« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích đoạn thơ trích trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau đây trích trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
- Chế Lan Viên là nhà thơ có tài năng nảy nở rất sớm.
- Năm 17 tuổi, tập thơ Điêu tàn của nhà thơ "đột ngột xuất bản ra giữa làng thơ như một niềm kinh dị”, rồi hồn thơ ấy cũng sớm bị mai một, khô héo trong sự bế tắc chung của phong trào Thơ mới.
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ánh sáng của Đảng và Cách mạng đã soi đường, dẫn lối cho nhà thơ đến với nhân dân và đất nước mến yêu..
- Tập thơ Ánh sáng và Phù sa ra đời đánh dấu bước trưởng thành vững chắc của Chế Lan Viên trên con đường thơ Cách mạng, rất có ý nghĩa đối với nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn .
- Tập thơ còn thể hiện lòng biết ơn, sự gắn bó của nhà thơ với Đảng, đất nước, nhân dân và cuộc đời.
- Đây là bốn khổ thơ đặc sắc của bài thơ:.
- Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa.
- Con nhớ em con, thằng em liên lạc..
- Con nhớ mế Lửa hồng soi tóc bạc..
- Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi..
- Cũng ở miền Bắc những năm Đảng và nhà nước ta có cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi, hưởng ứng cuộc vận động, có rất nhiều văn nghệ sĩ nhiệt tình lên Tây Bắc, trong đó có nhà thơ Chế Lan Viên..
- Đoạn giữa (7 khổ) là hồi tưởng về những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến.
- Bốn khổ thơ trích trên thuộc đoạn giữa.
- Chúng ta cần phải hiểu Chế Lan Viên trước khi đến được, gặp được nhân dân mới cảm được “con gặp lại nhân dân” là xúc động đến chừng nào.
- Thật vậy, trước thời điểm ấy, trong thơ Chế Lan Viên, tập Điêu tàn xuất hiện một thế giới kinh dị đầy sọ người, xương máu, yêu ma”, những ngọn tháp Chàm huyền bí, gầy mòn, đổ nát, những nấm mồ hiện ra trong bóng đêm dày đặc hoặc ánh trăng đơn côi, lạnh lẽo:.
- (Trên đường về) Như vậy, khi chưa được gặp nhân dân, nhà thơ hoàn toàn bế tắc vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng sáng tác của nhà thơ bằng những nguồn nhựa sống”..
- Khổ thơ hàm chứa một tiền giả định.
- Khi Chế Lan Viên viết: “Con gặp lại nhân dân” nghĩa là giữa nhân vật trữ tình và nhân dân vốn đã có một mối quan hệ nhất định.
- Chính nhân dân đã nuôi nấng, bao bọc, chở che, đồng cam cộng khổ với nhân vật trữ tình và nhiều bộ đội Cụ Hồ khác.
- Đại từ xưng hô “con” vừa xác định được tính chất, mức độ của mối quan hệ ấy vừa biểu lộ nỗi vui mừng, hạnh phúc vô biên khi nhà thơ tìm gặp được nhân dân - nhịp đập của trái tim mình..
- Xét cho cùng, đây là một nghệ thuật thông minh, hội tụ ý nghĩa lớn lao.
- sự gắn bó không thể chia tách, sự hòa hợp tuyệt đối giữa nhân vật trữ tình với nhân dân.
- Vả lại, chúng ta vẫn có cảm giác nhà thơ chưa bằng lòng với sự biểu hiện tình cảm qua tập hợp hình chùm ấy.
- Nhân vật trữ tình dường như muốn bộc bạch nhiều hơn nữa sự gắn bó của mình đối với nhân dân.
- Mặt khác, thủ pháp nghệ thuật trên còn biểu hiện một sắc thái tình cảm tiềm ẩn: lòng biết ơn vô bờ bến.
- sự trân trọng, kính yêu vô hạn của nhân vật trữ tình đối với nhân dân..
- Nhìn chung, ở khổ thơ đầu của trích đoạn, Chế Lan Viên đã phát huy được sức mạnh cổ điển của phép so sánh tu từ mà Paul, nhà ngôn ngữ học người Đức, thế kỉ XIX đã từng nhận xét rằng: Sức mạnh của so sánh là nhận thức”.
- Tuy nhiên, đối với Chế Lan Viên, nó không chỉ đơn thuần là một thủ pháp, mà còn nằm trong đặc điểm tư duy của nhà thơ.
- Vì thế, qua tài năng sáng tạo của nhà thơ, tính trí tuệ của nhà thơ trở nên dồi dào.
- Vậy nên, hai tiếng “nhân dân” cất lên thiêng liêng, ấm áp, gần gũi lạ thường..
- Nếu như ở khổ thơ trên, lòng biết ơn của nhân vật trữ tình còn chất chứa trong một sắc thái tình cảm tiềm ẩn thì ở các khổ thơ sau, tấm lòng ấy bày tỏ cụ thể, chi tiết:.
- Đối với nhà thơ, nhân dân chính là anh du kích hình ảnh “chiếc áo nâu” mộc mạc, dung dị, không chủ yếu gợi sự nghèo khó mà gợi nỗi vất vả, nhọc nhằn của đời lính trong quá trình đi theo tiếng gọi của quê hương, của hồn thiêng sông núi.
- Ở đây, nghệ thuật điệp ngữ: “chiếc áo nâu” và điệp cấu trúc cú pháp đã khắc họa sâu sắc tình cảm cao thượng, đẹp đẽ của người chiến sĩ cách mạng bất khuất, kiên cường..
- Đối với nhà thơ, nhân dân chính là em liên lạc.
- Em đã dũng cảm, linh hoạt, nhanh nhẹn, băng rừng, lội suối, trèo đèo để đến từng bản làng giao thư, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
- Em làm tròn trách nhiệm không phải chỉ một ngày, một bữa, mà trong quãng thời gian dài: "Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”, ở đây, nghệ thuật liệt kê: "rừng thưa”,.
- "rừng rậm”, "băng”, "chờ”, “sáng”, “chiều”, “bản Na”, “bản Bắc”, “mười năm tròn” kết hợp với nghệ thuật đối ngữ tương hỗ (Rừng thưa em băng ><.
- Đối với nhà thơ, nhân dân chính là “mế”.
- Đặc biệt, hình ánh người mẹ nuôi vùng Tây Bắc thời kháng Pháp trong thơ Chế Lan Viên gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ, cảm xúc.
- Tuy người mẹ ấy không trực tiếp mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng nhà thơ từ thuở còn nằm nôi nhưng trong những giờ phút đau thương nhất của lịch sử dân tộc đã dành hết tình cảm nơi trái tim mình cưu mang, chăm sóc nhà thơ và các cán bộ trung kiên.
- Ở đây, nghệ thuật liên tưởng (mế - tóc bạc - hòn máu cất.
- một mùa dài - trọn đời) và nghệ thuật đổi trật tự cú pháp (Năm con đau, mế thức một mùa dài.
- Thêm vào đó, cả ba khổ thơ đều xuất hiện điệp từ “nhớ” kết hợp với cách xưng hô thân tình, ruột thịt của chủ đề trữ tình với những con người đại diện cho nhân dân: “con nhớ anh con”, “con nhớ em con”, “con nhớ mế” có sức khơi gợi sâu xa.
- Lời thơ như tiếng “cám ơn” từ đáy lòng nhà thơ thốt ra, truyền cảm đến tận lòng người.
- Ngoài ra, tình cảm ấy còn khơi gợi ý thức trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với nhân dân, đối với Tổ quốc mến yêu..
- Xét cho cùng, hơi thở ở cả bốn khổ thơ cũng như cả bài thơ tràn đi như một khúc hát tâm tình đưa chúng ta trở về hoài niệm - hoài niệm về quá khứ tốt đẹp bởi lẽ quá khứ là gốc rễ, là nền tảng, là sức mạnh của hiện tại, của tương lai..
- Ở ba khổ thơ còn lại nhà thơ phối hợp thêm các biện pháp nghệ thuật độc đáo như liệt kê, đối ngữ, liên tưởng, đổi trật tự cú pháp, điệp từ, điệp ngữ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức lí trí, khoái cảm thẩm mĩ và nhiều tình cảm khác của độc giả..
- Tóm lại, đoạn trích thơ trên đây tiêu biểu nhất, là sự kết tinh nghệ thuật của cả bài thơ Tiếng hát con tàu.
- Có thể nói, chính cái “tài” của Chế Lan Viên đã làm tôn lên cái “tình” của nhà thơ với nhiều cung bậc: tình cảm với nhân dân, với đất nước, với kháng chiến