« Home « Kết quả tìm kiếm

Anh chị hãy chứng minh nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa


Tóm tắt Xem thử

- Đề bài: Anh chị hãy chứng minh nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa, bóng dáng của chị gợi lên sự một sự ấm áp mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống bên bờ cái chết Bài làm.
- Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân.
- Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt.
- Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật.
- Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực..
- Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị..
- Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau.
- Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm..
- Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác.
- Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là: “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”.
- Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa..
- Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp.
- Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không.
- Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống..
- Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy.
- hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ..
- Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn.
- Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá.
- Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
- Chị ta đang đói.
- Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
- Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết.
- Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ: về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
- Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật.
- Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa..
- Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng”.
- về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò..
- Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì.
- Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến.
- Bên cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi bật: Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước..
- Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ.
- Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu.
- Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài.
- Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo.
- Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần… Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý.
- Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần.
- Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình.
- Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập..
- Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy..
- Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người..
- Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên.
- Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn.
- Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.
- Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng..
- Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ..
- Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng..
- Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ.
- Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chỉ là cô vợ nhặt..
- còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm.
- Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt.
- nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất.
- nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng..
- Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.