« Home « Kết quả tìm kiếm

Bình luận về quyền miễn trừ quốc gia khi tham gia vào quan hệ pháp luật


Tóm tắt Xem thử

- Bình luận về quyền miễn trừ quốc gia khi tham gia vào quan hệ phápluật (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài.I/ Khái quát về quyền miễn trừ quốc gia1.
- Cơ sở xác định quyền miễn trừ quốc giaMiễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế (TPQT) xuất phát từ nguyên tắc cơbản trong quan hệ quốc tế “chủ quyền quốc gia”.
- Trên cơ sở bình đẳng giữacác quốc gia thì mỗi một quốc gia không thể thực hiện quyền lực của mìnhtrong quan hệ với quốc gia khác: “Không ai có quyền lực đối với ngườingang hàng với mình”, vì vậy các cơ quan và tài sản của một nước ngoàiđược hưởng quyền miễn trừ.Quyền miễn trừ quốc gia trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoàiđược ghi nhận rải rác trong các điều ước quốc tế, điển hình nhất là Công ướcViên năm 1961 về quan hệ ngoại giao.
- Theo Điều 31 của Công ước Viên1961, những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ giao theo quy địnhcủa Công ước thì được hưởng quyền miễn trừ xét xử hình sự, miễn trừ xétxử dân sự, miễn trừ xử phạt hành chính.
- Theo đó, những người đại diện củaquốc gia được hưởng quyền miễn trừ tư pháp thì đương nhiên bản thân quốcgia cũng là đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.Ở Việt Nam, Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quanđại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của các tổ chứcquốc tế tại Việt nam năm 1993 cũng khẳng định những nội dung quy định tạiĐiều 31 của Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao.Hiện nay, một số Điều ước quốc tế đa phương cũng đã xây dựng quy địnhvề QMTQG như Công ước Barel của Liên minh Châu Âu 1972 có hiệu lựctừ hay “Công ước về quyền miễn trừ xét xử và tài sản quốc gia”của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày Trong lí luận cũng như trong thực tiễn quan hệ quốc tế, thường nói đến cácdạng MTQG, chủ yếu là quyền miễn trừ tư pháp quốc gia (QMTTPQG).Khác với các thể nhân và pháp nhân, quốc gia là một thực thể có chủ quyền,do đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, quốc giađược hưởng QMTTPQG.2.
- Các quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp quốc giaHiện nay, trên thế giới tồn tại hai quan điểm khác nhau về phạm vi củaQMTTPQG.Thứ nhất, theo thuyết tuyệt đối (Doctrine of Absolute Immunity),QMTTPQG của các quốc gia khi tham gia quan hệ quốc tế là không giớihạn, không phân chia, không chuyển nhượng và bất khả xâm phạm.
- Có thểnói, QMTTPQG tuyệt đối là một nội dung nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữacác quốc gia trong quan hệ quốc tế.
- Thuyết này khá phổ biến ở các quốc giathuộc hệ thống pháp luật Anh Mĩ từ đầu thế kỷ XX trở về trước (quan điểmnày lần đầu tiên được phát triển bởi nhà khoa học chính trị, luật sư ngườipháp Jean Bodin ở các nước XHCN cũng như một số nướcđang phát triển sau chiến tranh thế giới thứ II.Thứ hai, thuyết tương đối về quyền MTTPQG (Doctrine of Restrictive/Relative/ Limited Immunity) hay thuyết miễn trừ chức năng ra đời, đầu tiênlà ở các nước thuộc hệ thống Common Law (đặc biệt là Bỉ và Ý), sau đó làAnh, Mỹ và các nước thuộc hệ thống Civil Law khác.
- Theo đó, khi quốc giatham gia các quan hệ TPQT với tư cách là chủ thể quyền lực, chủ thể côngthực hiện các hành vi quyền lực như liên quan đến các nhiệm vụ ngoại giao,lực lượng vũ trang, hoạt động lập pháp hay là nợ quốc gia…thì sẽ đượchưởng QMTTPQG.
- Với tư cách là chủ thể dân luật thực hiện các hành viquản lý thì các quốc gia đó có tư cách pháp lý ngang bằng với mọi tổ chứcvà cá nhân khác, do vậy, sẽ không được hưởng QMTTPQG.
- Việc thừa nhậnthuyết này được luật hoá bởi nhiều nước trên thế giới như Luật về quyềnmiễn trừ dành cho quốc gia nước ngoài 1976 ở Mỹ, các Luật tương tự ở Anh1978, Singapore 1979, Pakistan 1981, Canada 1982, Úc 1985…Thuyết tương đối hiện nay được chấp thuận khá rộng rãi trên thế giới nhưngvẫn còn rất nhiều vấn đề gây tranh cãi.
- Một trong số đó là không có căn cứnào thực sự rõ ràng để phân biệt hành vi thuộc chủ quyền và hành vi khôngthuộc chủ quyền mà điển hình là các “hoạt động kinh doanh” của quốc gia.II/ Nội dung quyền miễn trừ quốc gia khi tham gia các quan hệ dân sự(theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoàiKhi nói đến quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế tức là nói đếnquyền miễn trừ tư pháp quốc gia.
- Theo Giáo trình Tư pháp quốc tế truờngĐại học Luật Hà Nội thì nội dung quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốcgia gồm ba nội dung:- Miễn từ xét xử tại bất cứ tòa án nào- Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện- Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành quyết định củatòa án1.
- Quyền miễn trừ xét xử (Immunity From Jurisdiction, IFJ)Toà án của quốc gia này nếu không được quôc gia kia cho phép thì không cóquyền xét xử quốc gia kia.
- Điều đó có nghĩa là khi tham gia vào quan hệ dânsự với một quốc gia, cá nhân và pháp nhân nước ngoài không được phép đệđơn kiện quốc gia đó tại bất kỳ Toà án nào, kể cả tại Toà án của chính quốcgia đó, trừ khi quốc gia đó cho phép.
- Nội dung này bắt nguồn từ nguyên tắcnhững người ngang hàng nhau không có quyền tài phán đối với nhau.
- Nếuquốc gia bị kiện trước Toà án nước ngoài thì Toà án đó cũng không được thụlý vụ kiện.
- Nếu Toà án nước ngoài xét xử quốc gia thì bản án không có giátrị pháp lý.2.
- Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơnkiệnNếu quốc gia đồng ý cho Toà án nước ngoài xét xử vụ tranh chấp mà quốcgia là bị đơn thì Toà án nước ngoài được xét xử nhưng không được phép ápdụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu, kê biên tài sản của quốcgia đó để đảm bảo sơ bộ đối với đơn kiện hoặc đảm bảo thi hành phán quyếtcủa Toà án.
- Toà án nước ngoài chỉ được phép áp dụng các biện pháp cưỡngchế đó trong trường hợp quốc gia cho phép.Hai nội dung nêu trên được các nhà luật học phương tây đề cập dưới cái tênImmunity From Execution (IFE).
- Hơnnữa có một xu hướng chung là nếu việc xác định quốc gia có được hưởngIFJ hay không thường căn cứ vào việc xác định hành vi theo thuyết bản chấtthì việc xác định các tài sản có được tịch thu, kê biên…để thi hành án hoặcđảm bảo sơ bộ trình tự vụ kiện hay không thì lại thường căn cứ và việc xácđịnh tài sản theo thuyết mục đích.
- Quyền miễn đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành quyếtđịnh của tòa ánTrên cơ sở bình đẳng giữa các quốc gia thì mỗi một quốc gia không thể thựchiện quyền lực của mình trong quan hệ với quốc gia khác, vì vậy, một quốcgia không thể là bị đơn trước Toà của một quốc gia khác.Các tranh chấpgiữa các quốc gia phải được giải quyết bằng con đường thương lượng trựctiếp hoặc bằng con đường ngoại giao.Theo Khoản 1 Điều 42 Nghị định 87/2007/ NĐ-CP về đầu tư theo hình thứcBOT, BTO, BT thì việc giải quyết tranh chấp “Đối với Dự án có vốn đầu tưnước ngoài, mọi tranh chấp trước hết được giải quyết thông qua thươnglượng, hoà giải.”Nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không thể thi hành bản án mộtcách bắt buộc để chống lại quốc gia đó.
- Quyền này được đặt ra khi quốc giađồng ý trở thành bị đơn trước toà án nước ngoài nghĩa là đồng ý cho cánhân, pháp nhân nước ngoài kiện mình và đồng ý cho Toà án thụ lý và xétxử vụ kiện đó.Trong thực tế Nhà nước Việt Nam đã tham gia vào nhiều quan hệ dân sự cóyếu tố nước ngoài như:Ví dụ: Hợp đồng Chính Phủ Việt Nam Mua Bản Quyền Phần MềmMicrosoft Office của Hoa Kỳ.
- Đây là thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước –Doanh nghiệp.Thỏa thuận này bao gồm bốn lĩnh vực trọng tâm: đó là sửdụng các công cụ hiệu quả được ứng dụng trên toàn thế giới, xây dựng hạtầng Chính phủ điện tử và kỹ năng kỹ thuật, thu hẹp khoảng cách số và mởrộng khai thác các doanh nghiệp phần mềm địa phương.Hợp đồng này là một phần quan trọng trong Thỏa thuận hợp tác Nhà nước –Doanh nghiệp nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển của một ngành kinh tếCNTT - Truyền thông năng động tại Việt Nam .
- (Theohttp://viet.vietnamembassy.us)Bình luận:Như vậy hiện nay trong tư pháp quốc tế tồn tại hai quan điểm về quyền miễntrừ quốc gia khi tham gia vào các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoàinhư đã nêu ở trên.Quan điểm của giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội ủng hộ quyền miễntrừ tư pháp tuyệt đối.
- Quan điểm này cho rằng quyền miễn trừ tư pháp làtuyệt đối và quốc gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả nội dung củaquyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của mình bởi vì hưởng quyền miễn trừ tưpháp tuyệt đối trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quyềncủa quốc gia chứ không phải là nghĩa vụ của quốc gia.
- Và cho rằng nội dunghọc thuyết miễn trừ tương đối là trái với các nguyên tắc cơ bản của côngpháp quốc tế, không có lợi cho việc thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế.Còn theo quan điểm về thuyết miễn trừ tương đối điển hình là của tác giảNguyễn Trường Giang nêu trong quyển“ Những phát triển của luật phápquốc tế trong thế kỷ XXI” thì cho rằng trong bối cảnh kinh tế hiện nay họcthuyết miễn trừ tuyệt đối không còn phù hợp và gây khó khăn cho sự pháttriển của các hoạt động của nhà nước.
- Pháp luật ViệtNam cũng có một số quy định về quyền miễn trừ quốc gia khi tham gia quanhệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
- Cụ thể như quy định tại khoản 3 Điều 9 NĐ60/NĐ-CP ngày hướng dẫn các quy định của BLDS 1995 vềquan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nêu rõ “Tài sản của Nhà nướcCHXHCN Việt Nam được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, nếu sử dụng vàomục đích kinh doanh thì không được hưởng quyền miễn trừ tư pháp”.
- Quyđịnh này sau đó không được ghi nhận tại NĐ138/NĐ – CP ngày 15/11/2006quy định chi tiết thi hành các quy định của BLDS 2005 về quan hệ dân sự cóyếu tố nước ngoài.Nhóm em đồng ý với quan điểm thứ hai tức là quyền miễn trừ tài phán quốcgia khi tham gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là miễn trừtương đối.
- Bởi điều này tạo ra cho các doanh nghiệp tư nhân một vị thế côngbằng khi tham gia các hoạt động kinh tế thương mại với Nhà nước, qua đógóp phần thúc đẩy thương mại trên thế giới.
- Trên thực tế hiện nay nhà nướctham gia nhiều các quan hệ dân sự.
- Một quốc gia không thể viện dẫn quyềnmiễn trừ tài phán trước một tòa án nước ngoài đối với một vấn đề hoặc mộtvụ kiện một khi các quốc gia đó đã nhất trí chấp nhận thẩm quyền tài pháncủa một tòa án nước ngoài đối với một vấn đề hay một vụ kiện trong mộtthoả thuận quốc tế, một bản hợp đồng viết hoặc một thông báo viết trongmột quá trình tố tụng cụ thể.
- Một quốc gia khởi kiện trước tòa án nước ngoàikhông thêt viện dẫn quyền miễn trừ đối với thẩm quyền tài phán của quốcgia đó đối với những phần khiếu nại nảy sinh từ chính vụ kiện mà quốc giađã khởi xướng.
- Một quốc gia không thể viện dẫn quyền miễn trừ đối vớithẩm quyền tài phán của tòa án quốc gia khác khi tham gia hợp đồng thươngmại với tự nhiên nhân hoặc pháp nhân của quốc gia khác, trong các trườnghợp có liên quan đến quyền của quốc gia đó đối với sáng chế, kiểu dángcông nghiệp, nhãn thương mại, thương hiệu, bản quyền… Các tranh chấpliên quan đến hợp đồng đó sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án quốc gia khácnếu trong giao dịch thương mại đó các bên không thỏa thuận chấp nhận đểquốc gia là một bên của hợp đồng có thể viện dẫn quyền miễn trừ tài phán.Như vậy, quyền miễn trừ dân sự tương đối sẽ bảo đảm vị trí bình đẳng trướctòa án quốc gia cho các tự nhiên nhân và pháp nhân của một quốc gia nướcngoài hoặc các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tham gia quan hệ với quốcgia đó.III.
- Một số ý kiến đóng góp về xây dựng pháp luật về quyền miễn trừquốc gia của Việt nam.Ở Việt Nam hiện nay chưa có luật về quyền miễn trừ của quốc gia và phápluật hiện hành cũng không xó quy phạm nào quy định trực tiếp về quyềnnày.
- Trước đây Điều 84 – Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cóquy định “Các vụ án dân sự liên quan đến nhà nước nước ngoài hoặc ngườiđược hưởng quy chế ngoại giao được hưởng quy chế ngoại giao được giảiquyết bằng con đường ngoại giao, trừ trường hợp nhà nước nước nước ngoàihoặc người được hưởng quy chế ngoại giao đồng ý than gia tố tụng tại ViệtNam.Tuy nhiên pháp lệnh này đã hết hiệu lực.
- Hiện nay, Bộ luật Dân sự2005 đã không quy định trực tiếp về quyền miễn trừ ngoại giao.
- Các văn bảnpháp luật hiện hành mới chỉ quy định quyền miễn trừ của nhân viên ngoạigiao và lãnh sự.Quyền miễn trừ được pháp luật Việt Nam quy định cho các đối tượng nàybao gồm quyền miễn trừ xét xử và quyền miễn trừ đối với các biện pháp thihành án.
- Bên cạnh đó, Điều 2 Khoản 4 BLDS 2005 cũng quy định: “cá nhân,cơ quan, tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi,miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luậtViệt Nam, theo Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặcgia nhập thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đóđược giải quyết bằng con đường ngoại giao”Theo lý luận trên ta có thể lập luận một cách lôgic rằng những người đạidiện cho quốc gia được hưởng quyền miễn trừ thì bản thân quốc gia cũngđược hưởng các quyền này.
- Tuy nhiên để tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án ViệtNam trong việc thụ lý và giải quyết các tranh chấp dân sự có liên quan đếnnhà nước nước ngoài chúng ta nên quy định rõ ràng về quyền miễn trừ củaquốc gia.
- Một số nước cũng đã có luật riêng để quy định về quyền miễn trừquốc gia như Luật về quyền miễn trừ dành cho quốc gia nước ngoài 1976 ởMỹ, Luật của Anh 1978, Singapore 1979, Pakistan 1981, Canada 1982, Úc1985…Pháp luật Việt Nam nên quy định quyền miễn trừ tương đối cho các quốcgia nước ngoàiTrước hết phải khẳng định rằng theo chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-Lênin thì mọi sự vật hiện tượng đều không có tính tuyệt đối mà chỉ tồn tại ởtính tương đối mà thôi.Hơn nữa đi vào thực tế thì nếu quy định quyền miễn trừ tuyệt đối cho cácquốc gia nước ngoài thì sẽ không có lợi cho nhà nước Việt nam và đặc biệtlà các thể nhân, pháp nhân Việt Nam trong quan hệ tư pháp quốc tế.
- Đây làcái cớ để Nhà nuớc nước ngoài không tuân thủ một số nghĩa vụ của họ.Hiện nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO.
- Sự kiện nàyđã mở ra cánh cửa để Việt Nam bước ra và hội nhập hoàn toàn với nền kinhtế toàn cầu.
- Việc hội nhập kinh tế quốc tế và làn sóng đầu tư ngày càng tăngcao đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới về pháp luật, trong đó có pháp luật vềhợp đồng BOT.
- Hợp đồng được kí giữa Cơ quan Nhà nước và các doanhnhgiệp.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồngBOT với hai tư cách: tư cách là một bên của hợp đồng và tư cách là một cơquan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo dõi, kiểm tra, giám sát hợp đồng.Do cơ quan quản lý nhà nước tham gia vào quan hệ hợp đồng, nên cơ quannày phải từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia.
- Việc từ bỏ quyền miễn trừ quốc gianày là phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Tuy nhiên, mức độ từ bỏ và từ bỏ trongtừng trường hợp cụ thể nào hiện đang phụ thuộc nhiều vào quá trình đàmphán và nhượng bộ của mỗi bên.Do đó, để khuyến khích đầu tư theo hợp đồng BOT và khẳng định rõ bảnchất thương mại của hợp đồng BOT, cần quy định rõ trong pháp luật về hợpđồng BOT vấn đề khước từ quyền miễn trừ quốc gia của cơ quan nhà nướccó thẩm quyền tham gia ký kết hợp đồng BOT cũng như xác định mức độ vàphạm vi việc khước từ quyền miễn trừ quốc gia đó.KẾT LUẬN:Như vậy, theo như những phân tích ở trên thì khi Nhà nước ta ngày càngnhiều vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì chúng ta cần có mộtquy chế pháp lí chặt chẽ quy định về quyền miễn trừ quốc gia.
- Khi tham giavào các quan hệ này các doanh nghiệp cần chú trọng vào các thỏa thuận vềquyền miễn trừ quốc gia để giao dịch đó được hiệu quả hơn.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt