Academia.eduAcademia.edu
Lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn. 1. Nhận diện lễ hội truyền thống  Lễ hội Chùa Hương Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội” trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn những nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống. Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử. Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền thống có số lượng nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian… Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Ví dụ, nếu người Việt và người Tày chưa thực hiện nghi lễ “Hạ điền”, “Lồng tồng” thì việc gieo hạt đầu mùa sẽ không thể thực hiện, đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi tai”, đặt tên thì nó chưa thể trở thành con người, một chàng trai đến tuổi trưởng thành mà chưa trải qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa thể trở thành một thành viên thực sự của cộng đồng, một đôi nam nữ thanh niên chưa là lễ tơ hồng, lễ trình gia tiên thì không thể trở thành vợ chồng, một người chết nếu chưa được thày Tào của người Tày chưa đến thực hiện nghi lễ gọi hồn đưa hồn thì nghi lễ mai táng sẽ không được thực thi. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định. Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày nay. So với các loại lễ hội khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trưng cơ bản sau: - Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong tục, nên nó vẫn thuộc về cái thiêng, như tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là điển hình. Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời sống thường ngày. Ví dụ, diễn xướng ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng, diễn xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xướng mang tính biểu tượng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội. Lễ hội Hùng Vương - Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này. - Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội. Ba đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival... Lễ hội cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác động bối cảnh kinh tế - xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những biểu hiện của ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối cảnh xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục hồi, bảo tồn và phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục dựng, làm mất đi các đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền thực chất là làm biến dạng và phá hoại các lễ hội đó. 2. Giá trị của lễ hội cổ truyền Lễ hội Tịch Điền Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau: Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng: Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng. Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng. Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy. Giá trị hướng về cội nguồn: Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch. Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu. Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”. Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa: Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình. Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt. Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa: Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy. Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao? Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam. Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc! 3.Thực trạng hoạt động của các lễ hội truyền thống ở Việt Nam Lễ hội Quan thế âm Những hiệu quả không thể phủ nhận: Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội; việc ban hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội cho đến việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Hầu hết các lễ hội quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều được tổ chức các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia phần hội phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam. Mặt khác, việc tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và mỹ tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời, các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, làm nên vẻ đẹp của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo. Do phát huy vai trò chủ thể của người dân hoạt động lễ hội đã được xã hội hoá rộng rãi, huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua công đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần bảo tồn các phong tục, tập quán truyền thống và hoạt động phúc lợi công cộng. Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng đồng trong tham gia hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân. Với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay việc tổ chức các lễ hội kết hợp phát triển du lịch là mô hình mới được hình thành những năm gần đây và đang trên đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn hóa và kinh tế thiết thực như những đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch: “Hoạt động lễ hội đã thực sự trở thành hoạt động văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”. Nhờ công tác chỉ đạo quyết liệt của Bộ và sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn như Thanh tra Bộ, Cục Văn hóa cơ sở, Cục Di sản Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, trong mùa lễ hội Xuân 2012 vừa qua, mộ số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức lễ hội đã có những thay đổi cơ bản như Lễ hội chùa Hương ( Hà Nội), Đền Trần ( Nam Định). . . Bốn cảnh báo về tổ chức 1ễ hội cổ truyền hiện nay: Bên cạnh những điều đáng mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện nay, ta vẫn thấy canh cánh những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do chiến tranh, do quan niệm ấu trĩ, sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều, nay phục hưng trở lại, do vậy cũng không tránh được lệch lạc, khiếm khuyết; công tác tổ chức và quản lý lễ hội đã và đang nảy sinh nhiều bất cập, nhiều hạn chế và tồn tại. Tình hình đó được phản ánh thường xuyên, liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại nhiều hội nghị, hội thảo cho đến cả nghị trường của Quốc hội, gây không ít bức xúc trong xã hội. Có thể khái quát thành bốn hiện tượng đáng cảnh báo như sau: Đơn điệu hoá lễ hội: Văn hoá nói chung cũng như lễ hội nói riêng, bản chất của nó là đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng mỗi vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu người xưa nói “Chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Hay người xưa khi nói về những nét riêng của lễ hội từng làng của Xứ Đoài thì đã có câu ca : Bơi Đăm, Rước Giá, Hội Thầy Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La Như vậy, mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội làng mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa. Trần tục hoá lễ hội: Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó mang “tính thiêng”. Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội nó được biểu hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm, bén rễ từ đời sống hiện thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng. Ví dụ, 3 trận đánh giặc Ân của ông Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh mang tính biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng hoá thành yếu tố “âm” của 28 cô gái. Để nói vận hành của trời đất liên quan đến canh tác nông nghiệp của người nông dân, thì trong hội vật cầu hay hội đánh phết, người xưa đã biểu trưng hoá quả cầu hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng cho mặt trời, được đánh theo hướng đông tây là chuyển động của mặt trời… Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa. Quan phương hoá lễ hội: Văn hoá nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Đó là cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát vọng tâm linh, thoả mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền của, tâm sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ của người dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia. Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du khách hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc. Thương mại hoá lễ hội: Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hoá lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn đặc sản, mà hội chợ Viềng Ở Nam Định và các hội chợ vùng núi là hiện tượng điển hình. Chính các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hoá, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là các hoạt động rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động mang tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ hội để thu lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”, “khấn vái thuê”, bói toán, đặt các “hòm công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như trong lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho... Cũng không phải không có một số “tổ chức” mệnh danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy hội. Những hoạt động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục. 4. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống Hội Lim Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, xuất hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại chúng cho rằng việc tổ chức lễ hội và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả tai hại và đề xuất các biện pháp mang tính hành chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người chưa hiểu rõ xu hướng biến đổi của lễ hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế thị trường nên sốt ruột đề ra các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có khuynh hướng coi nhẹ vai trò quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do tổ chức lễ hội. Cả hai luồng dư luận như vậy đều không đánh giá đúng thực tế. Có thể tham khảo một số giải pháp sau: 1. Về quan điểm: Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì thế không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia các quá trình tổ chức lễ hội, phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả. Đồng thời cũng không coi nhẹ việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội. 2. Đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng biến đổi của 1ễ hội và tổ chức sự kiện nhằm dự báo sát với thực tiễn của tình hình lễ hội. Trong đó, cũng cần phân loại các loại hình lễ hội theo chức năng, hoặc theo quy mô lễ hội (như lễ hội cấp thôn làng, lễ hội vùng, lễ hội liên vùng, liên tỉnh). Trong thực tiễn, nhiều yếu tố tiêu cực, nhiều điểm hạn chế gây tác hại xấu đến đời sống văn hóa là việc không quản lý chặt chẽ loại hình tổ chức sự kiện mới (có nhiều người gọi là lễ hội hiện đại, lễ hội du lịch, hoặc festival). Nhiều huyện, nhiều tỉnh đua nhau mở các lễ hội, tổ chức các sự kiện như các sự kiện kỷ niệm năm chẵn thành lập địa phương, ngành. Tổ chức các festival quảng bá du lịch, tổ chức các lễ hội đón nhận danh hiệu thi đua khá tốn kém... Nguyên nhân xuất hiện của các loại hình lễ hội, tổ chức sự kiện mới này có những yếu tố tích cực và cũng có những yếu tố tiêu cực. Ở các tỉnh, các địa phương kinh tế du lịch phát triển yêu cầu tổ chức các festival, các sự kiện là một nhu cầu đúng và cần thiết. Việc tổ chức các sự kiện này thực chất là việc quảng bá cho du lịch, giới thiệu về du lịch. Nhiều địa phương sau khi tổ chức các sự kiện, du lịch phát triển rất mạnh, lượng du khách tăng từ 20 - 30% so với trước khi tổ chức sự kiện. Trong nền kinh tế thị trường, việc tổ chức các sự kiện quảng bá là một yêu cầu khách quan cần thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cá nhân (tâm lý thích “chơi trội”, tâm lý chạy đua “con gà tức nhau tiếng gáy”, tâm lý thích đề cao những giá trị ảo...) nhiều địa phương đua nhau tổ chức các sự kiện, các lễ kỷ niệm nhưng lại mang danh lễ hội. Thậm chí có nơi du lịch không phát triển nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn tìm mọi cách đề nghị để được tổ chức năm quốc gia du lịch rất tốn kém. Hậu quả là kết thúc năm quốc gia du lịch cũng không phát triển hơn, lượng khách nước ngoài đến thăm tỉnh đó không bằng một phần của lượng du khách đến một huyện du lịch trọng điểm. Vì vậy, nôn nóng quảng bá, lựa chọn các hình thức tổ chức sự kiện không phù hợp cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho đời sống văn hóa. Trước thực trạng này, cần phải quy định rõ về các tiêu chí để tổ chức các sự kiện lớn (ví dụ tỉnh nào có du lịch phát triển mạnh mới được tổ chức năm du lịch quốc gia, tỉnh nào có điều kiện cơ sở hạ tầng phù hợp mới được tổ chức các cuộc liên hoan, festival cho toàn vùng, như tổ chức liên hoan phim, tổ chức festival khu vực). Đối với loại hình lễ hội mới, tổ chức các sự kiện, festival mới đòi hỏi phải xây dựng quy chế quản lý riêng, vừa chặt chẽ, khoa học, vừa phù hợp với thực tiễn chứ không cứng nhắc chủ quan theo ý kiến của nhà quản lý. 3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 1ịch cần tổng kết thực tiễn, hội thảo tranh thủ ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học để ban hành bản quy chế quản lý lễ hội thay cho quy chế quản lý lễ hội năm 2001 đã có nhiều điểm bất cập (có những yêu cầu cấm nhưng hầu hết các lễ hội vẫn cứ thực hiện, như các dịch vụ gọi hồn, giải hạn, trừ tà, xem số... Việc đốt đồ mã cũng vậy, hầu hết các lễ hội liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng vẫn đều thực hiện). Vậy những thực trạng này cần được quản lý ra sao? Ngay về thời gian tổ chức lễ hộỉ, trong quy định của quy chế sẽ không phù hợp với những lễ hội mang tính chất quảng bá du lịch. Vì hạn chế thời gian đối với loại hình festival du lịch hoặc tổ chức sự kiện quảng bá du lịch sẽ dẫn đến việc hạn chế kéo dài thời gian lưu trú của du khách, không phù hợp với lợi ích của nhà tổ chức. Hiện nay cơ quan quản lý nhà nước đã có một số văn bản mang tính quy phạm pháp luật như: Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ban hành theo quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ hoặc Thông tư số 04/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các văn bản này bước đầu đã đề cập những vấn đề quản lý mới nhưng riêng về lễ hội vẫn còn nhiều yếu tố bất cập, chưa quản lý được các tình huống, chưa hướng dẫn các chế tài xử phạt hoặc một số điểm còn bất cập, không đi vào thực tiễn. Cần phân biệt giữa lễ hội cổ truyền đang biến đổi và các loại lễ hội mới, các sự kiện festival mới hình thành và du nhập để có các quy định quản lý phù hợp. 4. Về đào tạo nguồn nhân 1ực và tổ chức bộ máy quản 1ý 1ễ hội: Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật du lịch các tỉnh cần có chương trình giảng dạy về việc tổ chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo các cán bộ quản lý văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ hội, xử lý đúng các tình huống xảy ra trong công tác quản lý ở địa phương. Cục Văn hóa cơ sở cần thành lập phòng quản lý lễ hội và tổ chức sự kiện. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều có tổ hoặc chuyên viên chuyên về quản lý lễ hội và việc tổ chức các sự kiện. Kinh nghiệm thực tiễn ở các địa phương đã chỉ rõ vấn đề tổ chức lễ hội thành công hay không, hạn chế được những tiêu cực hay không đều phụ thuộc phần lớn ở ban tổ chức. Ban tổ chức lễ hội (và tổ chức các sự kiện) đóng một vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong tổ chức lễ hội, vì thế dù là lễ hội của thôn làng cho đến lễ hội quốc gia đều cần phải có ban tổ chức. Tuy nhiên ban tổ chức cũng cần đề cao vai trò tự quản của người dân, tôn trọng cộng đồng, thu hút được toàn dân tham gia vào việc tổ chức, quản lý lễ hội. Tránh tình trạng coi việc tổ chức lễ hội là nhiệm vụ của các cấp chính quyền hoặc nhiệm vụ của ban tổ chức mà quên mất vai trò chủ chốt của người dân địa phương. 5. Cục Văn hóa cơ sở, Hội Di sản, Hội Văn nghệ Dân gian, Viện Khoa học xã hội…cần tổ chức nhiều hội thảo khoa học để bàn về quản lý lễ hội hiệu quả. Trong điều kiện các lễ hội đều có xu hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời sống đương đại hoặc xuất hiện nhiều loại hình mới chưa có trong xã hội truyền thống thì yêu cầu nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận về lễ hội là một yêu cầu cấp bách. Tựu trung, lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt, có sức sống từ ngàn đời nay, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội. Lễ hội đã đáp ứng nhu cầu thiết tha của dân tộc ta trong quá khứ và trong hiện tại, giúp cho con người vượt qua tính vị kỷ cá nhân hướng về đoàn kết cộng đồng, với đầy đủ sự sáng tạo và nhằm hưởng thụ văn hóa, lễ hội chứa đựng nhiều dấu ấn về bản sắc văn hóa của dân tộc và điểm tối thượng của lễ hội cổ truyền là hướng con người đến tinh thần yêu nước.Việc nhận thức, đánh giá đúng lễ hội truyền thống, việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống là vô cùng cần thiết, để giá trị lễ hội luôn là một biểu trưng hình thái xã hội mang đậm giá trị văn hóa dân tộc Việt.< ề hiện tượng “tha hóa” lễ hội và “mù quáng tâm linh” hiện nay   NGUYỄN QUỐC TUẤN Thứ sáu, 07 Tháng 3 2014 16:55 font size   Ông Nguyễn Quốc Tuấn [Trao đổi với  ông Nguyễn Quốc Tuấn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam] Phóng viên: Lễ hội là gì, nó biểu hiện cho cái gì? Nó có ý nghĩa hay là giá trị như một biểu trưng của văn hóa của các cộng đồng? Nó có có vị trí  như thế nào với đời sống của các cộng đồng? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Về mặt từ nguyên, LỄ HỘI là một cách gọi ghép, chuyển dịch từ thuật ngữ Rite trong các ngôn ngữ Châu Âu. Lễ và Hội có nội hàm khác nhau, nhưng gắn bó với nhau trong một không gian và thời gian nhất định, nhất là trong trạng thái tồn tại của nó ở Việt Nam cho đến trước năm 1945. Thuật ngữ Rite là một từ chuyên của Kitô giáo, rồi dần mở rộng ra cả ngôn ngữ thông thường và rồi là khái niệm khoa học. Trong nghĩa ở chung, Rite có mấy nội dung: - Lễ chuyển tiếp của một con người, một đời người (rites of passage) - Lễ cộng đồng, cùng nhau thờ cúng (communal rite) - Lễ cầu nguyện và hành hương của cá nhân (rites of personal devotion and pilgrimages) Lễ nghi ở các tộc người và các nước đều có từ một, hai hoặc cả ba nội dung. Nội dung thứ nhất, ba liên quan chủ yếu đến vòng đời ở một con người. Nội dung thứ hai liên quan đến cộng đồng. Ở Việt Nam thì lễ nghi liên quan đến cộng đồng thực sự quan trọng, và là trung tâm của một hình thái biểu hiện sự tôn kính của một cộng đồng (theo quy mô làng cổ truyền) mà người Việt xưa gọi là HỘI.  Nhà dân tộc học trứ danh Từ Chi đã sơ đồ hóa mô hình Hội làng thành ba vòng tròn đồng tâm: vòng trong cùng là nghi thức tế (Lễ), vòng giữa là hội và vòng ngoài cùng là cộng đồng làng (hiểu theo nghĩa cả không gian làng và tập hợp dân cư trong đó). Xã hội Việt Nam cổ truyền hằng nghìn năm gắn với nền văn minh nông nghiệp hay văn minh thực vật như một nhà dân tộc học Pháp nổi tiếng mệnh danh. Mô hình xã hội cơ bản của Việt Nam trong hằng nghìn năm đó là mối quan hệ: NHÀ (bao gồm cả dòng họ) - LÀNG (tập hợp của nhiều dòng họ, gia đình) - NƯỚC, do đó Lễ và Hội ở Việt Nam cũng đi theo mô hình xã hội đó. Tức là có Hội làng, Hội vùng và Hội do Nhà nước quân chủ tổ chức và chủ trì. Việc sùng bái thần linh trong chế độ nhà nước quân chủ cũng phải đi theo mô hình xã hội cơ bản đó: thần làng - thần vùng - thần quốc gia, theo một trật tự đẳng cấp: hạ đẳng thần - trung đẳng thần - thượng đẳng thần. Điều đáng lưu ý, vị thần ở làng được vua phong bằng sắc (sắc phong), và người nghiên cứu về sau gọi là thành hoàng làng. Thành hoàng làng là một tập hợp các vị thần có nhiều nguồn gốc khác nhau, có vị thần là do dân tự thờ (có nguồn gốc rất xa xưa và thường là các vị thần tự nhiên, cây, đá…), có vị thần là anh hùng cứu nước, người đỗ đạt cao, cũng có vị thành hoàng là một người có dấu hiệu đặc biệt nào đó có liên quan chặt chẽ với vận mệnh của làng… nhưng đều đã được nhà nước công nhận. Thành hoàng là một tên gọi có gốc Trung Quốc, vốn chỉ ở các thành thị, nhưng sang đến Việt Nam thì đã trở thành thần bảo hộ của môi trường nông thôn. Như vậy, cả hệ thống thần nói chung và thành hoàng làng nói riêng đã được tích hợp trong một hệ thống có tính thống nhất cao, phân rõ lớp lang với đẳng trật đã nói ở trên. Nghi thức tế tự do đó sẽ đi theo một trật tự tiểu tự - trung tự - đại tự (nghi thức tế tự). Nói cách khác là nghi thức tế tự được tích hợp và thống nhất từ cấp làng lến đến cấp quốc gia. Nói cách khác nữa, cộng đồng làng sẽ mở rộng dần phạm vi và tính quy mô lên đến quốc gia. Hội làng có chung nhau bản chất và đặc trưng với hội quốc gia, chỉ khác nhau về mức độ và quy mô mà thôi. Vậy Hội làng chính là biểu trưng cho tính cộng đồng, tính thống nhất và hướng thượng của cư dân Việt. Thành viên của một làng, cũng là của nước, thông qua hội, tạo ra niềm cộng cảm, giải tỏa ẩn ức và mâu thuẫn vì chung nhau tôn thờ một vị thần, một hệ thống thần thống nhất, không chia cắt. Nói cách khác, chức năng của hội chính là liên kết cộng đồng, cố kết cộng đồng, trên cơ sở đó, liên kết xã hội, củng cố sự ổn định quốc gia. Như vậy, cái mà chúng ta gọi là lễ hội thực chất theo truyền thống chính là các hội làng, hội vùng và hội mang tầm cỡ quốc gia. Và đến đây, cần nói rõ ra điều này mà bấy lâu nay chúng ta vẫn nhầm lẫn và mập mờ, các hội lễ thời quân chủ là phần cốt lõi của hoạt động tâm linh, hướng thượng, lấy qui mô làng làm đơn vị cơ sở. Đó chính là hình thái tồn tại của cái mà người Phương Tây gọi là “tôn giáo”. Và quả thực, các nghiên cứu của họ đều dùng thuật ngữ tôn giáo để mô tả hiện thực hội lễ cổ truyền của Việt Nam. Vậy, ta có thể xem đây chính là tôn giáo của ông cha ta ngày xưa. Như thế, ta đã có thể hóa giải được câu chuyện lúng túng về có hay không “tôn giáo” của người Việt Nam, vốn hay được coi chỉ từ khi các tôn giáo bên ngoài du nhập mới đích thực là tôn giáo, còn người mình chỉ có “tín ngưỡng”, rồi lâu nay thêm “dân gian” và gọi là tín ngưỡng dân gian. Với tôi, đây là một nhầm lẫn tai hại vì nó là một trong những nguyên nhân phá vỡ tính thống nhất của hệ thống thần linh cổ truyền ở nước ta, dẫn đến sự tồn tại bị xé lẻ, vụn vặt của thần linh các làng, và đó là nguyên do dẫn đến sự hỗn loạn trong việc xác lập các loại hình lễ hội của thời nay. Ngoài ra, hội làng còn có chức năng trao truyền văn hóa, giáo dục bằng biểu tượng thiêng và niềm cộng cảm giữa các thành viên. Phóng viên: Lễ hội phải gắn với niềm tin, với cái thiêng. Lâu nay chúng ta thấy rất nhiều hoạt động văn hóa, thể thao rầm rộ mà được gọi là lễ hội, lễ hội mới, nhưng không có tín điều, không có không gian thiêng, theo ông đó có phải là lễ hội? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Vâng từ đây, ta có thể dùng từ lễ hội để nói chuyện mới. Lễ hội mới đương nhiên là không giống với hội làng cho đến hội quốc gia xưa kia. Trên kia đã nói có một sự thống nhất về bản chất và biểu trưng trong các lễ nghi và hội cổ truyền từ cấp làng đến cấp quốc gia theo một tôn ti trật tự thần linh. Cái thiêng được biểu hiện dưới dạng thần linh là cốt lõi của hoạt động tâm linh theo sơ đồ: cái thiêng - thần thoại - niềm tin (tôn giáo) - nghi lễ - cộng đồng luân lý và đạo đức. Đó là tôn giáo cổ truyền của chúng ta. Lễ hội mới lại không đi theo sơ đồ này. Có thể có sự thiêng liêng, nhưng không có niềm tin một cách tôn giáo vào sự thiêng liêng đó. Có thể có thiêng liêng nhưng không có thần thoại để giải thích. Có thể có nghi lễ, nhưng vì là nghi lễ không dựa trên một niềm tin có tính chất tuyệt đối đối với đối tượng tôn thờ, nên không thể gọi đó là niềm tin tôn giáo. Có thể tạo ra cộng đồng trong thời gian và không gian nhất định, nhưng đó không phải là cộng đồng luân lý và đạo đức giống như hội làng. Xã hội hiện đại có nhu cầu trình diễn đông người về một sự kiện nào đó, nhưng đó không phải là hội làng, hội vùng và hội quốc gia. Nó không được xâu chuỗi bởi cảm giác tôn kính, thiêng liêng. Nó không tạo ra các chuẩn mực cho thế ứng xử dựa trên niềm tin tuyệt đối vào một hay nhiều vị thần linh như những quy ước chỉ dẫn tư duy, tình cảm và tâm lý. Nói cách khác, nó không có tính chất tôn giáo. Cho nên, ta chỉ có thể gọi đó là lễ hội theo nghĩa trình diễn (festival) hơn là lễ hội theo nghĩa hội truyền thống. Phóng viên: Sau nhiều chục năm cố tình lơ là “bỏ quên” nhu cầu sinh hoạt lễ hội, khoảng hơn hai chục năm trở lại đây, với nhận thức mới của Đảng, Nhà nước, các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng trở nên công khai và rầm rộ hơn. Sự phục hưng này cơ bản là tín hiệu tốt đối với sinh hoạt văn hóa – tinh thần của người dân. Hầu hết các lễ hội cổ truyền được phục hồi, thậm chí còn xuất hiện nhiều lễ hội mới với hình thức như là cổ truyền. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay đã có tình trạng “tha hóa” lễ hội. Nhìn từ các góc độ khác nhau, từ văn hóa, tâm linh, xã hội, đạo đức chúng ta đều có thể nhìn thấy điều đó. Với tư cách là một nhà nghiên cứu về tôn giáo – tín ngưỡng, ông có nhận định như thế nào về tình trạng lễ hội hiện nay? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Tôi đồng ý với cách anh đặt ra khái niệm “tha hóa” lễ hội. Chúng ta có thể thấy sự khởi sắc đến mức ồn ào của sự phục hưng lễ hội cổ truyền, nhưng như tôi đã nói, sự phục hưng đó là trên nền tảng chúng ta sau nhiều chục năm dưới chính thể mới đã tháo gỡ toàn bộ tính thống nhất của hệ thống cũ. Kết quả của sự xé lẻ đó đã dẫn đến sự phục hung một cách tự phát, mạnh nơi nào nơi đó làm. Có chỗ giữ được vì ký ức còn mạnh mẽ. Có chỗ đã cóp nhặt, bắt chước, đua đòi để hội của làng mình không thua chị kém em. Chưa kể, các yếu tố văn hóa mới đã xâm nhập vào phần hội, ồn ào, mất đi vẻ thuần khiết của sự ổn định tâm thức vui chơi cổ truyền. Đó là chưa kể sự đố kỵ, đua đòi, tính ích kỷ, cục bộ được dịp nổi lên. Và như thế, không gian thiêng, cái thiêng đã trở thành tự phát, không còn có tính uy nghi, hệ thống của khi xưa, tức là không tạo ra được cộng đồng, niềm cộng cảm, mà chỉ thấy như là có vẻ làm như cũ, nhưng tinh thần cũ đã mất đi. Chúng ta bị mất mát rất nhiều từ những lễ hội phục hưng như thế. Từ văn hóa, tâm linh và đó dấu hiệu chỉ báo đạo đức xã hội có vấn đề. Phóng viên: Chúng ta có thể giải thích như thế nào về tình trạng số lượng người quá mê tín, mê tín đến kệch cỡm, không chỉ của những người ít có điều kiện học hành mà của một bộ phận không nhỏ trí thức và nhất là quan chức? Phải chăng siêu nhiên lại trở thành thực tại vì cái thực tại, cái niềm tin đã trở nên mong manh, dễ vỡ? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Ô, câu hỏi rất hay. Vâng, một khi cái thiêng chỉ còn là cái vỏ, không được giáo dục, mất chuẩn mực, cùng với sự ganh đua khốc liệt trong cuộc sống mưu sinh, thì dù họ có tập hợp nhau lại cũng không tạo ra sự cộng cảm. Chỉ là một cuộc đua bất tận để chiếm giữ ân huệ thần linh cho riêng mình, không kể người xung quanh thì mê tín đến mức kệch cỡm không là chuyện lạ. Cho tôi dùng khái niệm “mù quáng tâm linh” để chỉ tập hợp người hỗn tạp đó. Nhân thể, xin nói niềm tin tôn giáo và tình cảm tôn giáo ở con người là có thật. Nhưng phải được giáo dục, truyền dạy. Người ta dù học vấn cao tới đâu, nhưng vẫn có khoảng “mù” về cái thiêng liêng. Một khi không giữ được tâm thế quân bình do nhiều nguyên do, điểm mù đó lớn dần và cái thiêng liêng bỗng trở thành nơi bám víu, và họ sẽ mê tín thôi. Hiện nay có một bộ phận rất đông trong cộng đồng là cùng lúc họ tin và thực hiện hành vi tôn giáo khác nhau. Chùa họ cũng đi, đền, phủ họ cũng đi. Thậm chí họ còn tin vào nhiều điều “lạ”. Một ngôi mộ, một hòn đá, một ông thầy không biết theo đạo nào cả họ cũng tin, vẫn theo… một cách mù quáng. Đó là chỉ báo về niềm tin không ổn định, là níu cái cái thói quen đa thần giáo, là sự cạnh tranh phi chuẩn, lệch chuẩn trong ứng xử đạo đức chi phối. Mặt khác, cái thực dụng trong lễ hội chịu tác động mạnh từ lối sống thực dụng của cơ chế thị trường và sự xô bồ bất ổn của đời sống xã hội hiện nay. Sự tha hóa về lễ hội là một thực tế cần nhận rõ và cần được giải quyết. Phóng viên: Những nguyên nhân nào đã dẫn đến tình trạng này, thưa ông? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Câu hỏi anh khó quá, có lẽ cần nhiều nghiên cứu mới nêu rõ và đánh giá hết được. Trong phạm vi của cuộc phỏng vấn này, xin nói ba loại nguyên nhân: nguyên nhân từ thiết chế, nguyên nhân từ nhận thức và nguyên nhân quản trị xã hội. Về thiết chế, trong một thời gian dài, chúng ta đã phá bỏ thiết chế và hệ thống cũ, nhưng chưa lập được hệ thống mới vì chúng ta nhầm lẫn giữa bản chất của hội cổ truyền và lễ hội mới. Thiết chế mới mà chúng ta cố lập là đưa cái mới vào cái cũ như là một trình diễn sự kiện hơn là một sinh hoạt tâm linh. Vả lại hệ thống nào chăng nữa cũng phải có tính đồng bộ và quan hệ chặt chẽ giữa các thành tố của nó, lễ hội mà chúng ta quan niệm đã không còn như cũ nhưng lại chưa tìm được hệ thống mới. Trước sự gia tăng thờ cúng và lễ hội ồn ào hiện nay, thiết chế mà ta mong muốn không thấy đâu, chỉ thấy sự hỗn độn, xô bồ nổi lên. Về nhận thức, tôi cho rằng có hai loại nhận thức quan trọng là nhận thức khoa học và nhận thức quan phương. Nhận thức quan phương của chúng ta là cố gắng xây dựng lễ hội mới trên cơ sở kế thừa hội cổ truyền, nhưng không tạo ra sự gắn kết được là bởi bản chất hai loại không trùng nhau. Người lãnh đạo duy ý chí trong chuyện này. Đó là bởi nhận thức khoa học cũng chưa đi đến đâu. Nghiên cứu là phần cốt lõi của nhận thức khoa học nhưng nghiên cứu của chúng ta đa phần phụ họa chính sách, lý thuyết, phương pháp và cách tiếp cận không đúng nguyên tắc khoa học, thiếu khách quan, ăn xổi, người này sao chép của người kia, lâu dần tạo ra một loại nghiên cứu nhợt nhạt, thiếu tính phê phán, thừa số lượng nhưng thiếu chất lượng, chẳng dùng được vào hoạch định chính sách. Hai nhận thức này vô hình trung tạo ra một hỗn hợp nhận thức nửa quan phương, nửa khoa học mà phía quan phương áp đảo nên chỉ là các quyết sách chính trị, không phải là quyết sách trên nền tảng nhận thức sự vật như là nó cần. Về quản trị xã hội, chúng ta thiếu cái nhìn của khoa học quản lý. Do không rõ ràng và tách bạch về vai trò và năng lực của chủ thể và đối tượng quản lý, nên không tạo ra được tính liên tục trong quản trị xã hội. Đây là chuyện tâm linh, nhưng nhà quản lý chỉ chăm chăm vào xiết lại hình thức của hội cổ truyền, đưa ra lễ hội mới không có quy chuẩn, thiếu hệ thống và không tương thích với hội cổ truyền nên lễ hội của ta nhom nhem, không đồng bộ và không hệ thống. Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa ra con số thống kê có hơn 8.000 lễ hội cả cũ lẫn mới là một thí dụ, mặc dầu cũng có phân tạm ra thành mấy loại, nhưng loại hình học không được áp dụng các tiêu chí phân loại rõ ràng, nên không rõ về chính sách và chắp vá chính sách. Kết quả là càng đưa ra chính sách và quy định, càng thấy thiếu hụt, bất cập và sửa đổi liên tục. Yếu kém thấy rõ. Phóng viên:Theo ông, chúng ta cần chống lại sự “tha hóa” này như thế nào từ quan niệm, nhận thức và thực hành quản trị xã hội? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Nhìn thấy nguyên nhân tức là chúng ta cũng đã nhìn thấy câu trả lời. Nhưng hỡi ôi, đó là một công việc dài hơi, có tính hệ thống. Sửa là sửa cả ba nguyên nhân của sự bất cập hiện nay. Phóng viên: Điều kiện có tính chất tiên quyết để khắc phục tình trạng lễ hội vô cùng lộn xộn hiện nay là gì? Ông Nguyễn Quốc Tuấn: Điều kiện tiên quyết à, khó nhỉ. Theo tôi, điều kiện tiên quyết bắt đầu từ chủ thể quản lý và các nhà khoa học. Chỉ có trong điều kiện nhà quản lý khắc phục sự yếu kém, thay đổi nhận thức triệt để để tạo điều kiện và lắng nghe nhận thức khoa học mới có thể tạo ra cú hích quyết định. Nhận thức khoa học phải được tiến hành một cách bài bản, khách quan và có tinh thần phê phán. Vâng tôi mới chỉ nghĩ được có thế. Phóng viên: Những nguyên nhân mà ông giải thích cũng như điều kiện tiên quyết mà ông đề ra, xét từ trong thực tiễn, tôi thấy là đúng, khách quan. Nhưng, cũng từ thực tiến, tôi thấy rằng để chống lại sự tha hóa này cần truy tìm bản gốc sâu xa hơn của nó từ trong kết cấu xã hội và nền tảng đạo đức – tri thức của nó. Tại sao chúng ta có cả một bộ máy truyền thông, văn hóa, giáo dục đồ sộ như thế mà không thể làm cho cộng đồng thông tỏ được một nhận thức khoa học hiển nhiên về sinh hoạt tín ngưỡng nói chung và lễ hội nói riêng. Sự tha hóa này có lẽ có nguyên nhân từ chính cái sĩ diện tiểu nông làng xã cộng với tính toan vụ lợi kiểu con buôn thời kinh tế thị trường đỏ đen nhộm nhạm hiện nay. Thực ra là về câu chuyện này đang rất cần được bàn thảo nhiều và tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Tôi, và chúng ta, hy vọng là các nhà quản lý sẽ quan tâm đúng mức về vấn đề này vì hình như nó đã ở gần giới hạn chót của sự biến thái, tha hóa. Cảm ơn ông nhiều về cuộc trao đổi và hy vọng sẽ có dịp được trao đổi thêm về vấn đề này. Phan Thắng thực hiện