Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình PHP
Giáo Trình PHP
Yêu cầu:
- Một tờ giấy trắng
- Một gói café + 1 cốc nước nóng, hoặc một ít chè xanh.
- Bộ cài Windows.
- File phpdev.zip đi kèm tài liệu này.
Bắt đầu:
Bước 1: Ghi vào tờ giấy dòng chữ: "Đang bận làm việc, không tiếp khách, chỉ tiếp gái đẹp" rồi dán trước cửa hoặc
trên bàn làm việc
Bước 2: Pha một cốc café.
Bước 3: Bắt đầu với những khái niệm:
Trong mạng máy tính, máy chủ (hay còn gọi là server) là một máy tính được sử dụng để các máy tính khác truy
cập. Các máy tính truy cập vào 1 máy chủ được gọi là máy khách.
Như vậy, 1 máy tính trong mạng có thể vừa là 1 máy chủ (khi có máy khác truy cập đến nó), vừa là một máy
khách (nếu nó truy cập đến một máy tính khác). Vì vậy đừng nên nghĩ rằng máy chủ là 1 cái gì đó cao siêu cho
mệt óc
Các máy tính trên mạng "nói chuyện" với nhau thông qua một ngôn ngữ đặc biệt gọi là các giao thức mạng. Có
rất nhiều giao thức khác nhau, mỗi giao thức có 1 nhiệm vụ riêng. Ở đây tôi tạm chia ra làm 2 nhóm giao thức:
- Giao thức truyền dữ liệu, chuyên dùng để vận chuyển dữ liệu giữa 2 máy tính.
- Giao thức xử lý dữ liệu, có nhiệm vụ xử lý dữ liệu nhận được từ giao thức truyền dữ liệu
Túm lại: Không nên phát hoảng khi nghe thấy 2 từ giao thức. Chẳng qua nó chỉ là 1 dạng ngôn ngữ để trao đổi
với nhau mà thôi. Và bạn cứ yên chí rằng nếu thích, bạn có thể tự định nghĩa ra một cái giao thức nào đó. Chẳng
hạn như các chương trình chat của Yahoo, hay các chương trình remote trojan… Chúng tự đẻ ra các giao thức
riêng dựa trên nền giao thức TCP/IP đấy.
Giao thức TCP/IP là 1 giao thức được sử dụng để truyền dữ liệu giữa 2 máy tính. Theo giao thức này, mỗi máy
tính sẽ có 1 địa chỉ xác định trên mạng gọi là địa chỉ IP. Địa chỉ IP là một cụm chữ số có dạng a.b.c.d (a,b,c,d là
các số từ 0 đến 255). VD: 174.178.0.1.
Giao thức TCP/IP chỉ có nhiệm vụ duy nhất là truyền dữ liệu giữa 2 máy tính và đảm bảo giữ nguyên vẹn dữ liệu
khi truyền đi. Ngoài ra nó chẳng cần biết dữ liệu đó là gì và được xử lý như thế nào.
Dựa trên khả năng vận chuyển của giao thức TCP/IP, người ta xây dựng nên một nhóm các giao thức khác chuyên
xử lý dữ liệu nhận được từ TCP/IP, gọi là chùm giao thức TCP/IP hay họ giao thức TCP/IP.
Để phân chia các giao thức con trong chùm giao thức TCP/IP, người ta sử dụng một khái niệm khác gọi là Cổng
giao thức. Đây là 1 con số nguyên từ 0 đến 32767 thì phải :p. Mỗi giao thức con trong chùm giao thức sẽ chiếm
hữu một cổng riêng. Thông thường thì mỗi chương trình ứng dụng trên server sẽ chịu trách nhiệm mở một cổng
TCP/IP, định nghĩa giao thức cho cổng đó, và sau đó là lắng nghe các yêu cầu từ máy khách và xử lý các yêu cầu
đó.
Như vậy, trong hệ giao thức TCP/IP, một máy khách sẽ truy cập thành công đến máy chủ nếu như nó có địa chỉ IP
và cổng đang mở của dịch vụ trên máy chủ.
Chẳng hạn: Với 1 máy chủ quản lý web (web server), chúng ta cần phải có một ứng dụng web gọi là web server.
Ứng dụng này sẽ mở 1 cổng (mặc định là 80) và xử lý các tín hiệu đến từ cổng đó.
Bạn đã từng xây dựng một trang Web và đưa nó lên mạng? Trang web của bạn thật là thú vị (ít nhất là theo ý
nghĩ của bạn ) và tất nhiên bạn muốn tham khảo ý kiến của người đọc? Chẳng nhẽ bạn lại cho số điện thoại và
yêu cầu người góp ý phải gọi điện đến? Hic… Đảm bảo sẽ chẳng có ma nào thèm gọi điện.
Bạn muốn "xin" một ít thông tin về người duyệt Web… hic. Làm cách nào bây giờ???
Vâng, đó chính là nhược điểm của cái gọi là trang web tĩnh. Đó là các trang Web không cho phép bạn có thể
tương tác với người dùng (chẳng hạn như là trao đổi hay thu thập các thông tin từ phía người dùng). Nó là các
trang web có đuôi *.htm thông thường. Ngược lại, các trang Web động cho phép bạn nhận thông tin từ người
dùng, xử lý thông tin đó, và có thể đáp trả lại các yêu cầu của họ. Xem ra nó cũng linh động ra phết đấy chứ?
Để làm được điều đó, tất nhiên là bạn phải … theo dõi các bài viết này
Các trang web nguyên thuỷ sử dụng ngôn ngữ định dạng chuẩn là HTML (HyperText Markup Language). HTML
chuẩn chỉ bao gồm các cặp thẻ đánh dấu để định khuôn dạng của tài liệu. Tuỳ theo tên thẻ là gì mà trình duyệt
sẽ tự động hiểu và làm các công việc do thẻ đó quy định. Chẳng hạn như cặp thẻ <B>….</B> quy định đoạn văn
bản trong đó sử dụng chữ đậm. Vì vậy, trên thực tế người ta không coi nó là một ngôn ngữ (vì nó chẳng liên quan
gì đến những thứ mà ta hay gặp trong lập trình như biến, câu lệnh rẽ nhánh, lặp…). Cũng chính vì nguyên nhân
này, nó phải tự mở rộng bằng cách cho phép "nhúng" vào bản thân nó một số đoạn mã lệnh chương trình đặc
biệt, người ta thường gọi chúng là các đoạn mã Script hay các đoạn mã nhúng . Ngôn ngữ sử dụng trong các
đoạn mã lệnh đó gọi là các ngôn ngữ Script. Các ngôn ngữ script thường đơn giản và không có nhiều sức mạnh
như các ngôn ngữ "kinh điển" cùng tên, hay nói cách khác, chúng là một phần rất nhỏ của một ngôn ngữ nào đó
được tích hợp vào trình duyệt để thực hiện một số thao tác nhất định.
Chi tiết về ngôn ngữ HTML đã có đầy rẫy trên Internet, cũng như ở các hiệu sách, nên chúng không được nhắc lại
ở đây. Nếu các bạn chưa biết gì về nó thì bạn phải tìm đọc các tài liệu về HTML trước khi tiếp tục theo dõi khoá
học này.
Như tên gọi của nó, lập trình script ở máy khách là viết các đoạn script chạy trên máy khách. Các đoạn mã này
được máy chủ gửi kèm trong tài liệu, đưa về máy khách và được thực hiện ở đây.
Trong tài liệu gửi về trình duyệt, các đoạn mã này thường được tìm thấy trong cặp thẻ <Script language
="xxxxxx">…</Script>.
Có nhiều ngôn ngữ script phía máy khách. Nổi tiếng hơn cả là Javascript. Kế đến là VbScript và PerlScript.
Vì tài liệu này chủ yếu tập trung vào PHP - một ngôn ngữ script chạy trên máy chủ, nên chi tiết những ngôn ngữ
này không được nhắc đến trong tài liệu. Riêng về JavaScript, các bạn có thể tìm thấy các tài liệu tiếng Việt qua
trang tìm kiếm Vinaseek.com. Nếu có thời gian, tôi khuyên các bạn nên tìm hiểu về chúng. Rất nhiều xảo thuật
bắt mắt có thể tìm thấy trong các đoạn mã này.
Kích chuột vào đây để tham khảo một tài liệu về JavaScript
Trái ngược với lập trình Script ở máy khách (thực thi mã lệnh ở máy khách), lập trình script ở máy chủ cho phép
thực thi các đoạn mã ngay ở trên máy chủ. Không như các đoạn mã script hoạt động ở máy khách, các tài liệu có
chứa các đoạn mã script phía máy chủ thường được lưu ở các file tài liệu có đuôi mở rộng riêng biệt, và các đoạn
mã thi hành trên máy chủ cũng phải được đặt trong một cặp thẻ đặc biệt tuỳ theo quy định của chương trình xử
lý. Chú ý rằng đối với mỗi loại ngôn ngữ server script sẽ có một chương trình xử lý riêng. Chẳng hạn các đoạn mã
ASP thường được đặt trong các file *.asp, và chúng được xử lý bằng file ASP.dll.
Chi tiết về cách thức hoạt động của loại này, có thể tóm tắt như sau:
- Bước 1: Client gửi yêu cầu đến máy chủ
- Bước 2: Web server kiểm tra xem yêu cầu đó cần loại tài liệu nào. Nếu đó là loại tài liệu có chứa các đoạn mã
server script, nó sẽ triệu gọi chương trình xử lý tương ứng với loại tài liệu đó
- Bước 3: Chương trình xử lý sẽ thực thi các đoạn mã server script trong tài liệu đó, và trả kết quả (thường là
dưới khuôn dạng HTML) về cho web server.
- Bước 4: Web server trả kết quả tìm được cho Client và ngắt kết nối.
Bây giờ, 5 phút dành cho café. Ơ nhưng mà hết café rồi, hix, thôi đi ngủ vậy
Bài 2: Cài đăt web server Apache, MySQL và PHP
« on: January 18, 2007, 08:30:59 AM »
Cài đăt web server Apache, MySQL và PHP.
1. Cài đặt giao thức TCP/IP
Các dịch vụ web server dựa trên nền giao thức TCP/IP. Vì vậy trước khi cài đặt server, ta phải tiến hành cài đặt
giao thức TCP/IP.
Để cài đặt giao thức TCP/IP, ta vào Control Panel, chọn Network. Nếu thấy dòng chữ TCP/IP đã xuất hiện trong ô
Configuration, tức là giao thức TCP/IP đã được cài đặt trên máy. Còn nếu không, ta kích chuột vào Add. Hộp thoại
Select Component hiển thị ra. Kích chọn tiếp Protocol -> Add. Trong danh sách bên trái, chọn Microsoft. Sau đó
sang danh sách bên phải, chọn TCP/IP. Bấm Enter để bắt đầu quá trình cài đặt.
Trong quá trình cài đặt, nếu máy tính của bạn chưa có card mạng thì hệ thống sẽ yêu cầu cài một trình điều
khiển card mạng nào đó. Đừng lo, cứ chọn đại theo chỉ dẫn sẽ xong thôi.
Sau khi cài đặt xong, mở cửa sổ Command Prompt ra. Gõ lệnh
C:\ping 127.0.0.1
Nếu thấy có 4 dòng chữ có dạng:
Reply from 127.0.0.1: byte = xx time<xx ms TTL =xxx
Reply from 127.0.0.1: byte = xx time<xx ms TTL =xxx
Reply from 127.0.0.1: byte = xx time<xx ms TTL =xxx
Reply from 127.0.0.1: byte = xx time<xx ms TTL =xxx
Ghi chú: Dãy số 127.0.0.1 chính là địa chỉ IP mặc định của chính máy tính bạn đang sử dụng. Bạn cũng có thể sử
dụng cái tên localhost thay cho địa chỉ IP 127.0.0.1 để truy cập vào máy tính của chính mình.
Nhập tên thư mục cài đặt (chẳng hạn ở đây tôi chọn là c:\phpdev). Kích chọn Install để bắt đầu quá trình cài
đặt:
Sau khi cài đặt xong, các bạn đã có thể vận hành Apache, PHP và MySQL.
Để vận hành hệ thống, các bạn vào thư mục của hệ thống (c:\phpdev theo ví dụ trên), chạy file 2K-NT-XP-
phpdev_start.bat. Nếu trình duyệt hiện ra như hình dưới tức là bạn đã cài đặt thành công:
Link tải
- MySQL: http://dev.mysql.com/downloads/ , chọn MySQL Community Server, chọn bản Without installer (unzip
in C:\).
Cài đặt
Trước khi cài đặt, các bạn cũng phải chú ý một số điều như ở bài trên.
1. Apache
Cài đặt Apache với các lựa chọn mặc định (cứ thoải mái nhấn Next, trừ khi bạn muốn có 1 vài rắc rối ). Trong
mục network domain, server name và emai, có thể khai gì cũng được (nếu cần có thể chỉnh lại sau). Sau khi cài
đặt xong, Apache sẽ chạy dưới dạng 1 service của Windows và nó được thiết lập mặc định khởi động cùng
Windows. 1 chương trình nhỏ có tên Apache Service Monitor cũng được tự động chạy dưới khay hệ thống để có
thể mở hoặc tắt Apache thuận tiện. Để kiểm tra, hãy vào trình duyệt và gõ vào khung address: http://localhost/.
Dòng url này sẽ gọi file index.html nằm trong thư mục htdocs trong thư mục cài đặt Apache, đây là thư mục gốc
mặc định của Apache, website của bạn sẽ dc chứa tại đây. Nhấn Enter và dòng chữ "It works!!!" to tướng hiện ra.
Chú ý: Với Windows SP2, Apache có thể bị block. Cách giải quyết: Unblock
Sau khi chạy thành công, có lẽ bạn sẽ muốn cấu hình lại Apache cho phù hợp hơn. Dùng Notepad mở file
httpd.conf nằm trong thư mục conf trong thư mục cài đặt Apache (hoặc vào Start menu để mở) và tiến hành
chỉnh sửa:
- Để chứa website của mình trong thư mục khác thuận tiện hơn thư mục mặc định htdocs của
Apache, VD: C:\www, chỉnh lại như sau:
Code:
DocumentRoot "C:/www/"
<Directory />
Options FollowSymLinks
AllowOverride None
Order deny,allow
Deny from all
Satisfy all
</Directory>
<Directory "C:/www/">
- Để thiết lập danh sách các file Apache sẽ tự động cung cấp (VD: index.html, index.htm, index.php) khi 1 thư
mục được yêu cầu, chỉnh lại như sau:
Code:
<IfModule dir_module>
DirectoryIndex index.html index.htm index.php
</IfModule>
Như vậy, để truy cập đến file index.html trong thư mục C:\www, bạn ko cần phải gõ: http://localhost/index.html
nữa mà chỉ cần gõ http://localhost/. Apache dò tìm các file theo thứ tự từ trái sang phải trong danh sách file mà
bạn khai báo.
Chú ý: sau mỗi lần chỉnh sửa file httpd.conf, bạn phải restart lại Apache (dùng Apache Service Monitor) để cập
nhật các thay đổi.
2. PHP
Giải nén ra 1 thư mục nào đó, VD: C:\php. Cần quan tâm đến 2 file sau:
- phpXapacheY.dll: đây là module mà Apache cần nạp để nó có thể hoạt động với PHP. X, Y lần lượt là số hiệu
phiên bản của PHP và Apache, VD: php5apache2.dll. Bạn phải biết phiên bản Apache và PHP mình đang dùng để
lựa chọn cho đúng. VD: nếu bạn có PHP 5.2.0 và Apache 2.2.3, thì ko thể dùng php5apache2.dll được mà phải
dùng php5apache2_2.dll (module kết nối PHP5 với Apache 2.2.x). Bạn hãy vào trang chủ của PHP để biết các chú
ý từ nhà sx. Để nạp module này (VD: php5apache2_2.dll) vào Apache, hãy mở httpd.conf và thêm vào cuối phần
LoadModule các dòng như sau:
Code:
LoadModule php5_module "C:/php/php5apache2_2.dll"
AddType application/x-httpd-php .php
PHPIniDir "C:/php"
Dòng cuối cùng là đường dẫn đến file cấu hình của PHP: php.ini.
- php.ini: đây là file cấu hình của PHP. Vào thư mục cài đặt PHP, chọn 1 trong 2 file php.ini-recommended hoặc
php.ini-dist để sửa thành php.ini. Theo khuyến cáo của nhà cung cấp, hãy chọn php.ini-recommended.
Restart Apache. Nếu Apache không thể khởi động, xem lại bước 1. Nếu thành công, dùng Notepad tạo 1 file
phpinfo.php với nội dung như sau:
Code:
<?php
phpinfo();
?>
Copy file này vào thư mục chứa website (C:\www), rồi mở nó bằng trình duyệt (http://localhost/phpinfo.php )
bạn sẽ nhận dc 1 bảng chỉ rõ cấu hình của Apache và PHP cài đặt trong máy tính.
3. MySQL
- Giải nén ra 1 thư mục nào đó, VD: C:\MySQL. Trong thư mục cài đặt, chọn file ini phù hợp với mức độ CSDL của
mình (VD: my-small.ini) rồi đổi tên thành my.ini và copy vào thư mục C:\Windows.
- Mặc định, dữ liệu của bạn sẽ được chứa trong C:\MySQL\data, nên chuyển nó ra nơi khác (VD: C:\mydata) đề
phòng trường hợp nâng cấp MySQL sẽ làm mất dữ liệu. Mở my.ini, xoá dấu comment # tại dòng dưới đây và
chỉnh lại như sau:
Code:
#innodb_data_home_dir = C:/mydata/
- Vào Start - Run, gõ cmd, cửa sổ Command Prompt thứ 1 hiện ra, gõ "C:\mysql\bin\mysqld" --console, MySQL
server sẽ khởi động. Chữ console là để bắt MySQL server hiển thị quá trình xử lý trên cửa sổ này, nó sẽ có dạng
như sau:
Quote
C:\>"C:\mysql\bin\mysqld" --console
InnoDB: The first specified data file .\ibdata1 did not exist:
InnoDB: a new database to be created!
061204 22:50:37 InnoDB: Setting file .\ibdata1 size to 10 MB
InnoDB: Database physically writes the file full: wait...
061204 22:50:38 InnoDB: Log file .\ib_logfile0 did not exist: new to be created
InnoDB: Setting log file .\ib_logfile0 size to 5 MB
InnoDB: Database physically writes the file full: wait...
061204 22:50:39 InnoDB: Log file .\ib_logfile1 did not exist: new to be created
Nhưng để có thể giao tiếp được với CSDL này, bạn phải có 1 giao diện để tương tác với nó, gọi là MySQL client, có
thể là giao diện đồ hoạ (phpMyAdmin) hoặc giao diện dòng lệnh - console. MySQL cung cấp sẵn cho bạn 1 MySQL
client dạng console là mysql.exe trong C:\MySQL\bin. Để sử dụng nó, bạn tiếp tục mở 1 cửa sổ cmd thứ 2, gõ
vào "C:\mysql\bin\mysql" -u root, nó sẽ trông giống thế này:
Quote
C:\>"c:\mysql\bin\mysql" -u root
Welcome to the MySQL monitor. Commands end with ; or \g.
Your MySQL connection id is 1 to server version: 5.0.27-community
Type 'help;' or '\h' for help. Type '\c' to clear the buffer.
mysql>
u là viết tắt của user, root là username. MySQL mặc định tạo user là root với quyền cao nhất và chưa đặt
password. Bạn nên đặt password tại đây chứ không nên đặt tại file my.ini vì nó sẽ không được mã hoá. Vì chúng
ta dùng localhost để thử nghiệm website nên không cần thiết phải đặt password.
Để tắt MySQL server, gõ exit tại dấu nhắc mysql>, cửa sổ cmd thứ 2 sẽ trả về thư mục gốc, tiếp tục gõ
"C:\mysql\bin\mysqladmin" -u root shutdown. Cửa sổ cmd thứ 1 sẽ hiển thị quá trình tắt:
Quote
061204 22:54:49 [Note] C:\mysql\bin\mysqld: Normal shutdown
061204 22:54:49 InnoDB: Starting shutdown...
061204 22:54:52 InnoDB: Shutdown completed; log sequence number 0 43655
061204 22:54:52 [Note] C:\mysql\bin\mysqld: Shutdown complete
Khi làm việc trên hệ console này, hầu như chúng ta chỉ sử dụng 2 thao tác bật và tắt MySQL server, các thao tác
khác sẽ được thực hiện thông qua mã lệnh trong các trang .php. Vì vậy, để thuận tiện, bạn nên tạo 2 file .bat
(dạng text):
* File thứ 2 đặt tên là MyStop.bat có nội dung: "C:\mysql\bin\mysqladmin" -u root shutdown.
Khi cần bật tắt MySQL server chỉ cần chạy 2 file này là được.
- Bạn cần 2 file: libmysql.dll và php_mysql.dll (hoặc php_mysqli.dll). Các file này đều có sẵn trong bộ cài
đặt của php.
Vào thư mục gốc của php và copy libmysql.dll vào C:\windows\system32.
* Xoá dấu comment ";" tại 2 dòng dưới đây để PHP có thể load 2 extension mysql và mysqli. Tuy nhiên chỉ nên
dùng 1 trong 2 extension, dùng cái nào thì xoá dấu ";" tại cái đó:
Code:
;extension=php_mysql.dll
;extension=php_mysqli.dll
* Khai báo đường dẫn đến thư mục chứa extension của PHP:
Code:
extension_dir = "C:\php\ext"
- Kiểm tra: restart Apache, bật MySQL server, dùng trình duyệt mở file phpinfo.php đã tạo ở mục 2.2
(http://localhost/phpinfo.php). Trong bảng cấu hình của Apache và PHP giờ có thêm mục MySQL (hoặc MySQLi).
Vậy là kết nối đã thành công.
Chú ý: nếu ko thấy mục MySQL(hoặc MySQLi) nghĩa là php vẫn chưa kết nối dc với mysql. Khi đó bạn hãy sử
dụng các file libmysql.dll, php_mysql.dll (hoặc php_mysqli.dll) do MySQL cung cấp. php_mysql.dll (hoặc
php_mysqli.dll) được gọi là connector - bộ kết nối. Connector cho MySQL mới nhất và PHP mới nhất có thể
download từ http://dev.mysql.com/downloads/connector/php/ , các phiên bản cũ hơn download từ các link dưới
đây (có thể sẽ ko có), trong đó thay x.y.z, a.b.c lần lượt bởi số hiệu phiên bản của PHP và MySQL cần dùng:
Download php_mysql.dll: http://dev.mysql.com/get/Downloads/Connector-php/php_x.y.z_mysql_a.b.c-
win32.zip/from/pick
Download php_mysqli.dll: http://dev.mysql.com/get/Downloads/Connector-php/php_x.y.z_mysqli_a.b.c-
win32.zip/from/pick
php_mysqli.dll là connector cải tiến của php_mysql.dll. Bạn nên download cả 2 về, nhưng mỗi lần chỉ nên dùng 1
trong 2 cái.
Sau khi download về, hãy copy đè libmysql.dll vào C:\windows\system32, copy đè php_mysql.dll và
php_mysqli.dll vào thư mục extension của php (VD: C:\php\ext). Sau đó kiểm tra lại như trên. Nếu vẫn ko được
thì hết cách
Bài này tôi viết sau khi cài đặt Apache 2.2.3, PHP 5.2.0, MySQL 5.0.27. Hy vọng các phiên bản mới sẽ không kèm
theo các rắc rối mới
Bài 3: Lịch sử phát triển các ứng dụng trên Web server. ASP, JSP và PHP
« on: January 18, 2007, 08:32:48 AM »
Lịch sử phát triển các ứng dụng trên Web server. ASP, JSP và PHP
Vài năm trước đây, con đường thực sự duy nhất để vận chuyển các dữ liệu động tới trang Web là kỹ thuật CGI
(Common Gateway Interface). Các chương trình CGI cung cấp một sự liên hệ đơn giản để tạo các ứng dụng Web
cho phép tiếp nhận các dữ liệu nhập vào, các yêu cầu truy vấn cơ sở dữ liệu từ phía người dùng và trả một vài
kết quả về cho trình duyệt. Các chương trình CGI có thể được viết trên một vài ngôn ngữ, trong đó phổ biến nhất
là Perl. Web server sử dụng CGI như là một cổng truy cập chặn giữa yêu cầu của người dùng và dữ liệu được yêu
cầu. Nó sẽ được nạp vào bộ nhớ như một chương trình bình thường. Thông thường các web server sẽ chuyển các
yêu cầu và triệu gọi chương trình CGI. Sau khi chương trình kết thúc, web server sẽ đọc dữ liệu trả về từ chương
trình và gửi nó đến trình duyệt.
Nhược điểm lớn nhất của kỹ thuật CGI là nó hoạt động kém hiệu quả. Mỗi khi web server nhận một yêu cầu, một
tuyến trình mới được tạo ra. Mỗi tuyến trình lại chứa trong nó các đoạn mã lệnh, dữ liệu… và không được chia sẻ
lẫn nhau, do đó gây ra lãng phí bộ nhớ. Để khắc phục nhược điểm này, Microsoft và Netscape đã hợp tác và đưa
ra một cải tiến đáng kể là chuyển chúng về dạng các file thư viện liên kết động (DLL ), cho phép chia sẻ mã lệnh
giữa các tuyến trình. Đây chính là các kỹ thuật ISAPI và NSAPI.
Đen đủi thay, các kỹ thuật dựa trên DLL không phải là đã hoàn thiện. Chúng vẫn còn một số vấn đề:
- Khi các thư viện nền tảng được gọi, nếu muốn thoát các ứng dụng này, ta phải tắt chương trình triệu gọi (Web
server) và khởi động lại máy tính.
- Các thư viện cần được đặt trong các tuyến trình bảo vệ, tức là chúng cần phải được cảnh giác về cách sử dụng
các biến chung hoặc các biến tĩnh.
- Nếu chương trình triệu gọi gây ra lỗi truy cập, nó có thể dẫn đến tình trạng server bị treo tắc tử.
- Và cuối cùng: khi đã được dịch ra các file DLL, công việc gỡ lỗi cũng như bảo trì mã lệnh trở nên vất vả hơn bao
giờ hết.
Kỹ thuật Web mới nhất của Microsoft, kết hợp HTML, các đoạn Script, các thành phần xử lý phía server trong
cùng một file, được gọi là ASP (Active Server Pages), với phiên bản mới nhất hiện nay là ASP.Net. ASP được triệu
gọi bởi một thư viện liên kết động gắn với các Web server của Microsoft. Về bản chất, ta có thể coi ASP như là
một ngôn ngữ thông dịch vậy. Một trang ASP có thể sử dụng HTML, JScript và VBScript. Qua các đoạn mã nhúng
này, ASP có thể truy cập đến các thành phần phía server. Các thành phần này có thể được viết trên bất kỳ ngôn
ngữ nào hỗ trợ các thành phần COM của Microsoft. Và đây chính là sức mạnh của ASP: Nó có thể làm được bất kỳ
cái gì mà máy chủ có thể làm được với các thành phần COM. Sau khi được thi hành, ASP sẽ sản sinh ra một trang
Web có khuôn dạng HTML và trả nó về cho Web server.
Một bất lợi lớn đối với ASP là nó chỉ có thể hoạt động trên các họ Web server của Microsoft (bao gồm PWS trên
Win9x hay IIS trên WinNT/2000/XP). Các nhà phát triển đang hướng đến những môi trường khác như Unix/Linux
(hiện đã có bản Chili! ASP chạy trên các môi trường này), nhưng kết quả thì còn phải đợi thêm một thời gian nữa
Trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử của PHP, có lẽ chúng ta cũng phải nhắc đến một tên tuổi khác là Java Server
Pages. hay JSP. Giống như ASP, trang JSP cho phép chứa HTML, các đoạn mã Java và các thành phần Java Bean
và chúng sẽ thực hiện các công việc để sản sinh ra một trang Web để gửi về Client. Bất lợi chính của loại này là
phải đi kèm với "máy ảo Java", vốn không được coi là nhanh về mặt tốc độ.
Lịch sử PHP
PHP - viết tắt của PHP Hypertext Preprocessor - một định nghĩa đệ quy khó hiểu!
Vào khoảng năm 1994, Rasmus Lerdorf đưa một số đoạn Perl Script vào trang Web để theo dõi xem ai đang đọc
tài liệu của ông ta. Dần dần, người ta bắt đầu thích các đoạn Script này và sau đó đã xuất bản một gói công cụ có
tên là "Personal Home Pages" (nghĩa đầu tiên của PHP). Ông ta đã viết một cơ chế nhúng và kết hợp với một số
công cụ khác để phân tích đầu vào từ các mẫu biểu HTML: FI, Form Interpreter hay Phiên dịch mẫu biểu, được
tạo ra theo cách đó và được đặt tên là PHP/FI hay PHP2. Nó được hoàn thành vào khoảng giữa năm 1995.
Sau đó, người ta bắt đầu sử dụng các công cụ này để xây dựng những thứ rắc rối hơn, và đội ngũ phát triển đã
thay đổi từ một người duy nhất thành một nhóm các nhà phát triển nòng cốt trong dự án, và nó đã được tổ chức
hoá. Đó là sự bắt đầu của PHP3. Đội ngũ các nhà phát triển (Rasmus Lerdorf, Andi Gutmans, Zeev Suraski, Stig
Bakken, Shane Caraveo và Jim Winstead) đã cải tiến và mở rộng bộ máy nhúng và bổ sung thêm một số hàm API
đơn giản cho phép các lập trình viên khác tự do bổ sung nhiều tính năng vào ngôn ngữ bằng cách viết các module
cho nó. Cấu trúc của ngôn ngữ đã được tinh chế, được kết cấu thân thiện hơn đối với những người đến từ các
ngôn ngữ hướng đối tượng hay các ngôn ngữ hướng thủ tục. Nếu bạn đã biết một vài ngôn ngữ lập trình khác thì
khi đến với PHP, bạn sẽ không cảm thấy khó khăn.
Phiên bản mới nhất cho đến thời điểm này là PHP 5.0.1. Các bạn có thể tham khảo chi tiết tại trang web
http://www.php.net.
Chương trình PHP đầu tiên: Hello, World
« on: January 25, 2007, 02:15:46 AM »
Bắt đầu với Hello, world
I. Khởi đầu
Nếu các bạn đã từng học lập trình, chắc các bạn cũng biết được "Hello, world" là cái gì, còn nếu bạn nào chưa
biết, thì tôi sẽ giải thích ngay đây:
"Hello, world" là một chương trình dành cho những người mới bắt đầu học một ngôn ngữ lập trình nào đó.
Chương trình này đơn giản chỉ viết duy nhất một dòng chữ "Hello, world" ra màn hình. Các bạn có thể bỏ qua nó
nếu đã biết từ trước, còn nếu bạn nào chưa học, thì chúng ta bắt tay vào viết chương trình này bằng PHP nhé.
<HTML>
<BODY>
<?php
echo ("hello, world");
?>
</BODY>
</HTML>
OK, Save lại với cái tên test.php. Copy nó vào thư mục gốc (Root Directory) mặc định của Web server. Khởi động
Web server Apache lên (nó sẽ hiển thị một cửa sổ đen ngòm, bạn cứ để đó, đừng tắt nó đi, vì nếu tắt đi thì tức là
bạn đã tắt chương trình Web server Apache đi rồi đấy).
Bây giờ mở trình duyệt ra, tại ô địa chỉ, gõ nội dung sau: "http://127.0.0.1/test.php" (nhớ bỏ hai dấu ngoặc kép
đi nhé)
Nó sẽ hiển thị ra cửa sổ trình duyệt với duy nhất dòng chữ hello, world
Chắc bạn thất vọng lắm hả? Vâng, nó chỉ có mỗi dòng chữ "hello, world" trên màn hình trình duyệt, mà bạn có
thể làm nó đơn giản hơn rất nhiều, chẳng cần đến cái PHP kia. OK. Đừng thất vọng vội.
Chương trình này hoạt động như thế nào? Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu cách thức hoạt động của hệ trình
duyệt (Web Client) và máy chủ cung cấp dịch vụ Web (Web server ) đã nhé:
Bước 1: Trình duyệt gửi một yêu cầu HTTP đến máy chủ, yêu cầu một file nào đó
Bước 2: Máy chủ sẽ chuyển yêu cầu này đến chương trình xử lý tương ứng, chính là chương trình Web server.
Bước 3: Web server phân tích chuỗi yêu cầu nhận được, kiểm tra xem trình duyệt ở máy khách yêu cầu gì. Nếu
đó là các file bình thường (không phải là các file chứa các đoạn mã script thực thi phía máy chủ), nó sẽ tìm kiếm
file đó và trả về cho trình duyệt ở máy khách. Còn nếu đó là các file chứa các đoạn mã script thực thi phía máy
chủ (các chương trình CGI, hay các file thư viện liên kết động ISAPI, hoặc các file *.asp hay *.php), nó sẽ triệu
gọi chương trình thực thi các đoạn mã này. Chương trình này sẽ chịu trách nhiệm chạy các đoạn mã, trả chúng về
cho Web server dưới khuôn dạng của HTML. Sau đó, Web server mới trả kết quả lấy được cho trình duyệt.
Như vậy, chương trình của bạn phải được thực thi trên máy chủ, sau đó mới được trả về cho trình duyêt. Và đây
chính là cái gọi là "Trang Web động". Không như các trang web tĩnh, trang web động cho phép bạn có sự tương
tác với máy chủ thông qua các đoạn script thực thi phía server. Nhờ có sự tương tác này, bạn có thể truy xuất cơ
sở dữ liệu, lấy thông tin người sử dụng, điều khiển các hoạt động khác...
OK. Bây giờ chắc bạn đã có được chút ít kiến thức với các hệ thống điều khiển Web Client - Server rồi. Đến lượt
chúng ta bắt đầu phân tích chương trình đầu tiên kia.
Code:
<HTML>
<BODY>
<?php
echo ("hello, world");
?>
</BODY>
</HTML>
Điều đầu tiên các bạn cần phải biết, đó là các đoạn mã thực thi PHP luôn luôn được đặt trong thẻ <?php .... ?>.
Chương trình xử lý phía máy chủ sẽ chỉ thực thi các đoạn mã nằm trong thẻ này. Tất cả các đoạn mã khác nằm
ngoài thẻ trên đều không được xử lý trực tiếp trên server mà được đưa về trình duyệt.
<?php
// Đoạn mã PHP đặt ở đây
?>
Điều thứ 2 bạn cần biết là chương trình của bạn phải được đặt trong các file *.php. Nếu bạn đặt nó vào file khác,
thì đừng mong nó chạy nhé, vì nguyên tắc của chương trình Web server là chỉ triệu gọi các chương trình xử lý
tương ứng với các file có đuôi xác định trước.
Điều thứ 3 bạn cần biết là trong file *.php của bạn, ngoài các đoạn script PHP, bạn có thể đặt bất kỳ cái gì theo
khuôn dạng HTML, kể cả các đoạn JavaScript chạy trên máy khách. Tức là ngoại trừ các đoạn script PHP ra thì nó
không khác gì một file HTML thông thường
Điều thứ 4 các bạn cần biết, là chúng ta có thể đặt nhiều đoạn mã xử lý PHP khác nhau trong cùng một file PHP.
Các đoạn mã PHP này sẽ được thực thi lần lượt từ đầu file xuống dưới. Hãy xem ví dụ sau:
Code:
<HTML>
<BODY>
<?php
echo ("hello, world");
?>
<BR>
Xin chao tat ca cac ban, day la chuong trinh PHP dau tien cua toi
<?php
echo ("<p align=right> CMXQ </p>")
?>
</BODY>
</HTML>
Khởi đầu, chương trình xử lý phía Web server sẽ phân tích file PHP này, trả về đoạn mã
<HTML>
<BODY>
Tiếp theo, khi thấy đoạn mã thứ nhất, nó sẽ thực thi và trả về dòng "hello, world" (Dòng này do hàm echo() của
PHP thực hiện). Sau đó, nó tiếp tục trả về các dòng
<BR>
Xin chao tat ca cac ban, day la chuong trinh PHP dau tien cua toi
Đến khi gặp đoạn PHP thứ 2, nó sẽ thực thực thi đoạn mã thứ 2 này (gọi hàm echo()) và trả về kết quả:
Hết đoạn mã thứ 2. Nó sẽ gửi tiếp phần còn lại của file về cho Web server. Sau đó, Web server chính thức trả
toàn bộ kết quả về cho trình duyệt.
Điều quan trọng cuối cùng: Kết thúc mỗi câu lệnh của PHP đều là một dấu chấm phẩy (";"), ngoại trừ một vài
trường hợp (các bạn sẽ được biết sau này)
Bây giờ tôi xin giải thích cách sử dụng hàm duy nhất trong bài này: echo()
Hàm echo được sử dụng để trả về nội dung của các biến, hằng, chuỗi... cho trình duyệt. Ở ví dụ trên, hàm echo
trả về chuỗi "hello, world" và chuỗi "<p align=right> Le Nguyen Sinh </p>". Các thẻ HTML trong chuỗi sẽ được
giữ nguyên khi nó được đưa về trình duyệt, và nó sẽ được xử lý như các thẻ HTML khác.
Các đoạn chú thích rất hữu dụng trong các chương trình của bạn (chẳng hạn muốn chú thích câu lệnh này làm gì,
đoạn chương trình này làm gì...). Khi phân tích mã PHP, các đoạn chú thích sẽ bị bỏ qua, nhưng một lập trình
viên thì không bao giờ bỏ qua chúng
Chúng ta có thể sử dụng một số dấu chú thích sau trong PHP:
// dòng văn bản chú thích (chỉ áp dụng trên một dòng)
/* Đoạn văn bản chú thích */ (nằm trong cặp /* và */
Lưu ý rằng các dấu chú thích này chỉ có hiệu lực trong các đoạn mã nhúng PHP thôi đấy nhé
Ví dụ
<?php
echo("Tôi là một oan hồn vô danh"); // Hiển thị lời giới thiệu lên màn hình
<?php
echo("My name's ""CMXQ"");
?>
Rất tiếc là bạn đã nhầm. PHP có quy định một số ký tự đặc biệt (Dấu ngoặc kép (") là một trong các ký tự đó).
Một vài phiên bản của web server khi gặp lỗi này đã không thực hiện nữa, và thông báo lỗi đến người dùng. Còn
trong một vài phiên bản khác, nó sẽ tự động chèn một dấu sượt chéo (/) trước ký tự gây lỗi này. Một dấu gạch
chéo (\) trước ký tự gây lỗi khiến cho nó được đối xử như là một ký tự thông thường, không phải là ký tự đặc
biệt. Ký tự này (\) được gọi là ký tự giải phóng (Escaping character).
<?php
echo ("My name's: \"CMXQ\"");
?>
Dưới đây là một số các ký tự đặc biệt mà có thể được chỉ rõ với ký tự giải phóng gạch chéo
Hãy xem ví dụ dưới đây (yêu cầu bạn tự tìm hiểu và phân tích mã nguồn)
<?php
$name="Tiến Tùng";
echo("Giá trị của biến \$name là $name);
?>
OK. Đến bây giờ, bạn đã biết một chút về PHP rồi đấy. Hãy viết vài chương trình PHP, sử dụng hàm echo đi đã
nhé . Nhớ chú ý cách thức xử lý các kết quả trả về. Hẹn gặp lại các bạn trong bài sau.
Chúc các bạn thành công
Hằng và biến trong PHP
« on: January 25, 2007, 02:25:39 AM »
1. Hằng và biến
Nếu các bạn chưa từng học lập trình, chắc các bạn đang còn xa lạ với hằng và biến. OK, No Star where
- Giống như trong toán học, một hằng số xác định một giá trị duy nhất thông qua tên của hằng số, trong Tin học
cũng vậy. Môt hằng số xác định một giá trị duy nhất trong toàn bộ chương trình. Người ta có thể sử dụng giá trị
này thông qua tên của hằng số đó trong chương trình
- Tương tự đối với biến. Một biến trong lập trình được sử dụng để lưu trữ một giá trị nào đó thông qua tên biến.
Sở dĩ người ta gọi nó là biến, vì không như hằng số (giữ nguyên giá trị trong toàn bộ quá trình chạy chương
trình), người ta có thể thay đổi giá trị của biến số thông qua các phép gán.
Để tạo điều kiện dễ dàng trong quá trình phân tích dữ liệu, PHP quy định bất kỳ từ nào có dấu $ ở trước đều là
tên của biến. Ví dụ:
$ten xác định một biến có tên là ten
$custome_name: xác định một biến có tên là $custome_name
Bạn cần biết rằng tên biến là một chuỗi các ký tự chỉ bao gồm các chữ số, chữ cái (a..z) và dấu gạch dưới ( _ ).
Và PHP quy định phân biệt các biến chữ hoa và chữ thường là khác nhau. CHẳng hạn $ab và $Ab là 2 biến hoàn
toàn khác nhau. Một điểm cần lưu ý khác là không được đặt tên biến bắt đầu bằng các chữ số (0.. 9)
Do quy định các chuỗi ký tự có chứa dấu $ ở trước là một tên biến, nên PHP tự động khởi gán giá trị của các biến
này là rỗng (đối với kiểu dữ liệu văn bản) hoặc 0 đối với kiểu dữ liệu số. Bạn sẽ được biết đến các kiểu dữ liệu sau
này.
Để gán giá trị cho các biến, bạn sử dụng câu lệnh gán như sau:
$tên_biến = giá trị cần gán;
Ví dụ:
$nam_sinh=1980;
$ho_ten="CMXQ";
Các bạn chú ý đến 2 ví dụ tôi nhập dữ liệu: một cái thì nằm trong cặp dấu ngoặc kép chỉ thị biến đó chứa dữ liệu
theo kiểu xâu, còn một cái thì không nằm trong cặp dấu ngoặc kép chỉ thị biến đó chứa dữ liệu kiểu số. Bạn sẽ
biết chi tiết hơn ở ngay sau đây:
Kiểu giá trị Integer sử dụng 4 byte của bộ nhớ. Đây là kiểu giá trị nguyên (không phải là số thực) và có giá trị
nằm trong khoảng từ -2 tỷ đến 2 tỷ. Kiểu dữ liệu double là kiểu dữ liệu số thực, cho phép chứa các số thưc. Kiểu
String được sử dụng để chứa các dữ liệu như là các ký tự văn bản, ký tự đặc biệt và các chữ số. Dữ liệu kiểu
string được đặt trong cặp dấu ngoặc kép ("") chỉ định một xâu (hay còn gọi là chuỗi ký tự).
Ví dụ:
2: Kiểu integer;
2.0: kiểu double
"2": Kiểu xâu
"2 gio": Kiểu xâu
Sau khi một hằng số được tạo ra, ta có thể sử dụng chúng thay cho giá trị của chúng:
echo ("Tên công ty: ".COMPANY);
Điều này tương đương với echo ("Tên công ty: NS Co Ltd");
PHP có chứa một số hằng được xây dựng sẵn. TRUE và FALSE là 2 hằng đã được dựng sẵn với chỉ định true (1) và
false (=0 hoặc một xâu rỗng)
Hằng số PHP_VERSION chỉ định phiên bản của bộ phân tích PHP mà bạn đang dùng hiện tại. Hằng PHP_OS chỉ
định hệ điều hành server mà trình phân tích PHP đang chạy.
_FILE_and_LINE_ trả về tên của đoạn script (đoạn mã nhúng) đang được phân tích tại dòng hiện thời trong đoạn
mã script.
PHP còn cung cấp một số hàm để thông báo lỗi như E_ERROR, E_WARNING, E_PARSE và E_NOTICE.
Ngoài ra, PHP còn cung cấp một số biến cung cấp thông tin về môi trường PHP đang sử dụng. Để xem các thông
tin này,bạn có thể dùng hàm phpinfo() như sau:
<HTML>
<!-- phpinfo.php-->
<BODY>
<?php
phpinfo();
?>
</BODY>
</HTML
5. Lừa kiểu và ép kiểu dữ liệu
Như chúng ta đã biết, tất cả các biến PHP đều có kiểu dữ liệu riêng. Kiểu dữ liệu của biến sẽ được tự động xác
định bởi giá trị đặt vào biến
Nếu bạn làm các thao tác tính toán số trên một chuỗi, PHP sẽ tính toán chuỗi như là một số. Điều này được biết
đến với cái tên gọi là "chuyển kiểu chuối (String conversion), mặc dù giá trị chuỗi của nó có thể không cần phải
thay đổi. Trong đoạn ví dụ sau, biến $str được xác định là một chuỗi:
$str="756300 không có";
Nếu chúng ta cố cộng thêm một giá trị nguyên là 3 vào biến $str, biến $str sẽ tự động tính với số nguyên
756300:
$x=4+$str;//$x =756304
Nhưng bản thân giá trị của biến $str không thay đổi
- Một chuỗi sẽ chỉ được xác định như là một giá trị kiểu double nếu giá trị kiểu double được miêu tả bao gồm toàn
bộ chuỗi. Chuỗi "3.4", "-4.2" sẽ được ước lượng như giá trị thực 3.4 và -4.2. Nếu một ký tự không phải là ký tự
kiểu số thực được đưa vào chuỗi, giá trị của chuỗi đó sẽ được ước lượng như là một số nguyên. Chuỗi "3.4 dollar"
sẽ thành số nguyên 3.
Trong việc cộng với chuỗi chuyển kiểu, PHP sẽ thực hiện "lừa kiểu" giữa 2 kiểu số. Nếu bạn thực hiện một phép
toán số học giữa kiểu thực và kiểu nguyên, giá trị sẽ là số thực
Ép kiểu dữ liệu
Ép kiểu dữ liệu cho phép bạn thay đổi kiểu dữ liệu của biến
(integer) tương đương với (int); (fload) và (real) tương đương với (double)
- Hàm gettype($ten_bien) xác định kiểu của biến. Nó sẽ trả về một trong các giá trị: "integer", "double", "string",
"array", "object", "class", "unknown type" (Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn vể mảng (array) và kiểu đối tượng
(object) ở các bài sau.
Ví dụ:
echo(gettype($name));
- Hàm settype($ten_bien,"kieu_du_lieu") sẽ đặt kiểu dữ liệu cho biến $ten_bien. Kiểu dữ liệu được viết dưới dạng
một chuỗi, và có thể có một trong các kiểu sau: "integer", "double", "string", "array", "object". Nếu kiểu dữ liệu
không được đặt, giá trị false sẽ được trả về, còn nếu thành công, nó sẽ trả về giá trị true.
VD:
$a=7.5; //$a là kiểu thực
settype($a,"integer"); // bây giờ nó là một số nguyên có giá trị 7
- Hàm isset($ten_bien) được sử dụng để xác định xem biến $ten_bien đã đặt một giá trị nào đó hay chưa. Nếu
biến đó đã có giá trị, hàm trả về true. Trong truờng hợp ngược lại, hàm trả về giá trị false;
- Hàm unset($ten_bien) được sử dụng để huỷ bỏ biến $ten_bien, giải phóng bộ nhớ bị chiếm dụng của biến đó
Các câu lệnh gán và rẽ nhánh trong PHP
« on: January 19, 2007, 12:36:12 PM »
OK, bây giờ chúng ta chuẩn bị làm việc với các câu lệnh "xương sống" của một ngôn ngữ lập trình.
Nếu bạn nào đã từng học qua một ngôn ngữ lập trình nào đó, thì các bạn có thể đọc lướt qua phần này. Còn nếu
bây giờ bạn mới bắt đầu tiếp xúc với một ngôn ngữ lập trình thì... hãy chuẩn bị tinh thần đi
Để lập trình giải một bài toán nào đó, chúng ta phải sử dụng các câu lệnh sau:
1. Lệnh gán: được sử dụng để đặt một giá trị vào một biến nào đó.
2. Lệnh rẽ nhánh: Được sử dụng để xác định xem chương trình sẽ thực hiện công việc gì trong điều kiện ra sao
3. Lệnh lặp: Cho phép chương trình của bạn tự động lặp lại các thao tác nào đó
Quá trình xây dựng các bước để thực hiện một bài toán nào đó, gọi là quá trình xây dựng thuật giải.
Ví dụ: Hãy tưởng tượng bạn đang ... nhậu
OK, đến giờ thì chắc bạn đã hiểu qua một chút. Bây giờ chúng ta sẽ ứng dụng chúng vào PHP. Phần về các câu
lệnh cơ bản trong PHP được chia làm 2 bài là Các câu lệnh rẽ nhánh và các câu lệnh lặp. Bài này tập trung vào
việc xử lý câu lệnh gán và rẽ nhánh.
1. Lệnh gán
$ngay_sinh="1/4/1980";
$que_quan="Thanh Hoa";
$luong=300000;
Lệnh rẽ nhánh là một trong những câu lệnh quan trọng nhất của tất cả các ngôn ngữ lập trình. Nó cho phép bạn
thực thi một đoạn mã khi mà điều kiện chỉ định là đúng.
if (điều kiện)
{
công việc cần làm
}
Ví dụ:
if ($name="Sinh")
{
echo ("Good morning, my boss");
}
Nếu khối câu lệnh cần làm chỉ bao gồm duy nhất một dòng lệnh, ta có thể bỏ cặp dấu {} :
if ($name="Sinh")
echo ("Good morning, my boss");
Nhưng nếu nhiều hơn một dòng lệnh, ta phải đưa chúng vào cặp dấu ngoặc {}:
if ($name=="Sinh")
{
echo ("Good morning, my boss");
echo ("Have a romantic day!");
}
Đoạn lệnh trên sẽ kiểm tra nếu điều kiện biến $name = "Sinh" thì nó sẽ hiển thị lời chào. Còn nếu không thì nó
không làm gì cả!
Điều kiện đặt vào có thể là đúng, có thể là sai, có thể là tổng hợp của nhiều điều kiện. Hãy xem ví dụ sau:
if ("false" )
echo ("Khong co gi ca");
if ($name=="sinh")
{
if ($pass=="test")
echo ($name. "đã nhập đúng password");
}
Như bạn thấy ở trên, trong một câu lệnh, chúng ta có thể chèn nhiều đoạn lệnh khác, người ta gọi đó là cấu trúc
khối, tức là trong một khối lệnh, có thể có chứa nhiều khối lệnh con khác. Nếu bạn phải đọc mã nguồn của người
khác, hi vọng bạn không bị hoa mắt vì hàng chục khối lệnh chen chúc vào nhau như vậy.
Chúng ta có thể sử dụng các toán tử &&, || hay xor để kết nối các điều kiện với nhau như bạn thấy ở trên
Nếu điều kiện kiểm tra trả về false (sai), PHP cho phép chúng ta chỉ định thực thi một khối mã lệnh khác bằng từ
khoá else
Ví dụ:
if (($name=="sinh") && ($pass=="test"))
{
echo ("Good day, ".$name);
}
else
{
echo {"Sai mat khau!")
}
Chú ý đến một ngoại lệ sau: Trước từ khoá else không bao giờ có dấu chấm phẩy (.
Với câu lệnh if, PHP cho phép chúng ta rẽ nhiều nhánh thông qua từ khoá elseif:
if (dieu_kien1)
{
doan_lenh_1;
}
elseif (dieu_kien_2)
{
doan_lenh_2
}
elseif (dieu_kien_3)
} // bao nhiêu từ khoá elseif cũng được
else
{
doan_lenh_n
}
Ví dụ:
if ($thu==2)
{
echo ("Chao co, van, su, ly");
}
elseif ($thu==3)
{
echo (" Hoa, Sinh, Dia, GDCD");
}
elseif ($thu==4)
{
echo ("KTCN, Van, Toan, Tieng Anh");
}
elseif ($thu==5)
{
echo (" Hoa, Toan, Van, Tin");
}
elseif ($thu==6)
{
echo ("Toan, Van, Anh, Sinh hoat");
}
else
{
echo ("Duoc di choi");
}
Trong ví dụ trên, chúng ta đã lặp đi lặp lại thao tác kiểm tra giá trị của biến $thu, mặc dù nó không thay đổi qua
các dòng. Để khắc phục sự dài dòng này, PHP cho phép ta sử dụng câu lệnh switch. Câu lệnh này sẽ được sử
dụng để kiểm tra khi muốn xem xét qua nhiều giá trị của một biến:
switch ($bien){
Case gia_tri 1:
doan_lenh_1;
Case gia_tri 2:
doan_lenh_2;
Case gia_tri n:
doan_lenh_n;
default:
doan_lenh_khac;
}
Ví dụ:
switch ($thu){
case 2:
echo ("Chao co, van, su, ly");
case 3:
echo (" Hoa, Sinh, Dia, GDCD");
case 4:
echo ("KTCN, Van, Toan, Tieng Anh");
case 5:
echo (" Hoa, Toan, Van, Tin");
case 6:
echo ("Toan, Van, Anh, Sinh hoat");
default:
echo ("Duoc di choi");
}
Câu lệnh switch sẽ ước lượng giá trị của biến $thu, và so sánh nó với giá trị của mệnh đề case. Khi một giá trị
hợp lệ được tìm thấy, nó sẽ thực hiện câu lệnh tương ứng với giá trị đó. Còn nếu không, nó sẽ tự động thực hiện
câu lệnh trong mệnh đề default. Hãy chú ý rằng mệnh đề defaul là tuỳ chọn (bạn có thể có nó hoặc không cần
nó)
Lệnh điều khiển vòng lặp
« on: January 25, 2007, 06:29:21 PM »
Lệnh điều khiển vòng lặp
Điều khiển vòng lặp, tức là bạn điều khiển chương trình của bạn tự động thực hiện một đoạn mã lệnh nào đó lặp
đi lặp lại nhiều lần (lặp một số lượng lần nào đó, hoặc lặp cho đến khi thoả mãn một điều kiện nào đó).
PHP cung cấp cho chúng ta hai kiểu vòng lặp: vòng lặp while (lặp kiểm tra điều kiện, cho đến khi điều kiện được
thoả mãn) và vòng lặp for (xác định số lần lặp lại)
Vòng lặp while là một dạng vòng lặp đơn giản nhất, cấu trúc của nó gần giống như lệnh if:
Vòng lặp while sẽ ước lượng một biểu thức giá trị kiểu boolean (đúng hoặc sai).Nếu giá trị của biểu thức là false,
đoạn mã trong cặp dấu ngoặc (đoạn mã cần lặp) sẽ được bỏ qua và nhảy đến đoạn mã sau vòng lặp. Nếu giá trị
của nó là true, đoạn mã trong cặp dấu ngoặc sẽ được thực thi. Khi bắt gặp dấu ngoặc ôm ("}") , điều kiện kiểm
tra sẽ được tính toán lại, và nếu giá trị vẫn là true, đoạn mã trong ngoặc lại tiếp tục được thực thi. Chú ý rằng
điều kiện lặp chỉ được tính toán tại thời điểm bắt đầu lặp. Vì vậy, dù điều kiện lặp có bị thay đổi trong quá trình
thực thi đoạn lệnh trong cặp dấu {} thì đoạn lệnh đó vẫn được tiếp tục thực hiện cho đến hết. Muốn dừng lại ở
một vị trí xác định nào đó trong khối câu lệnh, chúng ta sử dụng lệnh break:
Ví dụ1: Tính tổng từ 1 đến 5:
<?php
$i=0;
$tong=0;
while ($i<=5)
{
$tong=$tong+$i;
$i+=1;
}
?>
Ví dụ 2: Đoạn mã sau sẽ hiển thị trên trình duyệt 3 ô textbox (Với điều kiện bạn phải save nó dưới một file *.php
:
<HTML>
<TABLE>
<BODY>
<?php
$i=1;
while ($i<=3)
{
?>
<TR><TD> <INPUT type="text"> </TD></TR>
<?php
$i+=1;
}
?>
</table>
</body>
</html>
Vòng lặp này giống như vòng lặp while, nhưng thay vì kiểm tra điều kiện vào lúc đầu của đoạn lệnh cần lặp, thì
nó lại kiểm tra giá trị điều kiện vào cuối vòng lặp. Điều này có nghĩa là nó luôn luôn thực hiện đoạn lệnh cần lặp ít
nhất một lần.
do
{ Đoạn (khối) câu lệnh cần lặp
} while (điều kiện);
Ví dụ:
<HTML>
<TABLE>
<BODY>
<?php
$i=1;
do
{
?>
<TR><TD> <INPUT type="text"> </TD></TR>
<?php
$i+=1;
}while ($i<=3);
?>
</table>
</body>
</html>
Để xác định lại sự khác nhau của 2 câu lệnh trên, đơn giản bạn chỉ việc thay điều kiện $i<=3 thành $i<1, bạn sẽ
thấy hai kết quả khác nhau liền . Phần này dành cho bạn tự ngồi nghĩ. OK???
Quên mất, lúc nãy tôi đề cập đến lệnh break, nhưng chưa cho ví dụ, bây giờ chúng ta hãy xem xét ví dụ sau:
Các bạn biết rằng giai thừa là một con số lớn kinh khủng, và chương trình của chúng ta sẽ tính toán n giai thừa,
với số n được gửi đến theo địa chỉ url: http://dia_chi_trang_web_cua_ban/giaithua.php?n=xx (ở đó x là một số
do người dùng tự nhập)
Do giai thừa là một con số cực kỳ lớn, nên chúng ta chỉ cho phép người dùng tính đến tối đa là 8 giai thừa chẳng
hạn. Nếu họ nhập lớn hơn 8 thì sao? Hãy xem đây:
<HTML>
<?php
// Ghi lai voi ten file la giaithua.php
$giaithua=1;
$i=1;
while ( $i<=$n)
{
$giaithua*=$i;
$i+=1;
if ($i>8 )
{
echo ("Chi tinh den 8! <BR>");
break;
}
}
echo ("Ket qua la: ".$giaithua);
?>
</HTML>
Đoạn mã trên chỉ cho phép tính đến 8 giai thừa, nếu người dùng nhập một con số lớn hơn 8 thì máy sẽ hiển thị 8
giai thừa, còn nếu nhỏ hơn thì vẫn chạy tốt.
Vòng lặp for, với ý nghĩa đầu tiên là lặp với số lần định trước, có cấu trúc như sau:
Biểu thức $biến=giá_trị_đầu, đảm bảo biến được gán một giá trị khởi đầu (1)
Biểu thức $biến< (hay <=) giá_trị_kết_thúc, sẽ xác định xem biến đã đạt đến giá trị kết thúc (tức là điều kiện
lặp không còn đúng nữa) chưa (2)
Biểu thức tính toán tăng_biến_đếm đảm bảo để sau một số lần lặp nào đó thì biểu thức xác định điều kiện (2) sẽ
dẫn đến kết quả sai (để thoát khỏi vòng lặp).
Ví dụ:
for ( $i = 1; $i <10; ++$i)
{
echo ("Giá trị của biến \$i là: ".$i);
}
Một biến dạng khác của vòng lặp for, gần giống như lệnh rẽ nhánh if và while:
Ví dụ:
<?php
for ($i=1; $i<=10;++$i)
?>
<TR><TD> <INPUT type="text"> </TD></TR>
<?php
endfor
?>
OK, Như vậy các bạn đã học qua các lệnh cơ bản nhất của php, và cũng là các lệnh cơ bản của tất cả các ngôn
ngữ lập trình (gán, rẽ nhánh và lặp). Sau này nếu phải triển khai trên các ngôn ngữ lập trình khác, cách viết các
lệnh này có thể khác nhau, nhưng bản chất của chúng thì mãi mãi không bao giờ thay đổi.
Dữ liệu của người dùng từ trình duyệt sẽ được gửi lên máy chủ dưới dạng từng cặp biến=giá_trị và có thể đi theo
3 con đường khác nhau. Tuỳ theo từng con đường cụ thể, trên máy chủ ta cũng có các cách khác nhau để lấy dữ
liệu được gửi lên.. 3 con đường đó là: GET, POST và COOKIES. Vậy GET, POST và COKIES là gì?
http://www.phpvn.org/topic.php?TOPIC_ID=161
Khi đó, trình duyệt sẽ gửi theo địa chỉ trên một cặp biến = giá trị, trong đó biến có tên là TOPIC_ID và giá trị là
161 (TOPIC_ID=161).
Chúng ta cũng có thể đưa lên nhiều cặp biết=giá_trị bằng cách phân cách chúng bởi dấu &:
http://www.phpvn.org/index.php?method=Reply&TOPIC_ID=161&FORUM_ID=20
Với địa chỉ URL trên, chúng ta sẽ gửi lên 3 cặp biến=giá_trị theo phương thức GET, đó là: method=Reply,
TOPIC_ID=161 và FORUM_ID=20.
Khi trình duyệt gửi các thông tin này lên máy chủ, PHP sẽ tự động sinh ra một mảng có tên là
$HTTP_GET_VARS[] để nắm giữ tất cả các cặp biến và giá trị đó, trong đó, chỉ số của mảng chính là một chuỗi
mang tên của tên biến và giá trị của chỉ số đó chính là giá trị của biến do trình duyệt gửi lên. Ví dụ, với địa chỉ
URL sau:
http://www.phpvn.org/post.php?method=Reply&TOPIC_ID=161&FORUM_ID=20
Thì PHP sẽ tự động sinh ra một mảng $HTTP_GET_VARS có nội dung sau:
$HTTP_GET_VARS["method"] = "Reply" // tương ứng với cặp method=Reply
$HTTP_GET_VARS["TOPIC_ID"] = 161 // tương ứng với cặp TOPIC_ID=161
$HTTP_GET_VARS["FORUM_ID"] = 20 // tương ứng với cặp FORUM_ID=20
Sau đó, trong trang web của mình, các bạn có thể tha hồ sử dụng các biến này. Ví dụ, tôi làm một đoạn chương
trình sau để khi người dùng nhập vào biến user=sinh thì cho hiển thị "Hello, my Boss", còn nếu biến user khác
sinh thì "Hello " + giá trị của biến:
<?
// Hàm isset được sử dụng để kiểm tra xem một biến đã được thiết lập hay chưa
if (isset ($HTTP_GET_VARS["user"]))
{
if ($HTTP_GET_VARS["user"]=="sinh")
{
echo "Hello, my boss. Good morning!";
}
else
{
echo "Hello, " . $HTTP_GET_VARS["user"] . ". Good morning!";
}
}
else
{
echo "Hello, guest. How do you do?";
}
?>
OK, bây giờ hãy save lại. Giả sử tôi lưu với tên là welcome.php trong thư mục www. Mở trình duyệt lên, gõ vào ô
Address dòng chữ sau:
http://localhost/welcome.php?user=sinh
Hãy xem kết quả hiển thị trên màn hình, sau đó thay chữ sinh bằng một cái tên gì đó xem kết quả ra sao.
II. Phương thức POST
Post là phần dữ liệu được gửi qua các form HTML có method ="POST" (xin xem lại bài về HTML).
Để lấy các biến theo kiểu POST, PHP sẽ tự động sinh ra mảng có tên là $HTTP_POST_VARS[]. Mảng này có chỉ số
chính là tên của các phần tử trong form (các thẻ input, select... có thuộc tính name) và giá trị là nội dung giá trị
do người sử dụng nhập vào các phần tử có tên tương ứng. Chẳng hạn với mẫu biểu HTML sau:
<form method="POST">
<p>
User Name:<input type="text" name="T1" size="20"> </p>
<p>
Password:
<input type="password" name="T2" size="20"></p>
<p>Sex: <Select name ="sex">
<option value =1>Male </option>
<option value =0>Female </option>
</select>
</p>
<input type="submit" value="Gui di" name="B1">
</form>
Khi người dùng nhập user name (giả sử là Sinh), password (giả sử là 123456) và chọn sex là Male, khi đó, mảng
$HTTP_POST_VARS sẽ có các phần tử sau:
$HTTP_POST_VARS["T1"] = Sinh
$HTTP_POST_VARS["T2"] = 123456
$HTTP_POST_VARS["sex"] = 1
Sau khi lấy được các giá trị này rồi, các bạn có thể thoải mái sử dụng.
Đây là ví dụ một chương trình giải phương trình bậc nhất (cho nó đơn giản )
<form method="POST">
<p style="margin-top: 0; margin-bottom: 0">
Nhập a:<input type="text" name="a" size="20"></p>
<p style="margin-top: 0; margin-bottom: 0">Nhập b:<input type="text" name="b" size="20"></p>
<p style="margin-top: 0; margin-bottom: 0">
<input type="submit" value="Tính" name="B1"></p>
</form>
<?php
$a=0;
$b=0;
if (isset ($HTTP_POST_VARS["a"]))
{
$a =$HTTP_POST_VARS["a"];
}
if (isset ($HTTP_POST_VARS["b"]))
{
$b =$HTTP_POST_VARS["b"];
}
if ($a<>0)
{
echo "<BR>Nghiem la: " . $b/$a;Chỗ này là -$b/$a
}
else
{
if ($b==0)
{
echo "<BR>Vo so nghiem";
}
else
{
echo "<BR>Vo nghiem";
}
}
?>
Bây giờ hãy làm cốc cafe hoặc trà đá cho tỉnh táo.
Người ta thường dùng cookies để lưu trữ các thông tin có liên quan đến nhiều "phiên" làm việc khác nhau. Vi giao
thức HTTP là giao thức không lưu trạng thái (Mỗi khi xử lý xong một yêu cầu từ máy khách là nó phủi tay tự ngắt
kết nối luôn và chẳng thèm quan tâm đến máy khách làm gì ), nên cookies được sinh ra để làm nhiệm vụ lưu trữ
một số biến trạng thái để khắc phục nhược điểm này.
Khác với dữ liệu gửi từ form (Post hay Get) thì cookies sẽ được trình duyệt tự động gửi đi theo mỗi lần truy cập
lên máy chủ. Trong quá trình làm việc, cookie có thể bị thay đổi giá trị. Cookie sẽ bị vô hiệu hoá nếu cửa sổ trình
duyệt điều khiển cookie đóng lại và cookie hết thời gian có hiệu lực. Theo mặc định, thời gian "sống" của cookies
là tồn tại cho đến khi cửa sổ trình duyệt sử dụng
cookies bị đóng. Tuy nhiên người ta có thể thiết lập tham số thời gian để cookie có thể sống lâu hơn (6 tháng
chẳng hạn). Ví dụ như chế độ Remember ID & Password của 1 số trang web.
Cách ghi thông tin vào cookie và gửi xuống trình duyệt
Trong PHP, để gửi cookie xuống trình duyệt, ta có thể sử dụng hàm setcookie:
setcookie ( string name [, string value [, int expire [, string path [, string domain [, int secure]]]]])
Trong đó:
- string name: Chuỗi mang tên của cookie
- string value: Chuỗi mang giá trị của cookie tương ứng với tên đã cho
- int expire: Thời gian hết hạn của cookie
- string path: Đường dẫn của cookie (đến 1 thư mục nào đó trên máy chủ. Tham số này cho biết cookie sẽ chỉ
được truyền đi nếu như trang web mà trình duyệt yêu cầu nằm trên thư mục đó, thay vì lúc nào cũng phải gửi đi
tới bất kỳ khu vực nào).
- string domain: cookie này sẽ được gửi tới domain nào?
- int secure: Chế độ bảo mật.
Chú ý: Hàm setcookie phải được gọi trước khi bạn gửi bất kỳ một nội dung nào xuống trình duyệt:
Để lấy dữ liệu đã lưu trong cookies do trình duyệt gửi lên, ta có thể dùng mảng
$HTTP_COOKIE_VARS["tên_cookie"]
Chẳng hạn, với câu lệnh setcookie ở trên, sau khi trình duyệt gửi lên, ta sẽ có 2 biến sau:
$HTTP_COOKIE_VARS["ten_truy_cap"] // chứa giá trị "lan gio vo tinh"
$HTTP_COOKIE_VARS["password"] // chứa giá trị "thumotti".
Chi tiết hơn các bạn có thể xem trong PHP Manual.
Bài 11: Các thông tin khác liên quan đến trình duyệt và máy chủ.
« on: January 23, 2007, 01:19:48 AM »
Trong PHP, ngoài các thông tin trình duyệt gửi lên thông qua các con đường POST, GET, COOKIES, chúng ta cũng
có thể thu được một số thông tin khác có liên quan đến trình duyệt cũng như các thông số liên quan đến máy chủ
như: đường dẫn, địa chỉ IP, phiên bản... Các thông tin này được lưu trữ trong biến mảng $_SERVER (đối với các
phiên bản mới) hoặc $HTTP_SERVER_VARS (đối với các phiên bản cũ hơn bản 4.1.0):
$_SERVER['PHP_SELF']: Tên file nằm trên thư mục gốc của website. Ví dụ: biến $_SERVER['PHP_SELF'] trong
script đặt tại địa chỉ http://example.com/test.php/foo.bar sẽ là /test.php/foo.bar.
$_SERVER['SERVER_NAME']: Tên của máy chủ host, nơi mà đoạn script được thực thi. Nếu đoạn script này đang
chạy trên một host ảo thì giá trị này sẽ trả về tên host ảo đó.
$_SERVER['SERVER_SOFTWARE']: Chuỗi định danh của máy chủ, thường được cấp trong phần header khi trả lời
các yêu cầu từ máy khách.
$_SERVER['SERVER_PROTOCOL']: Tên và phiên bản của giao thức mà trang web yêu cầu. VD: 'HTTP/1.0';
$_SERVER['REQUEST_METHOD']: Loại yêu cầu được sử dụng để truy cập trang web. VD: 'GET', 'HEAD', 'POST',
'PUT'.
$_SERVER['QUERY_STRING']: Câu truy vấn (chứa các thông tin liên quan đến các biến và giá trị của phương thức
GET.
$_SERVER['DOCUMENT_ROOT']: Thư mục gốc của website, nơi mà file script đang được thực thi.
$_SERVER['HTTP_HOST']: Những nội dung liên quan đến Host header lấy từ yêu cầu hiện tại
$_SERVER['REMOTE_ADDR']: Địa chỉ của trình duyệt, nơi người sử dụng đang duyệt web.
$_SERVER['REMOTE_PORT']: Cổng được sử dụng trên máy khách (để kết nối tới web server).
$_SERVER['SCRIPT_FILENAME']: Đường dẫn tuyệt đối của file chứa script đang chạy
$_SERVER['SERVER_PORT']: Cổng của máy chủ web được mở để truyền dữ liệu. Mặc định là cổng 80.
$_SERVER['SERVER_SIGNATURE']: Chuỗi chứa phiên bản của máy chủ và tên host ảo (nếu được bật)
$_SERVER['PATH_TRANSLATED']: Đường dẫn file (không phải là thư mục gốc) dựa trên đường dẫn của đoạn
script.
$_SERVER['SCRIPT_NAME']: Chứa đường dẫn của file script. Thường dùng để trỏ đến chính nó.
$_SERVER['REQUEST_URI']: Địa chỉ URI (Định danh đối với các tài nguyên mạng, là một dạng thức mở rộng của
URL).
###GOOGLEADSN###
Hàm trong PHP
« on: February 07, 2007, 01:34:32 AM »
I. Khái niệm hàm
Trong lập trình, ta có thể hiểu hàm là một đoạn chương trình được xây dựng để thực hiện một chức năng nào đó.
Đoạn chương trình này chỉ cần phải viết duy nhất một lần, và có thể được sử dụng nhiều lần trong toàn bộ
chương trình.
Một hàm sẽ được xác định bởi tên hàm và các tham số đầu vào liên quan đến hàm đó. Thông thường, hàm sẽ trả
về một kết quả nào đó.
Như vậy một hàm sẽ nhận các thông tin đầu vào, xử lý nó và trả về kết quả nào đó.
Trong PHP có rất nhiều hàm đã được xây dựng sẵn mà chúng ta chỉ việc đem ra sử dụng, như các hàm xử lý
chuỗi, thời gian, xử lý tệp, thư mục...
Xét về bản chất, một ngôn ngữ lập trình chỉ có ba câu lệnh chính là gán, lặp và rẽ nhánh. Việc sắp xếp các câu
lệnh như thế nào để cho ra một kết quả gọi là một thuật toán (các bước để giải một bài tóan, đã được đề cập ở
những bài đầu tiên) hay giải thuật. Và một chương trình sẽ là sự kết hợp của giải thuật và các cấu trúc dữ liệu.
Để hỗ trợ các chương trình xử lý một số tình huống nào đó, người ta sử dụng các hàm.
Các câu lệnh write của Pascal hay câu lệnh echo của PHP thực chất phải được gọi là các hàm chứ không phải là
một câu lệnh.
Để giải thích rõ hơn khái niệm hàm, ta quay trở lại với "câu lệnh" echo quen thuộc:
Hàm echo(chuỗi) có tên là echo, tham số đầu vào là một chuỗi, và chức năng (kết quả mà nó trả về) là một dòng
chữ (được lưu trong biến chuỗi) được trả về trình duyệt.
Re: Hàm trong PHP
« Reply #1 on: February 07, 2007, 01:44:38 AM »
II. Các hàm dựng sẵn và các hàm do người dùng tự xây dựng
Các hàm dựng sẵn trong PHP (PHP Built-in functions) là các hàm đã được các nhà phát triển PHP cài đặt sẵn, và
chúng ta chỉ việc đem ra sử dụng. Cần phân biệt các hàm này với các hàm do người dùng tự cài đặt (user
functions). Các hàm do người dùng tự xây dựng chỉ có thể được dùng trong chương trình có chứa hàm đó. Khi
chuyển qua một ứng dụng khác, nếu chúng ta không viết lại các hàm đó thì chúng ta sẽ không thể sử dụng.
Một điểm mà tôi rất thích sử dụng PHP đó là PHP có một thư viện các hàm dựng sẵn vô cùng phong phú, đáp ứng
được hầu hết nhu cầu phát triển các ứng dụng web. Đó chính là lý do vì sao mà PHP được ưa chuộng hơn hẳn so
với ASP (chỉ có mấy cái đối tượng "quèn"). Các hàm dựng sẵn trong PHP cũng rất đơn giản, dễ dùng, và được chú
thích, cũng như hướng dẫn rất chi tiết trong tài liệu PHP Manual.
Trước khi đi vào xây dựng các hàm của riêng mình, chúng ta sẽ làm quen với một số hàm có sẵn trong PHP để
hiểu cách sử dụng các hàm. Trong "khóa học" này, tôi sẽ trình bày một số hàm thông dụng để xử lý chuỗi và thời
gian. Sau đó, tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách thức viết và sử dụng các hàm của riêng mình trên PHP
Chuỗi (xâu) và các hàm xử lý chuỗi trong PHP
« on: January 27, 2007, 05:29:30 AM »
1 addcslashes :Trích dẫn xâu kí tự với những vạch chéo trong kiểu C
*Cấu trúc :addcslashes(string with special characters);
3 bin2hex :Chuyển đổi dữ liệu dạng nhị phân sang dạng biểu diễn hệ hexa
*Cấu trúc :bin2hex(string);
6 chuck split : Tách một xâu thành các xâu nhỏ hơn
7 convert cyr string :Chuyển đổi từ một kí tự kirin sang một kí tự khác
14 get html translation table :Cho ra bảng dịch bằng cách sử dung các thủ tục
15 hebrev :Chuyển đổi văn ban logic khó hiểu sang văn ban trưc quan
16 hebrevc :Chuyển đổi văn ban logic khó hiểu sang văn ban trưc quan với sự chuyển đổi dòng mới
17 html entity decode :Chuyển đổi tấtcả cácthực thể HTML sang những kí tự có thể dùng được của chúng
18 htmlentities :Đổi tất cả các kí tự được sử dung sang các thực thể HTML
19 htmlspecialchars :Đổi những kí tự đặc biệt sang các thực thể của HTML
20 implode :Nối các phần tử của mảng với một xâu
str_repeat--Repeat a string
->Lặp lại một xâu
str_replace-- Replace all occurrences of the search string with the replacement string
->Thay thế tất cả các biến cố của xâu tìm kiếm với một xâu thay thế
(Rot-13 :Trong các nhóm tin của mạng USENET, đây là một kỹ thuật mật mã hoá đơn giản, nó làm dịch từng ký
tự đi 13 vị trí trong bảng chữ cái (cho nên e sẽ thành r). Mật mã rot- 13 được dùng cho mọi thông báo tin bất kỳ
nào có thể làm mất sự thú vị của một người nào đó (như) cách giải cho một trò chơi chẳng hạn hoặc xúc phạm
một số người đọc (như) bài thơ về tình dục chẳng hạn. Nếu người đọc cho giải mã thông báo tin này bằng cách
phát ra một lệnh thích hợp, thì người đọc đó - chứ không phải tác giả của thông báo - sẽ phải chịu trách nhiệm
đối với sự khó chịu do việc đọc thông báo gây ra.)
strchr--Alias of strstr()
->Bí danh của strstr()
strpos:Tìm vì trí xuất hiện đầu tiên của một xâu này trong xâu khác.
strrchr:Tìm kiếm vị trí xuất hiện cuối cùng của một kí tự trong xâu.
strrev:Đảo ngược một xâu.
strripos:Tìm vị trí cuối cùng của xâu này khiến nó khác một xâu cho trước.
strrpos:Tìm vị trí lần xuất hiện cuối cùng cùng của một kí tự trong một xâu.
strspn:Tính xem độ dài đoạn đầu của một xâu mà chứa toàn các kí tự thuộc xâu khác.
strstr:Lấy ra một đoạn của xâu từ vị trí xuất hiện kí tự cho trước.
substr_count:Tính số lần xuất hiện của một xâu này trong một xâu khác.
substr_replace:thay thế một đoạn văn bản trong phạm vi một đoạn của xâu kí tự.
wordswarp:chia xâu kí tự ra thành các sâu con nhờ một kí tự xác định.
Các hàm do người dùng tự định nghĩa
« on: February 07, 2007, 02:01:11 AM »
I. Xây dựng các hàm trong PHP
Trong PHP, chúng ta có thể tự xây dựng các hàm của mình. Trước khi sử dụng, chúng ta cần phải tiến hành cài
đặt hàm.
Cú pháp cài đặt một hàm có thể được tóm tắt như sau:
Trong đó:
- function là từ khóa,
- ten_ham là tên hàm do chúng ta tự đặt. Tên hàm thường sử dụng các ký hiệu chữ cái, chữ số và dấu gạch dưới.
- Các thamsoi là các tham số đưa vào. Các tham số khi khai báo thường ở dưới dạng các biến, còn khi sử dụng thì
có thể là biến, hằng, hay một giá trị nào đó. Một hàm có thể không có hoặc có nhiều tham số.
- Giá trị gia_tri sau từ khóa return là giá trị trả về sau khi gọi hàm. Giá trị này có thể là giá trị của một biến, hay
một giá trị cụ thể nào đó.
Ví dụ: Tôi xây dựng một hàm đơn giản để trả về dòng chữ "Xin chào":
function chao()
{
return "<B>Xin chào</B>";
}
Ví dụ 2: Tôi đưa ra một hàm phức tạp hơn chút đỉnh: Khi xây dựng các ứng dụng liên quan đến CSDL, ta thường
phải xuất dữ liệu ra một bảng nào đó.
Một bảng trong HTML được cấu thành từ các cặp thẻ <table>, <tr>, <td> lồng vào nhau, ở mức độ nhỏ nhất của
cấu trúc trên là một ô.
Một ô có thể có chứa thông tin (nằm giữa các cặp thẻ <td></td>), có thể chứa các thuộc tính định dạng
(style)... Việc ngồi gõ đi gõ lại mấy cái thẻ HTML đủ làm cho chúng ta phát chán.
Ở đây tôi sẽ xây dựng một hàm để tự động sinh ra nội dung của một ô. Hàm này có 2 tham số đầu vào dạng
chuỗi là nội dung và định dạng thẻ:
<?
function viet_o ($noidung,$dinhdang)
{
$td_tmp="<td " . $dinhdang . ">" . $noidung . "</td>";
return $td_tmp;
}
?>
Chúng ta có thể mở rộng ra các hàm khác để xử lý cột, bảng. Hãy xem xét toàn bộ đoạn mã sau:
<?
function viet_o ($noidung,$dinhdang)
{
$td_tmp="<td " . $dinhdang . ">" . $noidung . "</td>";
return $td_tmp;
}
<?
function viet_bang ($noidung,$dinhdang)
{
$td_tmp="<table " . $dinhdang . ">" . $noidung . "</table>";
return $td_tmp;
}
// Tạo một bảng tương tự ở trên nhưng dùng các hàm vừa xây dựng
$noidung = viet_cot(viet_o("STT","") . viet_o("Họ tên","") . viet_o ("Ngày sinh",""),"");
$noidung .=viet_cot(viet_o("1","") . viet_o("Lê Nguyên Sinh","") . viet_o ("01/04/2006",""),"");
$noidung .=viet_cot(viet_o("2","") . viet_o("Thử một tí","") . viet_o ("01/01/2007",""),"");
$noidung = viet_bang($noidung,"");
echo $noidung;
?>
Đoạn mã trên nhìn qua thì nó hơi dài, nhưng khi bạn xử lý với số lượng dữ liệu lớn thì nó sẽ trở nên ngắn gọn hơn
nhiều, nhất là ta có thể dùng vòng lặp để duyệt qua các hàng của một bảng.
Re: Các hàm do người dùng tự định nghĩa
« Reply #1 on: February 07, 2007, 09:46:24 PM »
II. Các tham số mặc định và các tham số tùy chọn
Khi đưa các tham số vào hàm, chúng ta có thể thiết lập các tham số mặc định. Các tham số này được đặt giá trị
ngay khi xây dựng hàm.
Ví dụ:
function viet_o ($noidung, $dinhdang="")
{
$td_tmp="<td " . $dinhdang . ">" . $noidung . "</td>";
return $td_tmp;
}
Nếu các tham số mặc định được đặt hết ở bên phải của danh sách tham số, khi triệu gọi hàm, chúng ta có thể bỏ
qua các tham số mặc định này. Tuy nhiên, nếu nó nằm giữa hay bên phải thì chúng ta không được phép bỏ qua.
Trong trường hợp các tham số mặc định được đặt ở bên trái, chúng ta có thể coi chúng như là các tham số tùy
chọn.
Với ví dụ trên, ta có thể gọi hàm viet_o theo một trong hai cách sau:
Để thiết lập hoặc lấy giá trị của các biến toàn cục, chúng ta có thể sử dụng 1 trong 2 cách sau đây:
Cách 1: Dùng khai báo GLOBAL để khai báo các biến toàn cục
Cách 2: Sử dụng mảng $GLOBALS["tên_biến_toàn_cục"].
Ví dụ:
<?
$x=1;
$y=3;
function cong ()
{
return $x+$y;
}
?>
Khi ta gọi hàm cong() ở trên sẽ cho ra kết quả bằng 0 (vì $x và $y lúc này được coi là biến cục bộ và có giá trị
bằng 0.
Cách 1:
<?
$x=1;
$y=3;
function cong ()
{
GLOBAL $x, $y
return $x+$y;
}
?>
Cách 2:
<?
$x=1;
$y=3;
function cong ()
{
return $GLOBALS["x"]+$GLOBALS["y"];
}
?>
Bài 17: Giới thiệu ngôn ngữ truy vấn CSDL SQL
« on: January 23, 2007, 02:09:05 AM »
I. Một số khái niệm cơ bản về CSDL
Cơ sở dữ liệu (database) có thể hiểu là nơi chứa dữ liệu. Có nhiều loại cơ sở dữ liệu khác nhau như cơ sở dữ
liệu quan hệ, CSDL hướng đối tượng, CSDL phân tán...
Hiện nay, trong phần lớn các ứng dụng, người ta thường sử dụng CSDL quan hệ.
Trong mô hình CSDL quan hệ, dữ liệu thường được chia thành các bảng có liên quan với nhau.
VD: ta có 2 bảng:
Bảng 1 chứa các thông tin về Mã hàng, tên hàng, ngày nhập hàng, giá nhập hàng
Bảng 2 chứa các thông tin về Mã hàng, ngày bán hàng, giá bán.
Hai bảng này có quan hệ với nhau thông qua mã hàng, tức là chỉ cần có mã hàng ở bảng 2, ta có thể tìm ra
tên hàng dựa trên mối liên hệ giữa mã hàng và tên hàng lưu ở bảng 1.
Hệ quản trị CSDL là chương trình dùng để quản lý một CSDL nào đó. Chẳng hạn như chương trình Access là
một hệ quản trị CSDL để quản lý CSDL Access. Thông thường thì tên của hệ quản trị CSDL gắn liền với tên
của loại CSDL. VD như: CSDL Access <-> Hệ quản trị CSDL Access, CSDL MySQL <-> Hệ quản trị CSDL
MySQL, CSDL Oracle <-> Hệ quản trị CSDL Oracle. Trong trường hợp này thì người ta thường nhầm lẫn giữa
khái niệm CSDL và cấu trúc (dạng nhị phân) của một CSDL do hệ quản trị CSDL quy định.
Người ta gọi các cột trong một bảng là các trường, các dòng trong một bảng là các bản ghi.
Mỗi trường sẽ có một kiểu dữ liệu xác định. Đó có thể là kiểu số, kiểu chuỗi, kiểu ngày tháng...
VD về một bảng có chứa thông tin người dùng. Bảng này sẽ có tên là NSD, các cột (trường) là: Ma_ND,
Ten_ND, Tuoi_ND, Matkhau_ND; trong đó Ma_ND có kiểu nguyên, Ten_ND có kiểu chuỗi, Tuoi_ND có kiểu
số, Matkhau_ND có kiểu chuỗi.
SQL là một ngôn ngữ được sử dụng trong các ngôn ngữ lập trình để truy vấn thông tin trong CSDL. Điểm
mạnh của ngôn ngữ này là cấu trúc đơn giản, có thể nhập lệnh vào dưới dạng các chuỗi văn bản, sau đó
chuyển câu lệnh tới các chương trình điều khiển trung gian để truy vấn dữ liệu rồi trả về cho chương trình.
Như vậy, mọi thao tác kết xuất, truy vấn hoàn tòan dễ dàng thông qua việc điều khiển chuỗi văn bản có
chứa câu lệnh SQL.
Bài viết này tập trung vào việc trình bày cú pháp của ngôn ngữ SQL, có thể sử dụng PHP để biểu diễn một
số thao tác để mọi người dễ dàng hình dung.
MySQL là một phần mềm quản trị CSDL mã nguồn mở, nằm trong nhóm LAMP (Linux - Apache -MySQL - PHP).
"Liên minh" mã mở này đang được coi là một đối trọng với các sản phẩm mã đóng "đắt vãi..." (vãi gì thì tôi không
biết ) của Microsoft (Windows, IIS, SQL Server, ASP/ASP.NET).
MySQL là một phần mềm quản trị CSDL dạng server-based (gần tương đương với SQL Server của Microsoft).
MySQL quản lý dữ liệu thông qua các CSDL, mỗi CSDL có thể có nhiều bảng quan hệ chứa dữ liệu.
MySQL có cơ chế phân quyền người sử dụng riêng, mỗi người dùng có thể được quản lý một hoặc nhiều CSDL
khác nhau, mỗi người dùng có một tên truy cập (user name) và mật khẩu tương ứng để truy xuất đến CSDL.
Khi ta truy vấn tới CSDL MySQL, ta phải cung cấp tên truy cập và mật khẩu của tài khỏan có quyền sử dụng
CSDL đó. Nếu không, chúng ta sẽ không làm được gì cả.
Các bước xây dựng chương trình có kết nối tới CSDL:
Thông thường, trong một ứng dụng có giao tiếp với CSDL, ta phải làm theo bốn trình tự sau:
Bước 1: Thiết lập kết nối tới CSDL.
Bước 2: Lựa chọn CSDL.
Bước 3: Tiến hành các truy vấn SQL, xử lý các kết quả trả về nếu có
Bước 4: Đóng kết nối tới CSDL.
Nếu như trong lập trình thông thường trên Windows sử dụng các chương trình điều khiển trung gian (ADO,
ODBC...) để thực hiện kết nối và truy vấn, thì trong PHP, khi lập trình tương tác với CSDL, chúng ta thường sử
dụng thông qua các hàm.
Chú ý: Trước khi sử dụng PHP để lập trình với MySQL, hãy sử dụng chương trình quản lý phpMyAdmin để tạo
trước một CSDL, vài bảng cũng như người dùng... để tiện thực hành. Bài hướng dẫn sử dụng phpMyAdmin sẽ
được trình bày sau.
Trong bài viết này, tôi sử dụng MySQL chạy trên nền máy chủ localhost, người sử dụng của CSDL này có
username là mysql_user, mật khẩu là mysql_password
Thiết lập kêt nối tới MySQL.
<?php
$link = mysql_connect("localhost", "mysql_user", "mysql_password");
if (!$link)
{
echo "Không thể kết nối được tới CSDL MySQL";
}
?>
Để lựa chọn một CSDL nào đó mà người sử dụng có tên là tên_truy_cập" có quyền sử dụng, ta dùng hàm
mysql_select_db:
mysql_select_db (tên_CSDL);
Hàm này thường được dùng sau khi thiết lập kết nối bằng hàm mysql_connect. Hàm này trả về true nếu thành
công, false nếu thất bại.
VD:
<?php
$link = mysql_connect("localhost", "mysql_user", "mysql_password");
if (!$link)
{
echo "Không thể kết nối được tới MySQL";
}
if (!mysql_select_db ("Forums"))
{
echo "Không thể lựa chọn được CSDL Forums";
}
?>
Ví dụ:
<?php
$link = mysql_connect("localhost", "mysql_user", "mysql_password");
if (!$link)
{
echo "Không thể kết nối được tới MySQL";
}
mysql_close($link);
?>
Thực hiện các truy vấn thêm, xóa, sửa bản ghi thông qua câu lệnh SQL
« on: January 25, 2007, 01:40:54 AM »
Trong bài viết này, tôi sử dụng MySQL chạy trên nền máy chủ localhost, người sử dụng có username là
mysql_user, mật khẩu là mysql_password.
CSDL có tên là CMXQ_Forum, trong đó có một bảng là CMXQ_Users để lưu thông tin về những thành viên của
diễn đàn. Bảng CMXQ_Users có các trường sau:
User_ID: Autonumber.// mã số của người dùng
User_Name: Varchar [20] // tên truy cập của người dùng
User_Pass: Varchar[64] //mật khẩu của người dùng
User_IP: Varchar [15] //Địa chỉ IP của người dùng.
User_Post: Number // Số bài viết của người dùng.
Bây giờ tôi sẽ tiến hành một số thao tác thêm, sửa và xóa dữ liệu trên bảng đó. Xin xem lại bài Căn bản về SQL.
Để thực thi một câu lệnh SQL bất kỳ trong PHP tác động lên MySQL, ta dùng hàm mysql_query
(chuỗi_câu_lệnh_SQL)
I. Thêm một bản ghi vào bảng.
Ví dụ tôi muốn chèn thêm một người sử dụng có User_Name là "CMXQ", User_Pass là "123456", User_Post=0 ta
làm như sau:
<?
$sql = "INSERT INTO CMXQ_Users (User_Name, User_Pass) VALUES ("CMXQ","123456",0);
mysql_query ($sql);
?>
II. Xóa một bản ghi khỏi bảng.
Trong trường hợp này, ta sử dụng câu lệnh SQL DELETE FROM:
VD: tôi muốn xóa khỏi bảng CMXQ_Users tất cả những người có User_Name="CMXQ":
<?
$sql = "DELETE FROM CMXQ_Users WHERE User_Name='CMXQ'";
mysql_query ($sql);
?>
III. Sửa thông tin của bản ghi trong bảng.
Trong trường hợp này, tôi sử dụng cú pháp UPDATE:
VD: Tôi muốn cập nhật địa chỉ IP cho người có User_Name="CMXQ" với địa chỉ IP được lấy từ trình duyệt:
<?
$sql = "UPDATE CMXQ_Users SET User_IP ='" . $_SERVER['REMOTE_ADDR'] . "' Where User_Name='CMXQ'";
mysql_query ($sql);
?>
(Biến $_SERVER['REMOTE_ADDR'] chứa địa chỉ IP của trình duyệt. Xin xem lại ở bài trước)
Sử dụng SQL để truy vấn dữ liệu trong PHP
« on: January 26, 2007, 01:02:14 AM »
Phần trước các bạn đã biết sử dụng SQL để tạo, xóa, sửa dữ liệu trong một bảng, cũng như đã biết cách sử dụng
câu lệnh SQL để truy vấn dữ liệu từ các bảng. Tuy nhiên, sau khi có được câu lệnh SQL rồi, ta phải làm thế nào
để hiển thị, xử lý dữ liệu đó? Bài viết này đề cập đến một số kỹ thuật có liên quan đến việc truy vấn dữ liệu,
chẳng hạn như cách lấy dữ liệu, sắp xếp dữ liệu, phân trang dữ liệu...
Re: Sử dụng SQL để truy vấn dữ liệu trong PHP
« Reply #1 on: January 30, 2007, 08:32:38 AM »
Câu lệnh SELECT
Câu lệnh SELECT được dùng để truy xuất dữ liệu từ một bảng. Kết quả trả về dưới dạng bảng được lưu trong 1
bảng, gọi là bảng kết quả - result table (còn được gọi là tập kết quả - result set).
Cú pháp
SELECT tên_các_cột
FROM tên_bảng
Ví dụ, để truy xuất các cột mang tên LastName và FirstName từ một bảng có tên là Persons, ta dùng một câu
lệnh SELECT như sau:
Mệnh đề WHERE được dùng để thiết lập điều kiện truy xuất.
Để truy xuất dữ liệu trong bảng theo các điều kiện nào đó, một mệnh đề WHERE có thể được thêm vào câu lệnh
SELECT.
Phép toán Mô tả
= So sánh bằng
<> So sánh không bằng
> Lớn hơn
< Nhỏ hơn
>= Lớn hơn hoặc bằng
<= Nhỏ hơn hoặc bằng
BETWEEN Nằm giữa một khoảng
LIKE So sánh mẫu chuỗi
Lưu ý: Trong một số phiên bản của SQL, phép toán <> có thể được viết dưới dạng !=
Ví dụ để lấy danh sách những người sống ở thành phố Sandnes, ta sử dụng mệnh đề WHERE trong câu lệnh
SELECT như sau:
SELECT * FROM Persons
WHERE City = 'Sandnes'
Re: Sử dụng SQL để truy vấn dữ liệu trong PHP
« Reply #3 on: January 30, 2007, 08:36:56 AM »
Tóan tử AND và OR
Hai toán tử AND và OR nối hai hoặc nhiều điều kiện trong mệnh đề WHERE lại với nhau.
Toán tử AND sẽ hiển thị 1 dòng nếu TẤT CẢ các điều kiện đều thoả mãn. Toán tử OR hiển thị một dòng nếu BẤT
KỲ điều kiện nào được thoả.
Ví dụ: Sử dụng kết hợp AND và OR cùng với dấu ngoặc đơn để tạo nên các câu truy vấn phức tạp:
Từ khoá DISTINCT được dùng để lọc ra các giá trị khác nhau.
Câu lệnh SELECT sẽ trả về thông tin về các cột trong bảng. Nhưng nếu chúng ta không muốn lấy về các giá trị
trùng nhau thì sau?
Với SQL, ta chỉ cần thêm từ khoá DISTINCT vào câu lệnh SELECT theo cú pháp sau:
Ví dụ: Tìm tất cả các công ty trong bảng đặt hàng, câu lệnh SQL thông thường sẽ như sau:
Để tìm tất cả các công ty khác nhau trong bảng đặt hàng, ta sử dụng câu lệnh SQL sau:
Ở bài trước, chúng ta đã biết cách dùng hàm mysql_query() để tiến hành các truy vấn sửa, thêm và xóa. Bài này
tập trung vào việc ứng dụng PHP để lấy thông tin từ CSDL.
Qua những phần ở trên, chúng ta đã biết cách làm việc với các câu truy vấn SELECT. Bây giờ, kết hợp với hàm
mysql_query() để lấy thông tin.
VD: Để lấy tất cả các bản ghi trong bảng "Members", ta sẽ gọi hàm mysql_query() như sau:
<?
mysql_query ("Select * from Members")
?>
Vấn đề là khi thực hiện truy vấn này, dữ liệu sẽ được trả về dưới dạng một bảng. Ta sẽ tiến hành lấy từng dòng
của bảng đó ra dưới dạng một mảng (sử dụng hàm mysql_fetch_array()), tiếp đó, việc xử lý các phần tử của
mảng đó như thế nào là tùy ý các bạn.
Xem ví dụ sau:
<?php
$result = mysql_query("SELECT id, name FROM mytable");
while ($row = mysql_fetch_array($result, MYSQL_ASSOC))
{
printf ("ID: %s Name: %s", $row["name"]);
}
mysql_free_result($result);
?>
Đoạn lệnh trên lặp duyệt qua bảng kết quả result, đối với mỗi dòng của bảng, hàm mysql_fetch_array() sẽ đảm
nhiệm việc tách dòng đó rồi đưa vào một mảng có tên là $row. Mỗi phần tử của mảng này sẽ là giá trị của cột có
tên tương ứng.
Re: Sử dụng SQL để truy vấn dữ liệu trong PHP
« Reply #7 on: April 21, 2007, 11:12:05 AM »
Như vậy, trước khi xác định dữ liệu cần lấy là gì, chúng ta phải thiết kế câu truy vấn SQL sao cho hợp lý và đảm
bảo rằng truy vấn đó chỉ lấy ra những thông tin gì cần sử dụng. Nếu lấy ra nhiều quá sẽ gây quá tải hệ thống dẫn
đến treo máy.
Sau khi đã có được câu truy vấn SQL, ta chỉ việc kết hợp với hàm mysql_query() để trả kết quả về dưới dạng một
biến nào đó.
Phần tiếp theo, chúng ta sẽ dùng một hàm có tên là mysql_fetch_array () để lấy từng dòng dữ liệu ra để xử lý.
Thông thường, ta dùng MYSQL_ASSOC để sử dụng chỉ số bằng tên các trường.
Re: Sử dụng SQL để truy vấn dữ liệu trong PHP
« Reply #8 on: April 21, 2007, 11:21:08 AM »
Khi truy vấn CSDL MySQL, ta có thể sử dụng thêm một số hàm phụ trợ:
mysql_num_rows(biến kết quả): trả về số các dòng lấy được từ biến kết quả.
VD:
<?php
$link = mysql_connect("localhost", "mysql_user", "mysql_password");
mysql_select_db("database", $link);
$result = mysql_query("SELECT * FROM table1", $link);
$num_rows = mysql_num_rows($result);
echo "Có $num_rows bản ghi được tìm thấy\n";
?>
Tương tự ta có:
mysql_num_fields (biến kết quả): Trả về số trường (cột) trong tập kết quả
mysql_affected_rows (): Trả về số bản ghi bị ảnh hưởng bởi các câu lệnh SQL INSERT, UPDATE, DELETE.
Ví dụ:
<?php
mysql_pconnect("localhost", "mysql_user", "mysql_password") or
die ("Could not connect");
mysql_query("DELETE FROM mytable WHERE id < 10");
printf ("Số bản ghi bị xóa: %d\n", mysql_affected_rows());
?>
mysql_data_seek ( nguồn kết quả, dòng cần truy cập): Hàm này chuyển con trỏ dòng của nguồn kết quả
đến một dòng nào đó. Dòng đầu tiên trong bảng kết quả được đánh số là 0, dòng cuối cùng chính là
mysql_num_rows()-1. Hàm trả về TRUE nếu thành công, ngược lại là FALSE
Chú ý rằng hàm này chỉ sử dụng cùng với hàm mysql_query
Ví dụ:
<?php
$link = mysql_pconnect("localhost", "mysql_user", "mysql_password")
or die("Could not connect");
mysql_select_db("samp_db")
or exit("Could not select database");
if(!($row = mysql_fetch_object($result)))
continue;
mysql_free_result($result);
?>
Xử lý XML
« on: January 08, 2008, 04:49:46 AM »
PHP5 cung cấp class SimpleXML là một class rất dễ sử dụng, bài này sẽ hướng dẫn các bạn parse file XML trong 7
nốt nhạc.
Đầu tiên, lấy một đoạn XML mẫu để tập tành phân tích:
Code:
<?xml version="1.0"?>
<books>
<book isbn="978-1594489501">
<title>A Thousand Splendid Suns</title>
<author>Khaled Hosseini</author>
<publisher>Riverhead Hardcover</publisher>
<amazon_price>14.27</amazon_price>
</book>
<book isbn="978-1594489587">
<title>The Brief Wondrous Life of Oscar Wao</title>
<author>Junot Diaz</author>
<publisher>Riverhead Hardcover</publisher>
<amazon_price>14.97</amazon_price>
</book>
<book isbn="978-0545010221">
<title>Harry Potter and the Deathly Hallows</title>
<author>J. K. Rowling</author>
<publisher>Arthur A. Levine Books</publisher>
<amazon_price>19.24</amazon_price>
</book>
</books>
Để tạo ra một đối tượng SimpleXmlElement, cách đơn giản là truyền vào một chuỗi hoặc một file:
Code:
// Passing the XML
$books = SimpleXMLElement($XmlData);
//-------------------
// Passing a filename
$books = SimpleXMLElement('books.xml', null, true);
Nhìn vào đoạn XML ví dụ, ta sẽ lấy ra tất cả các book hay của Amazon:
Code:
<?php
// load SimpleXML
$books = new SimpleXMLElement('books.xml', null, true);
echo <<<EOF
<table>
<tr>
<th>Title</th>
<th>Author</th>
<th>Publisher</th>
<th>Price at Amazon.com</th>
<th>ISBN</th>
</tr>
EOF;
foreach($books as $book) // loop through our books
{
echo <<<EOF
<tr>
<td>{$book->title}</td>
<td>{$book->author}</td>
<td>{$book->publisher}</td>
<td>${$book->amazon_price}</td>
<td>{$book['isbn']}</td>
</tr>
EOF;
}
echo '</table>';
?>
Bạn để ý rằng $books (có chữ 's' nhé) là một Element do khái niệm mỗi một file XML thì phải có root element. Vì
thế, đừng mong đợi có đối tượng SimpleXml không nhé . Mỗi element có thể có nhiều element con cùng loại
hay khác loại, ví dụ này là cùng loại 'book' và class SimpleXmlElement này cho phép ta duyệt qua các element
con cùng loại như một array như ví dụ foreach() ở trên.
Cuối cùng, nói về cú pháp truy cập child element và attribute. Bác nào chưa biết khái niệm này nữa thì:
Code:
<book isbn="978-1594489501">
<title>A Thousand Splendid Suns</title>
<author>Khaled Hosseini</author>
<publisher>Riverhead Hardcover</publisher>
<amazon_price>14.27</amazon_price>
</book>
isbn là một attribute, các giá trị của một attribute phải để trong dấu (")
<title>, <author>,... là các child element
Chỉ giải thích tới đây thôi, bác nào có ý định ngâm cứu XML, XML Schema,... thì 5s gợi ý là nên ... từ bỏ ý định
ngông cuống thừa thời gian này đi vì có cả năm may ra học mới xong mà học từ tháng 1-12 thì tới tháng 12 sẽ
quên tháng 1 . Cứ việc coi nó như khái niểm HTML đã học rồi xài cho thoải mái nhá.
Quay về cú pháp, lại coi ví dụ 'simple' trên: $book->title là truy cập child element trong khi $book['isbn'] là truy
cập attribute. Done!!!
Ví dụ trên, nếu bạn không thích dụng foreach thì có thể dùng biến counter $i, viết lại là $tempBook = $books-
>book[$i] rồi dùng $tempBook để xử lý.
XPath đơn giản là cách chỉ ra đường dẫn "path" trong 1 XML document thông qua các element cha/con theo cú
pháp giống như thư mục của linux: /home/user/... Xpath giúp bạn lọc ra các child element trong các element cha
cùng loại, gom lại thành mảng và xử lý.
Ví dụ sau giúp bạn lấy ra tất cả các title của book và tất cả các số ISBN:
Code:
$titles = $books->xpath('book/title');
foreach($titles as $title)
{
echo $title.PHP_EOL;
}
//////////////////////////////////////////////
$isbn = $books->xpath('book/@isbn');
foreach($isbn as $isbn)
{
echo $isbn.PHP_EOL;
}
EOF;
}
?>
Cuối cùng,một vài thuộc tính của đối tượng SimpleXmlElement các bạn sẽ quan tâm:
$value = trim((string) $element); // Bản thên element nó là XML, bạn lấy giá trị của element thì ép kiểu
về string
$attributes = $element->attributes(); // lấy tất cả các attribute
$children = $element->children(); // lấy các child element
LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« on: September 23, 2007, 08:43:43 PM »
Hiện nay, để xây dựng các hệ thống lớn, điều tối quan trọng là phải làm cách nào để có thể tích hợp dữ liệu để từ
đó có thể dùng chung giữa các hệ thống khác nhau. Trong đó, tích hợp tài khoản của người sử dụng là vấn đề cần
thiết nhất trong những cái "tối quan trọng" trên.
Hãy tưởng tượng một hệ thống với khoảng 5 - 6 mô đun khác nhau, mỗi mô đun lại được thiết kế trên một nền
tảng khác nhau (Có ông thì dùng Oracle + AS Portal, có người thì xài DB2 với WebSphere, lão khác thì MySQL với
phpnuke, ông thì xài Wíndow, lão thì cài Linux, có thằng điên lại chỉ thích Unix...hic, cuộc đời thật đúng là bể
khổ), do đó cần có một hệ thống người dùng khác nhau. Vậy thì với mỗi mô đun, người sử dụng cần phải có một
User Name, một mật khẩu khác nhau, đó là điều không thể chấp nhận được. Người dùng chẳng mấy chốc mà
chán ghét hệ thống.
Làm cách nào để có thể tích hợp được người dùng giữa các hệ thống trên? Câu trả lời đó là LDAP.
LDAP - viết tắt của Lightweight Directory Access Protocol, hay dịch ra tiếng Việt có nghĩa là giao thức truy cập
nhanh các dịch vụ thư mục.
• Là một giao thức tìm, truy nhập các thông tin dạng thư mục trên server.
• Nó là giao thức dạng Client/Server dùng để truy cập dịch vụ thư mục.
• LDAP chạy trên TCP/IP hoặc các dịch vụ hướng kết nối khác.
• Là một mô hình thông tin cho phép xác định cấu trúc và đặc điểm của thông tin trong thư mục.
• Là một không gian tên cho phép xác định cách các thông tin được tham chiếu và tổ chức
• Một mô hình các thao tác cho phép xác định các tham chiếu và phân bố dữ liệu.
• Là một giao thức mở rộng
• Là một mô hình thông tin mở rộng.
Ở đây chúng ta cần tránh hiểu nhầm từ "thư mục" như trên Windows là folder hay directory, đó là thư mục theo
nghĩa hẹp để quản lý hệ thống tệp tin. Từ thư mục trong LDAP mang ý nghĩa rộng hơn, nó bao hàm các cấu trúc
dữ liệu dạng liệt kê theo thư mục (hay mục lục) - một "từ khoá" của dân thư viện nhằm ám chỉ cách thức sắp xếp
dữ liệu để tiện truy xuất nhất.
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #1 on: September 23, 2007, 09:03:23 PM »
Làm việc với LDAP thông qua PHP
Trình tự cơ bản khi có thao tác với LDAP gồm các bước
• Connect (kết nối với LDAP)
• Bind (kiểu kết nối: nặc danh hoặc đăng nhập xác thực)
• Search (tìm kiếm)
• Interpret search (xử lý tìm kiếm)
• Result (kết quả)
• Close connection (đóng kết nối)
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #2 on: September 23, 2007, 09:08:21 PM »
Ldap_connect():
hàm kết nối tới máy chủ LDAP, hàm này có 2 tham số: hostname (tên máy chủ LDAP) và port (cổng kết nối, mặc
định là cổng 389)
Ldap_connect(string hostname, int port);
Code:
<?php
// LDAP variables
$ldaphost = "ldap.example.com"; // your ldap servers
$ldapport = 389; // your ldap server's port number
// Connecting to LDAP
$ldapconn = ldap_connect($ldaphost, $ldapport)
or die("Không thể kết nối được đến $ldaphost");
?>
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #3 on: September 23, 2007, 09:09:33 PM »
Ldap_bind();
Hàm nối kết với server LDAP để có thể thao tác với LDAP
Vd kết nối với LDAP server bằng user và password hợp lệ
Code:
<?php
if ($ldapconn) {
// verify binding
if ($ldapbind) {
echo "LDAP bind successful...";
} else {
echo "LDAP bind failed...";
}
?>
if ($ldapconn) {
// binding anonymously
$ldapbind = ldap_bind($ldapconn);
if ($ldapbind) {
echo "LDAP bind anonymous successful...";
} else {
echo "LDAP bind anonymous failed...";
}
?>
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #4 on: September 23, 2007, 09:10:48 PM »
ldap_search();
ldap_search ( resource link_identifier, string base_dn, string filter [, array attributes [, int attrsonly [, int sizelimit
[, int timelimit [, int deref]]]]] )
VD tìm kiếm các thông tin của tất cả mọi người ở trong “My Company” nơi surname hoặc given name chứa trong
biến $person. Ví dụ này yêu cầu server tìm ra thông tin của nhiều hơn một thuộc tính cần tìm kiếm.
Code:
<?php
// $ds is a valid link identifier for a directory server
Hàm đóng kết nối với LDAP, hàm này tương đương với ldap_unbind();
bool ldap_unbind ( resource link_identifier );
Nếu kết nối đóng thành công sẽ trả về giá trị TRUE, ngược lại là FALSE.
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #6 on: September 24, 2007, 12:43:14 AM »
ldap_add();
Code:
<?php
$ds = ldap_connect("localhost"); // assuming the LDAP server is on this host
if ($ds) {
// bind with appropriate dn to give update access
$r = ldap_bind($ds, "cn=root, o=My Company, c=US", "secret");
// prepare data
$info["cn"] = "John Jones";
$info["sn"] = "Jones";
$info["mail"] = "jonj@example.com";
$info["objectclass"] = "person";
ldap_close($ds);
} else {
echo "Unable to connect to LDAP server";
}
?>
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #7 on: September 24, 2007, 12:44:10 AM »
ldap_delete();
Code:
bool ldap_delete ( resource link_identifier, string dn )
Hàm trả về giá trị TRUE nếu xóa thành công và FALSE nếu thất bại
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #8 on: September 24, 2007, 12:44:52 AM »
ldap_compare();
VD:
Code:
<?php
if ($ds) {
// bind
if (ldap_bind($ds)) {
// prepare data
$dn = "cn=Matti Meikku, ou=My Unit, o=My Company, c=FI";
$value = "secretpassword";
$attr = "password";
// compare value
$r=ldap_compare($ds, $dn, $attr, $value);
} else {
echo "Unable to bind to LDAP server.";
}
ldap_close($ds);
} else {
echo "Unable to connect to LDAP server.";
}
?>
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #9 on: September 24, 2007, 01:07:52 AM »
Ldap_count_entries();
Đếm số lượng các entry được tìm thấy từ kết quả của lệnh tìm kiếm.
trả lại thông báo lỗi LDAP của lệnh LDAP cuối cùng.
string ldap_error ( resource link_identifier )
Re: LDAP (Lightweight Directory Access Protocol)
« Reply #11 on: September 24, 2007, 01:09:51 AM »
ldap_first_attribute();
hàm trả lại thuộc tính đầu tiên của entry
Chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu khái niệm về tệp ảnh là gì và nó đuợc diễn đạt qua máy vi tính như thế nào. Một
tệp ảnh chẳng khác nào là một tập hợp của nhiều pixel hay dots bởi một màu sắc nhất định nào đó.
Mọi hình ảnh đều có dạng hình chử nhật (rectangular) và có cạnh dài và ngắn nhất định, đuợc tạo bởi một matrix
của pixels. 100 hình mỗi hình có 300 pix sẽ có tổng số pix là 30000 pixels. Trong php, hình ảnh là một hệ thống
liên hợp (coordinate). Ví dụ: x bằng 300 và y bằng 100.
Ở góc độ trên bên trái của hình nó sẽ luôn là (0,0). Giá trị của x tăng dần theo khi kéo chéo một đường từ góc
trái xuống góc phải đối diện (x,y), cũng như giá trị y tăng dần khi kéo một đường thẳng từ trên xuống
dưới(0,y).Khi cho nội dung bất kỳ vào khung ảnh nó luôn liên quan tới góc độ trái phía bên trên. Nhìn ví dụ trên,
góc liên hợp (180, 50) đựơc đóng lại phía tay phải của tệp hình, khoảng giữa đổ xuống.
Làm một ví dụ tương tự trong đời sống, để xem hình ảnh đựơc diễn tả như thế nào. Bạn hãy tưởng tượng bạn đặt
100 con cá màu vàng vào một ô có chiều cao là 10 và chiều dài cũng là 10, căn bản bạn sẽ thấy một hình vuông
màu vàng. Bây giờ bạn thử thay vào đó vài con cá khác màu xanh theo dạng hình chữ H bạn sẽ nhận ra ngay chữ
H xanh trong một khung hình vàng. Chúc mừng bạn, bạn đã tạo một tệp ảnh động rồi đó...
Một điểm cần chú ý nữa đó là transparency (vô sắc).Transparency có khả năng tẩy „clear“ pixel. Trong trường hợp
bạn muốn giấu mấy con cá vàng, bạn chỉ cần đổi chúng thành vô sắc, sau đó bạn chỉ còn thấy chữ H màu xanh
bao bọc bởi một màu trắng do transparency kết nối lại với nhau.
Image-formate
Cấu trúc, được html hiện thị lên web-site để biểu diễn hình ảnh luôn là một liên đới tĩnh (relativ statisch ). Dạng
hình đã thay đổi chút ít trong những năm qua. 3 dạng hình quan trọng thường đựơc dùng là gif, jpeg, png.
GIF được viết tắc từ Graphics Interchange Format. Vài năm trước đây gif rất được sử dụng phổ biến, bởi tính năng
vô sắc ( transparency ) của nó. Dạng màu của Gif được kết hợp bởi 8-bit, do đó bạn chỉ có thể có 256 màu trong
một tệp ảnh duy nhất.
Do ảnh hưởng của sức chứa màu, ảnh Gif chủ thích hợp với những khung có diện tích lớn.
Trong những năm gần đây Unisys Corporation, chủ quyền của LZW compression, người toàn quyền về việc sử
dụng dạng hình gif, đã mất quyền chuyên giữ (patent) vào khoảng tháng 6 2003, nên giới sử dụng dạng gif cũng
giảm xuống rất nhiều.
JPEG, Joint Photographic Experts Group, một dạng hình thích hợp cho ảnh chụp.Dạng jpeg không có vô sắc màu,
nên nó không thích hợp với các toolbars hay Form không có góc cạnh.
PNG, Portable Network Graphics, một dạng dình mới được hổ trợ bởi nhiều trình duyệt. PNG có nhiều điểm lợi gần
như của gif cộng cả tính vô sắc màu. Điểm cần chú ý PNG không biểu hiện rỏ ràng trên trình duyệt của netscape
4, nhưng mọi trình duy hiện tại đều diễn đạt tốt. Bạn nên thử loại hình này trong mọi trình duyệt xem nó có thích
ứng không.
Thủ thuật biến đỏi ảnh bằng PHP
GD là một ANSI-C thư viện cho việc tạo lập hình ảnh động. Tương tự như php, thư viện gd là một mã nguồn mở
của boutell.com bạn có thể vào đây để tải nó xuống nếu trong php chưa có thư viện này ( tôi nghĩ rằng không,
php đã cài sẳn nó rồi, cảm ơn trời phật :-))
Installation thư viện GD: chỉ nói ngắn gọn.
xem trong file php.ini. Tìm dòng ;extension=php_gd2.dll bỏ dấu „ ; „ và start apache là ok. Muốn cho chắc chắn
thì vào trình duyệt gọi tệp này <?php phpìno() ; ?> xem tv GD đã bật chưa.
GD-API bao gồm nhiều function, giúp bạn tạo, sửa các tệp tin hình ảnh qua lập trinh php.API rất bao la và không
chỉ vỏn vẹn trong phần tạo ứng nhỏ trong bài này. Chúng ta tập trung vào 4 điểm quan trọng :
-Phương thức cơ bản (basic funtions)
-Sảo thuật màu (color manipulation)
-Vẽ hình (drawing primitive shapes)
-Vẽ chữ ( working with text)
Truy tìm kích thước của tệp ảnh ( Finding an Image's Size)
Rất nhiều điểm lợi khi ứng dụng web cho ta biết kích thước của ảnh. Chúng ta có thể sử dụng thông tin này:ví dụ
cần kích thước chính xác của ảnh để làm một popup-window cho một thư viện ảnh hoặc đặt ảnh theo chiều cao,
rộng trong <img>tag.
Array getimagesize ( string filename [, array imageìno])
funtion getimagesize() trả về cho ta 4 phần tử (elements) array là:
element 0: độ ngang của ảnh trỏ về tham số pixels của tệp ảnh
element 1: độ cao của ảnh trỏ về tham số pixels của tệp ảnh
element 2: trị số (interger) tương đương cho loại ảnh (typ image) (1=gif, 2=JPG, 3=PNG)
element 4: chuỗi gắn thêm (add) vào <img>tag để biểu hiện độ cao rộng, vd: „height=100 width=200“
Tham số (parameter) của tệp ảnh dự bị được chuyển đưa đến dãy array nhằm lấy thêm những thông tin của ảnh.
Khi họat động nó trả lại một JPG APP (nhờ thằng google nó giải thích giùm là cái gì nhá) khác nằm trong một
associative array.
Truy lùng độ phân giả cao rộng ( retrieving the width and height)
Nếu chúng ta cần đến độ cao rộng của ảnh chúng ta không cần đo thông tin ảnh trong mãng array một cách khó
khăn.
Chúng ta có thể sử dụng funtion imagesx() và imagey() để truy tìm độ cao rộng của tệp ảnh.
Int imagex ( resource image)
Int imagey ( resource image)
Như đã thấy funtions imagex và imagey trả cho ta giá trị của độ cao và rộng của tệp ảnh. Cũng cần lưu ý function
này không giống như function getimagesize trên. 2 functions này chỉ lấy nguồn ảnh (resource) , chứ không phải
đường dẫn của ảnh (file path). Muốn tạo ảnh bạn nên dùng funtion imagecreate() trước sau đó đến 2 function
imagex() và imagey() để lấy tham số của ảnh do imagecreate() tạo.
//create new image for thumbnail 1/8 the size of the original
$thumb = imagecreate($imgsz[0]/8, $imgsz[1]/8);
//get the image size of the thumbnail for use in the HTML below
$thumbsz = getimagesize("goldengate_thumb.png");
Ngoài cách sử dụng những function trên khi đã có một nguồn ảnh bạn cũng sẽ muốn biến đổi chúng đôi chút thay
vì chỉ bóp ảnh nhỏ lại. Có lẽ bạn đã ít nhiều quen biết với nhiều loại màu sắc.Như cấu trúc của html, thư viện GD
xem màu sắc như một màu tổng hợp bởi xanh, đỏ, vàng. Chúng ta có thể hoán đổi giá trị màu qua thông số
hexadecimal biến chúng thành một màu thích hợp. Màu ở dạng html số đầu có hai digits là đỏ (red), kế đến là
xanh lá (green)cây sau cùng là màu xanh đậm(blue).Xem giá trị màu của bảng dưới đây:
Color Html hexadecimal GD Triple Representation
Black #000000 (0,0,0)
White #FFFFFF (255,255,255)
Red #FF0000 (255,0,0)
Yellow #00FFFF (0,255,255)
Purple #FF00FF (255,0,255)
Để hòa màu trong tệp ảnh, bạn cần biết xác định màu trong bảng sắc màu (palette). Function
imagecolorallocate() sẽ phân phối màu một cách chính xác, rõ rệt vào trong bảng màu này.
Câu lệnh : int imagecolorallocate(resource image, int red, int green, int blue)
funtion imageallocate() dùng ba màu sắc (red, green, blue) để hòa màu cho ảnh nguồn, đồng thời ảnh nguồn này
phải do function imagecreate() hay funtion imagecreatefrom() tạo ra. Giá trị của màu red, green, blue phải là giá
trị của mã số (int) khoảng 0 và 255.Funtion này trả giá trị -1, nếu toàn vùng ảnh nguồn (allocation) không được
thực hiện đúng. Trong thực tế người ta sử dụng các biến có cùng màu tương tự cho vùng màu. Màu đầu tiên của
toàn vùng sẽ là màu của nền (background color).
Vd: $darkred = imagecolorallocate($myImage, 186, 0, 0);
Muốn lấy màu từ một điểm chính xác trong một tệp ảnh, ta cần phối hợp của nhiều functions.
Vd: int imagecolorat (resource image, int x, int y)
array imagecolorsforindex (resource image, int index)
funtion trả về một chỉ điểm (index) cho bảng màu(palette) ở một tụ điểm chính xác (x,y) trong tệp ảnh nguồn.
Tuy nhiên function sẽ không trả màu thật (màu hiện tại actual color). Bảng màu không chỉ là một dãy màu (array
of color).
Vd hình có 8bit thì màu sẽ được lưu trong một array hay một bảng bao gồm 256 màu. Funtion
imagecolorsforindex() trả lại một associative array cho giá trị của các màu red, green và blue.
Vd: $colorIndex = imagecolorat($myImage, $x, $y);
$colorArray = imagecolorsforindex($myImage, $colorIndex);
printf('Red: %d Green: %d Blue: %d', $colorArray['red'],
$colorArray['green'], $colorArray['blue']);
Khi gặp phải bảng màu không thích hợp (confined palette), thỉnh thoảng ta nên dùng màu tương đối thích hợp
thay vì dùng một màu mới khác hoặc
bởi lúc phân phối màu cho tệp ảnh đã làm tăng độ nặng cho tệp ảnh này, hoặc nếu không còn chỗ chứa cho bảng
màu nữa.
Vd: Int imagecolorclosest (resource image, int red, int green, int blue)
Imagecolorclosest()trả giá trị của màu kế tiếp đến bảng màu đồng thời ấn định rõ rệt 3 thể lọai màu RGB.
Nên xóa bỏ các loại màu trong bàng nếu không cần đến chúng nữa. Function imagecolordeallocate() có chức
năng này.
Vd: int imagecolordeallocate (resource image, int color)
Function này có thể làm dạng màu trong tệp ảnh trở lại như màu của index trong bảng màu để có thể sử dụng
lại như lúc ban đầu. Cách họat động của function imagecolorallocate() là thay đổi màu trong mỗi pixel cho tương
ứng với index của palette màu.
Thay đổi màu ( Altering a Color)
Để thay đổi màu cho tệp ảnh, ta có thể thay đổi trụec tiếp qua bảng màu(palette)
vd: bool imagecolorset (resource image, int index, int red, int green, int blue)
Sự thay đổi màu trong palette được đặt tại điểm index của 3 màu RGB. Function này rất có lợi khi thay đổi màu ở
một khoàng lớn mà không cần tốn nhiều màu để đổ (flut fill)
Tổng kết số lượng màu đã dùng ( Couting How many Colors are used)
Để tổng kết số lượng màu trong một tệp ảnh ta cần đến function này :
int imagecolorstotal (resource image)
Funtion này trả cho ta một luợng màu trong palette ảnh.
Muốn tạo một vùng màu nhất định nào đó ta có thể sử dụng function này :
vd: int imagecolortransparent (resource image [, int index])
Funtion này lấy màu từ trong palette chính xác là index của bảng màu và chuyển đổi nó thành transparent. Vô
sắc màu này là thuộc tính của ảnh bảng (image palette) chứ không phải của pixel. Một khi màu đã được chuyển
đổi sang transparent thì trong tương lai tệp ảnh cũng sẽ có dạng transparent. Sử dụng màu khác biệt ví dụ như
màu tím (magenta) với màu xanh(green), lý do nó giúp ta phân biệt dễ dàng trong lúc thao tác. Nếu bạn muốn
sử dụng transparent, bạn nên đổi nó sang dạng được hổ trợ transparency ví dụ như :PNG , GIF. Thuộc tính
transparency sẽ bị hủy nếu bạn đổi nó thành dạng JPG.
Tạo hình căn bản (Creating primitive Shapes)
Giờ chúng ta đã có vùng màu trong tệp ảnh của chúng ta. Chúng ta có thể sử dụng màu để tạo hình trong tệp
ảnh. Thư viện GD có những funtion để vẽ đường thẳng (line) và hình tròn (circle) cũng như hình đa giác
(polygons). Chúng ta có thể dùng phồi hợp (coordinate system) chính xác một điểm, nơi tv GD tạo cho ta một
form hình. Chúng ta có thể tạo hình từ khởi đầu hoặc chỉnh sửa một hình đã có sẳn.
Tô màu (Fills)
Chúng ta có thể đổ màu cho một hình kỳ hoặt bằng kỷ thuật đổ màu ập (flood filling)
câu lệnh: int imagefill (resource image, int x, int y, int col)
int imagefilltoborder (resource image, int x, int y, int border, int col)
function này làm thay đổi màu của các pixel trong toàn diện vùng thành màu trong col. ImageFillToborder() chỉ tô
màu cho các cạnh (border).
Code:
<?php
header('Content-Type: image/png');
//tạo màu trắng đen trong ảnh. Màu đen là màu nền. Nó đã được cài sẳn lúc đầu rồi.
$black = imagecolorallocate($myImage, 0, 0, 0);
$white = imagecolorallocate($myImage, 255, 255, 255);
//Cho màu trắng vào hình (rectangle) ở trung tâm của ảnh sẽ tạo ra một ảo ảnh đen của cạnh(bord
er).
imagefilledrectangle($myImage, 25, 25, 275, 275, $white);
//gạch chính giữa hình (ectangle) một đường thẳng từ trên xuống dưới. Ta biết đường thẳng sẽ là
x1 = x2.
imageline($myImage, 150, 30, 150, 270, $black);
/*Cài một lọat điểm cho hình rectangle. Hình rectangle sẽ đậy toàn vùng qua các thông sô (50,5
0), (50,100),(100,100). Nếu ta cho dãy số vào function imagepolygon() và cho chúng biết hình tr
iangle có 3 đường thẳng đứng.Chúng ta đã vẽ một hình chữ nhật có hình dáng tương tự như trước đ
ây.
*/
$myTriangle = array (50, 50, 50, 100, 100, 100);
imagepolygon($myImage, $myTriangle, 3, $black);
imagerectangle($myImage, 50, 150, 100, 250, $black);
/* Chúng ta sẽ tô hình, đường thẳng đứng kéo dãn hình ellipse. Chúng ta biết ellipse được kéo d
ãn thằng tuột do h>w. Trong ví dụ này chiều cao là 100 và chiều ngang là 50.
*/
imagefilledellipse($myImage, 225, 200, 50, 100, $black);
// cuối cùng chúng ta gởi hình đến trình duyệt và xóa bộ nhớ.
imagepng($myImage);
imagedestroy($myImage);
?>
cho script chạy chúng ta sê nhận được một hình vẽ như sau:
Vẽ chữ là phần cuồi trong tutorial, chúng ta sẽ đào sâu hơn trong ứng dụng server-generate graphics. Chúng ta
cùng nhau thảo luận thêm từ các bài trên qua các ví dụ vừa rôi.
Vẽ chữ (adding text) là một trong những ứng dụng được xài nhiều nhầt trong server-generate graphics. Những
công việc như tạo buttons nhàm chán giống như công việc nhà được thực hiện một cách máy móc. Tạo nút tự
động có 2 điểm lợi: Thay đổi một lấn là có thể sử dụng khắp nơi và hình được lưu gữi ở một nơi cái rẩt lợi vế mặc
sử lý ít khi gặp lỗi.
Chún ta tập trung vào việc sử dụng font chữ TrueType và các thiềt kề những font chữ khác. Dạng trueType là
dạng chữ chuẩn ( standard- outline), khởi nguồn từ Appel Computer và sau này là Microsoft trong hệ windows
3.1. font chữ của windows được cài đặt trong thư mục c:\windows \fonts hay c:\winnt\ fonts. Thường font chữ có
đuôi như sau: TTF. Bạn có thể vào đây để biết thêm chi tiết : www.freetype.org. Trong PHP hệ windows nó được
compiler theo dạng freetype trong thư viện GD.
ô Text ( textfield)
Function trả cho ta một bounding vuông vức(box) bao bọc bởi chữ. Để tính toán độ lớn nhỏ của hình nền
(background) hay một vùng ta dùng function này để đặt chữ vào đó
câu lệnh: array imagettfbbox (int size, int angle, string fontfile, string text)
Nó bao gốm 4 tham sồ : cở chữ được kết tụ bởi các điểm, góc của text được tạo tại điểm ngang tương đối,
đường dẫn tuyệt đối đền font chữ và tạo text . Đường dẫn trong hệ unix phải hoàn tòan đầy đủ (full path), đối với
hệ windows tương đối dễ hơn có thê xài đường dẫn full hay relative tùy ý. Function này trả một dãy array có 8 giá
trị (values):
returnArray[0] – lower-left corner, X position
returnArray[1] – lower-left corner, Y position
returnArray[2] – lower-right corner, X position
returnArray[3] – lower-right corner, Y position
returnArray[4] – upper-right corner, X position
returnArray[5] – upper-right corner, Y position
returnArray[6] – upper-left corner, X position
returnArray[7] – upper-left corner, Y position
Tất cả vị trí của array này đều tương đối với góc lower-left. Giá trị dương nằm ở phía dưới bên phải. Ngược lại giă
trị âm nằm ở vị trí trên bên trái và thẳng lên từ điểm nguyên thủy (original). Nếu (x,y) nằm góc trái (lower-left),
thì (x+$returnArray[6], y+$returnArray[7]) nằm bên góc trên (upper-left).
Text
Để giao trả một text đến tệp ảnh trong bộ nhớ ta cần gọi function imagegettext()
array imagettftext (resource image, int size, int angle, int x, int y, int col, string
fontfile, string text)
Không giống như những function khác, Liên kết (x,y) trỏ xuống phía dưới bên trái (bottom left) hay điểm căn bản
của ký tự đầu tiên. Góc là góc độ từ 0 trỏ đến đường ngang của text và giá trị chiều cao diễn tả theo chiều kim
đồng hồ. Vd: góc 270 độ tạo một text từ trên xuống dưới. Tệp chữ là đường dẫn đến font chữ trueType mà bạn
cần đến. Text là chuỗi ký tự để tạo. Bạn cũng nên dùng utf-8 để diễn đạt đựợc nhiều ký tự có dạng như {
chẳng hạn. Giá trị được trả cũng tương tự như của function imagettfbbox().
Code:
<?php
/* Trong các ví dụ trước , chúng ta đã sử dụng http header để chuyển gởi ảnh tới trình duyệt.
Tiếp đến chúng ta tạo một source ảnh có kích thước 300x300 pixel và tạo hai màu trắng đen cho
vùng ảnh.
*/
header('Content-Type: image/png');
$myImage = imagecreate(200, 200);
$black = imagecolorallocate($myImage, 0, 0, 0);
$white = imagecolorallocate($myImage, 255, 255, 255);
// dán text „ Hello phpvn“ vào. Sử dụng cở chữ (size) là 25 kiểu chữ arial.ttf, chữ trắng nằm
ngang (ở góc độ =0),
imagettftext($myImage, 25, 0, 10, 50, $white, 'arial.ttf', 'Hello phpvn');
/*Để vẽ một hình chữ nhật ta dùng function imagettfbbox(), function này tạo cho ta một boundin
g box.
Imagerectangle() họat động kết hợp với upper-left và lower-rigth. Chúng ta có thể sử dụng arra
y để tính các điểm này.
*/
imagerectangle($myImage, 10+$boundingbox[6], 50+$boundingbox[7],
10+$boundingbox[2], 50+$boundingbox[3], $white);
JavaScript, theo phiên bản hiện hành, là một ngôn ngữ lập trình kịch bản dựa trên đối tượng được phát triển từ
các ý niệm nguyên mẫu. Ngôn ngữ này được dùng rộng rãi cho các trang web, nhưng cũng được dùng để tạo
khả năng viết script sử dụng các đối tượng nằm sẵn trong các ứng dụng. Nó vốn được phát triển bởi Brendan
Eich tại Hãng truyền thông Netscape với cái tên đầu tiên Mocha, rồi sau đó đổi tên thành LiveScript, và cuối
cùng thành JavaScript. Giống Java, JavaScript có cú pháp tương tự C, nhưng nó gần với Self hơn Java. .js là
phần mở rộng thường được dùng cho tập tin mã nguồn JavaScript.
Phiên bản mới nhất của JavaScript là phiên bản 1.5, tương ứng với ECMA-262 bản 3. ECMAScript là phiên bản
chuẩn hóa của JavaScript. Trình duyệt Mozilla phiên bản 1.8 beta 1 có hỗ trợ không đầy đủ cho E4X - phần mở
rộng cho JavaScript hỗ trợ làm việc với XML, được chuẩn hóa trong ECMA-357.
Cùng thời điểm Netscape bắt đầu sử dụng công nghệ Java trên trình duyệt Netscape, LiveScript đã được đổi tên
thành JavaScript để được chú ý hơn bởi ngôn ngữ lập trình Java lúc đó đang được coi là một hiện tượng.
JavaScript được bổ sung vào trình duyệt Netscape bắt đầu từ phiên bản 2.0b3 của trình duyệt này vào tháng 12
năm 1995. Trên thực tế, hai ngôn ngữ lập trình Java và JavaScript không có liên quan gì đến nhau, ngoại trừ
việc cú pháp của cả hai ngôn ngữ cùng được phát triển dựa trên cú pháp của C. Java Script gồm 2 mảng là
client-server thực hiện lệnh trên máy của end-user và web-server.
Sau thành công của JavaScript, Microsoft bắt đầu phát triển JScript, một ngôn ngữ có cùng ứng dụng và tương
thích với JavaScript. JScript được bổ sung vào trình duyệt Internet Explorer bắt đầu từ Internet Explorer phiên
bản 3.0 được phát hành tháng 8 năm 1996.
DOM (Document Object Model), một khái niệm thường được nhắc đến với JavaScript trên thực tế không phải là
một phần của chuẩn ECMAScript, DOM là một chuẩn riêng biệt có liên quan chặt chẽ với XML.
Ứng dụng
JavaScript là một ngôn ngữ lập trình dựa trên nguyên mẫu với cú pháp phát triển từ C. Giống như C, JavaScript
có khái niệm từ khóa, do đó, JavaScript gần như không thể được mở rộng.
Cũng giống như C, JavaScript không có bộ xử lý xuất/nhập (input/output) riêng. Trong khi C sử dụng thư viện
xuất/nhập chuẩn, JavaScript dựa vào phần mềm ngôn ngữ được gắn vào để thực hiện xuất/nhập.
Trên trình duyệt, rất nhiều trang web sử dụng JavaScript để thiết kế trang web động và một số hiệu ứng hình
ảnh thông qua DOM. JavaScript được dùng để thực hiện một số tác vụ không thể thực hiện được với chỉ HTML
như kiểm tra thông tin nhập vào, tự động thay đổi hình ảnh,... Ở Việt Nam, JavaScript còn được ứng dụng để
làm bộ gõ tiếng Việt giống như bộ gõ hiện đang sử dụng trên trang Wikipedia tiếng Việt. Tuy nhiên, mỗi trình
duyệt áp dụng JavaScript khác nhau và không tuân theo chuẩn W3C DOM, do đó trong rất nhiều trường hợp lập
trình viên phải viết nhiều phiên bản của cùng một đoạn mã nguồn để có thể hoạt động trên nhiều trình duyệt.
Một số công nghệ nổi bật dòng JavaScript để tương tác với DOM bao gồm DHTML, Ajax và SPA.
Bên ngoài trình duyệt, JavaScript có thể được sử dụng trong tập tin PDF của Adobe Acrobat và Adobe Reader.
Điều khiển Dashboard trên hệ điều hành Mac OS X phiên bản 10.4 cũng có sử dụng JavaScript. Công nghệ kịch
bản linh động (active scripting) của Microsoft có hỗ trợ ngôn ngữ JScript làm một ngôn ngữ kịch bản dùng cho
hệ điều hành. JScript .NET là một ngôn ngữ tương thích với CLI gần giống JScript nhưng có thêm nhiều tính
năng lập trình hướng đối tượng.
Mỗi ứng dụng này đều cung cấp mô hình đối tượng riêng cho phép tương tác với môi trường chủ, với phần lõi là
ngôn ngữ lập trình JavaScript gần như giống nhau.
Các thành phần cú pháp chính
Khoảng trắng
Dấu cách, tab và ký tự dòng mới sử dụng bên ngoài một chuỗi ký tự được gọi là khoảng trắng. Khác với C,
khoảng trắng trong JavaScript có thể ảnh hưởng trực tiếp tới ý nghĩa của câu lệnh. Sử dụng phương pháp "tự
động thêm dấu chấm phẩy", bất cứ một dòng JavaScript nào thích hợp sẽ được coi là một câu lệnh hợp lệ (giống
như có dấu chấm phẩy trước ký tự dòng mới).
Tuy trong phần lớn trường hợp, dấu chấm phẩy trước khi kết thúc một dòng JavaScript là không cần thiết để đoạn
mã nguồn hoạt động chính xác, lập trình viên nên sử dụng dấu chấm phẩy sau mỗi câu lệnh để đoạn mã nguồn
dễ nhìn hơn. Ngoài ra, do đặc thù của JavaScript - chuyên dùng trên trang web, kích cỡ của đoạn mã nguồn là
quan trọng, có một số phần mềm có thể làm giảm kích cỡ của đoạn mã nguồn JavaScript bằng cách bỏ đi những
khoảng trắng không cần thiết, để những phần mềm này hoạt động chính xác, lập trình viên cần thêm dấu chấm
phẩy vào cuối mỗi câu lệnh.
Chú giải
Cú pháp chú giải của JavaScript giống với C++. Lập trình viên có thể chú giải trên nhiều dòng bằng cách bao bọc
chú giải với /* và */ hoặc sử dụng // để chú giải từ vị trí // đến hết dòng.
Biến
Trước khi sử dụng biến trong JavaScript, lập trình viên không nhất thiết phải khai báo biến. Có hai cách để định
nghĩa biến trong JavaScript. Một là sử dụng cú pháp var để khai báo biến:
Code:
<script language="JavaScript">
var tên_biến;
</script>
Ngoài ra, lập trình viên có thể chỉ việc gán cho biến một gía trị để sử dụng biến đó. Biến được định nghĩa ngoài
tất cả các hàm hoặc được sử dụng mà không khai báo với cú pháp var sẽ được coi là biến toàn cục, những biến
này có thể sử dụng trên toàn trang web. Biến được khai báo với var bên trong một hàm là biến cục bộ của hàm
đó và chỉ có thể sử dụng được bên trong hàm đó.
Đối tượng
Kiểu của JavaScript được chia ra làm hai loại: kiểu cơ bản và đối tượng. Đối tượng trong JavaScript là một thực
thể có tên xác định và có thuộc tính trỏ đến giá trị, hàm hoặc cũng có thể là một đối tượng khác. Có nghĩa là, đối
tượng trong JavaScript là một mảng kết hợp (associative array) tương tự như mảng trong PHP hay từ điển trong
Python, PostScript hoặc Smalltalk.
JavaScript có một số đối tượng định nghĩa sẵn, bao gồm mảng (Array), đối tượng đại số Bool (Boolean), đối
tượng ngày tháng (Date), đối tượng hàm (Function), đối tượng toán học (Math), đối tượng số (Number), đối
tượng đối tượng (Object), đối tượng biểu thức tìm kiếm (RegExp) và đối tượng chuỗi ký tự (String). Các đối tượng
khác là đối tượng thuộc phần mềm chủ (phần mềm áp dụng JavaScript - thường là trình duyệt).
Bằng cách định nghĩa hàm khởi tạo, lập trình viên có thể tạo đối tượng. JavaScript là một ngôn ngữ lập trình dựa
trên nguyên mẫu do đó thừa kế diễn ra giữa các đối tượng, không phải giữa các lớp (JavaScript không hề có lớp).
Đối tượng thừa kế thuộc tính từ các nguyên mẫu của chúng.
Lập trình viên có thể thêm hoặc xóa thuộc tính hoặc hàm trong đối tượng sau khi đối tượng đã được tạo. Để làm
việc này cho tất cả các đối tượng được tạo từ cùng một hàm khởi tạo, lập trình viên có thể sử dụng thuộc tính
prototype của hàm khởi tạo để truy cập đối tượng nguyên mẫu. Lập trình viên không nhất thiết phải tự xóa các
đối tượng đã tạo, JavaScript tự động gom rác tất cả những biến không còn được dùng nữa.
Ví dụ:
Code:
<script language="JavaScript">
function samplePrototype() {
this.attribute1 = "someValue"; // thêm một thuộc tính cho đối tượng
this.attribute2 = 234; // thêm thuộc tính nữa cho đối tượng
this.function1 = testFunction; // thêm một hàm vào đối tượng
}
function testFunction() {
alert(this.attribute2); //hiển thị 234
}
sampleObject.attribute3 = 123; // thêm một thuộc tính nữa cho đối tượng sampleObject
Một cấu trúc dữ liệu tiêu điểm là mảng (Array), mảng trong JavaScript là một bảng liên kết chỉ mục đến giá trị.
Trong JavaScript, tất cả các đối tượng đều có thể liên kết chỉ mục đến giá trị, nhưng mảng là một đối tượng đặc
biệt có thêm nhiều tính năng xử lý chỉ mục và dữ liệu đặc biệt (ví dụ: push, join, v.v.)
Mảng trong JavaScript có thuộc tính length. Thuộc tính length của JavaScript luôn luôn lớn hơn số chỉ mục lớn
nhất trong mảng một đơn vị. Trong phần lớn ngôn ngữ lập trình, những thuộc tính có tính năng như length
thường là thuộc tính chỉ đọc, tuy nhiên, với JavaScript, lập trình viên có thể thay đổi thuộc tính length. Bằng cách
thay đổi thuộc tính length, lập trình viên có thể làm mảng lớn hơn hoặc nhỏ hơn (và xóa đi những chỉ mục lớn
hơn hoặc bằng thuộc tính length mới).
Mảng trong JavaScript là mảng rải rác, có nghĩa là cho dù lập trình viên có một mảng như sau:
Code:
<script language="JavaScript">
var test = new Array();
test[2] = 0;
test[100] = 5;
</script>
Trong trường hợp này, dù mảng có đến chỉ mục mang số 100 thì mảng cũng chỉ chiếm bộ nhớ của hai số 0 và 5.
Tuy nhiên, thuộc tính length sẽ có giá trị 101 do chỉ mục lớn nhất của mảng trong ví dụ trên là 100.
Một số ví dụ về mảng:
Code:
<script language="JavaScript">
var test = new Array(10); // Tạo một mảng 10 chỉ mục
var test2 = new Array(0,1,2,,3); // Tạo một mảng với bốn giá trị và 5 chỉ mục
var test3 = new Array();
test3["1"] = 123; // Hoàn toàn đúng cú pháp
</script>
Lập trình viên cũng có thể định nghĩa cấu trúc bằng đối tượng như sau:
Code:
<script language="JavaScript">
var myStructure = {
name: {
first: "Mel",
last: "Smith"
},
age: 33,
hobbies: [ "chess", "jogging" ]
};
</script>
Cú pháp định nghĩa cấu trúc bằng đối tượng trên có một chuẩn trên danh nghĩa là JSON.
Cấu trúc điều khiển
Cú pháp:
<script language="JavaScript">
if (biểu_thức_1)
{
khối lệnh được thực hiện nếu biểu thức 1 đúng;
}
else if (biểu_thức_2)
{
khối lệnh được thực hiện nếu biểu thức 2 đúng;
}
else
{
khối lệnh được thực hiện nếu cả hai biểu thức trên đều không đúng;
}
</script>
Ví dụ:
Code:
<script language="JavaScript">
var x = prompt("Nhập vào giá trị của x:");
x = parseFloat(x);
if (!isNaN(x)) {
if (x > 0)
{
alert("x > 0");
}
else if (x == 0)
{
alert("x = 0");
}
else
{
alert("x < 0");
}
}
else
{
alert("giá trị bạn nhập không phải là một số");
}
</script>
Đoạn mã nguồn trên mở một hộp thoại yêu cầu nhập vào một giá trị số, sau đó hiển thị thông báo số đó lớn hơn
0, bằng 0 hay nhỏ hơn 0.
Code:
Toán tử điều kiện
Toán từ điều kiện còn được biết đến với tên gọi toán tử tam phân. Cú pháp của toán tử này như sau:
<script language="JavaScript">
điều_kiện ? biểu_thức_đúng : biểu_thức_sai;
</script>
Toán tử này sẽ trả lại giá trị là kết quả của biểu_thức_đúng nếu điều_kiện có giá trị bool bằng true, ngược lại nó
sẽ trả lại giá trị bằng biểu_thức_sai.
Vòng lặp while có mục đích lặp đi lặp lại một khối lệnh nhất định cho đến khi biểu thức điều kiện trả về false. Khi
dùng vòng lặp while phải chú ý tạo lối thoát cho vòng lặp (làm cho biểu thức điều kiện có giá trị false), nếu không
đoạn mã nguồn sẽ rơi vào vòng lặp vô hạn, là một lỗi lập trình. Vòng lặp while thường được dùng khi lập trình
viên không biết chính xác cần lặp bao nhiêu lần. Cú pháp của vòng lặp while như sau:
Code:
<script language="JavaScript">
while (biểu_thức_điều_kiện) {
khối lệnh cần thực hiện nếu biểu_thức_điều_kiện trả về true;
}
</script>
Về cơ bản, vòng lặp do ... while gần như giống hệt như vòng lặp while. Tuy nhiên, trong trường hợp biểu thức
điều kiện trả về false ngay từ đầu, khối lệnh trong vòng lặp while sẽ không bao giờ được thực hiện, trong khi đó,
vòng lặp do ... while luôn đảm bảo khối lệnh trong vòng lặp được thực hiện ít nhất một lần. Ví dụ:
Code:
<script language="JavaScript">
while (0 > 1)
{
alert("while"); // Câu lệnh này sẽ không bao giờ được thực hiện
}
do
{
alert("do ... while"); // Bạn sẽ nhận được thông báo do ... while một lần duy nhất
} while (0 > 1);
</script>
Code:
<script language="JavaScript">
do
{
khối lệnh;
} while (biểu_thức_điều_kiện);
</script>
Vòng lặp for
Vòng lặp for thường được sử dụng khi cần lặp một khối lệnh mà lập trình viên biết trước sẽ cần lặp bao nhiêu lần.
Cú pháp của vòng lặp for như sau:
Code:
<script language="JavaScript">
for (biểu_thức_khởi_tạo; biểu_thức_điều_kiện; biểu_thức_thay_đổi_giá_trị)
{
Khối lệnh cần lặp;
}
</script>
Khi bắt đầu vòng lặp for, lập trình viên cần khởi tạo một biến nhất định bằng biểu_thức_khởi_tạo để dùng trong
biểu_thức_điều_kiện, nếu biểu_thức_điều_kiện trả về true, khối lệnh cần lặp sẽ được thực hiện, sau khi thực hiện
xong khối lệnh cần lặp, biểu_thức_thay_đổi_giá_trị sẽ được thực hiện, tiếp theo, biểu_thức_điều_kiện sẽ lại được
kiểm tra, cứ như vậy cho đến khi biểu_thức_điều_kiện trả về false, khi đó vòng lặp sẽ kết thúc.
Vòng lặp for ... in dùng để lặp qua tất cả các thuộc tính của một đối tượng (hay lặp qua tất cả các phần tử của
một mảng). Cú pháp của vòng lặp này như sau:
Code:
<script language="JavaScript">
for (biến in đối_tượng)
{
khối lệnh cần thực hiện, có thể sử dụng đối_tượng[biến] để truy cập từng thuộc tính
(phần tử) của đối tượng;
}
</script>
Cú pháp switch
Cú pháp switch cũng là cú pháp điều kiện như if ... else hay toán tử tam phân. Tuy nhiên, cú pháp switch thường
được dùng khi chỉ cần so sánh bằng với số lượng kết quả cần kiểm tra lớn. Cách sử dụng cú pháp switch:
Code:
<script language="JavaScript">
switch (biểu_thức_điều_kiện)
{
case kết_quả_1 :
khối lệnh cần thực hiện néu biểu_thức_điều_kiện bằng kết_quả_1;
break;
case kết_quả_2 :
khối lệnh cần thực hiện néu biểu_thức_điều_kiện bằng kết_quả_2;
break;
default :
khối lệnh cần thực hiện nếu biểu_thức_điều_kiện cho ra một kết quả khác;
}
</script>
Sau mỗi khối lệnh trong một mục kiểm tra kết quả (trừ mục default), lập trình viên cần phải thêm vào break.
Re: Căn bản về JavaScript
« Reply #3 on: March 30, 2007, 11:52:08 PM »
Hàm
Hàm là một khối các câu lệnh với một danh sách một hoặc nhiều đối số (có thể không có đối số) và thường có tên
(mặc dù trong JavaScript hàm không nhất thiết phải có tên). Hàm có thể trả lại một giá trị. Cú pháp của hàm như
sau:
Code:
<script language="JavaScript">
function tên_hàm(đối_số_1, đối_số_2)
{
các câu lệnh cần thực hiện mỗi khi hàm được gọi;
return giá_trị_cần_trả_về;
}
tên_hàm(1, 2); // Gọi hàm tên_hàm với hai đối số 1 và 2 ứng với đối_số_1 và đối_số_2
tên_hàm(1); // Gọi hàm tên_hàm với đối_số_1 có giá trị 1, đối_số_2 có giá trị undefined
</script>
Trong JavaScript, khi gọi hàm không nhất thiết phải gọi hàm với cùng số đối số như khi định nghĩa hàm, nếu số
đối số ít hơn khi định nghĩa hàm, những đối số không được chuyển cho hàm sẽ mang giá trị undefined.
Các kiểu cơ bản sẽ được chuyển vào hàm theo giá trị, đối tượng sẽ được chuyển vào hàm theo tham chiếu.
Hàm là đối tượng hạng nhất trong JavaScript. Tất cả các hàm là đối tượng của nguyên mẫu Function. Hàm có thể
được tạo và dùng trong phép toán gán như bất kỳ một đối tượng nào khác, và cũng có thể được dùng làm đối số
cho các hàm khác. Do đó, JavaScript hỗ trợ hàm cấp độ cao. Ví dụ:
Code:
<script language="JavaScript">
Array.prototype.fold =
function (value, functor) {
var result = value;
for (var i = 0; i < this.length; i++) {
result = functor(result, this[i]);
}
return result;
}
var sum = [1,2,3,4,5,6,7,8,9,10].fold(0, function (a, b) { return a + b })
</script>
Vì hàm trong JavaScript là đối tượng, lập trình viên có thể khởi tạo hàm không tên:
Code:
<script language="JavaScript">
function() { thân hàm; }
</script>
Hàm trên sẽ hiển thị thông báo khi một số phím trên bàn phím có thể gây sự kiện onkeypress được nhấn.
Mặc định, tất cả các thành phần của đối tượng thuộc phạm vi công cộng (public). Trong JavaScript, không có
khái niệm thành phần riêng hay thành phần được bảo vệ (private và protected), tuy nhiên những tính năng này
có thể được giả lập.
Quản lý lỗi
Tùy theo môi trường phát triển, sửa lỗi JavaScript có thể sẽ rất khó khăn. Với JavaScript dùng trên trang web,
hiện tại, các trình duyệt dựa trên Gecko (như Mozilla, Mozilla Firefox) có công cụ tìm diệt lỗi rất tốt (Venkman),
ngoài ra còn kèm theo một công cụ kiểm tra DOM.
Các phiên bản mới hơn của JavaScript (như bản dùng trên Internet Explorer 5 và Netscape 6) hỗ trợ mệnh đề
quản lý lỗi try ... catch ... finally, mệnh đề này bắt nguồn từ Java giúp lập trình viên quản lý lỗi thời gian chạy
hoặc quản lý ngoại lệ xuất phát từ cú pháp throw. Cú pháp của mệnh đề này như sau:
<script language="JavaScript">
try
{
Khối lệnh cần thực hiện có thể gây lỗi;
}
catch (error)
{
Khối lệnh cần thực hiện trong trường hợp có lỗi;
}
finally
{
Khối lệnh luôn được thực hiện;
}
</script>
Trong cú pháp trên error là một đối tượng Error có hai thuộc tính theo chuẩn ECMAScript phiên bản 3:
Tuy nhiên mỗi trình duyệt sử dụng một bản JavaScript khác nhau, trong các trình duyệt lớn và phổ dụng không
có trình duyệt nào hoàn toàn tuân thủ theo chuẩn ECMAScript phien bản 3. Ví dụ như Internet Explorer 6 SP 1
có thêm hai thuộc tính:
Phần finally là không bắt buộc. Lập trình viên hoàn toàn có thể sử dụng try ... catch mà không có finally.
Các ngôn ngữ lập trình kịch bản rất dễ bị ảnh hưởng bởi lỗi, hơn nữa, mỗi một trình duyệt, mỗi một công ty ứng
dụng JavaScript một cách hoàn toàn khác nhau nên lập trình viên JavaScript thường phải dành rất nhiều thời
gian sửa lỗi để đảm bảo đoạn mã nguồn của mình sẽ hoạt động tốt. Trong những trang HTML mà thẻ script và
các đoạn mã HTML khác xen kẽ lẫn nhau, lỗi cú pháp có thể được phát hiện dễ dàng hơn bằng cách để mỗi hàm
trong một thẻ script riêng biệt hoặc có thể sử dụng nhiều tệp .js khác nhau. Trong nhiều trường hợp, cách này
còn giúp tránh làm hỏng cả trang web trong trường hợp có lỗi trong một đoạn mã nguồn.
Tạo một MVC framework làm nền tảng cho một ứng dụng PHP
« on: January 06, 2008, 01:21:18 AM »
Như đã viết trong bài roadmap from newbie to professional, hôm nay 5s bắt đầu series về xây dựng một MVC
framework cho ứng dụng web bằng PHP. Trong bài viết này, 5s sẽ walk through nhiều concept quan trọng của
một ứng dụng để tạo nên một MVC framework thực sự hữu dụng cho các bạn mới bắt đầu.
Có được kíên thức MVC cơ bản, các bạn sẽ thấy thoải mái khi sử dụng những framework "pro" như Zend hay
Symfony, CakePHP,... MVC cơ bản này cũng sẽ giúp bạn nếu đam mê xây dựng application architect phát triển bổ
sung vào nó những công cụ hữu ích khác nếu muốn, tạo nên một framework hoàn chỉnh có thể dùng trong công
việc hàng ngày mà ở đó bạn có thể kiểm soát hoàn toàn các đoạn code của mình.
MVC này cũng sẽ hữu ích cho các bạn SV vì cứ coi như nó là cây nhà lá vườn, no name, no author để sử dụng
thoải mái trong bài tập hay dự án thực hành. Sẽ không bị các thầy cô đánh giá là "đạo" các đồ chơi hầm hố của
tây tàu về dùng .
Như vậy, MVC là mô hình gắn liền với mô hình ứng dụng 3 lớp mà chúng ta đã quen thuộc.
Xử lý tập trung
Xét với 1 ứng dụng web, do bản chất của nó là giao tiếp giữa client (web browser của người dùng) và server (web
server) quan các lời gọi Request và trả lời Response, một ứng dụng web có thể cho user truy cập nhiều trang web
khác nhau như index.php, user.php, view_product.php,... Việc này dẫn đến nhiều khó khăn khi hệ thống có
những biến chia sẻ chung như setting, database access,... Thường thì chúng ta sẽ phải viết code như sau:
Code:
<?php
include ('global.php'); //Các biến dùng chung
?>
Mô hình MVC sẽ thay đổi việc này bằng cách tập trung tất cả các request của user về một trang duy nhất:
index.php sau đó sẽ xử lý bằng cách phân tích request và gọi đúng trang php cần thiết để xử lý. Việc tập trung
này sẽ giúp các bạn tiến hành các bước kết nối DB, logging, error handling,... hết sức hiệu quả sau này. Tuy
nhiên, trong serie này 5s không thể đề cập hết các chi tiết đó.
Trước tiên, ta sẽ tạo một file .htaccess để thực hiện rewrite URL, thay đổi request về file index.php sẽ có tham số
route trong query string như sau:
Chú ý, nếu bạn chưa load module mod_rewrite của Apache, phải vào httpd.conf để sửa đổi cấu hình và restart
Apache.
Ở đây, route là tham số dùng để thay đổi cách gọi request của user, nó giúp file index.php phân tích nội dung
request để chuyển tới file php khác thực hiện xử lý thích hợp.
Cũng giống như thông tin cấu hình ở ví dụ trên, chúng ta sẽ làm vài việc gọi là initialize ứng dụng web của mình:
File index.php
Code:
require 'includes/init.php';
File includes/init.php
Code:
<?php
error_reporting (E_ALL); //Thông báo tất cả các lỗi
if (version_compare(phpversion(), '5.1.0', '<') == true) { die ('PHP5.1 Only'); } //Framework c
ủa chúng ta làm việc trên PHP5
// Constants:
define ('DIRSEP', DIRECTORY_SEPARATOR); //Tương thích với môi trường Win hay Unix, ta tìm dúng
dấu phân cách dir là \ hay /
Tiếp theo, tạo một biến registry để chứa các biến toàn cục trong ứng dụng. Sau này ta sẽ lưu vào đây các biến
DB, Logger, Cache, Template,...
Code:
$registry = new Registry;
Vì chúng ta sẽ rất lười nhác phải viếc các hàm include file và vấn đề đang gặp phải là sẽ phải tạo file Registry.php
(chú ý case sensitve nhé) cho class Registry ta đang dùng ở trên nên ta sẽ viết một hàm __autoload() cho PHP5
để nó tự load các file php ứng với class ta cần dùng:
Code:
function __autoload($class_name) {
$filename = strtolower($class_name) . '.php';
$file = site_path . 'classes' . DIRSEP . $filename;
if (file_exists($file) == false) {
return false;
}
include ($file);
}
Hàm này PHP5 tự động sẽ gọi khi không tìm thấy class cần dùng trong hệ thống, chúng ta cứ viết và để đó -
không cần quan tâm gì thêm. Một điều 5s muốn các bạn chú ý là trong một framework, cách đặt tên các file,
class, variable,... là rất quan trọng và ảnh hưởng tới cơ chế xây dựng framework, do đó, hãy đế ý tới tên họ các
biến, class cho cẩn thận, nhất là chữ hoa/thường vì sau này upload lên host Linux sẽ gặp nhiều vấn đề.
Class Registry {
private $vars = array();
$this->vars[$key] = $var;
return true;
}
function get($key) {
if (isset($this->vars[$key]) == false) {
return null;
}
return $this->vars[$key];
}
function remove($var) {
unset($this->vars[$key]);
}
}
?>
Chúng ta vừa tạo một Dictionary class. Ý nghĩa của một từ điển là cứ cho tôi một từ khoá (key) tôi sẽ cho ý nghĩa
của nó (value). Value-key pair cũng là khái niệm hay dùng nên bạn cũng nên nắm bắt luôn ở đây.
Ví dụ sử dụng Registry:
Code:
<?php
?>
Do tôi cũng lười typing và muốn nhấn mạnh một chút về OOP, ta sẽ implement một interface để biến đối tượng
$registry mới tạo thành một array của PHP cho dễ dùng hơn.
Code:
function offsetExists($offset) {
return isset($this->vars[$offset]);
}
function offsetGet($offset) {
return $this->get($offset);
}
function offsetUnset($offset) {
unset($this->vars[$offset]);
}
Bây giờ bạn có thể viết $registry['name'] = 'abc' thay vì $registry->set('name', 'abc'); khoái chí không nào.
Nếu bạn muốn ứng dụng cái này ở class nào đó cho riêng mình để có thêm vòng lặp foreach chẳng hạn thì bạn
thử implement thêm interface Iterator nữa nhé. Bạn hãy tham khảo Standard PHP Lib document ở đây
http://www.php.net/~helly/php/ext/spl/
download ->http:smarty.net.
Install coi chỉ dẫn trong file Quick install.
Tất nhiên bạn phải có sẳn local server trong pc. Smarty Folder có thể cài đặt trong htdocs ( nếu bạn xài program
của xampp)
- Smarty config:
kết nạp Smarty Class
Code:
<?php
define('SMARTY_DIR', '/Path/to/Smarty/');
require_once(SMARTY_DIR. 'Smarty.class.php');
?>
Tạo lớp:
Code:
<?php
$smarty = new Smarty();
?>
Tạo thêm các hàm sau:
Code:
<?php
$smarty->compile_check = true // kiểm tra xem template đã có thay đổi gì không, nếu có, nạp dữ
liệu mới
$smarty->caching = true // bật hàm caching
?>
Ta cần 4 folders :
- templates ( Chứa đựng các Templates, trong hộp này ta cũng có thể tào thêm các hộp con (subfolder)
- templte_c ( Chứa các templates được Smarty compiled)
- configs (Cho các tệp tin configs)
-cache ( cho các templates Cache) // chỉ là option thôi khong có không sao
Smarty luôn tìm nhũng hộp (folder) này khi php hoạt động. Ta có thể định đường dẫn như thế này:
Code:
<?php
$smarty->template_dir = '/path/to/Template_Folder/';
$smarty->compile_dir = '/path/to/Template_c_Folder/';
$smarty->config_dir = '/path/to/Config_Folder/';
$smarty->cache_dir = '/path/to/Cache_folder/';
?>
1) Đưa một giá trị (value) đến Smarty Class.
Code:
<?php
// Array, có thể lấy từ Database
$array = array(
0 => array( 'id' => 1,
'text' => 'test'),
1 => array( 'id' => 2,
'text' => 'foobar' ),
2 => array( 'id' => 3,
'text' => 'another test'
));
$test = 'string';
$test2 = 2;
$smarty->assign('test_array', $array);
$smarty->assign('test', $test);
$smarty->assign('test2', $test2);
?>
2) Tích hợp Template.tpl
Code:
<body><table><tr>
Variable test : {$test}
Variable test2 : {$test2}
test_file.php:
Code:
<?php
define('SMARTY_DIR', '/xampp/htdocs/smarty/libs/');
require_once(SMARTY_DIR. 'Smarty.class.php');
$smarty->compile_check = true;
$smarty->debugging = true;
//$smarty->caching = true // bật hàm caching
$array = array(
0 => array( 'id' => 1,
'text' => 'test'),
1 => array( 'id' => 2,
'text' => 'foobar' ),
2 => array( 'id' => 3,
'text' => 'another test'
));
$test = 'string';
$test2 = 2;
$smarty->assign('test_array', $array);
$smarty->assign('test', $test);
$smarty->assign('test2', $test2);
$smarty->display('test.tpl');
?>
test.tpl
Code:
<body><table><tr>
Variable test : {$test}
Variable test2 : {$test2}
[setup]
bold = true
Dịch vụ Web (Web service)
« on: October 06, 2007, 04:52:00 AM »
Dịch vụ Web (Web Service) được coi là một công nghệ mang đến cuộc cách mạng trong cách thức hoạt động của
các dịch vụ B2B (Business to Business) và B2C (Business to Customer). Giá trị cơ bản của dịch vụ Web dựa trên
việc cung cấp các phương thức theo chuẩn trong việc truy nhập đối với hệ thống đóng gói và hệ thống kế thừa.
Các phần mềm được viết bởi những ngôn ngữ lập trình khác nhau và chạy trên những nền tảng khác nhau có thể
sử dụng dịch vụ Web để chuyển đổi dữ liệu thông qua mạng Internet theo cách giao tiếp tương tự bên trong một
máy tính. Tuy nhiên, công nghệ xây dựng dịch vụ Web không nhất thiết phải là các công nghệ mới, nó có thể kết
hợp với các công nghệ đã có như XML, SOAP, WSDL, UDDI… Với sự phát triển và lớn mạnh của Internet, dịch vụ
Web thật sự là một công nghệ đáng được quan tâm để giảm chi phí và độ phức tạp trong tích hợp và phát triển
hệ thống. Chúng ta sẽ xem xét các dịch vụ Web từ mức khái niệm đến cách thức xây dựng.
1. Giới thiệu công nghệ
Theo định nghĩa của W3C (World Wide Web Consortium), dịch vụ Web là một hệ thống phần mềm được thiết kế
để hỗ trợ khả năng tương tác giữa các ứng dụng trên các máy tính khác nhau thông qua mạng Internet, giao diện
chung và sự gắn kết của nó được mô tả bằng XML. Dịch vụ Web là tài nguyên phần mềm có thể xác định bằng
địa chỉ URL, thực hiện các chức năng và đưa ra các thông tin người dùng yêu cầu. Một dịch vụ Web được tạo nên
bằng cách lấy các chức năng và đóng gói chúng sao cho các ứng dụng khác dễ dàng nhìn thấy và có thể truy cập
đến những dịch vụ mà nó thực hiện, đồng thời có thể yêu cầu thông tin từ dịch vụ Web khác. Nó bao gồm các mô
đun độc lập cho hoạt động của khách hàng và doanh nghiệp và bản thân nó được thực thi trên server.
Trước hết, có thể nói rằng ứng dụng cơ bản của Dịch vụ Web là tích hợp các hệ thống và là một trong những hoạt
động chính khi phát triển hệ thống. Trong hệ thống này, các ứng dụng cần được tích hợp với cơ sở dữ liệu (CSDL)
và các ứng dụng khác, người sử dụng sẽ giao tiếp với CSDL để tiến hành phân tích và lấy dữ liệu. Trong thời gian
gần đây, việc phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử và B2B cũng đòi hỏi các hệ thống phải có khả năng tích
hợp với CSDL của các đối tác kinh doanh (nghĩa là tương tác với hệ thống bên ngoài - bên cạnh tương tác với các
thành phần bên trong của hệ thống trong doanh nghiệp).
Dưới đây, chúng ta sẽ xem qua những khái niệm và cách thức cơ bản nhất để xây dựng một dịch vụ Web trong
tích hợp và phát triển hệ thống.
a) Đặc điểm
- Dịch vụ Web cho phép client và server tương tác được với nhau ngay cả trong những môi trường khác nhau. Ví
dụ, đặt Web server cho ứng dụng trên một máy chủ chạy hệ điều hành Linux trong khi người dùng sử dụng máy
tính chạy hệ điều hành Windows, ứng dụng vẫn có thể chạy và xử lý bình thường mà không cần thêm yêu cầu
đặc biệt để tương thích giữa hai hệ điều hành này.
- Phần lớn kĩ thuật của Dịch vụ Web được xây dựng dựa trên mã nguồn mở và được phát triển từ các chuẩn đã
được công nhận, ví dụ như XML.
- Một Dịch vụ Web bao gồm có nhiều mô-đun và có thể công bố lên mạng Internet.
- Là sự kết hợp của việc phát triển theo hướng từng thành phần với những lĩnh vực cụ thể và cơ sở hạ tầng Web,
đưa ra những lợi ích cho cả doanh nghiệp, khách hàng, những nhà cung cấp khác và cả những cá nhân thông qua
mạng Internet.
- Một ứng dụng khi được triển khai sẽ hoạt động theo mô hình client-server. Nó có thể được triển khai bởi một
phần mềm ứng dụng phía server ví dụ như PHP, Oracle Application server hay Microsoft.Net…
- Ngày nay dịch vụ Web đang rất phát triển, những lĩnh vực trong cuộc sống có thể áp dụng và tích hợp dịch vụ
Web là khá rộng lớn như dịch vụ chọn lọc và phân loại tin tức (hệ thống thư viện có kết nối đến web portal để tìm
kiếm các thông tin cần thiết); ứng dụng cho các dịch vụ du lịch (cung cấp giá vé, thông tin về địa điểm…), các đại
lý bán hàng qua mạng, thông tin thương mại như giá cả, tỷ giá hối đoái, đấu giá qua mạng…hay dịch vụ giao dịch
trực tuyến (cho cả B2B và B2C) như đặt vé máy bay, thông tin thuê xe…
- Các ứng dụng có tích hợp dịch vụ Web đã không còn là xa lạ, đặc biệt trong điều kiện thương mại điện tử đang
bùng nổ và phát triển không ngừng cùng với sự lớn mạnh của Internet. Bất kì một lĩnh vực nào trong cuộc sống
cũng có thể tích hợp với dịch vụ Web, đây là cách thức kinh doanh và làm việc có hiệu quả bởi thời đại ngày nay
là thời đại của truyền thông và trao đổi thông tin qua mạng. Do vậy, việc phát triển và tích hợp các ứng dụng với
dịch vụ Web đang được quan tâm phát triển là điều hoàn toàn dễ hiểu.
b) Ưu và nhược điểm
Ưu điểm:
+ Dịch vụ Web cung cấp khả năng hoạt động rộng lớn với các ứng dụng phần mềm khác nhau chạy trên những
nền tảng khác nhau.
+ Sử dụng các giao thức và chuẩn mở. Giao thức và định dạng dữ liệu dựa trên văn bản (text), giúp các lập trình
viên dễ dàng hiểu được.
+ Nâng cao khả năng tái sử dụng.
+ Thúc đẩy đầu tư các hệ thống phần mềm đã tồn tại bằng cách cho phép các tiến trình/chức năng nghiệp vụ
đóng gói trong giao diện dịch vụ Web.
+ Tạo mối quan hệ tương tác lẫn nhau và mềm dẻo giữa các thành phần trong hệ thống, dễ dàng cho việc phát
triển các ứng dụng phân tán.
+ Thúc đẩy hệ thống tích hợp, giảm sự phức tạp của hệ thống, hạ giá thành hoạt động, phát triển hệ thống
nhanh và tương tác hiệu quả với hệ thống của các doanh nghiệp khác.
Nhược điểm:
+ Những thiệt hại lớn sẽ xảy ra vào khoảng thời gian chết của Dịch vụ Web, giao diện không thay đổi, có thể lỗi
nếu một máy khách không được nâng cấp, thiếu các giao thức cho việc vận hành.
+ Có quá nhiều chuẩn cho dịch vụ Web khiến người dùng khó nắm bắt.
+ Phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an toàn và bảo mật.
Dịch vụ Web gồm có 3 chuẩn chính: SOAP (Simple Object Access Protocol), WSDL (Web Service Description
Language) và UDDI (Universal Description, Discovery, and Integration). Hình 1 mô tả chồng giao thức của dịch vụ
Web, trong đó UDDI được sử dụng để đăng ký và khám phá dịch vụ Web đã được miêu tả cụ thể trong WSDL.
Giao tác UDDI sử dụng SOAP để nói chuyện với UDDI server, sau đó các ứng dụng SOAP yêu cầu một dịch vụ
Web. Các thông điệp SOAP được gửi đi chính xác bởi HTTP và TCP/IP.
Chồng giao thức dịch vụ Web là tập hợp các giao thức mạng máy tính được sử dụng để định nghĩa, xác định vị trí,
thi hành và tạo nên dịch vụ Web tương tác với những ứng dụng hay dịch vụ khác. Chồng giao thức này có 4
thành phần chính:
- Dịch vụ vận chuyển (Service Transport): có nhiệm vụ truyền thông điệp giữa các ứng dụng mạng, bao gồm
những giao thức như HTTP, SMTP, FTP, JSM và gần đây nhất là giao thức thay đổi khổi mở rộng (Blocks Extensible
Exchange Protocol- BEEP).
- Thông điệp XML: có nhiệm vụ giải mã các thông điệp theo định dạng XML để có thể hiểu được ở mức ứng dụng
tương tác với người dùng. Hiện tại, những giao thức thực hiện nhiệm vụ này là XML-RPC, SOAP và REST.
- Mô tả dịch vụ: được sử dụng để miêu tả các giao diện chung cho một dịch vụ Web cụ thể. WSDL thường được sử
dụng cho mục đích này, nó là một ngôn ngữ mô tả giao tiếp và thực thi dựa trên XML. Dịch vụ Web sẽ sử dụng
ngôn ngữ này để truyền tham số và các loại dữ liệu cho các thao tác và chức năng mà dịch vụ Web cung cấp.
- Khám phá dịch vụ: tập trung dịch vụ vào trong một nơi được đăng ký, từ đó giúp một dịch vụ Web có thể dễ
dàng khám phá ra những dịch vụ nào đã có trên mạng, tốt hơn trong việc tìm kiếm những dịch vụ khác để tương
tác. Một dịch vụ Web cũng phải tiến hành đăng ký để các dịch vụ khác có thể truy cập và giao tiếp. Hiện tại,
UDDI API thường được sử dụng để thực hiện công việc này.
Trong đó, tầng giao thức tương tác dịch vụ (Service Communication Protocol) với công nghệ chuẩn là SOAP. SOAP
là giao thức nằm giữa tầng vận chuyển và tầng mô tả thông tin về dịch vụ, cho phép người dùng triệu gọi một
dịch vụ từ xa thông qua một thông điệp XML. Ngoài ra, để các dịch vụ có tính an toàn, toàn vẹn và bảo mật
thông tin, trong kiến trúc dịch vụ Web, chúng ta có thêm các tầng Policy, Security, Transaction, Management.
Là một chuẩn mở do W3C đưa ra cho cách thức mô tả dữ liệu, nó được sử dụng để định nghĩa các thành phần dữ
liệu trên trang web và cho những tài liệu B2B. Về hình thức, XML hoàn toàn có cấu trúc thẻ giống như ngôn ngữ
HTML nhưng HTML định nghĩa thành phần được hiển thị như thế nào thì XML lại định nghĩa những thành phần đó
chứa cái gì. Với XML, các thẻ có thể được lập trình viên tự tạo ra trên mỗi trang web và được chọn là định dạng
thông điệp chuẩn bởi tính phổ biến và hiệu quả mã nguồn mở.
Do dịch vụ Web là sự kết hợp của nhiều thành phần khác nhau nên nó sử dụng các tính năng và đặc trưng của
các thành phần đó để giao tiếp. XML là công cụ chính để giải quyết vấn đề này và là kiến trúc nền tảng cho việc
xây dựng một dịch vụ Web, tất cả dữ liệu sẽ được chuyển sang định dạng thẻ XML. Khi đó, các thông tin mã hóa
sẽ hoàn toàn phù hợp với các thông tin theo chuẩn của SOAP hoặc XML-RPC và có thể tương tác với nhau trong
một thể thống nhất.
WSDL định nghĩa cách mô tả dịch vụ Web theo cú pháp tổng quát của XML, bao gồm các thông tin:
- Tên dịch vụ
- Giao thức và kiểu mã hóa sẽ được sử dụng khi gọi các hàm của dịch vụ Web
- Loại thông tin: thao tác, tham số, những kiểu dữ liệu (có thể là giao diện của dịch vụ Web cộng với tên cho giao
diện này).
Một WSDL hợp lệ gồm hai phần: phần giao diện (mô tả giao diện và phương thức kết nối) và phần thi hành mô tả
thông tin truy xuất CSDL. Cả hai phần này sẽ được lưu trong 2 tập tin XML tương ứng là tập tin giao diện dịch vụ
và tập tin thi hành dịch vụ. Giao diện của một dịch vụ Web được miêu tả trong phần này đưa ra cách thức làm
thế nào để giao tiếp qua dịch vụ Web. Tên, giao thức liên kết và định dạng thông điệp yêu cầu để tương tác với
dịch vụ Web được đưa vào thư mục của WSDL.
WSDL thường được sử dụng kết hợp với XML schema và SOAP để cung cấp dịch vụ Web qua Internet. Một client
khi kết nối tới dịch vụ Web có thể đọc WSDL để xác định những chức năng sẵn có trên server. Sau đó, client có
thể sử dụng SOAP để lấy ra chức năng chính xác có trong WSDL.
Để có thể sử dụng các dịch vụ, trước tiên client phải tìm dịch vụ, ghi nhận thông tin về cách sử dụng và biết được
đối tượng nào cung cấp dịch vụ. UDDI định nghĩa một số thành phần cho biết các thông tin này, cho phép các
client truy tìm và nhận những thông tin được yêu cầu khi sử dụng dịch vụ Web.
Những thông tin về dịch vụ Web được sử dụng và công bố lên mạng sử dụng giao thức này. Nó sẽ kích hoạt các
ứng dụng để tìm kiếm thông tin của dịch vụ Web khác nhằm xác định xem dịch vụ nào sẽ cần đến nó.
Chúng ta đã hiểu cơ bản dịch vụ Web như thế nào nhưng vẫn còn một vấn đề khá quan trọng. Đó là làm thế nào
để truy xuất dịch vụ khi đã tìm thấy? Câu trả lời là các dịch vụ Web có thể truy xuất bằng một giao thức là Simple
Object Access Protocol – SOAP. Nói cách khác chúng ta có thể truy xuất đến UDDI registry bằng các lệnh gọi
hoàn toàn theo định dạng của SOAP.
SOAP là một giao thức giao tiếp có cấu trúc như XML. Nó được xem là cấu trúc xương sống của các ứng dụng
phân tán được xây dựng từ nhiều ngôn ngữ và các hệ điều hành khác nhau. SOAP là giao thức thay đổi các thông
điệp dựa trên XML qua mạng máy tính, thông thường sử dụng giao thức HTTP.
Một client sẽ gửi thông điệp yêu cầu tới server và ngay lập tức server sẽ gửi những thông điệp trả lời tới client. Cả
SMTP và HTTP đều là những giao thức ở lớp ứng dụng của SOAP nhưng HTTP được sử dụng và chấp nhận rộng rãi
hơn bởi ngày nay nó có thể làm việc rất tốt với cơ sở hạ tầng Internet.
Thông điệp theo định dạng SOAP là một văn bản XML bình thường bao gồm các phần tử sau:
- Phần tử gốc - envelop: phần tử bao trùm nội dung thông điệp, khai báo văn bản XML như là một thông điệp
SOAP.
- Phần tử đầu trang – header: chứa các thông tin tiêu đề cho trang, phần tử này không bắt buộc khai báo trong
văn bản. Header còn có thể mang những dữ liệu chứng thực, những chứ ký số, thông tin mã hóa hay cài đặt cho
các giao dịch khác.
- Phần tử khai báo nội dung chính trong thông điệp - body, chứa các thông tin yêu cầu và thông tin được phản
hồi.
- Phần tử đưa ra các thông tin về lỗi -fault, cung cấp thông tin lỗi xảy ra trong qúa trình xử lý thông điệp.
Một SOAP đơn giản trong body sẽ lưu các thông tin về tên thông điệp, tham chiếu tới một thể hiện của dịch vụ,
một hoặc nhiều tham số. Có 3 kiểu thông báo sẽ được đưa ra khi truyền thông tin: request message(tham số gọi
thực thi một thông điệp), respond message (các tham số trả về, được sử dụng khi yêu cầu được đáp ứng) và cuối
cùng là fault message (thông báo tình trạng lỗi).
- Remote procedure call (RPC): cho phép gọi hàm hoặc thủ tục qua mạng. Kiểu này được khai thác bởi nhiều dịch
vụ Web.
- Document: được biết đến như kiểu hướng thông điệp, nó cung cấp giao tiếp ở mức trừu tượng thấp, khó hiểu và
yêu cầu lập trình viên mất công sức hơn.
Hai kiểu truyền thông này cung cấp các định dạng thông điệp, tham số, lời gọi đến các API khác nhau nên việc sử
dụng chúng tùy thuộc vào thời gian và sự phù hợp với dịch vụ Web cần xây dựng.
Cấu trúc dữ liệu: Cung cấp những định dạng và khái niệm cơ bản giống như trong các ngôn ngữ lập trình khác
như kiểu dữ liệu (int, string, date…) hay những kiều phức tạp hơn như struct, array, vector… Định nghĩa cấu trúc
dữ liệu SOAP được đặt trong namespace SOAP-ENC.
Mã hóa: Giả sử service rquester và service provider được phát triển trong Java, khi đó mã hóa SOAP là làm thế
nào chuyển đổi từ cấu trúc dữ liệu Java sang SOAP XML và ngược lại, bởi vì định dạng cho Web Service chính là
XML. Bất kỳ một môi trường thực thi SOAP nào cũng phải có một bảng chứa thông tin ánh xạ nhằm chuyển đổi từ
ngôn ngữ Java sang XML và từ XML sang Java - bảng đó được gọi là SOAPMappingRegistry. Nếu một kiểu dữ liệu
được sử dụng dưới một dạng mã hóa thì sẽ có một ánh xạ tồn tại trong bộ đăng ký của môi trường thực thi SOAP
đó.
5. An toàn cho dịch vụ Web
Dịch vụ Web liên kết và tương tác với các ứng dụng qua Internet, chính vì vậy bảo mật là một vấn đề được quan
tâm khi các công ty tiến tới kết hợp ứng dụng với một dịch vụ Web. Việc đảm bảo an toàn cho dịch vụ Web là một
vấn đề quan trọng, đặc biệt đối với những dịch vụ liên quan đến trao đổi tiền tệ, thông tin từ thị trường chứng
khoán hay dịch vụ bán hàng qua mạng (liên quan đến trả tiền bằng tài khoản và có yêu cầu thông tin cá nhân
của người dùng).
Trước khi có WS-Security (bảo mật cho dịch vụ Web) thì ý nghĩa thông thường của an toàn dịch vụ Web là bảo
mật kênh truyền dữ liệu. Hiện nay, nó được thực hiện cho những SOAP/HTTP dựa trên cơ chế truyền thông điệp
bằng cách sử dụng giao thức HTTPS. Không chỉ là an toàn ở mức truyền thông điệp, HTTPS còn cung cấp sự an
toàn tới toàn bộ gói dữ liệu HTTP.
Mặc dù HTTPS không bao gồm tất cả các khía cạnh trong chuẩn an toàn chung cho dịch vụ Web nhưng nó đã
cung cấp một lớp bảo mật khá đầy đủ với định danh, chứng thực, tính toàn vẹn thông điệp hay độ tin cậy.
Khái niệm về WS-Security: đây là một chuẩn an toàn bao trùm cho SOAP, nó được dùng khi muốn xây dựng
những dịch vụ Web toàn vẹn và tin cậy. Toàn vẹn có nghĩa là khi có một giao dịch hay khi truyền thông tin, hệ
thống và thông tin sẽ không bị chặn, giao dịch sẽ không bị mất cũng như không thể có người lấy cắp được dữ liệu
trên đường truyền. WS-security được thiết kế mang tính mở nhằm hướng tới những mô hình an toàn khác bao
gồm PKI, Kerberos và SSL. Nó cũng đưa ra nhiều hỗ trợ cho các cơ chế an toàn khác, nhiều khuôn dạng chữ ký
và công nghệ mã hóa, đảm bảo sự an toàn, toàn vẹn thông điệp và tính tin cậy của thông điệp. Tuy nhiên, WS–
security cũng chưa thể đảm bảo được tất cả yêu cầu về bảo mật và an toàn thông tin, nó chỉ là một trong những
lớp của giải pháp an toàn cho dịch vụ Web.
Tính toàn vẹn tạo ra một chữ ký số hóa XML dựa trên nội dung của thông điệp. Nếu dữ liệu bị thay đổi bất hợp
pháp, nó sẽ không còn thích hợp với chữ ký số hóa XML đó. Chữ ký này được tạo ra dựa trên khóa mà người gửi
thông điệp tạo ra, do đó người nhận chỉ nhận thông điệp khi có chữ ký sử dụng và nội dung phù hợp. Ngược lại sẽ
có một thông báo lỗi. Việc chứng thực được thực hiện giữa client và server là cách chứng thực rất cơ bản (sử
dụng định danh người dùng và mật khẩu).
WS-security chỉ là một trong những lớp an toàn và bảo mật cho dịch vụ Web, vì vậy cần một mô hình an toàn
chung lớn hơn để có thể bao quát được các khía cạnh khác. Các thành phần được thêm có thể là WS-Secure
Conversation Describes,WS-Authentication Describes,WS-Policy Describes hay WS-Trust Describes. Chúng sẽ thực
hiện việc đảm bảo an toàn hơn cho hệ thống khi trao đổi dữ liệu, mở và đóng các phiên làm việc cũng như quản
lý dữ liệu cần chứng thực và chính sách chứng thực.
Có 4 giai đoạn chính để xây dựng một dịch vụ Web là xây dựng, triển khai, tiến hành và quản lý, trong đó:
- Giai đoạn xây dựng bao gồm phát triển và chạy thử ứng dụng dịch vụ Web, xây dựng các chức năng và định
nghĩa dịch vụ. Có hai cách khác nhau để tiến hành trong giai đoạn này, đó là Red-path- solod và Blue-path-
dashed. Với Red- path-solod, chúng ta sẽ xây dựng một dịch vụ Web mới từ trạng thái ban đầu hoặc với một dịch
vụ đã có sẵn. Từ đó, xây dựng định nghĩa service (WSDL) với các đối tượng, hàm chức năng mà chúng ta mong
muốn. Nếu theo cách Blue-path-dashed, dịch vụ Web sẽ được xây dựng từ đầu hoặc từ một định nghĩa dịch vụ
WSDL. Sử dụng WSDL này, xây dựng hoặc sửa đổi lại mã để thực hiện các yêu cầu mong muốn trong dịch vụ
Web.
- Giai đoạn triển khai: công bố định nghĩa dịch vụ, xây dựng WSDL và triển khai mã thực thi của dịch vụ Web.
Triển khai dịch vụ Web tới một ứng dụng phía server, sau đó sẽ công bố dịch vụ Web trên mạng Internet để các
client có thể nhìn thấy. Sử dụng UDDI registry để công bố lên mạng.
- Giai đoạn tiến hành: tìm kiếm và gọi thực thi dịch vụ Web bởi những người dùng muốn sử dụng dịch vụ.
- Quản lý: Quản lý và quản trị dịch vụ, duy trì sự ổn định của dịch vụ, cập nhật thông tin mới, sửa lỗi khi nó xảy
ra…
Để xây dựng một dịch vụ Web, chúng ta cần hiểu được những việc phải làm và nên bắt đầu từ đâu. Có 3 cách
tiếp cận chủ yếu để xây dựng nên một dịch vụ Web, có thể từ một ứng dụng đã có (bottom-up); từ một định
nghĩa dịch vụ, WSDL để phát sinh một ứng dụng mới (top-down) hoặc có thể từ một nhóm các dịch vụ Web hiện
có, kết hợp lại với nhau để tạo nên các chức năng mới hoặc mở rộng thêm chức năng. Những hướng tiếp cận này
dựa trên những gì mà chúng ta đã có, tùy thuộc vào yêu cầu của hệ thống, trong đó tối đa việc sử dụng lại các
chức năng, các thành phần, môđun đã được xây dựng.
Qui trình xây dựng một dịch vụ Web bao gồm các bước sau:
1. Định nghĩa và xây dựng các chức năng, các dịch vụ mà dịch vụ sẽ cung cấp (sử dụng ngôn ngữ Java chẳng
hạn).
2. Tạo WSDL cho dịch vụ
3. Xây dựng SOAP server
4. Đăng ký WSDL với UDDI registry để cho phép các client có thể tìm thấy và truy xuất.
5. Client nhận file WSDL và từ đó xây dựng SOAP client để có thể kết nối với SOAP server
6. Xây dựng ứng dụng phía client (chẳng hạn sử dụng Java) và sau đó gọi thực hiện dịch vụ thông qua việc kết
nối tới SOAP server.
Lựa chọn một ngôn ngữ, xây dựng các tiến trình nghiệp vụ và chúng ta bắt đầu tạo nên một dịch vụ Web như ý
muốn. Sau đó là cung cấp dịch vụ Web này trên Internet.
Để có thể thành công với dịch vụ Web chúng ta phải quan tâm đến khá nhiều vấn đề, bao gồm việc triển khai,
giám sát và tích hợp hệ thống. Doanh nghiệp không những phải phát triển một ứng dụng dịch vụ Web mới mà
còn phải tích hợp các ứng dụng nghiệp vụ phụ trợ của họ trong kiến trúc Dịch vụ Web. Cùng với việc triển khai và
tích hợp, những nhà kinh doanh và những người sử dụng kỹ thuật cũng cần có khả năng giám sát, triển khai toàn
diện để đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả và tin cậy.
- Giám sát (monitoring): Cần hỗ trợ ở cả mức công cụ và cơ sở hạ tầng để giám sát các dịch vụ Web chạy như
thế nào qua toàn bộ mạng, từ một chi nhánh con của một công ty trên mạng tới các chi nhánh khác trong công
ty hay giao tiếp với doanh nghiệp khác. Kết hợp thông báo theo sự kiện với các lỗi trong luồng nghiệp vụ cho
những người dùng không có kinh nghiệm giám sát dịch vụ Web và các dịch vụ kế thừa khác.
- Xác định đường đi dữ liệu (Data routing): Việc thiết lập đường đi của dữ liệu giữa những thành phần của dịch vụ
Web hướng tới tối đa hóa khả năng sử dụng lại. Nếu coi một thành phần (component) là một đối tượng thì mỗi
thể hiện (instance) của nó sẽ không quan tâm đến các thể hiện khác của cùng thành phần đó. Những thể hiện
của cùng một thành phần có thể dễ dàng được sử dụng lại trong các ứng dụng phân tán khác bởi vì chúng hoàn
toàn độc lập và không phụ thuộc lẫn nhau.
- Triển khai (Deployment): Triển khai các dịch vụ Web có khả năng nâng cấp, điều khiển và cấu hình các thành
phần từ xa thông qua mạng phân tán.
- Quản lý (Management): Có thể xây dựng theo kiến trúc P2P (Peer-to-Peer). Các hoạt động chính như thực thi
các thành phần, định tuyến dữ liệu, xử lý luồng công việc và chuyển đổi dữ liệu được thực hiện tại các điểm cuối
của mạng. Server sẽ tập trung giải quyết các hoạt động khác như quản lý, điều khiển sự kiện, chứng thực bảo
mật và quản trị.
- Cấu hình và quản lý phiên bản (Configuration and version management): Sử dụng các công cụ linh hoạt để
quản lý các phiên bản khác nhau của dịch vụ Web, cho phép các phiên bản được nâng cấp và điều khiển từ một
công cụ quản lý tập trung. Kết hợp giữa ứng dụng và mạng giúp các kỹ sư triển khai có thể điều khiển các thành
phần chạy trên nền tảng hệ thống phần cứng cụ thể bên trong mạng.
- Bảo mật (Security): các chuẩn mở như HTTP, XML, SOAP, WSDL và chuẩn bảo mật JSM được sử dụng rộng rãi
khiến chúng trở thành lý tưởng để xây dựng các ứng dụng web. Đầu tiên, dịch vụ Web sử dụng những công nghệ
này giống như firewall, SSL và các chứng nhận số. Dịch vụ Web thế hệ sau này sẽ kết hợp với những công nghệ
có khả năng bảo mật cao hơn, giống như mã hóa XML và chứng nhận số XML.
Như vậy, với một dịch vụ Web, việc giao tiếp và truyền nhận dữ liệu trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn, đồng thời
đem lại chi phí thấp hơn và tăng cường những khả năng giao tiếp thời gian thực, kết nối với mọi người trên khắp
thế giới. Bản chất của nền tảng công nghệ này là kiến trúc hướng dịch vụ và sự phát triển của dịch vụ Web có
tương lai rất khả quan.