Academia.eduAcademia.edu
Bài chuyên đề viết cho Đề tài nghiên cứu "Quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với kinh tế thị trường và xã hội dân sự" (Chủ nhiệm : TS Bùi Nguyên Khánh ; cơ quan chủ trì : Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) Chuyên đề Tính đặc thù của xã hội dân sự và các nhân tố ảnh hưởng, quyết định đến hình thái riêng biệt của xã hội dân sự Trần Hữu Quang TP.HCM, ngày 28-1-2012 Mục lục trang 1. Định nghĩa khái niệm xã hội dân sự................................................................. 2 2. Giải tỏa một số quan điểm ngộ nhận................................................................ 6 3. Tính đặc thù của xã hội dân sự ........................................................................ 9 a. Hàn Quốc .................................................................................................. 10 b. Nhật Bản ................................................................................................... 10 c. Trung Quốc................................................................................................ 12 4. Các nhân tố mang tính chất ảnh hưởng quyết định đối với hình thái riêng biệt của xã hội dân sự .......................................................................................... 13 a. Nhà nước pháp quyền ................................................................................ 14 b. Cấu hình vận hành giữa định chế nhà nước với các định chế xã hội .......... 15 c. Các tổ chức xã hội dân sự.......................................................................... 15 d. Tầng lớp trung lưu..................................................................................... 17 5. Vài dòng kết luận .......................................................................................... 18 Tài liệu tham khảo............................................................................................. 22 1 Khái niệm "xã hội dân sự" là một khái niệm tương đối mới mẻ và được bàn luận khá sôi nổi trên các văn đàn ở Việt Nam trong khoảng hơn một thập niên qua. Vì cho đến nay vẫn còn nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này, nên theo chúng tôi, việc tìm hiểu về tính đặc thù của xã hội dân sự trong bài chuyên đề này cần được khởi sự từ việc xác lập một định nghĩa nhất định, để từ đó công trình này mới có một cơ sở nhất quán để tiến hành công việc tìm tòi và phân tích. 1. Định nghĩa khái niệm xã hội dân sự Thuật ngữ civil society trong tiếng Anh (société civile trong tiếng Pháp, bürgerliche Gesellschaft hoặc Zivilgesellschaft trong tiếng Đức, гражданскоe общество trong tiếng Nga) thường được sử dụng một cách tương ứng trong tiếng Việt là "xã hội dân sự", hay "xã hội công dân", nhưng cũng có một số người gọi là "xã hội dân chính", "xã hội nhân dân", hay "xã hội thị dân". Theo Du Khả Bình (2007), một học giả Trung Quốc, thuật ngữ tiếng Anh civil society thường được dịch sang tiếng Trung bằng ba thuật ngữ là "xã hội thị dân" (市民社会), "xã hội dân gian" (民间社会) và "xã hội công dân" (公民社会), nhưng phổ biến nhất hiện nay là thuật ngữ "xã hội công dân". "'Xã hội thị dân' là cách dịch kinh điển của từ 'civil society' trong những bản dịch các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác sang tiếng Trung. Tuy nhiên, nhiều người lại dùng thuật ngữ này để chỉ xã hội tư sản, vì thế nó ít nhiều mang ý nghĩa tiêu cực. 'Xã hội dân gian' được nhiều nhà sử học sử dụng khi nghiên cứu về tổ chức dân gian trong thời kỳ Trung Quốc cận đại, nhưng chủ yếu là để nói tới các tổ chức trung gian giữa người dân và nhà nước, mà không thể hiện được hết ý nghĩa chính trị của từ nguyên gốc tiếng Anh 'civil society'. Sau năm 1978, thuật ngữ 'xã hội công dân' được giới học giả Trung Quốc sử dụng và dần trở nên phổ biến trong giới học thuật nước này."1 Ở Nhật Bản cũng đã từng xảy ra nhiều cuộc tranh luận xung quanh việc dịch thuật ngữ civil society ra tiếng Nhật. Lúc đầu, người ta sử dụng cụm từ shimin shakai (theo nghĩa đen là citizen society, tức "xã hội công dân"), nhưng vì chữ shimin dung chứa nội hàm ý thức hệ, nên về sau, người ta đành chấp 1 Du Khả Bình. "Xã hội công dân Trung Quốc : khái niệm, phân loại và hoàn cảnh chế độ", Tạp chí Khoa học Xã hội Trung Quốc, số 1-2006, dẫn lại theo Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, "Xã hội công dân Trung Quốc : cơ sở hình thành và môi trường chính sách", Tạp chí Triết học, số 7 (194), tháng 7-2007, tr. 25-26. 2 nhận buộc phải chế tạo ra một cụm từ trung tính là shibiru sosaeti, cụm từ phiên âm ra tiếng Nhật từ cụm từ civil society trong tiếng Anh.2 Theo thiển ý chúng tôi, ở Việt Nam ngày nay, chúng ta nên thống nhất sử dụng cụm từ "xã hội dân sự" (vì cụm từ "xã hội công dân" có ý nghĩa khác, không trùng khớp với xã hội dân sự). Một cách khái quát, chúng ta cần hiểu rằng xã hội dân sự là khái niệm gắn liền với hình thái xã hội hiện đại trong trào lưu kinh tế tư bản chủ nghĩa. "Sự đồng hóa của Hegel giữa xã hội 'dân sự' với xã hội 'tư sản' không phải là một sự ngẫu nhiên. Hiện tượng mà ông gọi tên là bürgerliche Gesellschaft là một hình thái xã hội đặc thù lịch sử. Mặc dù 'xã hội dân sự' này không chỉ nói đến các định chế thuần túy 'kinh tế' (...), [nhưng] 'nền kinh tế' hiện đại vẫn là điều kiện chủ yếu của nó."3 Có rất nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau của các tác giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam liên quan tới khái niệm xã hội dân sự.4 Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc tới hai định nghĩa của Nguyễn Kiến Giang và của Charles Taylor, trước khi nêu ra định nghĩa mà chúng tôi đề xuất. Trong quyển Từ điển xã hội học của Nguyễn Kiến Giang (do Nguyễn Khắc Viện làm chủ biên, 1994), tác giả không dùng cụm từ "xã hội dân sự" mà dùng thuật ngữ "xã hội công dân", và gắn khái niệm này đi đôi với khái niệm nhà nước pháp quyền. Có thể nói đây là một định nghĩa tương đối đầy đủ nhất về khái niệm xã hội dân sự lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn nghiên cứu bằng tiếng Việt. Tác giả coi xã hội công dân là "một thành tựu to lớn của sự phát triển lịch sử của con người", và định nghĩa đây là "xã hội trong đó các công dân là chủ thể của xã hội và do đó của nhà nước, nhà nước phục tùng lợi ích của công dân mà không phải ngược lại". "Những yếu tố cấu thành [xã hội công dân] là : sở hữu của các công dân với tư cách cá nhân, các quyền tự nhiên của con người và các quyền tự do cá nhân của công dân, chế độ dân chủ về mặt chính trị và nhà nước pháp quyền." Xã hội công dân được xem như 2 Xem Frank Schwartz, "Introduction: Recognizing Civil Society in Japan", in Frank J. Schwartz, Susan J. Pharr (Ed.), The State of Civil Society in Japan, Cambridge, Cambridge University Press, 2003, tr. 4. 3 Ellen Meiksins Wood, "The Uses and Abuses of 'Civil Society'", The Socialist Register, 1990, tr. 62. 4 Xem thêm Trần Hữu Quang, "Một số quan niệm cổ điển về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 07 (131), 2009, tr. 3-16, và Trần Hữu Quang, "Một số quan niệm đương đại về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 12 (136), 2009, tr. 13-23. 3 "đối lập với xã hội toàn trị".5 Về khái niệm xã hội dân sự, Charles Taylor (1990) đã phân biệt ra ba xu hướng quan niệm chính : xu hướng thứ nhất là quan niệm độc đoán về xã hội của Hobbes cũng như quan niệm chống độc đoán của Rousseau và Locke (mà Taylor gọi là quan điểm L, "L-view"), xu hướng thứ hai là quan niệm của Montesquieu cho rằng xã hội dân sự vừa nằm trong, vừa có thể ảnh hưởng tới các chính sách nhà nước (Taylor gọi là quan điểm M, "M-view"), và xu hướng thứ ba là quan niệm của Hegel nằm giữa hai quan niệm trên. Theo Taylor, quan điểm L cho rằng xã hội dân sự nằm bên ngoài lĩnh vực chính trị, còn quan điểm M của Montesquieu thì cho rằng xã hội dân sự chính là sự hội nhập của xã hội vào các tổ chức chính trị bằng cách tham gia vào sự phân chia quyền lực. Quan điểm của Hegel, và cũng là của Taylor, nằm ở giữa hai quan điểm L và M vì cho rằng cũng cần phải có sự tồn tại của những hiệp hội độc lập không mang mục đích chính trị. Sở dĩ như vậy không phải là để hình thành một không gian phi chính trị (a non-political sphere), mà thực ra là để hình thành nền tảng cho sự chia tách và sự đa dạng của quyền lực ngay bên trong nội bộ hệ thống chính trị. Khi giải thích tư tưởng của Hegel, Taylor cho rằng xã hội dân sự không hẳn là một lĩnh vực nằm bên ngoài quyền lực chính trị, mà thực ra nó thâm nhập sâu xa vào ngay bên trong quyền lực này. Những thành tố của xã hội dân sự thực sự mang tính chất "lưỡng cư" (amphibious). Taylor phân biệt ba ý nghĩa của xã hội dân sự : (a) bao gồm những hiệp hội tự nguyện không nằm dưới sự giám hộ của nhà nước ; (b) đây là nơi mà xã hội tự cấu trúc chính mình và điều phối các hoạt động của mình thông qua các hiệp hội tự nguyện ; (c) tổng thể những hiệp hội có khả năng quyết định hoặc ảnh hưởng quan trọng đến quá trình ban hành các chính sách của nhà nước.6 Trong bối cảnh Việt Nam đương đại, nhằm mục tiêu xác lập một khái niệm mang tính phân tích, tức là có hiệu lực phân tích được xã hội Việt Nam đương đại, chúng tôi đề xướng một cách hiểu về khái niệm xã hội dân sự như sau, xuất phát từ những ý tưởng của Georg W.F. Hegel (1770-1831) và từ lý thuyết của Antonio Gramsci (1891-1937):7 5 Nguyễn Khắc Viện (chủ biên), Từ điển xã hội học, Hà Nội, Nxb Thế giới, 1994, tr. 326-330. 6 Xem Charles Taylor, "Modes of Civil Society", in Public Culture, Volume 3, Issue 1, 1990. 7 Lý thuyết của Gramsci về xã hội dân sự cũng đã được một số tác giả đương đại ít nhiều vận dụng trong các công trình nghiên cứu của mình, chẳng hạn như P. 4 (a) Xã hội dân sự là một khái niệm được dùng để chỉ không gian xã hội công cộng nằm ngoài nhà nước và ngoài lĩnh vực riêng tư của cá nhân và gia đình, bao gồm tổng thể các định chế tương đối độc lập với nhà nước và các hoạt động tự nguyện trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội... Như vậy, xã hội dân sự là một không gian trong đó diễn ra các hoạt động của những thành tố xã hội như nhà trường, bệnh viện, nhà hát, báo chí, các đài phát thanh và truyền hình, các hiệp hội, các tổ chức xã hội và các đảng phái chính trị, các giáo hội, các doanh nghiệp, công ty, ngân hàng... (b) Xã hội dân sự và nhà nước cấu thành hệ thống xã hội tổng thể của một nhà nước/quốc gia (tức nhà nước hiểu theo nghĩa rộng), trong đó nhà nước (hiểu theo nghĩa hẹp) là nơi thực hiện chức năng cưỡng chế (coercion), và xã hội dân sự là nơi thực hiện sự thống lãnh (hegemony) hay lãnh đạo (direction) về mặt văn hóa-tư tưởng của giai cấp thống trị bằng cách tạo ra sự đồng thuận (consensus) nơi các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Vì thế, xã hội dân sự có những mối quan hệ ít nhiều chặt chẽ và hữu cơ với nhà nước. Nhưng đồng thời, nó cũng có tính độc lập tương đối, bởi lẽ nếu không tạo ra được sự đồng thuận nơi xã hội dân sự, thì nhà nước sẽ không còn giữ được sự thống lãnh tư tưởng, và vì thế tất yếu sẽ mất đi tính chính pháp8 của mình và chỉ còn nắm được sự cưỡng chế mà thôi. (c) Xã hội dân sự là nơi luôn luôn xuất hiện những xung đột về lợi ích, và do đó là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa-tư tưởng giữa giai cấp thống trị với các giai cấp và tầng lớp bên dưới, cũng như giữa các tầng lớp xã hội và các nhóm xã hội với nhau. (d) Hình thái xã hội dân sự chỉ xuất hiện khi ra đời hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa, trong khuôn khổ của hình thức nhà nước hiện đại tương ứng là nhà nước pháp quyền. Do đó, xã hội dân sự chỉ thực sự tồn tại khi xác lập được một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa và lành mạnh.9 8 9 Ramasamy, "Civil Society in Malaysia: An Arena of Contestations?", trong Lee Hock Guan (chủ biên), Civil Society in Southeast Asia, Singapore, Institute for Southeast Asian Studies, 2004 ; Muthiah Alagappa (chủ biên), Civil Society and Political Change in Asia: Expanding and Contracting Democratic Space, Palo Alto, Stanford University Press, 2004 ; Ingrid Landau, "Law and Civil Society in Cambodia and Vietnam: A Gramscian Perspective", trong Journal of Contemporary Asia, Vol. 38, No. 2, tháng 5-2008. Legitimacy : nhiều người thường dịch chữ này là tính chính đáng hoặc tính chính danh. Xem thêm Trần Hữu Quang, "Hướng đến một khái niệm khoa học về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (140), 2010, tr. 10-23. 5 Định nghĩa mà chúng tôi nêu ra trên đây coi xã hội dân sự như một khái niệm phân tích, tức là được dùng để phân tích mối quan hệ giữa xã hội với nhà nước. Ở đây, có lẽ cũng cần nhắc lại điểm lưu ý của Gramsci khi ông nhấn mạnh rằng sự phân biệt giữa khái niệm xã hội dân sự với khái niệm nhà nước thực ra là một "sự phân biệt mang tính phương pháp luận" và cần tránh rơi vào một "sự phân biệt máy móc" mang tính giản lược.10 Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh đến ý nghĩa "phân tích" (analytical) của khái niệm xã hội dân sự là do vẫn còn tồn tại nhiều ngộ nhận trong những cách hiểu liên quan tới khái niệm này ở Việt Nam lâu nay, và chúng tôi cho rằng phần lớn các định nghĩa đều thiên về tính chất "công cụ" (instrumentalist) mà chúng tôi cho rằng cần phải giải tỏa. 2. Giải tỏa một số quan điểm ngộ nhận Trước hết là ngộ nhận trong nhận thức về bản chất của thị trường. Cho dù quan niệm rằng xã hội dân sự bao hàm thị trường (tổng thể xã hội bao gồm : nhà nước và xã hội dân sự) hay không bao hàm thị trường (tổng thể xã hội bao gồm : nhà nước, thị trường, và xã hội dân sự), nhiều người thường cho rằng thị trường là một lĩnh vực hoàn toàn độc lập, nằm bên ngoài chính trị, chỉ tuân theo những qui luật kinh tế riêng của nó, được điều hành bởi "bàn tay vô hình", vì thế nhà nước nhất thiết không được can thiệp vào. Từ đó, ý niệm về một thị trường độc lập và tự điều tiết được trường phái tự do chuyển sang thành ý niệm về sự độc lập và khả năng tự điều tiết của xã hội dân sự đối với nhà nước.11 Trong lịch sử, quả là sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khởi phát từ quá trình hình thành thị trường. Thế nhưng, những quyền như quyền tự do sản xuất (laisser-faire, "để cho làm"), quyền tự do buôn bán (laisser-passer, "để cho đi qua", cũng tương tự như việc bãi bỏ những qui định "ngăn sông cấm chợ" ở Việt Nam trước đây), quyền tự do sử dụng tài sản, quyền tự do hợp đồng (hay khế ước) hay nói chung nền mậu dịch tự do hoàn toàn không phải là những cái tự nhiên mà có hoặc tự động xuất hiện, mà tất cả đều là sản phẩm của những hoạt động của nhà nước.12 Karl Polanyi (1944) trong công trình nổi tiếng The Great Transformation viết rõ như sau : "Lịch sử kinh tế cho thấy rằng sự nổi lên của 10 Antonio Gramsci, Gramsci dans le texte, Paris, Ed. Sociales, tr. 469. Xem Cao Huy Thuần, "Xã hội dân sự ?", Tạp chí Thời đại mới, số 3, tháng 112004. 12 Xem Danièle Lochak, "La société civile : du concept au gadget", in Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France, 1986, tr. 49. 11 6 các thị trường quốc gia hoàn toàn không phải là kết quả của sự giải thoát tiệm tiến và tự phát của lĩnh vực kinh tế ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền. Ngược lại, thị trường là kết quả của một sự can thiệp có ý thức và thường mang tính chất bạo lực từ phía chính quyền vốn áp đặt tổ chức thị trường lên xã hội nhằm vào những mục tiêu phi kinh tế."13 Trước đó, chính Antonio Gramsci cũng từng nêu lên một nhận xét phần nào tương tự để phê phán quan điểm của trường phái tự do kinh tế : "Chúng ta buộc phải thừa nhận rằng hệ thống mậu dịch tự do chính nó cũng là một sự 'qui định hóa' [réglementation] mang dấu ấn của nhà nước, do các luật lệ và sự cưỡng chế đưa ra và duy trì : đây là kết quả của một ý chí có ý thức về các mục tiêu của mình, chứ không phải là sự biểu hiện bột phát, tự động của sự kiện kinh tế. Như vậy, hệ thống mậu dịch tự do là một chương trình chính trị [programme politique] nhằm mục tiêu thay đổi nhân sự lãnh đạo của một nhà nước và thay đổi chương trình kinh tế của chính nhà nước, nghĩa là thay đổi sự phân phối thu nhập quốc dân – nếu nó thắng thế [tức là nếu nó lên nắm chính quyền – chú thích của chúng tôi, T.H.Q.]."14 Ngộ nhận thứ hai là ngộ nhận trong sự phân biệt quá giản lược giữa công và tư, cũng như trong sự phân biệt máy móc giữa lĩnh vực chính trị với lĩnh vực kinh tế. Cao Huy Thuần (2004) phân tích như sau : "Chủ nghĩa tư bản tràn vào câu hỏi đó [thế nào là công thế nào là tư, đâu là biên giới giữa công và tư] để tách biệt hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại ra khỏi lĩnh vực công, lĩnh vực Nhà nước, và tuyên bố : lĩnh vực kinh tế không phải là lĩnh vực của Nhà nước, đó là lĩnh vực của tư nhân, do đó thị trường thuộc vào xã hội dân sự. Song song với xác quyết đó, chủ nghĩa tự do đưa ý thức hệ vào ngay, quả quyết rằng tự do cạnh tranh mang lại cho xã hội dân sự khả năng tự điều tiết – với điều kiện là không được có một can thiệp nào ngoài can thiệp kinh tế vào những trao đổi kinh tế. Nghĩa là Nhà nước không được can thiệp. Nói như vậy, các lý thuyết gia của chủ nghĩa tự do mô tả đúng một thực trạng mới, khuynh hướng mới, diễn ra trước mắt mọi người, nhưng họ không phải chỉ mô tả, họ còn nâng sự mô tả lên thành nguyên tắc, quy luật, như thử phát xuất từ bản chất của sự vật, của thiên nhiên, của chân lý muôn đời. Từ đó, Nhà nước là xấu, vì cưỡng bức ; xã hội dân sự là tốt, vì tự do. [...] Đứng về mặt nhận thức khoa học, không có gì lầm lẫn cho bằng, bởi vì không thể vạch ra biên giới giữa Nhà nước và xã hội dân sự cũng như không thể vạch ra 13 Karl Polanyi, The Great Transformation. The Political and Economic Origins of Our Time (1944), Boston, Beacon Press, 2001, tr. 258. 14 Antonio Gramsci, sách đã dẫn, tr. 469. 7 biên giới giữa chính trị và phi chính trị."15 Như Hegel và Marx đã nói, trong các chế độ phong kiến và tiền tư bản chủ nghĩa, toàn bộ xã hội đều thuộc về nhà nước, thuộc về lĩnh vực chính trị ; sau đó, với sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa, các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo... dần dà tách ra khỏi lĩnh vực chính trị. Nhưng, theo Danièle Lochak (1986), nếu từ đó mà suy ra rằng có một sự khác biệt về bản chất giữa cái gì thuộc về chính trị và cái gì không, thì đó là một "huyền thoại". Bà Lochak viết như sau : "Hẳn nhiên, không phải tất cả mọi chuyện đều mang tính chất chính trị, nhưng chính trị là một chiều kích cấu thành nên các cộng đồng con người, thấm nhiễm vào toàn bộ đời sống xã hội, kể cả đời sống hàng ngày của chúng ta, và do đó sẽ là hão huyền nếu có tham vọng tách nó riêng ra khỏi những cái khác. Vì không thể vạch ra được cái ranh giới ấy, nên việc định nghĩa xã hội dân sự như toàn bộ các mối quan hệ phi chính trị là một định nghĩa sai lầm về mặt khái niệm."16 Ngộ nhận thứ ba là cho rằng xã hội dân sự là một dạng tổ chức, một phương thức tổ chức xã hội nhất định, hay một mô hình xã hội nhất định. Quan niệm này đã lầm lẫn giữa một khái niệm trừu tượng được dùng để phân tích hiện thực xã hội, với một lý tưởng xã hội mà người ta nỗ lực vươn tới, và vì thế đã làm cạn kiệt nội hàm mang tính phân tích học thuật của khái niệm xã hội dân sự và biến nó thành một thứ ước mơ hay thậm chí một thứ huyền thoại. Nếu người ta biện minh rằng dù sao thì vẫn có thể sử dụng khái niệm xã hội dân sự như một "mô hình xã hội lý tưởng" để phê phán hiện thực xã hội, thì e rằng đây chỉ là một sự phê phán đặt nền tảng trên sự ước mơ (cho dù hết sức tốt đẹp !), chứ chưa phải là một sự phê phán thực thụ dựa trên vũ khí của sự phân tích duy lý. Thường đi đôi với ngộ nhận trên đây là ngộ nhận thứ tư quan niệm về xã hội dân sự như một định chế (institution) hay một tác nhân xã hội (social actor), từ đó mặc nhiên biến xã hội dân sự vốn là một khái niệm phức hợp – hiểu theo nghĩa là một không gian – dung chứa nhiều mối quan hệ xã hội, nhiều giai cấp, tầng lớp và nhiều định chế xã hội khác nhau, thành một "đối tác" (của nhà nước), một "lực lượng đối trọng" (với nhà nước và/hoặc với thị trường), hoặc một tổ chức "trung gian" (giữa nhà nước với cá nhân) – làm như thể "xã hội dân sự" là một khối người đồng dạng, đồng quan điểm, bình đẳng và phi giai cấp ! 15 16 Cao Huy Thuần, bài đã dẫn. Xem Danièle Lochak, bài đã dẫn, tr. 70. 8 Trong quyển A Dictionary of Sociology (Từ điển xã hội học), Gordon Marshall (1998) nhận xét rằng có nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội dân sự, tuy nhiên người ta thường đồng ý về những đặc trưng chính sau đây của khái niệm xã hội dân sự : (a) khái niệm này nói về đời sống công cộng (public) hơn là đời sống riêng tư (private) hay sinh hoạt gia đình ; (b) nó nằm ngoài gia đình và nhà nước ; và (c) nó tồn tại trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền (rule of law).17 Chúng tôi muốn bổ sung thêm một đặc trưng thứ tư : đó là việc định nghĩa khái niệm xã hội dân sự nhất thiết không thể tách rời khỏi mối quan hệ với nhà nước. Xuất phát từ định nghĩa mà chúng tôi đã đề xướng trong mục trên, chúng tôi sẽ thử tìm hiểu về tính đặc thù của hình thái xã hội dân sự trong các quốc gia khác nhau. 3. Tính đặc thù của xã hội dân sự Nếu hiểu xã hội dân sự là một không gian công cộng nằm giữa nhà nước và gia đình, thì hệ quả tất nhiên là chúng ta không thể coi xã hội dân sự như là một thực thể có một hình hài thống nhất và giống nhau trên khắp thế giới ! Diện mạo xã hội dân sự cụ thể trong từng quốc gia trước hết tùy thuộc chủ yếu vào hình thái nhà nước của quốc gia. Mặt khác, mỗi cộng đồng xã hội, mỗi quốc gia vào từng thời điểm lịch sử cụ thể nhất định đều có những nét đặc trưng độc đáo xét về các mặt chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội... cũng như xét về mặt cấu hình xã hội nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu về xã hội dân sự của một cộng đồng xã hội hay của một quốc gia nào đó vào một thời đoạn nào đó thực chất là sử dụng khái niệm xã hội dân sự – xét như một khái niệm trừu tượng – để phân tích một hiện thực lịch sử cụ thể của hình thái xã hội dân sự, và đặc biệt là phân tích những đặc trưng của các mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể ấy. Nhìn một cách khái quát trên thế giới, Bertrand Badie và Pierre Birnbaum đã từng phân biệt hai loại hình xã hội dân sự tiêu biểu đối lập nhau : loại hình nhà nước cai quản xã hội dân sự (mô hình Pháp), và loại hình xã hội dân sự tự tổ chức, nơi mà nhà nước chỉ có mặt ở mức độ tối thiểu (mô hình Anh-Mỹ).18 Hay nhìn dưới một giác độ khác, chúng ta cũng có thể phân 17 Gordon Marshall (Ed.), A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press, 1998, tr. 74. 18 Bertrand Badie, Pierre Birnbaum, Sociologie de l'État, Paris, Ed. Grasset, 1979, dẫn lại theo Danièle Lochak, "La société civile : du concept au gadget", trong 9 biệt ít nhất hai hình thái xã hội dân sự tương ứng với hai loại hình nhà nước điển hình trên thế giới : nhà nước phúc lợi hay nhà nước xã hội ở Tây Âu, và nhà nước tân tự do (neo-liberal) ở Mỹ. Trong khuôn khổ giới hạn của bài chuyên đề này, chúng tôi sẽ chỉ thử điểm lại dưới đây ba hình thái xã hội dân sự đặc thù ở ba quốc gia Đông Á, đó là Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. a. Hàn Quốc Theo nhận xét của Choe Hyondok (2009), trong bối cảnh chính quyền độc tài quân sự của Park Chung-Hee (Pắc Chung Hi) trong giai đoạn 19611987, khi mà hai mục tiêu được đưa ra đồng thời là vừa phát triển kinh tế, vừa chống Cộng, thì "sự phát triển của xã hội dân sự với tư cách một lĩnh vực độc lập với nhà nước là hết sức khó khăn". "Trong bối cảnh đó, chính nhà thờ Cơ Đốc giáo và những nhóm tín hữu đã có những đóng góp quan trọng trong việc vượt qua 'uy quyền vạn năng' của quan điểm chống cộng và tạo dựng một vị thế thích hợp giữa 'chúng ta' và 'kẻ thù' như là một khả năng cho việc phát triển một xã hội dân sự độc lập với nhà nước" thông qua các hoạt động đa dạng của các tổ chức và các phong trào của cả giáo hội Công giáo lẫn giáo hội Tin lành. Kể từ năm 1987 trở đi, với sự ra đời một chính quyền dân chủ hình thành qua cuộc bầu cử tự do, chấm dứt thời kỳ độc tài, thì lúc này mới bắt đầu mở ra giai đoạn dân chủ hóa và mở rộng dần dần phạm vi hoạt động của xã hội dân sự ở Hàn Quốc. Như vậy, có thể nói rằng "xã hội dân sự Hàn Quốc nảy sinh từ trong cuộc đấu tranh vì công lý chống lại sự áp bức tàn bạo của kinh tế thị trường được hậu thuẫn bởi một chính phủ độc tài", và trong thực tế "đã diễn ra nhiều xung đột rất gay gắt trong khuôn khổ của xã hội dân sự".19 b. Nhật Bản Theo Frank Schwartz (2003), tâm thức truyền thống chủ đạo trong xã hội Nhật Bản luôn luôn đề cao vai trò của nhà nước, và thường đồng hóa chiều kích xã hội vào chiều kích nhà nước. Do quyền lực nhà nước mang tính tập trung cao độ và do uy thế của các viên chức lãnh đạo cấp cao nên thời kỳ Minh Trị canh tân kể từ năm 1868 thực chất là thời kỳ giảm bớt những hoạt động phi lợi nhuận tư nhân vốn đã rất mạnh trước đó dưới thời kỳ phong kiến Tokugawa. Ngay cả Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi, 1835-1901), một Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France, 1986, tr. 67. 19 Choe Hyondok, "Xã hội dân sự và kinh tế thị trường ở Hàn Quốc. Nguyên lý 'công tính' trong bối cảnh chủ nghĩa tự do mới" (Lương Mỹ Vân dịch, Trần Tuấn Phong hiệu đính), Tạp chí Triết học, số 4, 2009. 10 trí thức nổi danh vào thời ấy, cũng đã phải khước từ mọi sự bổ nhiệm của chính phủ chính là vì ông muốn nêu lên một tấm gương độc lập trong một quốc gia mà các công dân luôn bị phụ thuộc nặng nề vào nhà nước.20 Xã hội Nhật trước Thế chiến thứ hai, theo Maruyama Masao, cũng vẫn còn bị bao trùm bởi chiều kích nhà nước, và vẫn gặp phải "một sự thất bại trong việc đặt ra một làn ranh rõ rệt giữa lĩnh vực công với lĩnh vực tư".21 Đến thời kỳ sau chiến tranh, theo Yamaoka, các tổ chức phi chính phủ lúc ấy còn bị coi là "những thực thể ngoại lai, dị thường, khác lạ, xa lạ và kỳ quái".22 Từ đầu thời Minh Trị, nhà nước và doanh nghiệp ở Nhật Bản đã gắn kết với nhau một cách hết sức chặt chẽ, và theo lời Helen Hardacre, hệ quả của tình hình này là "cả hai đã uốn nắn và định hình lối diễn ngôn công cộng về lợi ích công đến mức mà cực kỳ khó để phân biệt được sự tồn tại của một không gian công cộng [public sphere] nằm giữa hai lĩnh vực này. Do vậy, viễn tượng về một không gian công cộng theo ý nghĩa cổ điển, tự do, là hết sức hạn hẹp trong suốt lịch sử Nhật Bản hiện đại, đó là chưa kể nó [tức không gian công cộng] bị bao trùm bởi những vấn đề của thị trường."23 Chính trong bối cảnh ấy, theo Pekkanen, ở Nhật Bản, chính nhà nước đóng vai trò định hình cho xã hội dân sự, chứ không phải là triệt tiêu xã hội dân sự.24 Ở Nhật Bản, cuộc thảo luận về xã hội dân sự không chỉ đi đôi với cuộc thảo luận về nhà nước mà còn cả cuộc thảo luận về thị trường hay về chủ nghĩa tư bản. Vai trò thống lãnh của các đại công ty cũng như sự tháp nhập của công nhân vào các cộng đồng công ty với tư cách là thành viên của công ty hơn là tư cách công dân của xã hội chính trị, tất cả những điều này khiến cho các nghiệp đoàn đóng một vai trò yếu ớt hơn trong xã hội dân sự. Trong khi đó, phong trào bảo vệ người tiêu dùng không chỉ nhằm mục tiêu đại diện cho lợi ích của người tiêu dùng trước các cơ quan nhà nước, mà còn nhằm giáo dục các cá nhân về các quyền lợi và trách nhiệm của mình trong một xã 20 Xem Frank Schwartz, "Introduction: Recognizing Civil Society in Japan", in Frank J. Schwartz, Susan J. Pharr (Ed.), The State of Civil Society in Japan, Cambridge, Cambridge University Press, 2003, tr. 5. 21 Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 5. 22 Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 5. 23 Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 5. 24 Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 6. 11 hội tiêu thụ vừa độc lập với quyền lực nhà nước, vừa độc lập với sự kiểm soát của thị trường.25 Gerald Curtis nhận xét rằng "xét về mặt truyền thống tự quản và sự tồn tại của rất nhiều tổ chức tự nguyện, Nhật Bản luôn luôn có một xã hội dân sự mạnh mẽ hơn so với các nước láng giềng (và đó là một xã hội dân sự mạnh hơn so với điều mà nhiều người thường nghĩ, kể cả người Nhật lẫn người ngoại quốc)."26 c. Trung Quốc Hoàn toàn khác với Hàn Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu tiến hành những cuộc cải cách kể từ cuối thập niên 1970 trở đi, trong đó diễn ra những cải cách về mặt hệ thống chính trị và từ đó cũng đẫn đến những chuyển biến hình thành nên một xã hội dân sự. Phùng Thị Huệ và Phạm Ngọc Thạch (2007) lược thuật lại quá trình này như sau : "Cùng với những thay đổi về mặt kinh tế, cải cách thể chế chính trị cũng tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của xã hội công dân ở Trung Quốc. Trung Quốc đang ngày càng chú ý hơn tới việc xây dựng Nhà nước pháp trị và hệ thống pháp luật hoàn bị. Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định công dân có quyền tự do lập hội. Đây là cơ sở pháp lý căn bản cho xã hội công dân hình thành và phát triển. Việc phân quyền từ trung ương xuống địa phương và chuyển đổi chức năng của chính phủ cũng thúc đẩy xã hội công dân Trung Quốc hình thành và phát triển. Được phân quyền mạnh hơn, chính quyền địa phương các cấp có nhiều quyền lực hơn trong việc quản lý xã hội và dần nới lỏng sự kiểm soát đối với người dân và mở rộng không gian cho các hoạt động của họ. Chính quyền Trung Quốc đang chuyển đổi chức năng thông qua việc giảm dần chức năng kinh tế và xã hội, tăng cường chức năng quản lý hành chính. Với việc Nhà nước trao lại một số quyền cho xã hội và rút khỏi một số lĩnh vực quản lý, các tổ chức xã hội công dân đang dần chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong xã hội Trung Quốc."27 Cấu trúc xã hội cũng như vị thế của cá nhân trong xã hội và sự tham gia của người dân vào các lĩnh vực xã hội ở Trung Quốc cũng nhờ đó mà thay đổi một cách căn bản : "Tiêu chí phân tầng xã hội bằng ý thức hệ dần được thay thế bởi các tiêu chí về kinh tế thị trường. Việc phân biệt địa vị 'người có hộ 25 Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 7. Dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 8. 27 Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, bài đã dẫn, tr. 27. 26 12 khẩu thành phố', 'cán bộ nhà nước', hoặc 'đảng viên' đang dần mất đi trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Nhiều nhóm, hội nghề nghiệp chuyên biệt xuất hiện và tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực của đời sống xã hội."28 "Các tổ chức công dân ở Trung Quốc bắt đầu phát triển nhanh trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Các tổ chức công dân vốn bị kiểm soát triệt để nhằm phục vụ mục tiêu của nhà nước trước cải cách, đến nay đã bắt đầu có được sự tự chủ tương đối và hoạt động tích cực nhằm thúc đẩy các lợi ích của xã hội."29 Năm 1989, Vụ Các Tổ chức Xã hội đã được thành lập, trực thuộc Bộ Dân chính, với chức năng là giám sát các hoạt động của tổ chức công dân. Tới năm 1998 thì Điều lệ đăng ký và quản lý các tổ chức xã hội đã được ban hành. Tuy nhiên, "hệ thống pháp luật quản lý về các tổ chức công dân của Trung Quốc vẫn còn nhiều khoảng trống. Các văn bản hiện hành điều chỉnh các tổ chức công dân chủ yếu là các văn bản hành pháp, chứ không phải là văn bản luật do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) Trung Quốc ban hành."30 Ba trường hợp Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc vừa nêu trên đã cho thấy rõ rệt tính đặc thù của hình thái xã hội dân sự ở từng quốc gia, một mặt phụ thuộc vào những đặc trưng lịch sử chính trị, kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia, nhưng đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng quyết định bởi những mối quan hệ đặc thù giữa nhà nước với xã hội cũng như giữa nhà nước với thị trường ở mỗi quốc gia qua những giai đoạn lịch sử cụ thể. 4. Các nhân tố mang tính chất ảnh hưởng quyết định đối với hình thái riêng biệt của xã hội dân sự Xét về mặt lịch sử, chúng ta biết rằng khái niệm xã hội dân sự ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, trong đó có những tác giả nhấn mạnh đến khái niệm này như một thực tại đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, nhưng cũng có những tác giả khác lại nhấn mạnh khái niệm này như một sự phản ứng chống lại nguy cơ chuyên chế của nhà nước. Chính vì khái niệm này xuất phát từ châu Âu, nên về sau, không ít tác giả cho rằng không thể áp đặt một cách khiên cưỡng khái niệm Tây Âu này vào các nước ở các châu lục khác trên thế giới. Nhưng đồng thời, nhiều người khác lại cho rằng ý niệm về xã hội dân sự ngày nay đã trở nên phổ quát và do vậy 28 Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, bài đã dẫn, tr. 28. Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, bài đã dẫn, tr. 29. 30 Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, bài đã dẫn, tr. 32. 29 13 đây không phải chỉ là sản phẩm của thế giới Tây phương.31 Tuy nhiên, theo Frank Schwartz (2003), xét về mặt phân tích, chúng ta không thể mặc nhiên giả định ngay từ đầu về khả năng có thể áp dụng hay không thể áp dụng một khái niệm như khái niệm xã hội dân sự, bởi lẽ chúng ta chỉ có thể xác định điều này trong từng trường hợp cụ thể.32 Blaney và Pasha cho rằng điều quan trọng là cần phải xem xét bối cảnh lịch sử đặc thù nhằm tránh coi xã hội dân sự như "một khái niệm tĩnh tại và xuyên lịch sử, giả định rằng nó có thể đi đến những sự tổng quát hóa trong thực tế về các mối quan hệ giữa xã hội với nhà nước trong bất kỳ không gian và thời gian nào".33 a. Nhà nước pháp quyền Theo Frank Schwartz, "xã hội dân sự là kết quả của một quá trình lịch sử đặc thù". Nó xuất hiện đầu tiên ở châu Âu trên cơ sở một số định chế và một số đặc trưng văn hóa căn bản của nền văn minh Tây phương. Xét về mặt kết cấu quyền lực thì đó là sự tồn tại song hành của một số nguồn lực quyền thế biệt lập với nhà nước và cạnh tranh lẫn nhau. Xét về mặt luật pháp thì đó là di sản của nền luật pháp La Mã vốn xác lập một hệ thống luật pháp độc lập trong đó phân biệt rạch ròi giữa khu vực công với khu vực tư. Sự tồn tại độc lập của giáo hội Ki-tô giáo ở châu Âu cũng góp phần vào sự tách bạch giữa xã hội với nhà nước bằng cách tách biệt thế quyền ra khỏi thần quyền, tách biệt các lĩnh vực tâm linh và ý thức hệ ra khỏi các lĩnh vực trần thế và chính trị.34 Xã hội dân sự là một không gian xã hội mang tính chất công cộng, do đó hình thái hay diện mạo đặc thù của nó ở từng quốc gia phụ thuộc vào mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội, hay nói chính xác hơn, phụ thuộc vào khuôn khổ của hình thức nhà nước pháp quyền tại quốc gia đó. Nói như vậy có nghĩa là diện mạo của xã hội dân sự phụ thuộc vào chế độ chính trị, phụ thuộc vào hình thái cụ thể của nhà nước pháp quyền, cũng như không thoát ra khỏi sự ảnh hưởng chi phối ít nhiều mang tính chất quyết định của những điều kiện kinh tế-xã hội và văn hóa-xã hội nhất định. 31 Xem Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 3. Xem Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 4. 33 "... as a static and transhistorical concept, supposedly generative of empirical generalizations about society-state relations across time and space" (dẫn lại theo Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 4). 34 Xem Frank Schwartz, bài đã dẫn, tr. 2. 32 14 b. Cấu hình vận hành giữa định chế nhà nước với các định chế xã hội Diện mạo của xã hội dân sự trong từng quốc gia phụ thuộc vào đặc trưng vận hành của cấu hình xã hội nói chung, hay nói cụ thể hơn là phụ thuộc vào đặc trưng kết cấu vận hành giữa định chế nhà nước với các định chế xã hội (bao gồm các định chế kinh tế, các định chế giáo dục, các định chế văn hóa...), cũng như đặc trưng của những mối quan hệ giữa các định chế xã hội này với nhau. Thiết tưởng cũng cần nhấn mạnh rằng trong số các định chế xã hội nêu trên, định chế truyền thông đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xác lập diện mạo tổng quát của một xã hội dân sự. Ở đây, chúng tôi liên tưởng tới khái niệm không gian công cộng (Öffentlichkeit) mang tính chất lý tính và tranh luận của Jürgen Habermas (1929-) mà khuôn khổ bài chuyên đề này không cho phép chúng tôi đào sâu hơn. Khi tìm hiểu về xã hội dân sự, các nhà nghiên cứu cũng thường đề cập tới những khái niệm như "vốn xã hội" (social capital) và "lòng tin trong xã hội" (social trust) – vốn có thể trở thành những khái niệm hữu ích cho việc phân tích những đặc trưng của một xã hội dân sự tại một quốc gia nhất định nào đó. c. Các tổ chức xã hội dân sự Khi nói tới vai trò của các tổ chức xã hội dân sự (CSO – civil society organizations) trong việc định hình nên diện mạo của xã hội dân sự, chúng ta cũng cần tránh rơi vào một sự ngộ nhận thường gặp, đó là chỉ đề cập một cách lạc quan và quy giản tới vai trò tích cực của các tổ chức này. Ở châu Á cho đến nay, xã hội dân sự phần lớn thường được nhìn dưới quan điểm công cụ, nghĩa là được coi như là một lực lượng có khả năng đem lại hoặc cản trở những sự chuyển biến trong lĩnh vực chính trị hơn là một "đấu trường độc lập của sự tự quản". Theo tác giả trong quyển sách do Muthiah Alagappa (2006) làm chủ biên, không hề có mối quan hệ tất yếu giữa xã hội dân sự với sự thay đổi theo hướng dân chủ. Bởi lẽ vai trò đặc trưng của xã hội dân sự phụ thuộc vào những nhân tố như trình độ phát triển, vai trò của nhà nước, và các cơ hội chính trị mà nhà nước tạo ra. Edward Aspinall dẫn chứng trường hợp Indonesia để cho thấy rằng những cuộc xung đột trong nội bộ xã hội dân sự đã dẫn đến sự suy thoái của nền dân chủ tại quốc gia này trong những thập niên 1950 và 1960. Còn ở Ấn Độ thì các hoạt động bảo thủ 15 của những nhóm Ấn giáo cho thấy không phải mọi tổ chức trong xã hội dân sự đều cổ xúy cho sự bình quyền và sự phát triển dân chủ.35 Vào giữa thập niên 2000, tổ chức Civicus đã tiến hành một cuộc điều tra trên quy mô nhiều quốc gia về vai trò và tác động của các tổ chức xã hội dân sự bằng cách định lượng hóa một số chỉ báo cụ thể để khảo sát và đo lường. Kết quả khảo sát ở Trung Quốc (xem Biểu đồ 1) cho thấy rằng các tổ chức xã hội dân sự ở Trung Quốc có tác động khá tích cực tới xã hội, với 1,6 điểm trên số điểm tổng cộng là ba điểm. Xét về mặt giá trị thì được 1,8/3 điểm : các tổ chức này đang định hướng tới những giá trị như bình đẳng giới. Mặc dù các tổ chức này khá tích cực trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, nhưng "vai trò của chúng trong thúc đẩy dân chủ và minh bạch còn rất mờ nhạt".36 Hình thái của biểu đồ do Civicus khảo sát ở Việt Nam cũng phần nào tương tự như vậy, tuy rằng vai trò của các tổ chức xã hội dân sự đối với cơ cấu và đối với môi trường ở Việt Nam tỏ ra có phần mạnh hơn so với trường hợp Trung Quốc (xem Biểu đồ 2). Biểu đồ 1. Chỉ số xã hội công dân của Trung Quốc 2006 Nguồn : CIVICUS Civil Society Index Report China (Mainland): A Nascent Civil Society within a Transforming Environment, NGO Research Center, SPPM, Tsinghua University, tháng 4/2006. Dẫn lại theo Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, "Xã hội công dân Trung Quốc : cơ sở hình thành và môi trường chính sách", Tạp chí Triết học, số 7 (194), tháng 7-2007, tr. 33. 35 Xem Muthiah Alagappa (Ed.), Civil Society and Political Change in Asia: Expanding and Contracting Democratic Space, Palo Alto, Stanford University Press, 2004. Trích từ bài điểm sách của Jennifer Chan trong Journal of East Asian Studies, Volume 6, No. 3, 2006, pp. 463-465. 36 Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, bài đã dẫn, tr. 33. 16 Biểu đồ 2. Chỉ số xã hội dân sự của Việt Nam 2006 Nguồn : Irene Norlund (Ed.), The Emerging Civil Society – An Initial Assessment of Civil Society in Vietnam, Hanoi, CIVICUS, 3-2006, tr. 113. d. Tầng lớp trung lưu Một nhân tố mà chúng tôi cho là khá quan trọng quyết định trong việc định hình xã hội dân sự, đó là vai trò của các tầng lớp trung lưu. Khi giải thích tiến trình phát triển của xã hội Hàn Quốc theo hướng dân chủ hóa, nhà xã hội học Hàn Quốc San-Jin Han đã xướng xuất một khái niệm mới : đó là khái niệm joong-min (mà ông dịch ra tiếng Anh là middling grassroots, viết tắt là MG). Joong là "trung" và min là "dân" – những từ mà San-Jin Han cho là đậm màu sắc Nho giáo của các xã hội Đông Á. Joong-min theo San-Jin Han là những nhóm xã hội nằm ở tầng giữa trong cấu trúc xã hội, vốn tự coi mình như những nhóm "cơ sở" (grassroots) của xã hội, không nằm trong bộ máy chính quyền mà cũng không phải là thuộc về những tầng lớp dưới trong xã hội. Hay nói cách khác, chúng ta có thể hiểu joong-min ("trung dân") chính là các giai tầng trung lưu trong xã hội Hàn Quốc hiện đại. Luận điểm của SanJin Han là cho rằng chính các tầng lớp "trung dân" này đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định trong tiến trình tạo lập nên xã hội dân sự và tiến trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc kể từ thập niên 1980 trở đi.37 Ý tưởng về vai trò của tầng lớp trung lưu trong quá trình phát triển xã hội dân sự cũng từng được Bùi Quang Dũng nhấn mạnh : "Một câu hỏi đặt ra 37 Xem San-Jin Han, "Modernization and the Rise of Civil Society: The Role of the 'Middling Grassroots' for Democratization in Korea", Human Studies, No. 24, 2001, tr. 113-132. 17 là, tại sao sự tự tổ chức ở rất nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay lại thể hiện rõ hơn so với nhiều thập niên trước kia ? Giới phân tích cho rằng, xét về nguồn gốc và đối với nhiều xã hội, thì đó là do sự lớn mạnh của các giới trung lưu và sự chuyển đổi về giá trị trong thời gian qua; theo đó, các trách nhiệm về an sinh xã hội, các hoạt động văn hóa, các chương trình giáo dục và sự quan ngại về môi trường không còn đặt vào chỉ riêng nhà nước nữa."38 5. Vài dòng kết luận Theo chúng tôi, có thể nói rằng có ba nhân tố sau đây mang tính chất quyết định đối với diện mạo đặc thù của một xã hội dân sự. a. Hình thái "nhà nước pháp quyền" : xã hội dân sự là một không gian phụ thuộc một cách quyết định vào hình thức của nhà nước pháp quyền ; một nhà nước pháp quyền được tổ chức như thế nào, theo kiểu nào, vận hành dựa trên những nguyên tắc nào thì sẽ xuất hiện một diện mạo xã hội dân sự tương ứng. Ở đây, chúng ta thấy vai trò quan trọng của hệ thống luật pháp cũng như của đường lối và các chính sách nhà nước liên quan tới mô hình tổ chức xã hội. b. Quan niệm của xã hội và nhất là của nhà nước (hay nói chính xác hơn là của những nhà lãnh đạo nhà nước) về "thị trường" nói riêng và về xã hội nói chung. Karl Polanyi từng phê phán quan điểm của lý thuyết tân tự do về thị trường ; ông quan niệm rằng trong xã hội, các kích thước chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa luôn luôn hòa quyện lẫn vào nhau, chồng xen lên nhau (mà ông gọi là tính chất embeddedness), vì thế chúng ta không thể quan niệm "thị trường" như một thực thể hay một định chế riêng biệt chỉ thuần túy tuân theo những quy luật thị trường hay quy luật kinh tế. Chính vì các nhà tư tưởng thuộc trường phái tân tự do và các nhà nước tân tự do quan niệm "thị trường" như một lãnh địa biệt lập có khả năng tự điều tiết nên hình thái xã hội dân sự trong khuôn khổ những quốc gia này (vùng Bắc Mỹ chẳng hạn) hết sức khác biệt so với hình thái xã hội dân sự trong các quốc gia Tây Âu và nhất là Bắc Âu. Ở đây, chúng ta thấy vai trò quan trọng của triết lý và quan điểm chính trịxã hội chủ đạo trong xã hội. c. Truyền thống sinh hoạt chính trị của một xã hội : kinh nghiệm hoạt động dân sự và hoạt động công dân của người dân cũng như của các hiệp hội và các tổ chức xã hội ; mức độ trưởng thành của ý thức công dân... Ở đây, 38 Bùi Quang Dũng, "Xã hội dân sự : khái niệm và các vấn đề", Tạp chí Triết học, số 2 (189), tháng 2-2007. 18 chúng ta thấy vai trò quan trọng của nội lực xét từ phía người dân cũng như từ các tổ chức và đoàn thể dân sự trong xã hội. Nhìn dưới góc độ phát triển và tiến trình dân chủ hóa xã hội, hẳn nhiên là yêu cầu mở rộng không gian xã hội dân sự là một trong những điểm mấu chốt. Bùi Quang Dũng (2007) lập luận như sau : "... những nhân tố cơ bản cho dân chủ và phát triển lại thường phát sinh gắn liền với xã hội dân sự. Dân chủ tham gia không chỉ có nghĩa là tham dự bầu cử, mà còn có nghĩa là tham gia trực tiếp vào đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Những hoạt động xóa đói giảm nghèo, những đóng góp cho giáo dục và đào tạo, sự trợ giúp những hoạt động nông nghiệp, kinh doanh và dịch vụ, những biện pháp đảm bảo bình đẳng giới, những cơ quan truyền thông, viện nghiên cứu độc lập và những hiệp hội đại diện quyền lợi cho người dân sẽ thúc đẩy sự phát triển thật sự."39 Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ chủ trương phát triển các hiệp hội tự nguyện trong xã hội. Chẳng hạn vào năm 1990, trong Nghị quyết số 8B-NQ/HNTW (khóa VI), Đảng đã chủ trương : "Trong giai đoạn mới, cần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái. Các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật". Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định như sau : "Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo…"40 Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi không thể đồng ý với quan điểm cho rằng phải chờ đến khi nào kinh tế phát triển khá lên rồi thì mới có thể xây dựng xã hội dân sự. Trong một bài viết đăng trên tạp chí Triết học vào năm 2006, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm lập luận rằng "mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền thực chất là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, còn ở tầm bao quát hơn là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng, tức toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hợp thành cơ cấu của xã hội đó, với kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, cùng những hình thái ý thức xã hội nhất định tương 39 40 Bùi Quang Dũng, bài đã dẫn. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr. 130-131. Dẫn lại theo Nguyễn Minh Phương, "Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, số 2 (177), 2006. 19 ứng với cơ sở hiện thực đó". Và từ đó tác giả cho rằng "lực cản lớn nhất khiến không thể đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay là ở chỗ, chúng ta chưa có một nền kinh tế thị trường phát triển".41 Quả là Việt Nam chưa có "một nền kinh tế thị trường phát triển", nhưng vấn đề đáng nói hơn ở đây là tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm còn tiếp tục lập luận rằng sở dĩ chưa thể xây dựng được một xã hội dân sự là vì những lý do chủ yếu liên quan đến dân trí và "nhân cách" : "Người dân chưa có đủ cơ sở vật chất và trình độ hiểu biết để có thể tự ý thức về quyền cá nhân của mình, cũng như sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các cá nhân trong cộng đồng xã hội ; chưa thể khẳng định được “cái Tôi” của nhân cách, và đặc biệt là chưa tự ý thức được về sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đối với xã hội và đối với nhà nước. Trong nhiều trường hợp, người dân chủ yếu chỉ mới quan tâm đến quyền lợi thiết thực trước mắt, đặc biệt là những quyền lợi (lợi ích) kinh tế ; thậm chí, họ còn tìm mọi cách để lách luật, phá luật nhằm đạt bằng được lợi ích cá nhân của mình. Đối với những quyền lợi về chính trị, như quyền ứng cử, bầu cử người vào các cơ quan quyền lực nhà nước, quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đó… hiện nay, trong nhân dân có hai thái cực nổi bật: một là, tìm mọi cách để đạt cho bằng được với những động cơ khác nhau và hai là, không thật sự quan tâm, thậm chí còn thờ ơ, vô trách nhiệm."42 Có lẽ ở đây không cần thiết phải bình luận dài dòng về những nhận xét không những mang tính chất hết sức võ đoán và tùy tiện mà còn mang nặng tính định kiến tiêu cực và quy chụp của tác giả này đối với trình độ dân trí và sự trưởng thành chính trị của người dân nói chung. Chúng tôi cho rằng việc xây dựng và mở rộng không gian xã hội dân sự là một yêu cầu bức bách và cấp thiết ngay trong từng giai đoạn của tiến trình phát triển đất nước Việt Nam ngày nay. Bởi lẽ, bất cứ sự biện bạch nào nhằm phủ nhận hoặc hạn chế không gian công cộng này, cho dù có nhân danh "tính đặc thù" nào đi chăng nữa, cũng đều không thỏa đáng và đều không mang tính hợp pháp (legal) lẫn tính chính pháp (legitimate). Vì điều khó lòng tránh khỏi trong trường hợp này là sự biện bạch ấy sẽ tất yếu dẫn đến nguy cơ biện bạch cho một chế độ chuyên chính, độc đoán và phản dân chủ. Lẽ tất nhiên, quá trình xây dựng một xã hội dân sự vững mạnh và trưởng thành không phải là một con đường thênh thang, thẳng tắp và tự động 41 Phạm Thị Ngọc Trầm, "Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân", Tạp chí Triết học, số 4 (179), 2006. 42 Phạm Thị Ngọc Trầm, bài đã dẫn. 20 diễn ra một cách suôn sẻ.43 Chính vì thế mà chúng tôi nghĩ rằng giới nghiên cứu khoa học xã hội còn cần tiến hành nhiều công trình nghiên cứu cụ thể liên quan tới đặc trưng của các mối quan hệ giữa định chế nhà nước với các định chế xã hội, cũng như giữa các định chế xã hội với nhau, xét ở góc độ định chế cũng như ở các góc độ văn hóa và triết lý xã hội. TP.HCM, ngày 28-1-2012 Trần Hữu Quang 43 Xem thêm Rosa Sanchez-Salgado, Civil society in Europe: Between Globalization and Europeanization, Joint Doctoral Seminar in International Relations: ‘European Governance, Global Governance’, European Research Group: ‘European Democracies’, 2006, p. 13. 21 Tài liệu tham khảo 1. Bùi Quang Dũng, "Xã hội dân sự : khái niệm và các vấn đề", Tạp chí Triết học, số 2 (189), tháng 2-2007. 2. CHAN Jennifer, "Civil Society and Political Change in Asia: Expanding and Contracting Democratic Space" (bài điểm sách), Journal of East Asian Studies, Volume 6, No. 3, 2006, pp. 463-465. 3. CHEVALIER Jacques et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France, 1986. 4. CHOE Hyondok, "Xã hội dân sự và kinh tế thị trường ở Hàn Quốc. Nguyên lý 'công tính' trong bối cảnh chủ nghĩa tự do mới" (Lương Mỹ Vân dịch, Trần Tuấn Phong hiệu đính), Tạp chí Triết học, số 4, tháng 4-2009, tr. 35-40. 5. GRAMSCI Antonio, Gramsci dans le texte, tuyển tập do François Ricci và Jean Bramant chủ biên, bản dịch từ tiếng Ý ra tiếng Pháp của J. Bramant, G. Moget, A. Monjo, F. Ricci, Paris, Ed. Sociales, 1975. 6. HAN San-Jin, "Modernization and the Rise of Civil Society: The Role of the 'Middling Grassroots' for Democratization in Korea", Human Studies, No. 24, 2001, pp. 113-132. 7. LANDAU Ingrid, "Law and Civil Society in Cambodia and Vietnam: A Gramscian Perspective", in Journal of Contemporary Asia, Vol. 38, No. 2, May 2008. 8. LOCHAK Danièle, "La société civile : du concept au gadget", in Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France, 1986, tr. 44-75. 9. MARSHALL Gordon (Ed.), A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press, 1998. 10. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên), Từ điển xã hội học, Hà Nội, Nxb Thế giới, 1994. 11. Nguyễn Minh Phương, "Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, số 2 (177), 2006. 12. NORLUND Irene (Ed.), The Emerging Civil Society – An Initial Assessment of Civil Society in Vietnam, Hanoi, CIVICUS, 3-2006. 13. Phạm Thị Ngọc Trầm, "Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân", Tạp chí Triết học, số 4 (179), 2006. 22 14. Phùng Thị Huệ, Phạm Ngọc Thạch, "Xã hội công dân Trung Quốc : cơ sở hình thành và môi trường chính sách", Tạp chí Triết học, số 7 (194), tháng 72007, tr. 25-36. 15. POLANYI Karl, The Great Transformation. The Political and Economic Origins of Our Time (1944), Boston, Beacon Press, 2001. 16. SANCHEZ-SALGADO Rosa, Civil society in Europe: Between Globalization and Europeanization, Joint Doctoral Seminar in International Relations ‘European Governance, Global Governance’, European Research Group ‘European Democracies’, 2006. 17. SCHWARTZ Frank J., Susan J. Pharr (Ed.), The State of Civil Society in Japan, Cambridge, Cambridge University Press, 2003. 18. SCHWARTZ Frank, "Introduction: Recognizing Civil Society in Japan", in Frank J. Schwartz, Susan J. Pharr (Ed.), The State of Civil Society in Japan, Cambridge, Cambridge University Press, 2003, pp. 1-11. 19. Charles Taylor, "Modes of Civil Society", in Public Culture, Volume 3, Issue 1, 1990. 20. Trần Hữu Quang, "Hướng đến một khái niệm xã hội học về xã hội dân sự", bài chuyên đề viết cho Đề tài nghiên cứu cấp bộ mang tên là "Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội dân sự" của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam do PGS.TSKH Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm, tháng 9-2008. 21. Trần Hữu Quang, "Một số quan niệm cổ điển về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 07 (131), 2009, tr. 3-16. 22. Trần Hữu Quang, "Một số quan niệm đương đại về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 12 (136), 2009, tr. 13-23. 23. Trần Hữu Quang, "Hướng đến một khái niệm khoa học về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (140), 2010, tr. 10-23. 24. WOOD Ellen Meiksins, "The Uses and Abuses of 'Civil Society'", The Socialist Register, 1990, pp. 60-84. 23