You are on page 1of 9

3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

BIA VÀ VĂN BIA CUNG ĐÌNH THỜI
NGUYỄN TẠI HUẾ ­ MỘT DI SẢN QUÝ
CẦN ĐƯỢC CHÚ Ý BẢO TỒN
PHAN THANH HẢI

Bia cung đình là những bài văn bia gồm cả văn, thơ, phú, kí,...) do
đích thân hoàng đế ngự chế hoặc do triều đình theo lệnh vua biên
soạn và khắc dựng. Bia đá và văn bia cung đình Huế hầu như chỉ tập
trung ở kinh đô, thể hiện rõ tính chất độc đáo, tính "cung đình" của
văn hóa Huế.

Thực ra văn bia cung đình Huế chỉ là một mảng trong số di sản văn
khắc Hán Nôm hết sức đồ sộ và phong phú của thời Nguyễn. Mặc dù
trải qua nhiều biến động lịch sử và sự tàn phá khốc liệt của chiến
tranh, thiên tai... hiện nay tại khu vực Huế vẫn còn giữ được một số
lượng rất đáng kể các tấm bia thuộc dạng này. Theo thống kê của
chúng tôi, không kể hàng trăm tấm bia định danh (tức các tấm bia ghi
tên công trình, tên đất, sông, núi,...), ở khu vực Huế vẫn còn 70 tấm
bia Ngự chế và khoảng 7 tấm bia cung đình được khắc dựng trong
thời Nguyễn (1802­1945).

I. Thống kê

1. Bia Ngự chế

Vị trí đặt bia, năm Dung
STT Tên văn bia Nội dung văn bia Ghi chú
dựng bia lượng

Nhà bia đã bị
Thánh đức thần Ca ngợi công đức, sự 18 dòng
1 Lăng Gia Long, 1820 hỏng, bia bị
công bi ký nghiệp vua Gia Long 781 chữ
nứt

Ca ngợi công đức, sự
Thánh đức thần Lăng Minh Mạng, 34 dòng
2 nghiệp vua Minh Có nhà bia
công bi ký 1841 2270 chữ
Mạng

Thánh đức thần Ca ngợi công đức, sự 34 dòng


3 Lăng Thiệu Trị, 1848 Có nhà bia
công bi ký nghiệp vua Thiệu Trị 1900 chữ

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 1/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

4 Khiêm Cung ký Tự sự của vua và Lăng Tự Đức, 1875 69 dòng Có nhà bia,


thuật lại việc xây lăng 4950 chữ bia khắc 2
mặt

Ca ngợi công đức, sự Có nhà bia,
Thánh đức thần Lăng Đồng Khánh, 34 dòng
5 nghiệp vua Đồng bia khắc 2
công bi ký 1916 900 chữ
Khánh mặt

Ca ngợi công đức, sự
Thánh đức thần Lăng Khải Định, 14 dòng
6 nghiệp vua Khải Có nhà bia
công bi ký 1925 950 chữ
Định

Thiên Mụ Vịnh cảnh chùa Chùa Thiên Mụ, 31 dòng


7 Có nhà bia
chung thanh Thiên Mụ 1846 1800 chữ

Huỳnh tự thư Vịnh cảnh trường Quốc tử giám, 1846 10 dòng Dựng lại


8
thanh, 1846 Quốc tử giám và 1908 180 chữ năm 1908

Hương Giang Vịnh cảnh sông 16 dòng


9 Phu Văn Lâu, 1843 Có nhà bia
hiểu phiếm Hương 240 chữ

Có nhà bia
Bình lãnh đăng Vịnh cảnh núi Ngự Chân núi Ngự Bình, 10 dòng
10 nhưng nóc
cao Bình 1843 100 chữ
đã hỏng

Vịnh cảnh săn nai
Trạch nguyên Ngã ba Bằng Lãng, 10 dòng Nhà bia đã
11 đầu nguồn sông
tao lộc 1843 155 chữ hỏng 100%
Hương

Đông lâm dặc Vịnh cảnh rừng phía Làng Thần Phù, xã 10 dòng Nhà bia đã


12
điểu Đông kinh đô Thủy Châu, 1843 138 chữ hỏng 100%

Vịnh cảnh chùa
Vân sơn thắng Chùa Thánh Duyên, 10 dòng
13 Thánh Duyên, núi Có nhà bia
tích 1843 160 chữ
Thúy Vân

Hưng Tổ miếu Về việc dựng lại Bên tả Hưng Miếu, 12 dòng Gắn trên


14
bi miếu Hưng Tổ 1821 142 chữ bình phong

Vịnh cảnh thứ 13 của 8 dòng Không có


15 Hồ tân liễu lãng Vườn Cơ Hạ, 1844
vườn Cơ Hạ 134 chữ nhà bia

Vũ giang thắng Vịnh cảnh thứ 11 của 8 dòng Không có


16 Vườn Cơ Hạ, 1844
tích vườn Cơ Hạ 134 chữ nhà bia

Trước trường Quốc Năm 1908
Khuyến khích việc 25 dòng
17 Thị học tịnh tự tử giám, 1854 và mới dời về.
học hành, khoa cử 1200 chữ
1908 Chữ đã mờ

Thuận An tấn Bảo tàng MTCĐ 47 dòng Không có


18 Vịnh cửa Thuận An
ký Huế, 1872 và 1923 1800 chữ nhà bia

Về việc đào Ngự Hà
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 2/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003
Về việc đào Ngự Hà Nhà bia đã bị
Trước đồn Mang Cá 13 dòng
19 Ngự Hà bi ký và dựng cầu Ngự hỏng hoàn
Lớn, 1836 273 chữ
Hà, Đông thành thủy toàn
quan

Đào Ngự Hà và
dựng cầu Khánh Bờ bắc Ngự Hà, đầu
Khánh Ninh 13 dòng
20 Ninh, Vĩnh Lợi, Tây đường Trần Văn Kỷ Có nhà bia
kiều bi ký 292 chữ
thành thủy quan và ­ Ngô Thế Lân, 1836
Hoằng Tế

Không còn
Thuật lại lí do dựng Phía đông cầu Châu 14 dòng nhà bia, bia
21 Thác Bái Châu
bia (gặp rái cá) Ê, 1841 400 chữ bị đổ, chữ
mờ

Không còn
Quá Phổ Lợi hà Về việc đào sông Bên đường về Thuận 21 dòng
22 nhà bia, bệ
cảm tác Phổ Lợi An, 1843 779 chữ
đã tu bổ

Thuận An bát Trường PTTH Thuận Dòng(1)


23 Vịnh cửa Thuận An Có nhà bia
thập vận An, 1843 618 chữ

Tịnh Viêm hành Về việc dựng hành Không còn


24 Thị trấn Lăng Cô
cung bi ký cung Tịnh Viêm nhà bia

Bia khắc bài Dụ
Cấm hoạn quan tham 17 dòng
25 của vua Minh Văn Miếu, 1836 Có nhà bia
gia chính sự 550 chữ
Mạng

Bia khắc bài Dụ
Cấm ngoại thích 19 dòng
26 của vua Thiệu Văn Miếu, 1846 Có nhà bia
tham gia chính sự 700 chữ
Trị

Thánh Duyên tự
chiêm lễ và Đề vịnh cảnh chùa Dựng lại
Chùa Thánh Duyên, 14 dòng
27 Thủy Vân sơn Thánh Duyên và trong bếp
1837 900 chữ
trúc cung tức hành cung Thúy Vân chùa
cảnh

Có nhà bia,
Nói về việc xây chùa
(Ngự chế thi) đề 34 dòng có cả phần
28 và đề vịnh cảnh chùa Chùa Diệu Đế, 1846
Diệu Đế tự 1000 chữ Tự trước các
Diệu Đế
bài thơ

Tứ Thọ Xuân Không có
Mừng thọ Xuân
29 Vương thất thập Phủ Thọ Xuân, 1960 nhà bia, bia
Vương 70 tuổi
tự phổ ca đúc xi măng

Thiên Mụ tự
Phước Duyên Đề vịnh chùa Thiên

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 3/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003
30 tháp lâm hạnh Mụ, tháp Phước Chùa Thiên Mụ, 14 dòng Không có
ngẫu thành nhất Duyên 1919 389 chữ nhà bia
luật tịnh tự

Thiên Mụ tự Lịch sử chùa và việc
Chùa Thiên Mụ, 27 dòng
31 Phước Duyên dựng tháp Phước Có nhà bia
1846 1200 chữ
Bửu tháp bi ký Duyên

Tiến sĩ đề danh Ghi danh Tiến sĩ võ 12 dòng Không có


32 Võ Miếu, 1858
bi (Võ) khoa Tự Đức (1865) 150 chữ nhà bia

Tiến sĩ đề danh Ghi danh Tiến sĩ võ 38 dòng Không có


33 Võ Miếu, 1858
bi (Võ) khoa Tự Đức 471 chữ nhà bia

Mới dựng lại
Tiến sĩ đề danh Đề danh các Tiến sĩ
34 nhà bia, các
bi (văn) (gồm thời Nguyễn (1822­ Văn Miếu
­­65 bia bị mờ
32 tấm) 1919)
phần lớn

Bia tẩm Kiên Ca ngợi công đức, sự
Bên hữu tẩm Kiên 15 dòng
66 Thái Vương nghiệp của Kiên Thái Có nhà bia
Thái Vương, 1917 500 chữ
(bên hữu) Vương

Ghi lời truy tôn của 3
Bia tẩm Kiên vua Kiên Phúc,
Bên tả tẩm Kiên Thái 5 dòng 39
67 Thái Vương Đồng Khánh và Hàm Có nhà bia
Vương chữ
(bên tả) Nghi đối với Kiên
Thái Vương

I.1. Bia cung đình (không phải bia Ngự chế)

Bia Hoàng Về việc dựng miếu Bên tả Hưng Miếu, 15 dòng Gắn trên


1
Khảo miếu Hoàng Khảo 1804 221 chữ bình phong

Bia Thiên Mụ Ghi lại năm tu bổ Chùa Thiên Mụ, 4 dòng Không có


2
(Bộ Công) tháp Phước Duyên 1899 20 chữ nhà bia

Về việc dựng Võ
Miếu và khắc tên 10 14 dòng Không có
3 Võ công bi ký Võ Miếu, 1820
vị khai quốc công 316 chữ nhà bia
thần

Khắc tên tuổi 5 vị 20 dòng Không có


4 Võ Công tả bi Võ Miếu, 1820
khai quốc công thần 600 chữ nhà bia

Khắc tên tuổi 5 vị 19 dòng Tôn Thất Bật


5 Võ Công hữu bi Võ Miếu, 1820
khai quốc công thần 500 chữ bị đục tên

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 4/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003
Công trạng, sự
Bia mộ Đức 33 dòng Không có
6 nghiệp của Phạm Đức Quốc công từ
Quốc Công 2.362 chữ nhà bia
Đăng Hưng

Về việc dựng miếu Bên tả Thái Miếu, 19 dòng Gắn vào


7 Thái Tổ Miếu bi
Thái Tổ 1804 273 chữ tường nhà

II. Vài suy nghĩ và đề xuất

1. Về văn bia Ngự chế

­ Theo bảng thống kê trên, tại khu vực Huế vẫn còn đến 67 tấm bia
khắc thơ văn Ngự chế của các vua Nguyễn. Tuy nhiên, so với thời kỳ
huy hoàng khi Huế còn là Kinh đô, thì đã có khá nhiều bia Ngự chế
bị thất lạc hoặc tiêu hủy, như 12 tấm bia thuộc Thần kinh nhị thập
cảnh thì nay mới tìm ra 7 tấm; các bia vịnh cảnh vườn Cơ Hạ nay
chỉ còn 2 tấm; 4 tấm bia vịnh cảnh Thuận An của vua Minh
Mạng(2), bia ở lầu Kỷ Ân(3) của vua Thiệu Trị, và các bia Tàng thư
lâu ký, Dữ dã viên ký... thì đều không tìm thấy.

­ Không kể các bia đề danh Tiến sĩ (cả văn và võ), phần lớn trong số
hơn 30 tấm bia Ngự chế còn lại đều được khắc dựng trong khoảng
thời gian trị vì của 3 hoàng đế Minh Mạng (1820­1841), Thiệu Trị
(1841­1847) và Tự Đức (1848­1883), tức trong giai đoạn thịnh vượng
nhất của triều Nguyễn(4). Đáng chú ý hơn cả là vua Thiệu Trị , tuy
chỉ trị vì trong 7 năm nhưng ông lại là tác giả của nhiều văn bia (14
văn bản). Ông vua nổi tiếng nhiều chữ Tự Đức chỉ đứng hàng thứ 2,
tương đương với vua Minh Mạng với 6 văn bia.

­ Về mặt nội dung, có thể tạm phân văn bia Ngự chế thành một số
mảng sau:

+ Thánh đức thần công bi ký: tức các tấm bia khắc các bài ký do vị
vua kế vị viết để ca ngợi công đức, sự nghiệp của vị vua tiền nhiệm
(thường là thân sinh của vị vua ấy). Trên 7 khu lăng của các hoàng
đế triều Nguyễn có 6 tấm bia thuộc dạng này (lăng Dục Đức không
có bia), nếu kể cả 2 tấm bia tại tẩm mộ Kiên Thái Vương thì có cả
thảy 8 đơn vị. Tuy nhiên bài Khiêm cung ký tại lăng vua Tự Đức là
một trường hợp đặc biệt, bởi đây là bài văn do chính vị vua này soạn
cho mình; tấm bia được khắc dựng lên khi vua còn tại thế. Đây lại là

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 5/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

tấm bia thuộc dạng lớn nhất, khắc bài văn dài nhất trong lịch sử văn
bia Việt Nam. Còn 2 tấm bia tại tẩm mộ Kiên Thái Vương cũng khá
đặc biệt: tấm bia bên hữu do vua Khải Định, cháu nội ông "Ngự
chế" và khắc dựng; trong khi tấm bia bên tả lại ghi nhận sự truy tôn
3 vị vua Kiến Phúc, Đồng Khánh, Hàm Nghi (đều là con ông) đối với
người cha không phải là vua nhưng lại có đến 3 người con làm vua
này.

+ Đề vịnh cảnh: loại văn bia này chủ yếu là thơ phú của các vua đề
vịnh những cảnh đẹp của Huế. Nổi bật trong số này là chùm thơ về
vịnh Thần kinh nhị thập cảnh của vua Thiệu Trị với 7 bài(5). Ngoài
ra còn có văn bia đề vịnh các tiểu cảnh của vườn Cơ Hạ với 2 bài Hồ
Tân Liễu lãng và Vũ Giang thắng tích. Các bài Thánh Duyên tự
chiêm lễ của vua Minh Mạng; Thuận An tấn ký, Thuận An bát thập
vận của vua Tự Đức... tuy không hoàn toàn là đề vịnh cảnh đẹp
nhưng cũng có thể xếp vào dạng này.

+ Bia nêu danh các vị Tiến sĩ văn và võ: đây là một dạng văn bia đặc
thù chỉ có tại Văn Miếu, Võ Miếu của Kinh đô. Văn bia đề danh
Tiến sĩ thời Nguyễn không có phần dụ của hoàng đế viết ở phần đầu
như văn bia thời Lê ở Quốc tử giám Hà Nội nhưng chúng tôi vẫn
xếp vào loại văn bia Ngự chế vì chúng đều được đích thân Hoàng đế
"ân tứ".

+ Các dạng khác: cũng khá phong phú, gồm văn thơ khuyến học
(bia Thị học tịnh tự ở Quốc tử giám); răn cấm Hoạn quan, Thái giám
tham dự triều chính (bia khắc dụ của vua Minh Mạng, Thiệu Trị tại
Văn Miếu); bia ghi lại việc xây dựng các công trình như Quá Phổ
Lợi hà cảm tác của vua Thiệu Trị, Tịnh Viêm hành cung bi ký của
vua Khải Định; ghi lại một kỷ niệm đáng nhớ (bia Thác Bái châu)...

2. Về văn bia cung đình Nguyễn (không phải bia Ngự chế):

Loại văn bia này, xưa có lẽ có khá nhiều nhưng nay chỉ còn 7 tấm.

Về mặt nội dung, văn bia cung đình Nguyễn tuy không nhiều nhưng
cũng khá đa dạng; có bia ghi lại việc xây dựng hoặc tu bổ công trình
(bia ở Hưng Miếu, bia của Bộ Công ở chùa Thiên Mụ), có bia nêu
danh công thần (các bia ở Võ Miếu), cũng có bia ghi lại sự nghiệp,
công lao của danh tướng (bia Đức Quốc Công từ)(6).
3. Vài ý kiến đề xuất
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 6/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

3. Vài ý kiến đề xuất

­ Với 74 tấm bia cung đình hiện còn, Huế vẫn chứng tỏ là một trong
những khu vực tập trung số lượng lớn nhất các di sản Hán Nôm
dạng bi văn của nước ta. Bởi vậy, việc đầu tư nghiên cứu "trung
tâm" di sản này là hết sức cần thiết. Bia cung đình thời Nguyễn nói
chung và văn bia nói riêng là một loại hình di sản hết sức đáng quý
nhưng cho đến nay tình trạng bảo quản, khai thác và phát huy tác
dụng vẫn còn rất nhiều điều bất cập. Không kể số bia đá đã bị hủy
hoại hay thất lạc, số bia còn lại phần lớn đều đang ở trong tình trạng
bảo quản không tốt (không có nhà bia che chắn hoặc nhà bia đã bị
hư hỏng). Do sự hủy hoại của chiến tranh, điều kiện thời tiết khắc
nghiệt, một số tấm bia quý đã bị nứt gãy (bia Thánh Đức thần
cônglăng Gia Long, bia Quá Phổ Lợi hà cảm tác... ), một số khác thì
văn tự đã bị bào mờ hoàn toàn hoặc phần lớn (bia Thị học tịnh
tự, bia Thác Bái Châu, bia Quá Phổ Lợi hà cảm tác... ). Vì vậy, vấn đề
cấp thiết đang đặt ra hiện nay là các cơ quan chức năng phải nhanh
chóng có các biện pháp bảo tồn, tôn tạo một cách thích hợp.

­ Về mặt chất liệu và hình thức, các bia đá cung đình Nguyễn hầu
hết được chế tác từ đá thanh, hình thức nói chung là đồng nhất và
khác hẳn bia thời Lê ở khu vực đồng bằng Bắc bộ. Bia cung đình
Nguyễn đều có hình chữ nhật, có trán bia, tai bia rất rõ ràng; các chi
tiết trang trí được chạm khắc tỉ mỉ, công phu nên đều có giá trị cao
về mỹ thuật. Các bia Nguyễn nói chung có kích thước vừa phải, các
bia đề danh Tiến sĩ thì nhỏ hơn bia thời Lê (tại Văn Miếu ­ Hà Nội)
nhiều. Nhưng các bia Thánh Đức thần công lại là ngoại lệ, hầu hết
chúng đều rất lớn, đặc biệt là bia lăng Tự Đức ­ một tấm bia xưa nay
vẫn được xem là lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về hình thức,
chất liệu và phong cách bia Nguyễn. Có thể xem đây là một thiếu sót
lớn cần sớm được khắc phục.

­ Về mặt nội dung, nói chung văn bia cung đình thời Nguyễn có giá
trị cao về nhiều mặt: văn bản, sử liệu, ngôn ngữ... nên đã được giới
nghiên cứu rất chú ý. Khá nhiều văn bia đã được dịch và giới thiệu.
Tuy nhiên, sự giới thiệu các văn bản trên còn rải rác và chưa phản
ánh hết tầm quan trọng cùng ý nghĩa đặc biệt của loại hình di sản
này. Những công trình tương đối bề thế mới xuất bản trong thời gian
gần đây của Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế như Thần kinh
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 7/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

nhị thập cảnh ­ Thơ vua Thiệu Trị (1997), Khoa cử và các nhà khoa
bảng thời Nguyễn (2000)... đã bước đầu giới thiệu một cách có hệ
thống về loại hình di sản Hán Nôm rất cần được phát huy. Theo
chúng tôi, đã đến lúc cần có một công trình quy mô để giới thiệu một
cách hoàn thiện về di sản Hán Nôm Huế trong đó có mảng văn bia
cung đình Nguyễn.

­ Bên cạnh loại văn bia cung đình thời Nguyễn, tại khu vực Huế hiện
nay vẫn còn lưu giữ được một số bia đá và văn bia trước Nguyễn rất
quý như các bia Ngự chế của chúa Nguyễn Phúc Chu viết về chùa
Thiên Mụ, chùa Quốc Ân, bia chùa Hà Trung, tháp sư Liễu Quán,
tháp sư Tạ Nguyên Thiều, bia chùa Thiền Lâm, bia chùa Kim Sơn
(nay đặt tại Bảo tàng MTCĐ Huế), bia mộ bà Chiêu Nghi Trần Thị
Xạ... Các bia này đều được khắc dựng trong khoảng thế kỷ XVII­
XVIII, tức trong giai đoạn chuyển tiếp phong cách từ Lê sang
Nguyễn ­ một giai đoạn đang rất cần được đầu tư nghiên cứu. Ngay
trong thời Nguyễn, bên cạnh các bia cung đình còn có rất nhiều các
bia và văn bia có giá trị cao về lịch sử và nghệ thuật. Đó là hàng
chục bia dựng tại các chùa chiền, hàng chục bia tại tẩm, mộ của các
thân vương, thân huân, đại thần của triều Nguyễn. Đây cũng là
những đối tượng rất cần được chú ý bảo tồn và giới thiệu rộng rãi để
phát huy tác dụng.

P.T.H

CHÚ THÍCH:

(1) Tấm bia này hiện đã mờ hết chữ nên không xác định được số
dòng. Còn số chữ thì do chúng tôi căn cứ bài giới thiệu của hai tác
giả Phan Thuận An­ Lê Nguyễn Lưu (có công bố cả nguyên bản chữ
Hán, phiên âm và dịch nghĩa) trong tập sách Tuyển tập các bài
nghiên cứu về triều Nguyễn. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển phối
hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 2002.

(2) Đây là 4 tấm bia khắc 4 bài thơ Viên đài hùng trữ, Đại hải tráng
quan, Sa thành miên cắng và Dạ lâm tích thúy, đều dựng vào năm
Minh Mạng thứ 12 (1931). Xem Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ. Bản dịch của Viện Sử học, Bộ Công, tập
13, tr.470.

(3) Bia lầu Kỷ Ân (nằm trong vườn Thường Mậu, gần khu Tịch
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 8/9
3/1/2018 Tap chi Han Nom so 6/2003

(3) Bia lầu Kỷ Ân (nằm trong vườn Thường Mậu, gần khu Tịch
Điền) khắc bài Dụ của vua Thiệu Trị, dựng năm 1842. Xem Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ. Bản dịch của Viện Sử học, Bộ Công, tập
13, tr. 470.

(4) Riêng trường hợp tấm bia Tứ Thọ Xuân Vương thất thập tự phổ
ca (1879) dựng trước phủ Thọ Xuân Vương là một trường hợp đặc
biệt. Tuy bài văn đúng là do vua Tự Đức ngự chế, nhưng tấm bia thì
mới do con cháu Thọ Xuân Vương dựng lên năm 1960. Đây lại là
một tấm bia đúc bằng xi măng.

(5) Đây chỉ là 7/12 tấm bia đã được phát hiện. Thơ vịnh 20 thắng
cảnh Thần kinh xưa của vua Thiệu Trị thì 8 cảnh đầu được khắc vào
biển đồng, 12 cảnh còn lại khắc vào bia đá. Xem thêm Phan Thanh
Hải, Thêm vài thông tin về 20 thắng cảnh xưa của đất Thần kinh. In
trong sách Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân. Nxb. Thuận
Hóa, Huế ­ 2002.

(6) Bia Đức Quốc từ do 2 đại thần Phan Thanh Giản và Trương
Quốc Dụng vâng mệnh Thái hậu Từ Dũ để soạn. Bia này còn có một
phiên bản tương tự dựng tại khu mộ của ông Phạm Đăng Hưng ở
Gò Công.

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm#hai61 9/9

You might also like