Nhà nước vào việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
4. Công an là lực lượng nòng cốt
Lực lượng Công an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành, các
cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Lực lượng Công an phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất; tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự,
an tòan xà hội. Qua thực tiễn tiến hnh cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải làm
tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an tồn xà hội có liên quan
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo thắng lợi
hoàn toàn và triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải biết kết hợp tính
tích cực cch mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ của các cơ quan chuyên
môn. Sự kết hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện, cung cấp tình hình, cơ quan
chuyên môn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được tổng hợp, kết hợp với
nghiệp vụ chuyên môn của các ngành để tìm ra bản chất của vấn đề và biện pháp xử
lí. Phải coi trọng cả hai mặt đó, không được coi nhẹ mặt nào.
B. KẾT HỢP CHẶT CHẼ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VỚI NHIỆM VỤ BẢO
VỆ TỔ QUỐC
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền thống đó
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự ổn định
và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an ninh trật
tự và ngược lại an ninh trật tự vững chắc mới có điều kiện ổn định phát triển đất
nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh trật tự được giữ vững, củng cố và phát
triển là dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn định và phát triển. Hiện nay kết hợp chặt
chẽ giữa an ninh và quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng
148
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa quốc phòng với an
ninh, an ninh với quốc phòng có nội dung rất rộng, hình thức và cơ chế kết hợp cũng
rất phong phú và đa dạng. Một trong những nội dung quan trọng của việc kết hợp
giữa an ninh với quốc phòng là kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng trật tự an ninh nhân
dân với thế trận quốc phòng tồn dân.
C. BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA PHẢI KẾT HỢP CHẶT CHẼ VỚI GIỮ
GÌN TRẬT TỰ, AN TỒN XÃ HỘI
An ninh quốc gia và trật tự, an tồn xã hội là hai thành phần cấu thầnh trật tự xã
hội. Bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia lã bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành
quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một trong những điều kiện cơ bản nhất để
xây dựng sự vững mạnh về mọi mặt trong xã hội. An ninh quốc gia được bảo vệ vững
chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Trật tự, an
tồn xã hội được giữ vững sẽ tạo điều kiện cho an ninh quốc gia càng được củng cố
vững chắc, hiệu lực quản lí của Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân
dân được bảo đảm vững chắc, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.
D. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG TÁC BẢO
VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ GIỮ GÌN TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI
Sinh viên là chủ nhân tương lai của đất nước, với trách nhiệm công dân của
người thanh niên trong thời đại mới, chúng ta phải làm gì để góp phần bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tòan xã hội? Muốn vậy, mỗi người sinh viên không
những phải nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo
vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội mà còn vận động mọi người
cùng tự giác chấp hành.
Sinh viên trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hoá cần phải nhận thức đúng
vai trị trách nhiệm của mình và tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, cụ thể là:
- Nhận thức đúng cuộc đấu tranh để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
tồn xã hội là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay go, quyết liệt,
phức tạp, lâu dài. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi các thế lực thù địch và các
phần tử chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang ra sức tiến hành các hoạt động “diễn biến hồ bình” bằng mọi thủ
đoạn. Trong đó, chúng triệt để chú ý địa bàn là các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp; lợi dụng lừa phỉnh sinh viên - những người rất năng động, sáng
tạo nhưng chưa có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống là địa bàn và đối tượng để
thực hiện “diễn biến hòa bình”. Do vậy, sinh viên cần phải cảnh giác, tích cực trong
đấu tranh với những hành động sai trái, với các phần tử thoái hoá biến chất trong các
tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước nhưng không để các thế lực thù địch, các phần tử
chống đối lợi dụng mình để thực hiện “diễn biến hồ bình” nhằm lm suy yếu, tiến tới
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
- Tích cực, tự giác tham gia các hoạt động cụ thể để bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an tòan xã hội.
149
+ Phát hiện những tổ chức, người có hành vi tuyên truyền lôi kéo sinh viên
tham gia các hoạt động trái quy định của pháp luật nhằm chống lại Đảng, Nhà nước
để báo cho lãnh đạo của trường, chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật biết,
có ý thức bảo vệ bí mật nhà nước.
+ Tham gia xây dựng nếp sống văn minh trật tự ngay trong trường học, kí túc
xá, khu vực dân cư mà mình sinh sống, bảo vệ môi trường, giúp đỡ các cơ quan
chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tòan xã hội.
+ Tham gia các hoạt động xã hội để góp phần giữ gìn trật tự, an tồn xã hội như:
chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ, giữ gìn trật tự, vệ sinh ở nơi
công cộng. Bản thân không tham gia đua xe và cổ vũ đua xe trái phép, vận động
nhiều người cùng tham gia chấp hành tốt những quy định của pháp luật như mình.
+ Bản thân luôn nhận thức được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội để không
mắc phải, mặt khác sinh viên còn tuyên truyền vận động cho nhiều người khác thấy
được sự nguy hại của các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý, cờ bạc, mại dâm. Phát
hiện những địa điểm tổ chức, đối tượng tham gia các tệ nạn xã hội để báo cáo cho
lãnh đạo nhà trường, chính quyền địa phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật mà trực
tiếp là lực lượng Công an nhân dân để có biện pháp đấu tranh kịp thời có hiệu quả.
+ Tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phát hiện,
tố giác kịp thời các đối tượng, băng nhóm tổ chức tội phạm để các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có biện pháp giải quyết kịp thời.
+ Tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ
chuyên môn có liên quan để có thể cống hiến cao nhất những khả năng của mình
góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Chăm chỉ rèn luyện sức khỏe để tăng cường thể lực, luyện tập quân sự theo
chương trình giáo dục quốc phịng để góp phần chuẩn bị cho lực lượng sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
- Hướng nghiệp tham gia các lực lượng vũ trang bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội, như tham gia lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng…
Với truyền thống của mình, bằng sự năng động, sáng tạo của sinh viên dưới sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, của lãnh đạo các nhà trường, các tổ chức đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức của sinh viên chắc chắn sinh viên trong các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp chúng ta sẽ đóng góp, cống hiến
những khả năng cao nhất của mình cùng tòan Đảng, toàn dân và các cơ quan chuyên
trách bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày nội dung bảo vệ an ninh Quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội?
2. Nêu quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh Quốc gia và giữ gìn
trật tự an toàn xã hội?
150
BÀI 13.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI PHẠM VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI
Tội phạm và tệ nạn xã hội được coi là những hiện tượng xã hội tồn tại song
song cùng với sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh nước ta chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu
đạt được về mặt kinh tế thì cũng làm xuất hiện những vấn đề tiêu cực trong xã
hội, đó là sự thay đổi lối sống với việc đề cao giá trị vật chất và sự hưởng thụ
diễn ra ở bộ phận không nhỏ trong xã hội; đạo đức xã hội có nhiều sự biến đổi
nhanh chóng; sự di dân cơ học từ các vùng nông thôn về các đô thị trong khi vẫn
giữ thói quen, văn hoá của vùng nông thôn; sự ứng xử giữa con người với nhau
cũng có những biến động so với trước đây; công tác quản lý nhà nước trên nhiều
lĩnh vực còn có những kẽ hỡ, hệ thống pháp luật vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện; khoảng cách của phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng và tình hình tham
nhũng, lãng phí khiến một số người giàu lên nhanh chóng cũng như những tác
động từ mặt trái của chính sách thu hút FDI nhằm tăng trưởng GDP ở một số địa
phương dẫn đến mâu thuẫn giữa những người bị thu hồi đất với nhà đầu tư, chính
quyền gây nên những bức xúc trong xã hội, tạo ra các vụ khiếu kiện đông người
rất phức tạp… dẫn đến vi phạm pháp luật, phạm tội và làm phát sinh các tệ nạn
xã hội.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM
A. KHÁI NIỆM PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM
1. Khái niệm tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự (Điều 8 - Bộ luật hình sự 2015).
2. Phòng chống tội phạm
Là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện
pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của trình trạng phạm tội; ngăn
chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
- Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo phòng ngừa
giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.
- Thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa.
151
3. Các hướng cơ bản trong phòng ngừa tội phạm
- Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện
tượng tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và phạm tội
cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.
- Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy
ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động
phòng ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra.
Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện.
4. Mục đích của công tác phòng chống tội phạm
Là khắc phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của trình trạng phạm tội
nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi
đời sống xã hội.
B. NỘI DUNG, NHIỆM VỤ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM
1. Nghiên cứu, xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của trình trạng
phạm tội
Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải
xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến
lược phòng ngừa thích hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện
nay bao gồm:
- Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là: Hình thành lối sống hưởng thụ xa
hoa, trụy lạc của một bộ phận người trong xã hội; Đã làm xuống cấp nhiều mặt về
văn hóa, đạo đức, lối sống làm mất đi truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc;
Đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, một bộ
phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất chính từ đó
dẫn đến tội phạm, mặt khắc không ít người không có tư liệu sản xuất phải ra
thành phố, thị xã làm thuê kiếm sống bị tác động bởi những hiện tượng tiêu cực
dễ dẫn đến phạm tội.
- Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế độ
cũ để lại.
- Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong
nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham
lam ít kỉ, sa đọa, trụy lạc trong một bộ phận nhân dân.
- Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư của
chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các
hiện tượng tiêu cực trong đó có tội phạm.
- Sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc gia khác.
152
- Những sơ hở, thiếu sót trong các mặt công tác quản lý của Nhà nước, các cấp,
các ngành bao gồm: sơ hở thiếu sót trong quản lý con người, quản lý văn hóa, quản
lý nghề nghiệp kinh doanh…
- Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hóa
người dân.
- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém hiệu quả,
một số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt động
phát triển. Sự chậm đổi mới chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật
bọc lộ những sơ hở khiến cho một số đối tượng lợi dụng để hoạt động phạm tội.
- Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và
của ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót; thể hiện trên các
mặt: Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp tay
cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm; Mối liên hệ giữa các
cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu thống nhất trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Hoạt động trao đổi
thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt; Số vụ phát hiện, điều tra ít
hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn còn nhiều; Hoạt động điều tra, xử lí
tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lí chưa nghiêm minh.
Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
bảo vệ pháp luật trong nội bộ từng cơ quan chưa thực hiện thực sự khoa học, hiệu
quả vận hành chưa cao.
- Công tác quản lí Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công tác
giáo dục cải tạo chưa xóa bỏ được tư tưởng phạm tội của các đối tượng, số đối
tượng phạm tội trở lại còn nhiều.
- Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa
thực sự mạnh mẽ và hiệu quả. Chưa phát huy được sức mạnh cua quần chúng trong
công giáo dục, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội.
2. Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích
hợp nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
Tùy thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của trình trạng phạm tội trên các
lĩnh vực để soạn thảo đề xuất các biện pháp đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm: Các giải pháp phát triển kinh tế và các
giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Phòng ngừa tội phạm kết hợp với thực hiện các chính sách xã hội cho phù hợp
với các địa phương cụ thể.
Nhà nước phải xây dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm nói
chung, bảo đảm các yêu cầu, nội dung sau: Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm; Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử dụng đồng
bộ hệ thống, các biện pháp phòng ngừa, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các
cấp, các ngành, của công dân.
153
Mỗi cấp, mỗi ngành phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để xây
dựng và tổ chức chương trình hành động cụ thể phòng chống tội phạm.
Mỗi công dân phải nhân thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công tác
phòng ngừa tội phạm.
Nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên kiểm tra, tạo điều kiện về
vật chất và tinh thần nhằm duy trì và đẩy mạnh công tác phòng chống tội phạm.
3. Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm
Các cấp, các ngành các tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể
của mình để xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
- Chính quyền các cấp tổ chức triển khai thực hiện chương trình phòng ngừa tội
phạm nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ở mỗi cấp (Trung ương,
tỉnh, thành phố, quận huyện, xã phường).
- Các bộ triển khai chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục những
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm có liên quan đến hoạt động của mình.
- Từng hộ gia đình, mỗi cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tội
phạm.
4. Tổ chức tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm
Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, điều tra, xử lí tội
phạm theo quy định của pháp luật có trách nhiệm: chủ động phối kết hợp với các lực
lượng có liên quan kịp thời phát hiện các thông tin về tội phạm và có liên quan đến
tội phạm; tổ chức điều tra làm rõ các hành vi phạm tội, con người kẻ phạm tội; làm
rõ những vấn đề cần chứng minh theo yêu cầu của pháp luật, phục vụ xử lí tội
phạm; các cơ quan truy tố, xét xử cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội
để xử lí đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
C. CHỦ THỂ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM
1. Chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm
- Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp
Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tội phạm trên
những phương diện sau: Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các
văn bản pháp lý về chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng chống
tội phạm; Thành lập các ủy ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành
các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung
(Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, Pháp luật, Ủy ban quốc phòng an ninh); Giám sát chặt
chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các
cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội; Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị
quyết về phòng chống tội phạm ở địa phương mình.
154
- Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp
Chức năng chính của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phòng
chống tội phạm là quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết,
thể hiện:
+ Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp quy
hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng chống tội phạm.
+ Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành hoạt động phòng
chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, tòa án.
+ Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp
mình quản lí theo kế hoạch thống nhất.
+ Đảm bảo các điều kiện vật chất cho hoạt động phòng chống tội phạm: ngân
sách nhà nước, phương tiện, điều kiện làm việc.
+ Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh hoạt
động phòng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
+ Đề ra các biện pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội
tham gia hoạt động phòng chống tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình
tiên tiến.
+ Các cơ quan quản lí kinh tế, văn hóa, giáo dục,dịch vụ, du lịch trong phạm vi
tổ chức hoạt động chuyên môn.
+ Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh phát triển tội phạm
thuộc lĩnh vực mình quản lý.
+ Đề ra những quy định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ
trương, chính sách đúng đăn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tội phạm trong
phạm vi cơ quan có hiệu quả.
+ Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các cấp, làm tốt công tác
phòng chống trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ.
- Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản
+ Các tổ chức đoàn thể trên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, cụ thể:
+ Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn
thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm.
+ Tuyên truyền cho hội viên thấy được tính chất, thủ đoạn của tội phạm nâng
cao ý thức cảnh giác.
+ Trực tiếp huy động các hội viên tham gia chương trình phòng chống tội
phạm của Chính phủ trong phạm vi địa phương, nội bộ hiệp hội của mình.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án
155
+ Nghiên cứu, phân tích trình trạng phạm tội, xác định chính xác những
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng chống
thích hợp.
+ Sử dụng các biện pháp luật định và biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo
chức năng, trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
+ Đối với lực lượng công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động phòng
ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và trực
tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội phạm.
+ Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động điều
tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố.
+ Tòa án các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công minh,
đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính phủ,
các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ.
+ Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có
liên quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những sơ hở
thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Công dân
+ Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự.
Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng chống tội phạm phải quán triệt:
+ Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến
pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.
+ Tích cực, chủ động phát hiện mọi hành động của tội phạm và thông báo cho
các cơ quan chức năng.
+ Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hóa các đối tượng có liên
quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư.
+ Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện
tốt chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào:
“Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hóa, giáo dục
người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hòa nhập
cộng đồng cho người phạm tội ngay trong phạm vi gia đình (quản lí, giáo dục các
thành viên trong gia đình).
2. Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm
- Nguyên tắc Nhà nước quản lý
- Kết hợp giữa chủ động phòng ngừa và chủ động tiến công (phối hợp và
cụ thể)
- Nguyên tắc pháp chế (tuân thủ pháp luật)
- Nguyên tắc dân chủ, nhân đạo
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ
156
D. PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác định ở hai mức độ
khác nhau: Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng chống riêng
(chuyên môn).
- Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế,
văn hóa, pháp luật, giáo dục. Đây là quá trình toàn xã hội phải tham gia nhằm
khắc phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển
của tội phạm.
- Phòng chống riêng (phòng chống của lĩnh vực chuyên môn) là việc áp dụng
các biện pháp mang tính đặc trưng,, chuyên môn của từng ngành, từng lực lượng,
trong đó có hoạt động của cơ quan công an với vai trò nòng cốt, xung kích. Khi
nghiên cứu các biện pháp phòng chống tội phạm có thể phân loại thành các hệ thống
biện pháp phòng chống như sau:
- Theo nội dung tác động của phòng ngừa tội phạm: Biện pháp kinh tế, biện
pháp giáo dục, biện pháp tổ chức, biện pháp pháp luật.
- Theo phạm vi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội như: Phòng ngừa
trong các khu vực: kinh tế, tuyến giao thông trọng điểm.
- Theo phạm vi đối tượng tác động của biện pháp phòng chống tội phạm, có:
+ Các biện pháp phòng chống tội phạm nói chung trong cả nước: Kinh tế,
chính trị, giáo dục.
+ Biện pháp phòng chống cá biệt: Đối với từng đối tượng phạm tội cụ thể.
- Theo chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm:
+ Biện pháp của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên môn phòng
chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
+ Biện pháp của các tổ chức xã hội: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ…
+ Biện pháp của công dân.
E. PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM TRONG NHÀ TRƯỜNG
1. Trách nhiệm của nhà trường
- Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong
nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm
để cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình, của nhà trường trong đấu tranh
phòng chống tội phạm, từ đó tự giác tham gia.
- Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng tiêu
cực, tệ nạn xã hội và tội phạm.
- Xây dựng quy chế quản lý sinh viên, quản lý kí túc xá, các tổ chức sinh viên
tự quản lí, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm soát trong khu vực nhà trường.
- Tổ chức cho sinh viên tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội, không có
hành vi hoạt động phạm tội.
157
- Tổ chức cho sinh viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật Hình sự,
phòng chống tệ nạn xã hội.
- Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận động
toàn dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh nhà trường.
- Phối hợp với lực lượng công an sơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp số sinh
viên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản lý, giáo dục; đấu
tranh xóa bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực xung quanh trường.
2. Trách nhiệm của sinh viên
- Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ
bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi người.
- Chấp hành nghiêm chỉnh những nội dung, quy định của nhà trường trong lĩnh
vực sinh viên học tập, sinh hoạt tập thể.
- Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào các tổ
chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự trong
khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh trong trường
lớp; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn nghiện ma túy, cờ
bạc, chơi lô đề,cá cược bóng đá… có thể dẫn đến tội phạm.
- Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực nhà trường, lớp phát hiện và cung
cấp cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội; tùy
theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham gia cộng tác giúp đỡ lực
lượng công an một cách công khai hay bí mật.
II. CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI
A. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ
HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG HOẠT ĐỘNG TỆ NẠN XÃ HỘI
1. Khái niệm tệ nạn xã hội
Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện
bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả
nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng.
Tệ nạn xã hội là những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội,
như: Thói hư, tật xấu; Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu; Nếp sống xa đọa trụy lạc,
mê tín đồng bóng, bói toán…
Bản chất của tệ nạn xã hội là xấu xa, trái với nếp sống văn minh, trái với đạo
đức, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống thực dụng, coi thường các chuẩn
mực đạo đức, xã hội và pháp luật, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống,
thuần phong mỹ tục của dân tộc, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại
nhân cách, phẩm giá con người, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, năng suất lao
động, làm băng hoại giống nòi dân tộc.. là con đường dẫn đến tội phạm.
158
2. Mục đích công tác phòng chống tội phạm
- Ngăn ngừa chặn đứng không để tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển, lan rộng
trên địa bàn.
- Từng bước xóa bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội, góp
phần xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, bảo vệ thuần phong mĩ tục của dân tộc.
- Phát hiện, đấu tranh, xử lí nghiêm minh những hành vi hoạt động tệ nạn xã
hội góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
3. Đặc điểm của tệ nạn xã hội
- Có tính lây lan nhanh trong xã hội.
- Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức: đối tượng tham gia rất đa dạng và
phức tạp về thành phần.
- Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để đối phó
với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết với nhau
thành đường dây, ổ nhóm.
- Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện
tượng tiêu cực xã hội khác và có sự chuyển hóa lẫn nhau.
- Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người, các
khu công nghiệp, du lịch những nơi trình độ của quần chúng nhân dân còn lạc hậu
thấp kém và công tác quản lý xã hội còn nhiều sơ hở, thiếu sót.
4. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội
Là quá trình nhà nước cùng các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ chức xã hội và
công dân tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại trừ các
loại tệ nạn xã hội góp phần bảo vệ và phát huy thuần phong mỹ tục truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, góp phần giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.
B CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI
1. Chủ trương, quan điểm
Nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động tệ nạn xã hội, xử lí thích đáng những tên
hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có ổ nhóm, những tên cầm đầu hoặc tổ chức lôi
kéo người khác đi vào con đường hoạt động tệ nạn xã hội. Chủ động phòng ngừa
ngăn chặn không để tệ nạn xã hội lây lan phát triển gây tác hại đến đời sống nhân
dân và trật tự xã hội. Giáo dục cải tạo những người mắc tệ nạn xã hội làm cho họ trở
thành những công dân có ích cho xã hội.
Quan điểm trên được thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Phòng ngừa là cơ bản, lồng ghép và kết hợp chặt chẽ công tác phòng chống tệ
nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương.
Đây là phương hướng cơ bản nhất, vừa thực hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, mang ý nghĩa kinh tế, vừa phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán của dân tộc.
159
Để có thể giải quyết, bài trừ triệt để tệ nạn xã hội đòi hỏi phải khắc phục từng
bước những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế xã hội, phải thực hiện đồng bộ các
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, lồng ghép, gắn kết công tác phòng
chống tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tê - văn hóa - xã hội ở địa
phương như chính sách về lao động, việc làm, nâng cao đời sống vật chất cho nhân
dân, các chính sách về văn hóa, giáo dục nhằm điều chỉnh việc xây dựng các chuẩn
mực xã hội và định hướng giá trị xã hội lành mạnh, phát huy và kế thừa các phẩm
chất đạo đức truyền thống tốt đẹp.. Đẩy mạnh chương trình “xóa đói giảm nghèo”,
“toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” nhằm từng bước ngăn
chặn, loại trừ, xóa bỏ tệ nạn xã hội trên địa bàn.
- Công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã
hội, phải được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành, trong đó lấy phòng chống
từ gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học làm cơ sở.
Trong công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội thì chính quyền, các cơ
quan, tổ chức, đoàn thể ở cơ sở và gia đình giữ một vai trò rất quan trọng. Đây là lực
lượng trực tiếp thực hiện, biến những chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và
Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội thành hiện thực. Là nơi thực hiện các cuộc
vận động của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư,
góp phần đẩy lùi và bài trừ tệ nạn xã hội. Do đó cần xác định đúng vai trò của nhà
trường trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ giữa việc xử lí nghiêm khắc với việc cảm hóa, giáo dục, cải
tạo đối với những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội.
Xử lí nghiêm những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội chuyên nghiệp,
những đối tượng chủ chứa, tổ chức, môi giới, cầm đầu trong các đường dây, ổ
nhóm hoạt động tệ nạn xã hội, cần tích cực, kiên trì cũng như quan tâm tạo điều
kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần để động viên, giáo dục, cảm hóa đối tượng
là nạn nhân của tệ nạn xã hội để họ yên tâm rèn luyện để trở thành công dân có
ích cho xã hội.
2. Các quy định của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, Nhà nước ta luôn chú
trọng đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật để điều chỉnh công tác này, như: Bộ luật Hình Sự 2015; Nghị định
05/CP và 06/CP; Luật phòng, chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2008;
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP (2013) của Chính phủ quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng
cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình (gọi tắt là Nghị định
167/2013/NĐ-CP của Chính phủ); Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003; Luật xử
lý hành chính 2012; Các nghị định khác của Chính phủ có liên quan…
C. CÁC LOẠI TỆ NẠN XÃ HỘI PHỔ BIẾN VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÒNG
CHỐNG
1. Tệ nạn nghiện ma túy
160
Là một loại tệ nạn xã hội mà nạn nhân có thói quen sử dụng chất ma túy dẫn
đến trình trạng lệ thuộc vào ma túy khó có thể bỏ được. Nghiện ma túy gây hậu quả
tác hại lớn cho bản thân người nghiện và cho xã hội.
- Hình thức sử dụng ma túy chủ yếu là hút, hít, tiêm chích thuốc phiện, heroin.
Hiện nay, hình thức sử dụng ma túy tổng hợp, thuốc lắc đang có xu hướng phát triển
mạnh trong sinh viên và học sinh.
- Nguyên nhân của trình trạng nghiện ma túy rất đa dạng: do hậu quả của lối
sống đua đòi, lười lao động, ăn chơi với nhu cầu khoái cảm cao chọn ma túy để
mua vui; do gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, bị lôi kéo, rủ rê hoặc bị khống chế…
Quản lý sinh viên ngoại trú còn có nhiều bất cập; một số sinh viên nghiện ma túy
nhưng không được phát hiện, giúp đỡ kịp thời nên càng lún sâu vào con đường
nghiện ngập.
- Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn ma túy: Phải từng bước kiềm chế,
ngăn chặn không để tệ nạn ma túy lây lan phát triển, đặc biệt trong trường học,
trong sinh viên và giáo viên. Không để có thêm sinh viên mắc vào nghiện ma túy
trong trường học. Phát hiện, xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành tệ nạn ma
túy. Có hình thức xử lí nghiêm minh các đối tượng có liên quan đến ma túy, các đối
tượng hoạt động có tính chất chuyên nghiệp.
2. Tệ nạn mại dâm
Mại dâm là một loại tệ nạn xã hội bao gồm những hành vi nhằm thực hiện các
dịch vụ quan hệ tình dục có tính chất mua bán trên cơ sở một giá trị vật chất nhất
định ngoài phạm vi hôn nhân.
Tệ nạn mại dâm bao gồm các hành vi: bán dâm, mua dâm, chứa mại dâm, tổ
chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại dâm
và các hành vị khác liên quan đến tệ nạn mại dâm. Căn cứ vào tính chất của các
hành vi, đối tượng tham gia tệ nạn mại dâm bao gồm các loại đối tượng chủ yếu là
người bán dâm, người mua dâm, người chứa mại dâm, người môi giới mại dâm.
Trong những năm qua tình hình mại dâm có nhiều diễn biến phức tạp, có xu
hướng tăng lên cả về số vụ và tính chất mức độ nghiêm trọng, thủ đoạn hoạt động
ngày càng tinh vi, xảo huyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó lại sự phát hiện của quần
chúng nhân dân hoạt động điều tra của cơ quan công an. Đối tượng tham gia tệ nạn
mại dâm thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, ở nhiều độ tuổi khác nhau và có
quốc tịch khác nhau.
- Đặc điểm đối tượng chủ chứa mại dâm: Chủ yếu là nữ, số đối tượng là nam
giới chiếm tỉ lệ nhỏ hơn và tập trung ở độ tuổi từ 30 trở lên. Đa số chủ chức mại
dâm có quốc tịch Việt Nam, một số ít có quốc tịch nước ngoài. Các đối tượng chủ
chứa mại dâm có tiền án tiền sự chiếm khoảng trên 20%. Các chủ chứa mại dâm có
trình độ văn hóa thấp kém, số chủ chứa có trình độ văn hóa trung học trở lên chiếm
tỉ lệ không đáng kể.
- Đặc điểm đối tượng môi giới mại dâm: Đa số đối tượng môi giới mại dâm là
nam giới có độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỉ lệ trên 50%; phần lớn làm các nghề có
161
điều kiện để môi giới mại dâm như xe ôm, xích lô, bảo vệ… Các đối tượng môi giới
mại dâm có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ gần khoảng 20%; phần lớn các đối tượng có
trình độ văn hóa thấp, có khoảng trên 20% có trình độ trung học phổ thông trở lên.
- Đặc điểm của đối tượng bán dâm: Hầu hết các đối tượng bán dâm là nữ, số
đối tượng bán dâm là nam chiếm tỉ lệ không đáng kể và có độ tuổi chủ yếu là từ 18
đến 30. Điều đáng quan tâm hiện nay là tình trạng trẻ hóa đội ngũ gai bán dâm đang
ngày càng gia tăng. Đa số đối tượng bán dâm không có nghề hoặc nghề tự do chiếm
tỉ lệ cao, trình độ văn hóa thấp kém, một số ít đang là sinh viên…. Đa số gái mại
dâm có điều kiện kinh tế khó khăn chiếm tỉ lệ trên 50%, chưa có chồng chiếm tỉ lệ
cao, sống li thân hoặc li hôn chiếm tỉ lệ trên 30%, số có chồng làm gái mại dâm
chiếm tỉ lệ nhỏ.
- Đặc điểm đối tượng mua dâm: Phần lớn các đối tượng mua dâm là nam giới
(tỉ lệ nữ không đáng kể); độ tuổi 30 trở lên chiếm tỉ lệ cao, khách mua dâm là người
nước ngoài đang có xu hướng gia tăng. Các đối tượng mua dâm có nhiều thành phần
nghề nghiệp khác nhau song chủ yếu tập trung ở những nghề buôn bán dịch vụ, tiểu
thương và cán bộ công chức nhà nước.
- Đặc điểm về phương thức, thủ đoạn hoạt động: Các đối tượng tổ chức hoạt
động mại dâm ngày càng cao có nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt và có
sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà hàng, khách sạn, vũ trường, nhà nghĩ…hình
thành các ổ nhóm, đường dây hoạt động, có sự ăn chia về “quyền lợi”. Hoạt động
núp dưới các danh nghĩa nhà hàng, khách sạn, các dịch vụ xã hội như masage,
karaoke, giải khát…
Các đối tượng hoạt động tệ nạn mại dâm theo phương thức gái gọi và thông
qua gái mại dâm là một phương thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động
này có mối quan hệ chặt chẽ với các đối tượng buôn bán phụ nữ trẻ em vi mục đích
mại dâm; có sự liên kết với các đối tượng tội phạm là người nước ngoài.
- Đặc điểm về địa bàn hoạt động: Địa bàn hoạt động của tệ nạn mại dâm có ở
khắp nơi song chủ yếu hoạt động của tệ nạn mại dâm là thành phố, thị xã, các khu
công nghiệp, du lịch, nghỉ mát, những nơi có đông người cư trú.
- Về hậu quả tác hại: Tệ nạn mại dâm làm xói mòn đạo đức dân tộc, là một
trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS.
Nguyên nhân của trình trạng trên là do một bộ phận nhân dân chưa được giáo
dục đầy đủ về pháp luật, nếp sống lành mạnh, chạy theo lối sống xa hoa hưởng lạc.
Mặt khác công tác quản lý, xử lí đối tượng trên chưa kiên quyết, triệt để, nhiều nơi
chưa còn bị buông lỏng. Một số đối tượng còn có điều kiện dụ dỗ, rủ rê, lừa đảo,
thậm chí ép buộc, cưỡng bức phụ nữ đi vào con đường mại dâm.
- Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mại dâm: Kịp thời phát hiện và ngăn
chặn không để tệ nạn mại dâm lây lan phát triển, đặc biệt giữ gìn môi trường lành
mạnh trong nhà trường. Từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn mại
dâm tiến tới đẩy lùi tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội; phát hiện, điều tra xử lí
theo quy định của pháp luật.
162
3. Tệ nạn cờ bạc
Là một loại tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi lợi dụng các hình thức vui chơi
giải trí để cá cược, sát phạt nhau bằng tiền hoặc vật chất.
- Tệ nạn cờ bạc bao gồm các hành vi:
+ Đánh bạc: là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được
thua thông qua các trò chơi.
+ Tổ chức đánh bạc: là hành vi rủ rê, lôi kéo, tập hợp người khác cùng đánh
bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc.
+ Gá bạc: là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc địa điểm khác để chứa các đám
bạc từ đó trục lợi cho mình qua những người đánh bạc.
+ Đối tượng tham gia tệ nạn cờ bạc bao gồm: đối tượng tổ chức đánh bạc, đối
tượng gá bạc và đối tượng đánh bạc.
Tệ nạn cờ bạc trong những năm qua có những diễn biến hết sức phức tạp, có xu
hướng tăng cả về số vụ và tính chất nghiêm trọng, xuất hiện nhiều hình thức mới
trong hoạt động, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi xảo quyệt, hoạt động có sự
câu kết với các đối tượng là người nước ngoài, hoạt động xuyên quốc gia.
- Đặc điểm của tệ nạn cờ bạc: Tệ nạn cờ bạc được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau: tổ tôm, chắc cạ, xóc đĩa, tam cúc, xì tố, xập xám, tá lả… và các
hình thức cá cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan
phát triển nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi,
trình độ văn hóa khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nhà nước, sinh viên, đối
tượng thất nghiệp, nghề nghiệp không ổn định, lưu mạnh…)
Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn hoạt
động tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt
động điều tra của cơ quan công an. Chúng hình thành các ổ nhóm, đường dây để
hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường dây để hoạt động
liên địa bàn, xuyên quốc gia.
Tệ nạn cờ bạc có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự và các hiện tượng tiêu
cực khác như mại dâm, ma túy; gây hậu quả tác hại lớn cho đời sống xã hội và gây
khó khăn cho công tác giữ gìn trật tự xã hội.
- Nguyên nhân dẫn đến trình trạng trên là do bản chất ăn bám, bóc lột, lười lao
động, thích hưởng thụ cuộc sống cao sang của một số người; do cuộc sống gia đình
gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống… cùng với sự thiếu sót trong quản lí kinh tế,
xã hội của Nhà nước và các tổ chức.
- Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn cờ bạc: Kịp thời phát hiện không để tệ
nạn cờ bạc lây lan phát triển gây hậu quả tác hại, đặc biệt trong sinh viên và nhà
trường. Tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện
của tệ nạn cờ bạc. Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ quan để
đấu tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây tổ chức hoạt động; xử lí nghiêm minh các
đối tượng hoạt động cờ bạc.
163
4. Tệ nạn mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi biểu hiện thái quá lòng tin
mù quáng vào những điều huyền bí không có thật, từ đó có những suy đoán khác
thường, dẫn đến cách ứng xử mang tính chất cuồng tín, hành động trái với những
chuẩn mực của xã hội, gây hậu quả xấu đến sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần
của người dân, đến an ninh trật tự.
- Đặc điểm của tệ nạn mê tín dị đoan: Là một biểu hiện của các hủ tục lạc hậu,
tàn dư của chế độ cũ còn sót lại trong xã hội hiện nay; nó kích thích và phù hợp với
tâm lí của một bộ phận người trong xã hội có trình độ nhận thức thấp kém.
Tệ nạn mê tín dị đoan được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và có xu
hướng lây lan phát triển nhanh nhất là ở những vùng sâu, vùng xa nhận thức của
quần chúng còn lạc hậu. Đối tượng tham gia tệ nạn mê tín dị đoan phần lớn là phụ
nữ, những người có trình độ nhận thức thấp kém, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc
trở, cuộc sống éo le.. ngoài ra còn có một số cán bộ công nhân viên chức, một số có
học thức cao và một bộ phận nhỏ sinh viên cũng mắc phải tệ nạn này.
Đối tượng reo rắc mê tín dị đoan lợi dụng lòng tin, lợi dụng thần thánh, trời
phật, may rủi có hành vi cầu cúng, đồng bóng, bói toán nhằm buôn bán thần thánh
để kiếm lời hoặc tuyên truyền, reo rắc mê tín dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến trật tự
an toàn xã hội.
Địa bàn xảy ra có ở khắp mọi nơi song chủ yếu tập trung ở những nơi công tác
quản lí xã hội, quản lý văn hóa còn bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ nhận thức của
quần chúng còn lạc hậu.
Tệ nạn mê tín dị đoan hiện đang được các đối tượng phản động và các thế lực
phản cách mạng triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là ở vùng
sâu, vùng đồng bào ít người trình độ nhận thức còn lạc hậu, thấp kém.
Tệ nạn mê tín dị đoan gây nên những hậu quả xấu cho xã hội như làm tan vỡ
hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe con người, gây
thiệt hại đến tài sản của quần chúng, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự.
- Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mê tín dị đoan: Nâng cao trình độ
nhận thức cho toàn dân và sinh viên để họ tự giác đấu tranh với tệ nạn mê tín dị
đoan; phân biệt được những hành vi mê tín dị đoan với các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo trong quần chúng nhân dân, với những hoạt động lễ hội truyền thống văn
hóa dân tộc. Kịp thời phát hiện các hình thức hoạt động mê tín dị đoan để có biện
pháp ngăn chặn.
D. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ TRƯỜNG VÀ SINH VIÊN TRONG PHÒNG
CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI
1. Đối với nhà trường
- Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục trong nhà trường về phòng chống
tệ nạn xã hội; tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên
trong phòng chống các tệ nạn nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc; phân định rõ mê
164
tín dị đoan với các hoạt động tôn giáo, tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân
dân; giáo dục lối sống lành mạnh, đâu tranh chống lối sống buông thả, lối sống
trụy lạc, sống gấp.
- Xác định rõ hậu quả tác hại từng loại tệ nạn xã hội, nguyên nhân và con
đường lây lan; phối hợp với các cơ quan chức năng, lãnh đạo chỉ đạo các tổ chức
Đoàn, Hội phụ nữ.. . trong đấu tranh phòng chống lại tệ nạn xã hội; phối hợp với các
lực lượng công an cơ sỏ, chính quyền địa phương và gia đình quản lí chặt chẽ sinh
viên ngoại trú để chủ động phát hiện các hành vi hoạt động ma túy, mại dâm, cờ
bạc, đồng bóng bói toán… có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Nắm chắc tình hình sinh viên có hành vị hoạt động các tệ nạn xã hội, cung
cấp cho lực lượng bảo vệ, cơ quan công an những tụ điểm, tổ chức, đường dây hoạt
động tệ nạn xã hội, phối hợp xử lí theo quy định của pháp luật. Phối hợp cùng chính
quyền địa phương, lực lượng bảo vệ văn hóa làm trong sạch địa bàn trong trường và
khu vực xung quanh.
- Giúp cho sinh viên hiểu rõ các âm mưu của các thế lực phản động trong việc
lợi dụng tự do tín ngưỡng để chống phá cách mạng Việt Nam. Phát hiện các trường
hợp rủ rê, lôi kéo sinh viên tham gia vào các tà đạo, các hoạt động tệ nạn xã hội.
- Tổ chức cho sinh viên các lớp kí kết không tham gia các hoạt động tệ nạn xã
hội; xây dựng các nội quy, quy chế quản lí kí túc xá, xây dựng các tổ tự quản trong
học tập, rèn luyện, vui chơi. Tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu luật, pháp lệnh, các
văn bản của Đảng, Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma
túy, mại dâm, cờ bạc đang có dấu hiệu tăng nhanh trong giới trẻ. Tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể thao để thu hút sinh viên tham gia.
2. Đối với sinh viên
- Nhận thức rõ hậu quả của tệ nạn xã hội, con đường dẫn đến tội phạm; không
tham gia các tệ nạn xã hội dưới bất kì hình thức nào; không bị lôi kéo cám dỗ bởi
những khoái cảm, những lối sống trụy lạc, coi trọng đồng tiền, chà đạp lên đạo đức,
pháp luật, bán rẻ sự nghiệp của bản thân.
- Có trách nhiệm phát hiện các hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, các con đường
dẫn đến tệ nạn, đường dây hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc… báo cáo kịp thời
cho nhà trường hoặc lực lượng công an cơ sở.
- Không có các hành vi mê tín dị đoan hoặc tham gia vào các hủ tục lạc hậu
khác. Bằng kiến thức đã được học phân biệt được các trường hợp tự do hoạt động
tín ngưỡng, các trường hợp tham quan di tích văn hóa với việc lợi dụng hoạt động
mê tín dị đoan. Cảnh giác trước các hành vi của các đối tượng “buôn thần bán
thánh” và âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thể lực phản động; phát
hiện các hình thức biểu hiện mới của tệ nạn mê tín, của các loại tà đạo nảy sinh
trong lớp, trong trường báo cáo với nhà trường, chính quyền địa phương để có biện
pháp ngăn chặn kíp thời.
- Chủ động phát hiện các trường hợp sinh viên trong lớp có những dấu hiệu
khác thường, những hoàn cảnh éo le, gặp trắc trở trong học tập, trong tình yêu để có
165
biện pháp động viên giúp đỡ không để họ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội, tin vào
cầu cúng, bói toán; đam mê, khoái cảm… gặp gỡ, động viên những sinh viên lầm
lỗi, cảm hóa, giáo dục họ tiến bộ trở thành người có ích.
- Kí cam kết không tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội như ma túy,
mại dâm… Có thái độ học tập nghiêm túc, có lối sống lành mạnh, tích cực tham
gia các tổ tự quản, thanh niên xung kích tuần tra kiếm soát bảo vệ kí túc xá, bảo
vệ nhà trường.
Để đấu tranh đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội có hiệu quả cần
phải đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân, đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là giáo dục về đạo đức, lối sống, chính sách
pháp luật. Thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm và tệ nạn
xã hội: Kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung,
vừa tuyên truyền cá biệt; tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các
cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị
xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên
truyền, vận động cá biệt đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại
các địa bàn trọng điểm về trật tự, an toàn xã hội.
Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng
các mô hình tổ chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an
ninh, trật tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp và nhà trường; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân
rộng mô hình có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp
với tình hình đặc điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên,
học sinh, sinh viên ký cam kết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh
nghiệp, nhà trường “An toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen thưởng các tập thể,
cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, có
chính sách thỏa đáng đối với những trường hợp bị thương, hy sinh hoặc thiệt hại về
tài sản khi tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Nêu nững nội dung của công tác phòng ngừa tội phạm, mối quan hệ giữa các
nội dung của hoạt động phòng ngừa tội phạm?
2. Nêu và phân tích các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong đấu
tranh, phòng chống tệ nạn xã hội?
3. Nêu nội dung, phương pháp phòng chống tệ nạn xã hội? Để làm tốt công tác
phòng chống tệ nạn xã hội nói chung cần có những giải pháp nào?
166
BÀI 14.
XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ đặc biệt
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Cùng với những thành tích trong công tác bảo vệ an ninh trật tự, những năm qua,
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được đẩy mạnh, có bước phát
triển mới với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, hiệu quả, khơi dậy sức
mạnh, tiềm lực to lớn của nhân dân trong công tác giữ gìn an ninh chính trị và
phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm tới, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, đất nước ta đang phải đối
mặt với những nguy cơ, thách thức mới. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các
hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt. Các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng rõ nét và nghiêm trọng
hơn, vi phạm pháp luật và tội phạm có xu hướng gia tăng. Trong bối cảnh đó, để xây
dựng, củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN
NINH TỔ QUỐC
A. QUAN ĐIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG
BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
1. Một số quan điểm về quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, là nền tảng cho một Đất nước, là
gốc rễ của một dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Triết học duy tâm, tôn giáo có nhận thức sai lệch: Xã hội chia làm hai hạng
người “Hạng thượng lưu” và hạng “thứ dân”; Thượng đế, tinh thần là tuyệt đối; vua
là thiên tử, thay trời trị dân.
- Các chế độ quân chủ tư sản hiện đại nêu vấn đề “Dân chủ”, “Lấy dân làm
gốc”, nhưng khác nhau về bản chất.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên đã phát hiện và khẳng định vai trò của
quần chúng nhân dân quyết định sự phát triển của xã hội, chính nhân dân lao động
là người làm nên lịch sử. Đây là một chuyển biến cách mạng trong nhân thức về lịch
sử, là một trong những cơ sở lý luận do chính Đảng của giai cấp vô sản.
- Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta đã chứng minh từ
thời các vua Hùng, Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung… đều dựa
vào dân, khẳng định dân là gốc, biết sử dụng sức mạnh của dân để đánh tan các đội
quân xâm lược hùng mạnh của các triều đại phong kiến Trung Quốc, Mông Cổ.
167
- Kế thừa tư tưởng của ông cha ta về vai trò của nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn nêu cao tư tưởng cách
mạng là của dân do dân và vì dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là
nguồn gốc sức mạnh truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đưa ra những quan điểm về dân “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”… Dưới
ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân ta đã đồng lòng hợp sức làm
nên nhiều chiến công vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh thắng hai
cường quốc xâm lược là Pháp và Mỹ; đang từng bước xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở đất nước ta.
Ngày nay trong giai đoạn đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có những thuận lợi mới, thời
cơ mới, song vẫn còn nhiều trở lực và thách thức; Đảng và Nhà nước ta có nhiều
chủ trương quan trọng về đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân.
2. Vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Quần chúng nhân dân có khả năng phát hiện, quản lý, giáo dục, cải tạo các
loại tội phạm để thu hẹp dần đối tượng phạm tội.
- Khi nào người dân có ý thức tự giác, có tinh thần làm chủ trong việc xây
dựng cuộc sống mới lành mạnh, khi đó sẽ khắc phục dần những sơ hở, thiếu sót mà
địch và bọn tội phạm có thể lợi dụng.
- Lực lượng Công an có hạn, nên công tác bảo vệ an ninh trật tự không thể
thực hiện bằng chuyên môn đơn thuần mà phải làm tốt công tác vận động quần
chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân giúp ta nhiều thì
thành công nhiều, giúp ta ít thì thành công ít, giúp ta hoàn toàn thì thắng lợi
hoàn toàn”.
B. NHẬN THỨC VỀ PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ
QUỐC
1. Khái niệm phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là một hình thức hoạt động tự
giác, có tổ chức của đông đảo nhân dân lao động tham gia phòng ngừa, phát hiện,
đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ tài sản Nhà nước và tính mạng, tài sản của nhân dân.
2. Vị trí, tác dụng của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí chiến lược, là một trong
những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng Công an nhân dân, là nền tảng cơ
bản trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
- Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là hình thức cơ bản để tập hợp
thu hút đông đảo quần chúng phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân
tham gia bảo vệ an ninh trật tự.
168
3. Mục đích của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh - trật tự
Huy động sức mạnh của nhân dân để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu
tranh với các loại tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và
phục vụ đắc lực việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, gắn với các cuộc vận
động lớn của Đảng, Nhà nước, của các ban, ngành, đoàn thể, và của địa phương…
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Đặc điểm của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Đối tượng tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đa dạng, liên
quan đến mọi người, mọi tầng lớp của xã hội.
- Nội dung, hình thức, phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc ở các địa bàn, lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau.
- Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn liền với các cuộc
vận động khác của Đảng và Nhà nước, gắn liền với việc thực hiện các chính sách
của địa phương.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN
DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
A. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÒNG TRÀO
TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
1. Giáo dục, nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy truyền thống yêu
nước của nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt
động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước
- Chống chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch.
- Bảo vệ an ninh kinh tế , an ninh xã hội, bảo vệ bí mật quốc gia.
- Chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây
mất ổn định chính trị
- Giữ vững khối đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị, bảo vệ nội bộ, góp phần
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch vững mạnh.
2. Vận động toàn dân tích cực tham gia chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm
- Vận động nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố giác, đấu tranh chống các
loại tội phạm, góp phần giữ vững ổn định an ninh trật tự tại địa bàn
- Vận động nhân dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa những người cần
phải giáo dục tại cộng đồng dân cư, như: các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng
tù tha, đối tượng đi cơ sở giáo dục, đi cơ sở chữa bệnh tha về còn có biểu hiện hoạt
động phạm pháp; tham gia vận động người phạm tội đang lẩn trốn ra tự thú; thực
hiện các biện pháp phòng ngừa tình trạng thanh thiếu niên phạm tội; tham gia quản
lý giáo dục trẻ em làm trái pháp luật.
- Vận động nhân dân chấp hành và tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông,
trật tự công cộng, trật tự đô thị, giữ gìn vệ sinh mỹ quan nơi công cộng, tham gia
169
phòng chống gây rối trật tự công cộng, ngăn chặn kịp thời các vụ việc lộn xộn xảy
ra ở nơi công cộng.
- Hướng dẫn và vận động nhân dân bài trừ tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục lạc
hậu, đấu tranh bài trừ văn hoá phẩm độc hại.
- Xây dựng cơ quan đơn vị, cụm dân cư và từng gia đình an toàn, đoàn kết, xây
dựng nếp sống văn hoá trong cộng đồng dân cư, giữ vững đạo đức trong sáng lành
mạnh, giữ gìn thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, bảo vệ
môi trường sống.
3. Xây dựng và mở rộng liên kết phối hợp chặt chẽ với các ngành, các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội trong các phong trào của địa
phương
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các nghị quyết liên tịch, thông tư liên
ngành, các quy chế phối hợp hoạt động giữa Công an xã với Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các cơ quan, trường học đóng trên địa bàn.
- Thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, kịp thời đề xuất lồng ghép nội
dung, yêu cầu của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phù hợp, nhằm phát
huy vai trò của quần chúng trong việc bảo vệ an ninh - trật tự.
4. Tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng tại
cơ sở vững mạnh
- Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để rèn luyện, thử
thách xây dựng đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước ở cơ sở
- Thông qua phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc để thường xuyên
đóng góp ý kiến xây dựng cho tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, lực lượng Công an,
kịp thời phát hiện đề nghị đưa ra khỏi tổ chức Đảng, chính quyền, lực lượng Công
an những người không đủ tiêu chuẩn về đạo đức và năng lực công tác; đồng thời đề
nghị bổ sung những nhân tố tích cực, ưu tú xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc vào cấp uỷ chính quyền cơ sở, để xây dựng tổ chức Đảng, chính
quyền, lực lượng Công an trong sạch vững mạnh.
Bốn nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là những nội dung cơ bản
của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Khi thực hiện
những nội dung trên đây phải căn cứ vào tình hình điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
từng nơi, đặc biệt, phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo đảm
Quốc phòng và An ninh ở từng địa phương, từng cơ sở để đề ra nội dung công tác
cho sát hợp, có hiệu quả.
B. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN
NINH TỔ QUỐC
1. Nắm tình hình và xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc
a) Nắm tình hình
170
Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trước hết phải điều tra
nghiên cứu nắm vững tình hình mọi mặt liên quan đến an ninh trật tự, đây là công
việc đầu tiên làm cơ sở để định ra nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành các
bước tiếp theo.
- Nội dung nắm tình hình bao gồm:
+ Vị trí địa lý, đặc điểm địa bàn về phân bố dân cư, phong tục tập quán, nghề
nghiệp truyền thống, vấn đề tôn giáo, dân tộc có liên quan đến công tác xây dựng
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn như: Tình hình ân mưu, hoạt động của
các thế lực thù địch, các loại tội phạm; tình hình tai nạn, tệ nạn xã hội; tình hình các
loại đối tượng cần quản lý giáo dục ở từng cụm dân cư.
+ Tình hình quần chúng chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, các quy định của địa phương; những mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân; tâm tư nguyện vọng của đại bộ phận quần chúng nhân dân.
+ Tình hình các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng về vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức động viên quần chúng tham gia phong trào hành động
cách mạng của địa phương, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ những hiện tượng tiêu
cực (tham nhũng cửa quyền, sách nhiễu quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân).
+ Tình hình diễn biến của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa
bàn qua từng thời kỳ; chú ý tới những mặt yếu kém, trì trệ, nguyên nhân và những
bài học kinh nghiệm rút ra.
+ Những sơ hở thiếu sót của ta trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước mà kẻ xấu có thể lợi dụng để kích động quần chúng, chia rẽ nội
bộ nhân dân, chia rẽ nhân dân với Đảng, với Chính quyền, với lực lượng vũ trang ở
địa phương.
- Phương pháp nắm tình hình:
+ Nghiên cứu khai thác các tài liệu sẵn có để nắm tình hình địa bàn như: tài liệu
về tình hình an ninh trật tự ở địa phương qua các năm; báo cáo sơ kết, tổng kết về
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc qua từng thời kỳ; tài liệu quản lý về nhân
khẩu, hộ khẩu, quản lý các nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, quản lý
vũ khí, vật liệu nổ; tài liệu về tổ chức giữ gìn trật tự công cộng và các tài liệu quản lý
hành chính khác mà chính quyền và các cơ quan chức năng đang quản lý.
+ Đi sát cơ sở tiếp xúc gặp gỡ, thu thập ý kiến của các tổ chức, các tầng lớp
dân cư khác nhau như: Cán bộ công nhân viên đã nghỉ hưu, những người có uy tín
trong cộng đồng dân cư, những người biết việc… để nắm tình hình
+ Trực tiếp điều tra khảo sát mọi hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền,
đoàn thể và quần chúng nhân dân ở địa phương
+ Ngoài ra còn phải chú ý kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng các lực lượng,
phương tiện, biện pháp nghiệp vụ khác để nắm tình hình. Kết hợp nắm tình hình
171
chung toàn địa bàn với đi sâu nắm tình hình cụ thể từng khu vực và nắm tình hình
toàn diện các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng với đi sâu
nắm vững những khía cạnh mà nội dung, yêu cầu của công tác vận động quần
chúng đặt ra để rút ra những kết luận sát thực, làm cơ sở tham mưu cho cấp ủy
Đảng đề ra chỉ thị, nghị quyết xây dựng và đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc.
b) Xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Căn cứ chỉ thị nghị quyết của cấp ủy Đảng và tình hình thực tế ở địa phương để
chủ động xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Nội dung của kế hoạch thể hiện những vấn đề cơ bản như sau:
+ Đánh giá tổng quát tình hình an ninh trật tự, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý
thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân, thực trạng phong trào toàn dân trong
thời gian đã qua và xác định sự cần thiết phải tiến hành vận động xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời gian tới.
+ Xác định mục đích, yêu cầu cụ thể phải đạt được của phong trào toàn dân
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Xác định nội dung cụ thể của công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc và hình thức, biện pháp để thực hiện nội dung cụ thể đó.
+ Xác định cách thức tổ chức thực hiện kế hoạch, như: Phân công trách nhiệm
và quy định mối quan hệ phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể; giữa các lực lượng
tham gia xây dựng phong trào; phân chia các bước và thời gian thực hiện từng bước,
tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xác định điều kiện
vật chất cần có để bảo đảm xây dựng phong trào đạt kết quả.
- Phương pháp xây dựng kế hoạch:
+ Trên cơ sở nội dung kế hoạch được xác định, tiến hành viết dự thảo kế hoạch
phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đảm bảo đủ về nội dung,
đúng về thể thức văn bản quản lý nhà nước quy định
+ Tiến hành gửi bản thảo kế hoạch đến tổ chức cá nhân có liên quan để lấy ý
kiến, nhằm phát huy trí tuệ của tập thể, nâng cao tinh thần làm chủ, tính năng động,
sáng tạo của từng người trong xây dựng kế hoạch phát động phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc.
+ Tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể, tiến hành nghiên cứu bổ sung, xây
dựng hoàn chỉnh bản kế hoạch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, xã phê
duyệt và tổ chức thực hiện.
2. Tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự
a) Tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân
Tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong công tác xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc giữ vị trí rất quan trọng, làm cho họ nâng cao nhận thức
172
chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, vai trò trách nhiệm, quyền lợi, từ đó tích
cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự.
- Nội dung tuyên truyền giáo dục:
+ Tuyên truyền để nhân dân nhân thức rõ về âm mưu, phương thức thủ đoạn
hoạt động thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các loại tội phạm, nhận
thức rõ bản chất sấu xa của chúng, thấy được tầm quan trọng, tính chất phức tạp,
quyết liệt và lâu dài của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội.
+ Tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu về đường lối chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, các quy định, phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương,
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân đối với việc bảo vệ an ninh trật tự. Từ đó quần
chúng ý thức rõ được việc tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự là thiết thực để
bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc của bản thân, gia đình, xóm làng cũng như của
toàn xã hội.
Ngoài những nội dung trên, tùy theo tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc mà lựa
chọn, xác định thêm những nội dung khác để tuyên truyền giáo dục quần chúng
nhân dân cho thích hợp.
- Phương pháp tuyên tuyền giáo dục:
+ Triệt để khai thác sử dụng phương tiện thông tin đại chúng và các loại hình
văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, áp phích khẩu hiệu, biểu ngữ… để tuyên truyền giáo
dục quần chúng nhân dân đạt hiệu quả.
+ Thông qua các hình thức sinh hoạt, hội họp của các tổ chức chính trị - xã
hội và thông qua hệ thống giáo dục các cấp ở địa phương để tuyên truyền giáo
dục quần chúng.
+ Sử dụng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên để tuyên truyền giáo dục
quần chúng theo từng chuyên đề nổi lên có liên quan trong từng thời gian
+ Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp quần chúng để tọa đàm, trao đổi,
giải thích những vấn đề về bảo vệ an ninh trật tự, thuyết phục tranh thủ những người
có uy tín trong cộng đồng dân cư để họ đồng tình với chủ chương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước từ đó mà tích cực tham gia thuyết phục, giáo dục
những người lừng chừng chậm tiến trong gia đình và cộng đồng
+ Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng trước hết
phải tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhân thức cho cán bộ của các ban trong
Đảng, trong chính quyền, cán bộ lãnh đạo các ngành, các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội, sau đó tuyên truyền giáo dục sâu rộng ra trong nhân dân, động viên mọi
người cùng có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục lẫn nhau, tạo nên sự nhất trí cao về
chính trị, tư tưởng trong nhân dân.
+ Kết hợp tuyên truyền giáo dục rộng rãi với tuyên truyền giáo dục cá biệt
bằng lời lẽ đơn giản và thực tế sinh động. Kết hợp chặt chẽ giữa việc tuyên truyền
giáo dục quần chúng thực hiện nội dung nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự với việc
173
thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và với phong
trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống hàng ngày của quần chúng nhân dân ở
địa phương.
b) Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự
Hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự là chỉ cho họ
biết cách phòng ngừa, chủ động phát hiện và giúp đỡ cơ quan chức năng để đấu
tranh có hiệu quả những hoạt động phá hoại của các thế lực phản động, hoạt động
của các loại tội phạm; phòng ngừa các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội
- Nội dung hướng dẫn quần chúng bao gồm:
+ Hướng dẫn quần chúng bảo vệ, thực hiện đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; xây dựng và thực hiện các quy định về công tác bảo vệ an
ninh trật tự ở địa phương.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân phòng ngừa tội phạm, tham gia hòa giải các
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; quản lý, giáo dục các đối tượng cần phải quản lý
giáo dục ở địa phương.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân phát hiện tố giác với Công an, chính
quyền địa phương những người, sự việc, hiện tượng nghi vấn xâm phạm an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tích cực tham gia đấu tranh góp phầm làm thất bại
âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bọn phản động và các loại
tội phạm khác.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân lên án, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu
cực, các lề thói hủ tục lạc hậu trong đời sống kinh tế xã hội, phòng ngừa và làm
giảm các tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể cách mạng, tham gia góp ý kiến xây dựng lực lượng Công an, dân
quân tự vệ trong sạch vững mạnh.
- Phương pháp hướng dẫn quần chúng:
Phương pháp hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh trật tự là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ việc bảo vệ những lợi
ích cá nhân trước mắt đến lợi ích lâu dài của tập thể; từ việc bảo vệ lợi ích kinh tế
đơn thuần đến bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng; từ việc bí mật tố giác và cung
cấp tài liệu, tin tức về hoạt động của bọn tội phạm đến công tác đấu tranh trực diện
với chúng một cách có tổ chức.
3. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các ngành, các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội ở địa phương để tổ chức vận động toàn dân bảo vệ an
ninh trật tự
Để huy động được sức mạnh của toàn dân tham gia nhiệm vụ bảo vệ an ninh
trật tự trong quá trình xây dựng phong trào, cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa các lực lượng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ở địa bàn. Nội dung
phối hợp cần tập trung vào các vấn đề:
174
- Phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ an
ninh trật tự trên địa bàn phường, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đóng trên
địa bàn để xây dựng các hình thức tổ chức quần chúng tự quản, Hội đồng bảo vệ trật
tự xã hội, Ban bảo vệ dân phố, lực lượng dân phòng và lực lượng bảo vệ chuyên
trách của các cơ quan doanh nghiệp
- Phối hợp với các lực lượng, cơ quan đơn vị, tổ chức đoàn thể quần chúng để
tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn giác ngộ cho người dân nắm vững
những yêu cầu của công tác bảo vệ an ninh - trật tự trên địa bàn, nghĩa vụ và quyền
lợi của công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh - trật tự. Làm cho
quần chúng nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
chế độ, nội quy, quy tắc về an ninh trật tự, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt
động của các thế lực thù địch, bọn phản động và bọn tội phạm khác, tình hình các tệ
nạn xảy ra trên địa bàn. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác của người
quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.
- Phối hợp với cơ quan đơn vị, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc
chỉ đạo hướng dẫn thực hiện các mục tiêu yêu cầu đề ra trong công tác tổ chức vận
động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự.
4. Xây dựng các tổ chức, lực lượng quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Xây dựng cá nhân và các tổ chức quần chúng nòng cốt làm hạt nhân để thúc
đẩy phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở là một nội dung
quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tổ chức vận động nhân dân. Lực lượng quần
chúng nòng cốt vừa là hạt nhân lãnh đạo phong trào, vừa là cầu nối giữa lực lượng
Công an với nhân dân vừa là người đi đầu, trực tiếp hướng dẫn nhân dân thực hiện
các quy định về an ninh trật tự. Vì vậy việc xây dựng lực lượng quần chúng nòng
cốt ở cơ sở để duy trì và phát triển, đẩy mạnh phong trào, đây là một nội dung rất
quan trọng không thể thiếu
- Xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ an ninh trật tự ở
địa bàn cơ sở gồm:
+ Loại tổ chức quần chúng có chức năng tư vấn: Tương ứng với loại hình này
là Hội đồng an ninh trật tự ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) thành phần gồm Chủ tịch
Ủy ban nhân nhân, Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc, Trưởng Công an, Bí thư
Đoàn thanh niên, Chủ tịch Cựu chiến binh, Chủ tịch phụ nữ…đặt dưới sự lãnh đạo
của cấp uỷ, sự quản lý điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân nhân xã, phường, thị
trấn. Ở cơ quan, doanh nghiệp thành phần gồm, Bí thư Đảng uỷ, Thủ trưởng cơ
quan, Trưởng phòng (tổ trưởng) bảo vệ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ.
+ Loại có chức năng quản lý, điều hành: Tương ứng với loại hình này là Ban
an ninh trật tự và Ban bảo vệ dân phố (ở nông thôn: ban an ninh trật tự được thành
lập ở thôn, ấp, bản, làng; ở cơ quan, doanh nghiệp lớn ban an ninh trật tự được thành
lập ở phân xưởng, xí nghiệp, Công ty… (nếu cơ quan, doanh nghiệp nhỏ và thôn
nhỏ có nơi không cần thiết phải thành lập Ban an ninh trật tự); ở thành phố, thị xã
Ban bảo vệ dân phố được thành lập theo các khu phố, cụm dân cư ).
175
+ Loại có chức năng thực hành: tương ứng với loại hình này là các Tổ an ninh
nhân dân, an ninh công nhân, Đội dân phòng, Đội thanh niên xung kích an ninh có
nhiệm vụ trực tiếp thực thi các nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự ở các cơ sở.
- Nội dung, yêu cầu xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt làm nhiệm vụ
bảo vệ an ninh trật tự:
+ Cần phải lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn có uy tín với quần chúng, được
quần chúng tin yêu, có khả năng và điều kiện đảm nhiệm các mặt công tác về an
ninh trật tự ở cơ sở.
+ Lựa chọn người có khả năng tổ chức, điều hành các hoạt động có liên quan
đến an ninh trật tự, bản thân có ý thức tự giác, tự nguyện và trách nhiệm cao trong
việc thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành các thủ tục báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết
định giao nhiệm vụ cho họ.
+ Bồi dưỡng, hướng dẫn để đội ngũ cán bộ cơ sở nắm vững chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn lề lối làm việc, mối quan hệ và phân công đảm nhiệm công việc cụ
thể để cán bộ cơ sở có kế hoạch thực hiện
+ Thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, tình
hình an ninh trật tự trên địa bàn trong từng thời gian và nhiệm vụ đặt ra trong việc
giữ gìn an ninh trật tự. Hướng dẫn để họ biết cách tổ chức vận động quần chúng ở
địa bàn dân cư
+ Nắm vững những diễn biến hoạt động của đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch
thăm hỏi động viên kịp thời đối với cán bộ tốt có năng lực, đồng thời uốn nắn các
lệch lạc của cán bộ cơ sở; tạo điều kiện về vật chất và tinh thần, việc làm, đời sống,
quan hệ sinh hoạt trong phạm vi điều kiện cho phép, để đội ngũ cán bộ nòng cốt ở
cơ sở yên tâm phấn khởi công tác, tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự
tại cơ sở.
- Phương pháp xây dựng các tổ chức quần chúng nòng cốt được tiến hành như sau:
+ Xác định hình thức tổ chức quần chúng cần xây dựng.
+ Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quần chúng được
xây dựng.
+ Đề xuất cấp ủy, chính quyền ra quyết định thành lập tổ chức quần chúng bảo
vệ an ninh trật tự.
5. Xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiên tiến làm cơ sở để tổ
chức vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc
Điển hình tiên tiên tiến là những cá nhân, đơn vị, cơ sở đạt dược thành tích
xuất sắc nổi trội, có đặc thù chung phổ biến giúp các cá nhân, đơn vị khác học tập,
noi theo.
Nhân điển hình tiên tiến là việc tổ chức học tập, phát triển những nhân tố tích
cực của phong trào toàn dân thành phổ biến rộng khắp. Thực chất của nhân điển
hình tiên tiến là việc phổ biến kinh nghiệm điển hình, động viên thúc đẩy phong trào
lên một bước mới có chất lượng cao hơn, đồng đều hơn.
176
Để nhân rộng điển hình tiên tiến cần làm tốt các công việc cụ thể sau đây:
- Lựa chọn điển hình tiên tiến:
+ Căn cứ đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị; căn cứ vào kết quả phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và nhiệm vụ duy trì và phát triển phong trào ở địa
phương để phát hiện, lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu, có thành tích nổi
bật, có kinh nghiệm tốt, làm hạt nhân điển hình tiên tiến thúc đẩy phong trào bảo an
ninh Tổ quốc.
+ Việc phát hiện, lựa chọn điển hình tiên tiến được tiến hành thông qua công
tác kiểm tra hoạt động của phong trào, thông qua công tác tổ chức cho các cơ sở,
đơn vị, quần chúng nhân dân bình chọn hoặc cơ quan chức năng ngay từ đầu có kế
hoạch chủ động lựa chọn, cho đăng ký, sau đó tập trung bồi dưỡng một số cá nhân,
tập thể đó trở thành điển hình tiên tiến của phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc.
- Tổ chức rút kinh nghiệm điển hình tiên tiến:
Lực lượng Công an chủ trì phối hợp với bộ phận chức năng tổ chức hướng dẫn
cá nhân, đơn vị tiên tiến liên hệ kiểm điểm, đánh giá kết quả, rút ra những bài học
kinh nghiệm và xây dựng hoàn thiện báo cáo điển hình tiên tiến trong phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến:
Phương pháp phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đẩy mạnh phong trào
thi đua bảo vệ an ninh Tổ quốc, được tiến hành bằng cách tổ chức cho các cá nhân
đơn vị, địa phương có phong trào ở mức trung bình hoặc yếu kém trực tiếp tiếp xúc,
gặp gỡ, tham quan, trao đổi học tập kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến, để áp
dụng các kinh nghiệm đó vào phong trào ở địa phương, đơn vị mình.
Mở Hội nghị nhân điển hình tiên tiến: tổ chức ký kết giao ước thi đua về xây dựng
điển hình, tạo thành phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt các điển hình tiên tiến
Kết hợp sử dụng, phát huy ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các
loại hình văn hoá nghệ thuật như: Đài phát thanh, truyền hình, tranh ảnh, sách báo…
để phổ biến kinh nghiệm của điển hình tiên tiến.
6. Lồng ghép nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
với các phong trào khác của nhà trường và của địa phương
Để thúc đẩy được phong trào và duy trì phong trào được thường xuyên, tránh
được sự suy thoái của phong trào sau một thời gian hoạt động, thì việc kết hợp và
lồng ghép nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa phương với các
phong trào khác là một hình thức tốt để duy trì và thúc đẩy phong trào.
Nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được kết hợp với
các phong trào khác của nhà trường và của địa phương như:
- Lồng ghép trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với
nước, nội dung đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự là nội dung bảo vệ tài sản công dân
phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của những
người được chăm sóc tạo thành một phong trào chung của địa phương.
177
- Kết hợp đưa nội dung giáo dục những người cần phải giáo dục tại xã phường
thị trấn là một nội dung của phong trào xây dựng làng văn hoá, khu phố văn hoá, từ
đó tạo thành một nếp sống tốt, lành mạnh phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết
tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, xây dựng
được tổ dân phố, cụm dân cư, làng xã an toàn.
- Trong phong trào học sinh, sinh viên thanh lịch của nhà trường cần lồng ghép
với phong trào chấp hành luật lệ giao thông, lấy đây là một nội dung tiêu chuẩn
quan trọng để đánh giá một học sinh, sinh viên thanh lịch…
- Để có phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc sâu rộng thu hút được
nhiều tầng lớp tham gia trong đó có tầng lớp học sinh, sinh viên thì nội dung của
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phải được lồng ghép trong các phong
trào khác của Đoàn thanh niên và các phong trào của học sinh trong nhà trường như:
“Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên”; Phong trào “Phòng
chống ma tuý trong học đường”, phong trào ngày hè xanh, phong trào đảm bảo vệ
sinh môi trường…
Để lồng ghép được nội dung của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
với các phong trào khác của nhà trường hoặc của đoàn thanh niên nhà trường, cơ
quan công an cơ sở (phường, xã) là chủ thể tiến hành xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc, cần phải có kế hoạch, chủ động kết hợp với nhà trường và
Đoàn thanh niên của các trường đóng trên địa bàn đưa các nội dung cần thiết phù hợp
vào từng phong trào, tùng thời điểm thích hợp, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn để
đánh giá sự hoạt động, tích cực hoặc thiếu tích cực của từng học sinh, sinh viên.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC THAM GIA XÂY
DỰNG PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC
Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của
toàn Đảng toàn dân và cũng là của toàn thể thanh niên Việt Nam. Để góp phần của
mình vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc học sinh, sinh viên có trách nhiệm thực
hiện tốt một số công việc sau đây:
A. MỌI SINH VIÊN PHẢI CÓ NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐẦY ĐỦ VỀ
TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC BẢO VỆ AN NINH TRẬT TỰ CỦA TỔ QUỐC
Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân
và làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước.
Đối với sinh viên đang được học tập, rèn luyện trong nhà trường trước hết
phải nhận thức được sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của tất cả
mọi công dân Việt Nam trong đó lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt. Công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm giữ gìn an ninh - trật tự là một cuộc đấu
tranh gay go và phức tạp cần phải huy động sức mạnh của tất cả mọi người, mọi
tầng lớp trong xã hội, là thanh niên Việt Nam nói chung và là đoàn viên thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh nói riêng lại càng gương mẫu và tích cực tham gia vào các
công tác giữ gìn an ninh Tổ quốc, cụ thể là các phong trào giữ gìn an ninh - trật tự
của địa phương.
178
Để quán triệt được quan điển trên: Mỗi sinh viên trong thời gian học tập tại nhà
trường phải say mê học tập, chăm rèn luyện, có nhận thức đúng những điều hay, lẽ
phải, biết các việc nên làm và không được làm; nắm vững và chấp hành đầy đủ các
nội quy quy định của nhà trường, các quy định của địa phương và pháp luật của nhà
nước; phát hiện và mạnh dạn đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến
an ninh trật tự của địa phương hoặc ở trong nhà trường. Nhằm phát huy được những
mặt tích cực, hạn chế những tồn tại nhược điểm của sinh viên đóng góp tích cực cho
công tác bảo vệ an ninh trật tự của địa phương và các phong trào khác của nhà
trường, mỗi cá nhân phải học tập, rèn luyện tốt, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người sinh viên, kính trọng thầy cô giáo, tôn trọng các cơ quan chính quyền, tích cực
tham gia các phong trào của nhà trường và địa phương.
B. MỖI SINH VIÊN TỰ GIÁC CHẤP HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẢM
BẢO AN NINH TRẬT TỰ CỦA NHÀ TRƯỜNG VÀ CỦA ĐỊA PHƯƠNG NƠI
CƯ TRÚ
Để đảm bảo an ninh trật tự, mọi công dân phải tự giác chấp hành các quy định
của nhà nước và của địa phương về giữ gìn an ninh trật tự như: bảo vệ sự lãnh đạo
của Đảng, bảo vệ việc thực hiện các chính sách của nhà nước, bảo vệ chính quyền,
bảo vệ sự vững mạnh của các tổ chức đoàn thể xã hội; chống kẻ địch phá hoại về
chính trị tư tưởng, về kinh tế văn hoá xã hội; xây dựng khối thống nhất toàn dân…
- Mỗi sinh viên đều phải tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường,
của đoàn thanh niên hoặc của địa phương tổ chức.
- Không xem, đọc, lưu truyền các văn hoá phẩm độc hại, đồi truỵ, không nghe,
không bình luận các luận điểm tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của các thế lực thù địch, không truy cập vào các Website có nội dung thiếu
lành mạnh.
- Không tự ý thành lập, tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị và các tổ
chức có tính chất chính trị trái pháp luật Việt Nam.
- Phát hiện và đề nghị với thầy cô giáo và các cơ quan chính quyền địa phơng
nơi cư trú, học tập để có biện pháp ngăn chặn các hành vị hoạt động tệ nạn xã hội
(cờ bạc, ma tuý, mại dâm), các hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Tích cực và gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, các thể lệ hành
chính quy định về lĩnh vực an ninh trật tự; luật lệ an toàn giao thông; an toàn phòng
cháy chữa cháy; vệ sinh môi trường và các quy định khác.
1. Đối với sinh viên lưu trú trong ký túc xá
- Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường, không được sử dụng một cách bừa
bãi, làm hư hỏng mất mát tài sản và trang thiết bị trong ký túc xá.
- Chấp hành tốt nội quy của ký túc xá, thực hiện đầy đủ những cam kết được
ghi trong hợp đồng với Ban quản lý ký túc xá.
- Không tàng trữ vũ khí, chất độc, chất nổ, chất dễ cháy, hoá chất độc hoặc
hàng cấm khác trong ký túc xá.
179
2. Đối với sinh viên tạm trú trong các khu vực dân cư
- Thực hiện đầy đủ các quy định về khai báo tạm trú tại khu vực dân cư theo
quy định của pháp luật.
- Chấp hành tốt các quy định của địa phương nơi cư trú như; vệ sinh mỹ quan,
trật tự đô thị, bảo vệ môi trường.
- Tích cực tham gia các phong trào giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn như:
phòng chống các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lôi kéo học
sinh, sinh viên vào các hoạt động chống đối Nhà nước; phòng ngừa các hoạt động của
bọn tội phạn hình sự xâm phạm đến tính mạng và tài sản của sinh viên; ngăn ngừa,
đấu tranh với các trường hợp sử dụng các chất ma tuý trong học sinh, sinh viên.
C. TÍCH CỰC THAM GIA VÀO CÁC PHONG TRÀO BẢO VỆ AN NINH
TRẬT TỰ CỦA ĐỊA PHƯƠNG
Phong trào toàn dân ở từng cụm dân cư, từng phường, xã có mạnh hay không
là do sự đóng góp chung của tất cả mọi thành viên trong công đồng khu vực, từ trẻ
đến già ; từ cán bộ, công nhân, viên chức đến học sinh sinh viên. Hoạt động này
phải trở thành ý thức tự giác và tự quản của từng người dân, trong đó có sự đóng
góp tích cực và quan trọng của sinh viên.
Với trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự hiểu biết, năng
động và sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của nhân loại, là
nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng mỗi học sinh sinh viên cũng
cần được sư hỗ trợ, định hướng và dìu dắt của Đảng, Nhà nước, nhà trường và của
toàn xã hội, do đó mỗi người học không những chấp hành đúng và đủ các quy định
của Nhà nước về đảm bảo an ninh trật tự mà còn phải tham gia tích cực vào các
phong trào bảo vệ an ninh - trật tự của địa phương, như: “Phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phong trào “Toàn dân phòng chống
ma tuý”, “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”; phong trào “Toàn dân tham gia cảm hoá
giáo dục người lầm lỗi”; cũng như các phong trào bảo vệ an ninh trật tự khác: phong
trào xây dựng cụm dân cư an toàn, số nhà an toàn; tham gia vào các tổ chức quần
chúng “Đội thanh niên xung kích an ninh”, đội “thanh niên tự quản”… tích cực than
gia tuần tra canh gác, phòng ngừa các hoạt động tội phạm.
Để thực hiện được các nội dung trên sinh viên thông qua các hoạt động của
Đoàn thanh niên, các hoạt động khác của nhà trường để lồng ghép các nội dung của
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
D. LUÔN LUÔN NÊU CAO Ý THỨC CẢNH GIÁC, TÍCH CỰC THAM GIA
HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM Ở ĐỊA PHƯƠNG, PHÁT HIỆN
NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC, NHỮNG HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT
XẨY RA TRONG NHÀ TRƯỜNG VÀ NƠI CƯ TRÚ KỊP THỜI, CUNG CẤP
CHO CƠ QUAN CÔNG AN ĐỂ CÓ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ GIẢI QUYẾT
Để góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật tự, tạo thành phong trào toàn dân
phòng chống tội phạm, sinh viên cần tích cực than gia vào các hoạt động giữ gìn an
ninh trật tự của địa phương theo khả năng của mình như:
180
- Phát hiện các hành vi tuyên truyền, phát tán các văn hóa phẩm đồi truỵ, các
tài liệu phản động báo cáo ngay với ban giám hiệu nhà trường, với thầy cô giáo chủ
nhiệm hoặc cơ quan Công an để thu giữ kịp thời.
- Phát hiện và ngăn chặn các vụ đánh nhau, gây rối trật tự công cộng báo cáo
với nhà trường, ban bảo vệ dân phố, cơ quan Công an nơi gần nhất để có biện pháp
ngăn chặn, tham gia phát hiện truy bắt các đối tượng phạm pháp bỏ trốn.
- Phát hiện các hành vi vi phạm các quy định về trật tự an toàn xã hội như
mang chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí thô sơ đến nhà trường.
- Phát hiện và báo cáo kịp thời với nhà trường về những người hoặc các hiện
tượng sinh viên có biểu hiện sử dụng các chất ma tuý, đua đòi ăn chơi tụ tập đua xe,
đánh bạc ăn tiền…
- Thường xuyên giúp đỡ các bạn gặp khó khăn về điều kiện học tập, động viên
các bạn vượt khó để học tập tốt.
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, Chính quyền luôn xác định công tác
xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là biện pháp cơ bản, chiến lược
lâu dài trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã, phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc đã liên tục phát động và có bước phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội; triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm hoạt động có tổ chức, góp phần kéo giảm số
vụ phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội. Trong thời gian tới, cần nâng cao chất lượng,
hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, củng cố thế trận an ninh nhân
dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, trọng tâm là ở các địa bàn chiến lược,
tuyến biên giới, biển đảo, vùng dân tộc ít người, vùng đồng bào theo tôn giáo, các nhà
trường, khu kinh tế tập trung và các đô thị lớn. Chú trọng chỉ đạo xây dựng và nhân
rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, có hiệu quả theo hướng xã hội hoá ngày càng
cao, với nhiều hình thức tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hoà giải về an ninh, trật tự từ
cơ sở. Động viên, khích lệ nhân dân tích cực tham gia xây dựng khu dân cư, xã,
phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường… an toàn về an ninh, trật tự; chủ
động phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giáo dục, giúp đỡ, cảm hoá người vi
phạm pháp luật tái hoà nhập cộng đồng; tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm, tệ nạn xã hội của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Kịp thời khen thưởng, động
viên những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc; có chính sách thoả đáng khi bị thương, hy sinh, hoặc bị thiệt hại về
tài sản khi tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc?
2. Nêu phương pháp tiến hành xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc ở địa bàn cơ sở? Đặc điểm địa lý và văn hoá xã hội của từng vùng miền có ảnh
hưởng như thế nào đến phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc?
3. Sinh viên có trách nhiệm gì trong việc tham gia phong trào bảo vệ an ninh
Tổ quốc tại địa phương nơi cư trú?
181
BÀI 15.
AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
CÁC ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
Trong lịch sử của mình, chưa có khi nào nhân loại đạt được những bước tiến
dài trên con đường phát triển như ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người
phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa đến chính sự tồn vong của mình như bây
giờ. Cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thảm họa thiên tai,
dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… đang đặt ra những yêu cầu bức
thiết phải có sự nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế để đối phó, vì sự an nguy
của mỗi quốc gia dân tộc cũng như của toàn nhân loại.
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BỐI CẢNH NẢY SINH
A. KHÁI NIỆM
“An ninh phi truyền thống” là một khái niệm mới xuất hiện và được bàn đến
khá nhiều trong thời gian gần đây. Đây là mối quan tâm lớn của các quốc gia dân
tộc trên thế giới, là một trong những chủ đề quan trọng được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu, được bàn luận trên nhiều diễn đàn quốc tế, cũng như trong
nhiều nội dung của các quan hệ song phương và đa phương.
Sau Chiến tranh lạnh, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, thế giới bước
vào giai đoạn mà trong đó xu thế hợp tác và phát triển kinh tế là chủ yếu, đã và đang
mang đến sự phồn thịnh cho nhiều quốc gia, khu vực. Tuy nhiên, quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế này cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, đe dọa đến an ninh, chủ
quyền của các quốc gia dân tộc và cuộc sống của chính con người. Khái niệm an
ninh phi truyền thống ra đời trong bối cảnh đó và được sử dụng rộng rãi, phổ biến
trên nhiều diễn đàn quốc tế thảo luận về các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng,
kinh tế, xã hội, trong chiến lược Quốc phòng và An ninh của nhiều quốc gia dân tộc,
cũng như trong hợp tác an ninh của nhiều khu vực và thế giới, sau khi diễn ra sự
kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ.
Tuy nhiên, cho đến nay, việc nhận thức và xác định những vấn đề an ninh phi
truyền thống vẫn chưa có sự thống nhất. Một số nghiên cứu viện dẫn quan niệm của
Liên hợp quốc về vấn đề an ninh phi truyền thống trong 7 lĩnh vực chính: Kinh tế,
lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị. Có nghiên cứu
quy vấn đề an ninh phi truyền thống vào 5 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, môi trường, xã
hội, chính trị và văn hóa. Một quan điểm khác phân chia các vấn đề an ninh phi
truyền thống thành 6 nhóm chính: ô nhiễm môi trường, tình trạng thiếu hụt tài
nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn khủng bố, dịch bệnh truyền nhiễm và thảm
họa địa chất.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước ASEAN và Trung
Quốc tại Phnôm Pênh (Campuchia) đã ra Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về
hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống, xác định an ninh phi truyền thống là
182
những vấn đề: Tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ
em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao.
Có nhiều quan điểm khác nhau về an ninh phi truyền, nhưng khái quát nhất có
thể hiểu: “An ninh phi truyền thống là sự ổn định và phát triển bền vững của các lợi
ích quốc gia cơ bản, quan trọng mang tính phi quân sự có mối liên hệ, tương tác chặt
chẽ với an ninh, phát triển của khu vực và thế giới”.
Nhắc đến an ninh phi truyền thống không thể không nhắc đến mối đe dọa an
ninh phi truyền thống với đặc trưng về nguồn gốc là ngoài vấn đề quân sự; phạm vi
tác động, ảnh hưởng mang tính xuyên quốc gia. Mối đe dọa an ninh phi truyền
thống có sự gắn kết với an ninh phi truyền thống, là các yếu tố xâm hại hoặc đe dọa
xâm hại đến an ninh phi truyền thống.
B. ĐẶC ĐIỂM
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống gồm hai loại là có bạo lực và phi
bạo lực.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có xu hướng vận động, mở rộng, lan
tràn xuyên quốc gia.
- Mối đe dọa an ninh phi truyền thống đe dọa an ninh khu vực, an ninh quốc tế.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có quan hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau và với các mối đe dọa an ninh truyền thống.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đa dạng về nguồn gốc, có quá trình
tích lũy tiềm tàng.
C. BỐI CẢNH NẢY SINH
- Sự biến đổi của cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh
Sự biến đổi cục diện quốc tế sau chiến tranh lạnh bản chất là hướng đến quan hệ
giữa các quốc gia, các tổ chức với mối quan tâm hàng đầu là kết thúc sự đối đầu có
tính cân bằng nhiều thập kỷ giữa Liên Xô và Mỹ, giữa phe các nước xã hội chủ nghĩa
với phe các nước tư bản chủ nghĩa với kết quả sự sụp đổ mô hình nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Tổ chức Hiệp ước Vácsava. Đây là sự kiện gây chấn
động, làm thay đổi sâu sắc cục diện quốc tế, buộc chính quyền các nước phải tập
trung nghiên cứu, đánh giá và liên hệ đến tình hình, chiến lược an ninh của nước
mình. Trong bối cảnh mới, bất kỳ quốc gia nào cũng trở thành đối tượng bị xâm hại
của các vấn đề an ninh phi truyền thống, thậm chí trên một số lĩnh vực, sự tiên phong,
chiếm lĩnh của các quốc gia cũng đem lại ưu thế như: Không gian mạng, vũ trụ...
- Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên phạm vi rộng, tốc độ nhanh
Sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau của các nước trên các lĩnh vực như:
Kinh tế, tài chính, tiền tệ, mậu dịch, đầu tư, thông tin... đã tạo ra sự lan truyền mạnh
mẽ của các yếu tố tiêu cực như khủng hoảng tài chính kinh tế... làm tăng tính nhạy
cảm của an ninh quốc gia. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia hoạt động phức tạp,
khó đấu tranh, đặc biệt là tội phạm ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm môi trường...
Toàn cầu hóa làm xuất hiện và nhân rộng một loạt các mạng lưới liên kết ở cấp độ
183
toàn cầu, thách thức biên giới lãnh thổ, giảm sự khác biệt về văn hóa, suy thoái các
giá trị truyền thống, đặc trưng quốc gia.
- Các quốc gia tập trung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội
Sau chiến tranh lạnh, các quốc gia có xu hướng phân bố các nguồn lực đồng
đều, theo hướng giảm bớt chi tiêu trong lĩnh vực quân sự, tập trung đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất,
nghiên cứu, phát hiện các nguồn năng lượng mới, nâng cao chất lượng đời sống
nhân dân, đảm bảo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
- Khoa học và công nghệ phát triển
Các thành tựu khoa học và công nghệ đã tạo ra những đột phá, được áp dụng
nhanh chóng vào công tác bảo vệ an ninh của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các
ngành: Vũ trụ và không gian, năng lượng, hóa học và sinh học, điện tử và phần
mềm... Các quốc gia tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ, hình thành
các lực lượng tác chiến mới, làm thay đổi phương thức chiến tranh truyền thống, “số
hóa chiến trường”, xây dựng nền công nghiệp lưỡng dụng, rút ngắn thời gian sản
xuất vũ khí, triển khai các hoạt động vũ trang.
II. NỘI DUNG CỦA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
A. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu do có đường bờ biển dài. Hàng năm, nhiệt độ trung bình tăng
khoảng 0,50C, lượng mưa có xu hướng biến động thất thường. Năm 2016, mùa khô
nhiều nơi ở miền Nam và miền Trung lượng nước thiếu 30 - 40%, tình trạng xâm
nhập mặn diễn ra sớm hơn 1 tháng, nhiều nơi đã vào sâu 80 - 100 km.
Từ năm 2005 đến 2014, trung bình hàng năm Việt Nam có khoảng 649 đợt
thiên tai như lũ lụt, hạn hán, mưa đá... trong đó lũ lụt xảy ra nhiều nhất chiếm 49%
số đợt thiên tai. Trung bình hàng năm, Việt Nam phải gánh chịu 469.526 ngôi nhà bị
phá hủy, 175.653 ngôi nhà bị hư hỏng, gây thiệt hại khoảng 5,2 tỷ USD, khoảng 3
triệu người chịu tác động của thiên tai.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, trên cả nước đã xảy ra 12 loại hình thiên tai bao
gồm: 1 cơn bão; 105 trận dông lốc, sét; 4 đợt mưa lũ, lũ quét; 4 đợt rét đậm, rét hại;
6 đợt nắng nóng; 27 vụ sạt lở tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sạt lở Cửa Đại,
Hội An và 4 trận động đất... Thiên tai đã khiến ít nhất 23 người bị chết và mất tích.
Trong đó, có 2 người mất tích do bão số 1; 13 người chết do sét, lốc xoáy, mưa đá; 8
người chết do lũ, lũ quét, sạt lở đất. Bên cạnh đó, hơn 18.200 nhà bị sập đổ, hư
hỏng; 27.370ha lúa và hoa màu bị đổ dập; 5.077ha cây công nghiệp, cây hàng năm
và cây ăn quả bị thiệt hại, gãy đổ; 12.700 con gia súc, gia cầm bị chết. Trên
22.300m3 đất đá, bê tông; 1.427m đê, kè; hơn 1.100m bờ sông, bờ suối bị sạt lở.
Tổng thiệt hại về kinh tế ước tính trên 337 tỷ đồng.
Theo các kịch bản về biến đổi khí hậu đối với Việt Nam, dự kiến đến cuối thế
kỷ XXI, 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (là 1 trong 3 đồng bằng dễ bị tổn
thương nhất do nước biển dâng cùng với đồng bằng sông Nile, Ai Câp và đồng bằng
184
sông Ganges của Bangladesh), 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 35 diện tích
của các địa phương khác thuộc khu vực ven 36 biển bị ngập mặn, đặc biệt thành phố
Hồ Chí Minh bị ngập trên 20% diện tích thành phố. Khi đó 10 - 12% dân số Việt
Nam bị tác động với tổn thất kinh tế khoảng 10% GDP.
B. AN NINH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Giai đoạn trước năm 2007 là giai đoạn tương đối ổn định với tốc độ tăng
trưởng khoảng 7,88% mỗi năm. Từ sau năm 2007, kinh tế Viêt Nam có sự bất ổn
trong các biến số kinh tế vĩ mô. Thâm hụt vãng lai tăng đột ngột vượt ngưỡng an
toàn, đặc biệt là năm 2008 xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ khủng
hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ. Tốc độ gia tăng nợ công tăng nhanh, ngân sách trung
hạn thiếu bền vững. Từ năm 2007 đến 2011, lạm phát tăng vọt, đỉnh điểm là năm
2008 và 2011. Tín dụng nền kinh tế luôn ở mức cao chỉ có năm 2009 bị giảm so với
năm 2007.
Từ năm 2012 trở lại đây, kinh tế từng bước ổn định và phát triển, có thặng dư
thương mại, có thặng dư cán cân vãng lai, tăng dự trữ ngoại tệ tăng... Chính phủ
nâng cao hiệu quả trong quản lý các dự án đầu tư, kịp thời điều chỉnh chính sách
như mua bán ngoại hối, điều chỉnh lãi xuất...
C. AN NINH NĂNG LƯỢNG
Hệ thống năng lượng Việt Nam dựa trên ba trụ cột chính là dầu khí, than đá và
điện lực. Tuy nhiên, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, an ninh năng
lượng chưa được đảm bảo (dữ trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi
xảy ra khủng hoảng, điện không đủ cung ứng...). Trung bình mỗi năm, nhu cầu sử
dụng năng lượng tăng gấp 2 nhưng khả năng cung ứng trong nước chỉ đạt 60%; hiệu
suất sử dụng thấp, chỉ đạt 28 - 32%.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan (6/2019), lượng nhập khẩu tăng 99,6%
so với cùng kỳ năm ngoái, đạt trên 20,64 triệu tấn, kim ngạch cũng tăng 64,8%, trị
giá trên 1,99 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, xuất khẩu than của Việt Nam ra nước ngoài
chỉ đạt 402.236 tấn, tương đương 61,85 triệu USD. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm
2019, nhóm hàng than đá nhập siêu 1,93 tỷ USD.
Các nguồn năng lượng chủ yếu của Việt Nam chưa được đảm bảo. Trữ lượng
dầu lửa và khí đốt ở Biên Đông do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan sẽ
ngày càng khó khai thác. Trữ lượng than đá đang dần cạn kiệt, năm 2020, khả
năng khai thác chỉ đáp ứng 60% nhu cầu trong nước và đến năm 2035 là 34%. Các
nguồn năng lượng khác như năng lượng sóng, năng lượng gió, năng lượng mặt
trời... chưa được sử dụng phổ biến. Kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã
dừng triển khai.
D. AN NINH MÔI TRƯỜNG
Nạn khai thác tài nguyên khoáng sản trái phép, săn bắt, buôn bán, vận chuyển
trái phép động, thực vật hoang dã, quý hiếm, tàn phá rừng diễn ra ở nhiều địa
phương. Trong vòng 30 năm qua, xuất hiện 40 loại bệnh tật mới có nguồn gốc từ ô
nhiễm môi trường, nhiều dịch bệnh nguy hiểm như: H5N1, SARS...
185
Trong sản xuất công nghiệp, ô nhiễm môi trường diễn ra nghiêm trọng với
khoảng 60% lượng nước thải hàng ngày từ các khu, cụm công nghiệp được xả thẳng
ra nguồn tiếp cận không qua xử lý như vụ sự cố môi trường tại 4 tỉnh miền Trung
(Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) do hành vi xả chất thải từ công
ty Formosa Hà Tĩnh đã ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 100.000 người do không có
việc làm ổn định, thu nhập thấp và 176.285 người phụ thuộc, thiệt hại sản lượng hải
sản khai thác ven bờ và vùng lộng ước tính khoảng 1.600 tấn/tháng; diện tích nuôi
tôm bị chết hoàn toàn là 5,7 ha tương tương 9 triệu tôm giống và khoảng 7 tấn tôm
thương phẩm sắp đến kỳ thu hoạch; có trên 3.000 ha nuôi tôm thâm canh và bán
thâm canh đã thả giống bị ô nhiễm nặng, hệ sinh thái biển ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tình trạng nhập khẩu trái phép rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại, phế
liệu chưa được làm sạch vào Việt Nam diễn biến phức tạp. Thống kê của Bộ Tài
chính (năm 2018) cho thấy, có 23.453 container phế liệu đang lưu giữ tại các cảng
biển, trong đó 9.825 container lưu trữ trên 90 ngày, chưa làm thủ tục hải quan tính
đến đầu tháng 4. Lượng hàng phế liệu tồn nhiều nhất tại Cục Hải quan Bà Rịa Vũng Tàu với 9.468 container, tiếp theo là Hải Phòng và thành phố Hố Chí Minh
lần lượt 6.082 và 4.689 container.
E. AN NINH THÔNG TIN
Tình trạng lộ, lọt thông tin bí mật nhà nước diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
Một số cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước đã sử dụng máy tính có kết nối Internet để
soạn thảo và lưu giữ thông tin mật mà không có các biện pháp bảo vệ. Nhiều tài liệu
có độ mật cao về an ninh - quốc phòng đã bị lộ như các nghị quyết, kế hoạch, đề án,
dự án của khối cơ quan đảng, nhà nước, ban, ngành, chương trình làm việc của các
đồng chí lãnh đạo cấp cao...
Tình trạng tung tin giả trên các trang mạng xã hội diễn biến phức tạp. Năm
2016, bộ Thông tin và truyền thông đã xử phạt 4 trường hợp tung tin giả, tin đồn
thất thiệt. Nhiều vụ việc tung tin giả, tin đồn chỉ nhằm mục đích thu hút nhiều lượt
người theo dõi...
Năm 2018, đã có tới 26 cơ quan báo chí bị xử phạt hành chính, 1 báo điện tử bị
đình bản tạm thời với lỗi chủ yếu là thông tin sai sự thật.
Từ đầu năm 2019 cho đến 2/2020, đã liên tiếp xuất hiện các tin đồn liên quan
đến kinh tế - xã hội khiến dư luận xôn xao, người dân thì hoang mang. “Nông sản
gây ung thư”, “Cảnh báo buôn bán nội tạng người”, “bắt cóc trẻ em táo tợn”… là
các vấn đề thường xuyên bị các tối tượng xấu khai thác.
Liên quan đến dịch cúm Corona n-COV, tính đến ngày 07/2/2020, có tới 170
cá nhân tung tin sai lệch về dịch bệnh bị triệu tập, xử lý. Trong đó, có một số người
nổi tiếng hoạt động trong ngành giải trí, có sức ảnh hưởng lớn. Đây chính là một
trong những nguyên nhân khiến cho người dân hoang mang trước dịch bệnh.
Ví dụ: Ngày 7/2/2020, Sở Thông tin - Truyền thông tỉnh Thanh Hóa cho
biết, từ ngày 31/1 - 6/2, các cơ quan, đơn vị chức năng ở 10 huyện, thị xã, thành
phố của tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện tới 21 trường hợp người dân đăng tải thông
186
tin thất thiệt về virus Corona, trong đó đã xử phạt 9 trường hợp với tổng số tiền
trên 85 triệu đồng….
Các thế lực thù địch và đối tượng phản động gia tăng các hoạt động tuyên
truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tung tin, bịa đặt gây hoang
mang dư luận, kích động biểu tình, bạo loạn; đẩy mạnh các hoạt động tấn công vào
cơ sở dữ liệu của các cơ quan, tổ chức, tập đoàn kinh tế nhằm thu thập các thông
tin, dữ liệu...
Ý thức bảo vệ thông tin của người dân còn thấp, dễ bị dụ dỗ, tin theo các thông
tin sai sự thật. Theo số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của
Bkav cho thấy, 63% người dùng thường xuyên độc được tin tức giả mạo trên
Facebook và trong đó có 40% là nạn nhân hàng ngày.
F. AN NINH NGUỒN NƯỚC
Việt Nam có hơn 2.360 con sông có chiều dài từ 10 km trở lên, 108 lưu vực
sông trong đó có 16 lưu vực sông với diện tích lưu vực lớn hơn 2.500km 2. Tổng
lượng nước mặt trung bình khoảng 830 tỷ m3/năm (nguồn nước dưới đất khoảng
63 tỷ m3/năm) và tập trung chủ yếu trên một số lưu vực sông lớn. Tuy nhiên,
khoảng 63% tổng dòng chảy sông ngòi Việt Nam đến từ các nước láng giềng,
riêng với khu vực sông Mê Công, tỷ lệ này là 90% và 38 lưu vực sông Hồng là hơn
50%. Từ đó, tạo sự bất lợi trong chủ động ứng phó, giải quyết các mối đe dọa an
ninh nguồn nước.
Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm các quốc gia thiếu nước (lượng nước mặt
bình quân đầu người hiện là 3.850 m3/người/năm thấp hơn ngưỡng 4.000
m3/người/năm do Hội tài nguyên nước quốc tế quy định). Cùng với đó, nhu cầu về
nước có xu hướng gia tăng. Năm 1990, nhu cầu nước cho dân dụng và công nghiệp
khoảng 50 tỷ m3, năm 2000 là 65 tỷ m3, năm 2010 là 72 tỷ m3, năm 2020 là 80 tỷ
m3. Dự kiến đến năm 2030 là khoảng 87 - 90 m3. Tuy nhiên, theo dự báo, nguồn
nước Việt Nam giảm cả về số lượng lẫn chất lượng, đến năm 2025, giảm 40 tỷ m 3,
tổng lượng nước mùa khô giảm đi khoảng 13 tỷ m3, 37% lượng nước hàng năm phát
sinh ngoài lãnh thổ sẽ trở nên phức tạp khi diễn ra các tranh chấp nguồn nước.
G. VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Việt Nam là ngôi nhà chung của 54 dân tộc với nguồn gốc lịch sử khác nhau:
có dân tộc có nguồn gốc tại chỗ (dân tộc bản địa) như dân tộc Tày, dân tộc Mường,
dân tộc Thổ…, có dân tộc có nguồn gốc từ nơi khác đến như: Dân tộc Thái, dân tộc
Dao, dân tộc Nùng... Các dân tộc Việt Nam chung sống hòa bình, đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau trong quá trình phát triển.
Vấn đề dân tộc luôn bị các thế lực thù địch, đối tượng phản động lợi dụng
nhằm thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng. Với chính sách “chia để trị”,
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đẩy mạnh các hoạt động kích động, chia rẽ khối đoàn
kết toàn dân, tạo dựng các xứ, các vùng dân tộc tự trị giả hiệu, biến nhiều vùng dân
tộc thiểu số thành căn cứ phản cách mạng và lấy đó làm bàn đạp khống chế các khu
vực xung quanh, như thành lập “Xứ Tây Kỳ tự trị”, “Xứ Thái tự trị”, “Xứ Nùng tự
trị”, “Xứ Mường tự trị”... Hiện nay, các thế lực thù địch, đối tượng phản động gia
187
tăng các hoạt động tuyên truyền các tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị; kích
động các hoạt động bạo loạn, phá rối an ninh... phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đặc biệt, ở Tây Nguyên đã xảy ra 2 vụ bạo loạn vào năm 2001 và năm 2004.
H. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Trên đất nước ta từ ngàn xưa đến nay đã tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo đa dạng và phong phú: Từ hình thức tôn giáo sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo
phương Đông cổ đại đến tôn giáo phương Tây cận đại, từ tôn giáo thế giới, khu vực
đến tôn giáo dân tộc. Hiện nay, nước ta tồn tại hầu hết tôn giáo lớn trên thế giới như:
Hồi giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo...
Các thế lực thù địch, đối tượng phản động thường lợi dụng các vấn đề tôn giáo
để chống phá cách mạng Việt Nam như tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam
“không có tự do tôn giáo, đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền”, phát triển tôn giáo
trái phép, kích động các hoạt động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, đưa ra các
yêu sách... nhằm tách tôn giáo ra khỏi hoạt động quản lý của Nhà nước, biến tôn
giáo trở thành lực lượng đối trọng với Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, các đối
tượng đẩy mạnh quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, tạo cớ để nước ngoài can thiệp vào
công việc nội bộ.
I. CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ
Với âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý xã hội của Nhà nước, các
thế lực thù địch gia tăng các hoạt động kích động các hoạt động khủng bố, tạo bất
ổn trong đời sống xã hội. Các đối tượng phản động người Việt tăng cường các hoạt
động chống phá. Hiện nay, các đối tượng phản động người Việt lưu vong có hình
thành có nhiều tổ chức khủng bố xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam như “Chính
phủ Việt Nam tự do”, “Biệt đoàn sao trắng” của Nguyễn Hữu Chánh, “Việt Tân”...
Trong thời gian tới, Việt Nam có nguy cơ là đối tượng bị khủng bố quốc tế tấn
công vì trên lãnh thổ nước ta có mục tiêu tấn công (người Mỹ và các cơ quan đại
diện Mỹ), các tổ chức khủng bố ở các nước láng giềng bị truy quét nên chạy sang
nước ta…
III. ỨNG PHÓ CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
A. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ ỨNG PHÓ
VỚI CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII trở về trước, thuật ngữ an ninh phi truyền thống
chưa được Đảng ta sử dụng chính thức nhưng các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống đã được mô tả như: Hội Nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(1994) xác định 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ là: nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch; nguy cơ về tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ
tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc VIII (6/1996) xác định: “Thế giới đứng trước nhiều
vấn đề có tính toàn cầu bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng
188
ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc gia nào có thể tự
giải quyết, mà phải có sự hợp tác đa phương”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đối mới và lợi ích
quốc gia dân tộc”, bổ sung thêm vấn đề chống tội phạm quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (04/2006), Đảng ta xác định bối cảnh tình
hình là “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi h i các quốc gia và các tổ chức phối hợp
giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước ngh o ngày
càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư; tình trạng khan hiếm nguồn
năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến
ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội
phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (4/2011), Đảng ta chính thức sử dụng
thuật ngữ an ninh phi truyền thống. Báo cáo chính trị nêu rõ: “Trên thế giới: Hòa
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp
mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc
tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ
diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao
trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường...
còn tiếp tục gia tăng” và “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh
năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch
bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”.
Từ nhận định, đánh giá tình hình đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định về
mục tiêu, nhiệm vụ của Quốc phòng và An ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng
trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực th địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (01/2016), trong báo cáo của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 21/01/2016 đã đánh giá “Những vấn
đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh
lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng
đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh
truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh
kiểu mới” và xác định nhiệm vụ Quốc phòng và An ninh là “Chủ động đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực th địch; ngăn chặn,
phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã
hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống;
189
bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”. Như vậy, tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác định các vấn đề an ninh phi truyền thống có
mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh truyền thống và đều là những mối đe
dọa đến sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia.
B. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ỨNG PHÓ VỚI CÁC MỐI ĐE
DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
- Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và của toàn dân về các mối đe
dọa an ninh phi truyền thống.
- Tăng cường tiềm lực quốc gia, xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc,
tập trung giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá tình hình, dự báo kịp thời các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong ứng phó với các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Phát huy các nguồn lực xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng phó với
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Vấn đề an ninh phi truyền thống là một nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới. Đối phó với các
mối đe dọa an ninh phi truyền thống vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp quốc
phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc, vừa là điều kiện quan trọng để bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, giữ vững hòa bình,
ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ
này đòi hỏi sự đồng thuận và nỗ lực của toàn xã hội, sự quyết tâm rất cao của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta, với những giải pháp, biện pháp phù hợp và hiệu quả.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU
1. Trình bày khái niệm và đặc điểm của an ninh phi truyền thống?
2. Nêu các nội dung cơ bản của an ninh phi truyền thống? Làm rõ nội dung An
ninh thông tin?
3. Trình bày quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về ứng phó với các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống?
190