« Home « Kết quả tìm kiếm

CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC


Tóm tắt Xem thử

- CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC Đặt vấn đề Chương trình đào tạo theo hướng phát triển năng lực người học đã được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực giáo dục ở nhiều quốc gia.
- Để xây dựng mô hình đào tạo theo năng lực trong lĩnh vực giáo dục phổ thông, cần phải tìm hiểu rõ nội hàm khái niệm năng lực, đặc điểm và nguyên tắc của việc phát triển năng lực người học và quan trọng hơn hết là cơ sở tâm lý học của phát triển năng lực người học.
- Một số quan niệm về năng lực người học 1.1 Khái niệm năng lực Phạm trù năng lực thường được hiểu theo nhiều các khác nhau với những thuật ngữ tương ứng.
- Năng lực (Capacity/ability) hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng (hoặc tiềm năng) mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định.
- Năng lực (competency) thường được gọi là năng lực hành động: là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và sự sẵn sàng hành động.
- Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực.
- Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là các khả năng, hình thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí (John Erpenbeck 1998.
- Năng lực là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được…để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp trong những tình huống thay đổi.
- Năng lực của học sinh là sự kết hợp hợp lý kiến thức, kỹ năng và sự sẵn sàng tham gia để cá nhân hành động có trách nhiệm và biết phê phán tích cực hướng tới giải pháp cho các vấn đề (Weinert, 2001.
- Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong bối cảnh cụ thể (OECD, 2002).
- Từ những cách hiểu trên, chúng tôi quan niệm về năng lực như sau: Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống.
- Năng lực là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội,… thể hiện ở tính sẵn àng hành động trong những điều kiện thực tế, hoàn cảnh thay đổi.
- 1.2 Đặc điểm và nguyên tắc phát triển năng lực nguời học - Các khuynh hướng nghiên cứu về năng lực Khuynh hướng thứ nhất lien quan tới việc nắm bắt cấu trúc của năng lực.
- Cấu trúc của năng lực thường phân chia thành các khu vực: tri thức (hiểu biết về lĩnh vực hoạt động).
- và quan trọng là các yếu tố này vận hành, kết nối với nhau thế nào trong những tình huống đa dạng/ bối cảnh sống của mỗi cá nhân.
- Khuynh hướng thứ hai lien quan tới việc tìm hiểu sự hình thành, phát triển năng lực.
- Sự hình thành và phát triển của năng lực diễn ra trong cuộc sống của mỗi cá nhân (theo từng giai đoạn phát triển) nhờ sự tương tác, nương tựa lẫn nhau của các quá trình sinh học (theo di truyền) và các quá trình tâm lí (không theo di truyền).
- Tuy nhiên dù theo khuynh hướng nào thì năng lực khoongphari là một thực thể có thể nhìn thấy được, nó là một cấu trúc trừu tượng và chúng ta phải suy luận về sự tồn tại của nó qua quan sát trực tiếp.
- Mọi người đều có những năng lực chung (chẳng hạn như năng lực sử dụng ngôn ngữ - giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ.
- và năng lực chuyên biệt (chẳng hạn như cảm thụ nghệ thuật…) do đó mỗi cá nhân là một chủ thể mang đậm bản sắc cá tính của mình để giúp họ trở thành một chủ thể có tính “duy nhất.
- Các đặc điểm và nguyên tắc phát triển năng lực người học + Mỗi cá nhân cần sở hữu các loại năng lực khác nhau để đạt được thành công học đường và hạnh phúc.
- Năng lực của cá nhân thể hiện qua hoạt động (quan sát thông qua các tình huống, hoàn cảnh khác nhau) và có thể đo lường, đánh giá được.
- Năng lực thường tồn tại dưới hai hình thức: năng lực chung (key competency) và năng lực chuyên biệt (domain-specific competencies).
- Năng lực chung là những năng lực cần thiết cho mọi người, để cá nhân có thể tham gia hiệu quả trong nhiều loại hoạt động và các bối cảnh khác nhau của đời sống xã hội.
- Năng lực chuyên biệt thường lien quan tới một môn học cụ thể (ví dụ: năng lực cảm thụ văn học.
- hoặc một lĩnh vực hoạt động có tính chất chuyên biệt (ví dụ: năng lực biểu diễn kịch, năng lực nhảy.
- Các năng lực chuyên biệt không thể thay thế các năng lực chung.
- Năng lực của mỗi cá nhân là một phổ từ năng lực bậc thấp như nhận biết / tìm kiếm thông tin (tái tạo)… tới năng lực bậc cao (khái quát hóa/phản ánh).
- Ví dụ, theo nghiên cứu của OECCD (2004) thì có 3 lĩnh lực năng lực từ thấp lên cao: tía tạo, kết nối, khái quát hóa/phản ánh.
- Năng lực và các thành tố của nó không bất biến mà hình thành và biến đổi lien tục trong suốt cuộc sống của cá nhân.
- Phân loại năng lực của học sinh phổ thông Bắt nguồn từ quan niệm về năng lực của cá nhân đã được nêu ở trên, chúng tôi quan niệm năng lực của học sinh: là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ… phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống.
- Năng lực của học sinh là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng,… mà còn cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập nhà trường phổ thông… và những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội.
- Năng lực của học sinh được phân loại gồm: năng lực chung và năng lực chuyên biệt.
- Năng lực chung của học sinh lại có thể phân thành 2 nhóm sau.
- Nhóm cá năng lực nhận thức: đó là các năng lực thuần tâm thần gắn liền với các quá trình tư duy/nhận thức (xuất phát từ bên trong cá nhân) như năng lực ngôn ngữ.
- năng lực tính toán và suy luận logic/tư duy trừu tượng.
- năng lực giải quyết vấn đề.
- năng lực tri giác không gian.
- năng lực sáng tạo.
- năng lực cảm xúc.
- năng lực tương tác.
- năng lực ghi nhớ.
- năng lực tự học.
- năng lực ngoại ngữ.
- năng lực sử dụng công nghệ;… và năng lực nghĩ về cách suy nghĩ – siêu nhận thức.
- Mỗi năng lực nhận thức này lại gồm các nhóm năng lực cụ thể/ năng lực thành phần.
- Nhóm các năng lực phu nhận thức: đó là cá năng lực không thuần tâm thần, mà có sự pha trộn các nét/ phẩm chất nhân cách như năng lực vượt khó.
- năng lực thích ứng.
- năng lực thay đổi suy nghĩ/ tạo niềm tin tích cực, năng lực ứng phó stress,… năng lực quan sát, năng lực tập trung chú ý, năng lực quản lý/lãnh đạo/phát triển bản thân.
- Cơ sở tâm lý học của phát triển năng lực người học 3.1 Các lý thuyết tâm lý về sự phát triển nhận thức của trẻ - Theo lý thuyết đơn trí tuệ (truyền thống), sự phát triển năng lực trí tuệ (nhận thức) của trẻ phụ thuộc vào 3 yếu tố: vốn hiểu biết/kiến thức/kinh nghiệm.
- năng lực học và áp dụng các chiến lược tư duy/nhận thức.
- Việc sử dụng các chiến lược tư duy hiệu quả tạo ra sự khác biệt giữa các cá nhân có chỉ số trí tuệ như nhau.
- Lí thuyết đa trí tuệ (multiple intelligences): theo các nhà nghiên cứu, trẻ em thông minh theo những kiểu khác nhau.
- Theo Gardner (1993) có sự tồn tại 8 dạng thông minh khác nhau và có ảnh hưởng tới sự thành công của cá nhân: thông minh về ngôn ngữ.
- Theo Gardner, mỗi cá nhân phát triển một hoặc nhiều kiểu trí thông minh thông qua sự di truyền của gen, giáo dục và xã hội hóa của các giá trị văn hóa.
- Nói cách khacsm các kiểu trí thông minh này tiến hóa qua sự tương tác giữa các tố chất sinh học và những cơ hội tương tác, trải nghiệm tâm lí…do môi trường sống của cá nhân mang lại, Như vậy, theo Gardner mỗi trẻ sở hữu một hoặc một số kiểu thông minh này.
- Lí thuyết tương tác văn hóa – xã hội (social-cultural theory) của Vugotsky cho rằng sự phát triển nhận thức của trẻ diễn ra theo 2 con đường: Các quá trình sinh học (cơ sở/nền tảng): diễn ra nhờ sự chin muồi sinh học (sự phát triển theo một chương trình đã được mã hóa theo gen – di truyền).
- Các quá trình tâm lý (ở bậc cao hơn): phát triển nhờ các tương tác văn hóa xã hội.
- Sự phát triển nhận thức của trẻ là kết quả của quá trình nội tâm hóa (nhập tâm) những gì trẻ trải nghiệm/học được nhờ sự tương tác tích cực với người lớn hoặc nhóm bạn.
- 3.2 Các lý thuyết tâm lý về sự phát triển nhân cách của trẻ - J.M.Burger cho rằng nhân cách là mẫu hành vi/ứng xử có tính kiên định và những quá trinh tâm lý trong mối quan hệ giữa chủ thể với bản thân, khởi xướng từ bên trong cá nhân.
- Theo các nhà tâm lí, hành động của mỗi cá nhân chịu sự chi phối của các nhân tố: hành động có mục đích.
- Điều này có nghĩa là có những năng lực không thuộc về nhận thức (các năng lực không tâm thần, không khởi xướng từ bên trong cá nhân) chi phối kết quả hành động.
- Gail F.Huon (2001) định nghĩa nhân cách là một cấu trúc phức hợp gồm các mặt tính cảm, nhận thức và hành vi, các mặt này cung cấp sự định hướng mạch lạc, chặt chẽ đối với cuộc sống của mỗi cá nhân.
- Các nhà nghiên cứu nhân cách theo quan điểm này nhấn mạnh: nhân cách liên quan đến tất cả các khía cạnh chức năng của con người: tình cảm, nhận thức và hành vi hoặc cái gì chúng ta cảm nhận, suy nghĩ và hành động.
- Do đó những đặc tính này đưa ra sự định hướng cho cuộc sống của cá nhân.
- Các mẫu khác biệt của những đặc tính này quy định sự khác nhau giữa các cá nhân và tính độc nhất vô nhị ở mỗi người.
- Nhân cách không chỉ lien quan đến cách thức cá nhân khác nhau mà còn lien quan đến các mặt có sự lien kết mạch lạc, chặt chẽ hoặc chức năng tổng thể của cá nhân như bản chất chịu đựng hoặc tính kiên trì của cá nhân trong quá trình thích nghi với môi trường.
- 3.3 Tâm lý học khác biệt - Sự khác biệt cá nhân về hoạt động nhận thức Quá trình nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai mức độ thấp và cao của quá trình nhận thức ở cá nhân khác nhau thì khác nhau.
- Những khác biệt cá nhân về nhận thức cảm tính Sự khác biệt cá nhân về cảm giác Theo nghiên cứu của Patricia, Bernard và Michael E.
- Ngay sau khi sinh ra trẻ đã có 9 biểu hiện đặc trưng khác biệt cá nhân, dẫn đến sự phản ánh cảm giác khác nhau: Vận động, nhịp sinh học (tính đều đặn), tiếp cận/rút lui, khả năng thích ứng, cấp độ của ngưỡng cảm giác, tâm trạng tích cực/tiêu cực, cường độ phản ứng-năng lượng, khả năng tập trung chú ý-khi có kích thích, sự kiên trì và khoảng thời gian tập trung.
- NXB Giáo dục Việt Nam học trên cho thấy bẩm sinh ra trẻ đã có những biểu hiện khác nhau về các phản ứng hành tiếp nhận các kích thích và đáp ứng trả lời các kích thích tác động.
- theo đó các sản phẩm cảm giác về các thuộc tính của các sự vật và hiện tượng sẽ được hình thành khác nhau trong đầu óc trẻ.
- Năng khiếu bắt nguồn từ tư chất, bộc lộ qua cảm giác, năng lực quan sát.
- Năng lực quan sát được hình thành bắt nguồn từ cảm giác với vốn sống kinh nghiệm cá nhân mỗi người.
- Sự khác biệt cá nhân này là sự khởi đầu cho sự khác biệt nhận thức của mỗi cá nhân.
- Sự khác biệt cá nhân về tri giác Nhiều chứng cứ khoa học đã chứng minh cách tri giacsm nhận thức khác nhau của các cá nhân là khác nhau.
- Ví dụ: có người tri giác từ tổng thể đến thành phần các sự vật, hiện tượng, ngược lại có người lại nhận thức từ thành phần đến tổng thế.
- Sự khác biệt cá nhân về nhận thức còn bộc lộ rõ ở năng lực quan sát.
- Từ đó ta có thể giải thích được vì sao vẫn một sự vật, hiện tượng khách quan song mỗi người lại tiếp nhận thông tin và xử lý theo cách riêng của mình, theo đó trình độ nhận thức và bộc lộ mức độ nhận thức thông qua hoạt động thực tiễn và thái độ khác nhau.
- Ngoài ra sự khác biệt cá nhân trong trí nhớ, nhận thức về con người (ấn tượng ban đầu, nhận thức xã hội.
- đều giúp mỗi cá nhân trở thành một chủ thể riêng biệt và có dấu ấn đặc trưng.
- Những khác biệt cá nhân về nhận thức lý tính Chúng tôi sẽ đề cập tới hai quá trình tâm lý cá nhân, đó là tư duy và tưởng tượng, bởi lẽ, để tiến hành nhận thức lý tính còn có sự tham gia của nhiều cấu trúc tâm lý như: ý thức, ý chí, ngôn ngữ và cả tình cảm con người.
- Khác biệt cá nhân về tư duy Sự khác biệt này được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau của tư duy: kiểu loại tư duy, định hướng tư duy, phẩm chất tư duy (bề rộng của tư duy, chiều sâu tư duy, tính linh hoạt của tư duy, tính mềm dẻo của tư duy, tính sáng tạo và tính hợp lý của tư duy).
- Nhưng nhìn chung, mỗi cá nhân có sự khác biệt khi họ tư duy dựa trên hình ảnh tâm lý về các sự vật, hiện tượng, để lại những ấn tượng khó quên.
- Từ đó các cá nhân tự thao tác các hình ảnh, chuyển hóa nó thông qua ngôn ngữ, kí hiệu, hình vẽ, biểu đồ,… nhằm thể hiện phương pháp logic cũng như các thao tác của tư duy.
- Khác biệt cá nhân về tưởng tượng Tưởng tượng được biết tới là phương tiện cho hoạt động sáng tạo, là công cụ xây dựng chương trình, mục tiêu bằng hình ảnh, hình tượng cho tương lai phát triển cá nhân.
- Trong thực tế, sự thành đạt của nhiều cá nhân được tưởng tượng chỉ đường, dẫn lối một cách hiệu quả.
- Tưởng tượng là sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc cá nhân, sự khác biệt cá nhân sẽ được bộc lộ thông qua các cách sáng tạo của tưởng tượng (tăng giảm chi tiết/thành phần/số lượng/tỉ lệ, nhấn mạnh các chi tiết/các thành phần, điển hình hóa, chắp ghép/kết dính các chi tiết/bộ phận, liên kết, loại suy, lien tưởng.
- Phân loại cá nhân + Phân loại dựa trên đặc điểm thể tạng E.Krestchmer Vào những năm 20 của thế kỷ XX, cuốn sách “Thể tạng và tính cách” của E.Kretschmer ra đời, và sau này trở nên rất nổi tiếng.
- Quan điểm của ông ra đời trên cơ sở các nghiên cứu lâm sàng và phân tích những tổn thương tâm lý, ông quan tâm tới vấn đề phân loại người bệnh và các căn bệnh thành các dạng khác nhau.
- Bên cạnh hai xu hướng cơ bản, Jung còn dựa trên hai hệ thống chức năng là “nhận thức” và “Thái độ đánh giá” trong phân loại của mình.
- Jung đã phân ra 8 kiểu nhân cách khác nhau: tư duy hướng nội, tư duy hướng ngoại, cảm giác hướng nội, cảm giác hướng ngoại, trực giác hướng nội, trực giác hướng nội, tình cảm hướng ngoại.
- Hướng ngoại Hướng nội (extraverted) (introverted) Lý trí Tư duy (thinking) Tư duy (Rational) Tình cảm (feeling) Tình cảm Không lý trí Cảm giác (sensation) Cảm giác (irrational) Trực giác (intuition) Trực giác Tiếp theo, I.Myers và K.Briggs đã phát triển các kiểu dạng của Jung (gọi tắt là Myers-Briggs).
- Như vậy sẽ có 4 cặp thành tố I E Introversion Extraversion T F Thinking Feeling N S Intuition Sensation J P Judging Perceiving Các tác giả cho rằng, mỗi kiểu dạng cá nhân phải được thể hiện bởi 4 đặc điểm thuộc 4 cột trên.
- Như vậy, sẽ có 16 tổ hợp các đặc điểm tương ứng với 16 kiểu dạng cá nhân.
- Kết luận Từ những nghiên cứu về cơ sở tâm lý học của giáo dục phổ thông theo hướng phát triển năng lực người học, chúng tôi nhận thấy rằng sự khác biệt cá nhân luôn cần được tôn trọng và phát triển để mỗi em học sinh được phát triển một cách tối đa và toàn diện những năng lực của bản thân.
- Chương trình giáo dục, sách giáo khoa là những yếu tố tĩnh trong giáo dục nhưng phương pháp tác động tới tâm lý tới trẻ là yếu tố động, giáo viên hoàn toàn có đủ năng lực để khơi dậy cho học sinh những năng lực tiềm ẩn.
- Lương Việt Thái, Xác định các năng lực chung cốt lõi cho chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 và một số vấn đề vận dụng, Bài kỷ yếu hội thảo 2011 4.
- Trần Khánh Đức, Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, NXB Giáo dục, 2010