« Home « Kết quả tìm kiếm

Kết quả điều trị thận niệu quản đôi bằng phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 trocar hỗ trợ


Tóm tắt Xem thử

- KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THẬN NIỆU QUẢN ĐÔI.
- BẰNG PHƯƠNG PHÁP NỐI NIỆU QUẢN-NIỆU QUẢN CÓ NỘI SOI SAU PHÚC MẠC SỬ DỤNG 1 TROCAR HỖ TRỢ.
- ³Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp nối niệu quản- niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 trocar hỗ trợ để điều trị thận niệu quản đôi hoàn toàn.
- Từ tháng tháng 9 năm 2016 tới tháng 12 năm 2018 đã có 37 bệnh nhi ở độ tuổi từ 2,4 tháng -105,9 tháng đã được phẫu thuật tại Bệnh viện Nhi Trung Ương.
- Không có bệnh nhân nào phải chuyển mổ mở để tìm niệu quản.
- Thời gian phẫu thuật trung bình là phút, thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 5,1 ± 2,3 ngày.
- Biến chứng tuột đầu dưới ống thông JJ lên niệu quản gặp ở 3 bệnh nhân trong đó 2 bệnh nhân được lấy bỏ ống thông bằng điện quang can thiệp, 1 bệnh nhân phải mổ mở.
- Kết quả theo dõi với thời gian sau mổ trung vị là 28,5 tháng cho thấy tất cả bệnh nhân diễn biến tốt.
- Kích thước bể thận và niệu quản trên giảm có ý nghĩa thống kê.
- Tất cả bệnh nhân đều có chức năng thận tốt hơn trước mổ.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 troca hỗ trợ là phương pháp khả thi, an toàn và hiệu quả điều trị dị tật thận niệu quản đôi hoàn toàn ở trẻ em..
- Từ khóa: Nội soi, 1 trocar, nối niệu quản niệu quản, thận niệu quản đôi..
- 1,2 Phẫu thuật được chỉ định khi có niệu quản lạc chỗ gây són tiểu hoặc khi có các biến chứng như tắc đường bài xuất nước tiểu, luồng trào ngược bàng quang-niệu quản, túi sa niệu quản hay nhiễm trùng tái phát..
- Nhiều kỹ thuật mổ đã được áp dụng để điều trị dị tật TNQĐ bao gồm cắt đơn vị thận trên cùng với niệu quản, cắm lại cả hai niệu quản.
- vào bàng quang, nối bể thận với bể thận, nối niệu quản với bể thận và nối niệu quản với niệu quản.
- Mặc dù cắt thận là phưng pháp điều trị hiệu quả nhưng có khoảng 5 % đơn vị thận còn lại bị mất chức năng vì vậy các phương pháp điều trị bảo tồn đã được phát triển trong đó kỹ thuật nối niệu quản-niệu quản là kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhất.
- 8–15 Kỹ thuật nối niệu quản- niệu quản bằng mổ mở dần dần bị thay thế bởi kỹ thuật mổ nội soi.
- 10–14 Cho đến nay kỹ thuật mổ nội soi được thực hiện bằng đường qua phúc mạc hoặc sau phúc mạc sử dụng 3 - 4 trocar với 3 - 4 đường rạch..
- Nhằm giảm bớt đường rạch để giảm sang chấn, tăng tính tẩm mỹ và khâu nối dễ dàng hơn, chúng tôi đã tiến hành kỹ thuật nối niệu Tác giả liên hệ: Nguyễn Thanh Quang,.
- quản-niệu quản với 1 trocar hỗ trợ đường sau phúc mạc.
- Mục đích của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tính an toàn, khả thi và hiệu quả của phương pháp này..
- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP.
- Bao gồm những bệnh nhân tuổi từ trên 1 tháng tới 15 tuổi được chẩn đoán là TNQĐ hoàn toàn được phẫu thuật bằng phương pháp nối niệu quản niệu quản với nội soi sau phúc mạc sử dụng 1 trocar hỗ trợ từ tháng 9 năm 2016 tới tháng 12 năm 2018 tại khoa Ngoại Tiết Niệu, Bệnh viện Nhi Trung Ương.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Đơn vị thận trên ứ mủ, TNQĐ thể không hoàn toàn, có trào ngược từ bàng quang vào niệu quản của đơn vị thận dưới, những trường hợp đã mổ bằng kĩ thuật khác thất bại..
- Phương pháp.
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp không nhóm chứng đánh giá trước và sau sau thiệp..
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2016 đến tháng 12/2018.
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Ngoại Tiết Niệu, Bệnh viện Nhi Trung Ương..
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện..
- Các chỉ tiêu nghiên cứu:.
- Các thông tin nghiên cứu bao gồm tuổi, giới, cân nặng lúc phẫu thuật, kích thước bể thận, niệu quản trên trước và sau mổ, chức năng thận trước và sau mổ, thời gian mổ, tỉ lệ biến chứng, thời gian nằm viện, kết quả theo dõi sau khi ra viện..
- Kỹ thuật mổ: Kỹ thuật mổ do nhóm nghiên cứu chúng tôi tự phát triển và đã được hội đồng y đức thông qua.
- Phẫu thuật được bắt đầu bằng.
- soi bàng quang để đặt ống thông JJ vào niệu quản lành (niệu quản của đơn vị thận dưới) sau đó bệnh nhân được chuyển nằm nghiêng về phía đối diện..
- Mở cân Gerota để vào khoang sau phúc mạc.
- Đặt troca sau phúc mạc (Auto suture) 10 mm (vào khoang quanh thận nối với hệ thống bơm khí CO².
- Phẫu tích tách rời cả 2 niệu quản khỏi tổ chức xung quanh.
- Dùng panh Babcock cặp và kéo cả hai niệu quản ra ngoài..
- Nối niệu quản-niệu quản Tách rời 2 niệu quản, cắt đôi niệu quản.
- Mở niệu quản của đơn vị thận dưới theo chiều dọc tương ứng với kích thước của niệu quản đơn vị thận trên.
- Nối niệu quản-niệu quản một lớp bằng chỉ PDS 6/0 khâu vắt..
- Đạo đức nghiên cứu.
- KẾT QUẢ.
- Tuổi điều trị phẫu thuật nhỏ nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là 2,4 tháng, lớn nhất là 105,9 tháng.
- Độ tuổi và cân nặng của trẻ trong nghiên cứu được trình bày ở bảng 1 và biểu đồ 1..
- Phân bố về cân nặng của bệnh nhân khi phẫu thuật (n = 37) Bảng 1.
- Phân bố của nhóm tuổi bệnh nhân khi phẫu thuật (n = 37).
- Biểu hiện lâm sàng được trình bày ở bảng 2.Hầu hết các bệnh nhân được bố mẹ cho tới khám do có biểu hiện lâm sàng.
- 100% các bệnh nhân được siêu âm trước mổ.
- Có 5 trường hợp (13,5%) TNQĐ cả hai bên, tuy nhiên chỉ một bên có chỉ định phẫu thuật.
- Như vậy, 14 bệnh nhân TNQĐ được phẫu thuật bên phải (37,8%) và 23 bệnh nhân được phẫu thuật bên trái (62,2%)..
- Phẫu thuật nội soi hoàn thành ở tất cả bệnh nhân và không có trường hợp nào cần chuyển sang mổ mở.
- Không có tai biến hoặc biến chứng trong mổ và trong thời gian nằm viện.
- Thời gian phẫu thuật trung bình là phút.
- Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 5,1 ± 2,3 ngày..
- Biến chứng sau khi ra viện bao gồm 3 bệnh nhân bị tuột ống thông JJ lên niệu quản (2 trường hợp rút ống thông bằng can thiệp điện quang, 1 trường hợp phải mổ để lấy ống thông)..
- Tất cả bệnh nhân đã được theo dõi sau khi ra viện với thời gian theo dõi trung vị là 28,5 tháng..
- Kết quả siêu âm sau mổ cho thấy kích thước bể thận và niệu quản của đơn vị thận trên đều giảm có ý nghĩa thống kê so với trước mổ.
- Chức năng của đơn vị thận trên sau mổ tăng có ý nghĩa thống kê, ngoài ra chức năng của đơn vị thận có can thiệp được bảo tồn và thay đổi không có ý nghĩa thống kê so với trước mổ..
- Siêu âm sau mổ không phát hiện bệnh nhân nào còn túi sa niệu quản trong 6 trường hợp có túi sa niệu quản trước mổ..
- Đường kính bể thận, niệu quản, chức năng đơn vị thân trên và chức năng của bên thận có can thiệp trước và sau mổ.
- Các giá trị đánh giá kết quả sau mổ Trước mổ Sau mổ p.
- Kích thước niệu quản (mm .
- Chức năng đơn vị thận trên.
- Chức năng bên thận có can thiệp.
- Kết quả theo dõi cho thấy nhìn chung kích thước bể thận và niệu quản của đơn vị thận trên đã giảm xuống có ý nghĩa thống kê.
- Chức năng của bên thận có can thiệp được bảo tồn và chức năng của đơn vị thận trên tăng có ý nghĩa thống kê..
- Kỹ thuật nối niệu quản-niệu quản lần đầu tiên được Buchtel thực hiện để điều trị TNQĐ.
- năm 1965 sau đó được nhiều phẫu thuật viên khác tiếp tục phát triển.⁹ Năm 2007 Gonzalez lần đầu tiên báo cáo kỹ thuật nối niệu quản-niệu.
- quản bằng phẫu thuật nội soi.
- 10 Trong những năm gần đây phẫu thuật nội soi và robot đang dần thay thế phẫu thuật mổ mở.
- 10–15 Tuy nhiên phẫu thuật nội soi cần phải sử dụng 3 - 4 đường rạch và 3 - 4 trocar trong khi chúng tôi chỉ sử dụng 1 đường rạch và 1 trocar..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy đây là phương pháp khả thi.
- Thì nội soi sau phúc mạc tìm và đưa niệu quản ra ngoài đã được thực hiện ở tất cả bệnh nhân.
- Mặc dù chỉ sử dụng 1 dụng cụ.
- để phẫu tích và bóc tách niệu quản khỏi tổ chức xung quanh nhưng chúng tôi không gặp bất cứ khó khăn nào.
- Tổng thời gian mổ trung bình của chúng tôi là phút..
- Thời gian này ngắn hơn thời gian mổ mở, thời gian mổ nội soi hoặc thời gian mổ robot trong một số báo cáo khác..
- Thời gian phẫu thuật trung bình theo y văn (phút).
- Tác giả Mổ mở Mổ nội soi Mổ robot.
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc hỗ trợ sử dụng một đường rạch và 1 trocar là phương pháp an toàn.
- Chúng tôi không gặp một tai biến nào trong mổ, không có biến chứng nào trong thời gian nằm viện..
- Kỹ thuật mổ của chúng tôi có nhiều ưu điểm so với phương pháp mổ mở vì đường rạch bé hơn, không cắt cơ, sang chấn ít hơn.
- So với mổ nội soi truyền thống, chúng tôi chỉ sử dụng 1 đường rạch 11mm thay vì 3 - 4 đường rạch nên cũng ít sang chấn và thẩm mỹ hơn.
- Ưu điểm nổi bật là thì nối niệu quản-niệu quản đã được tiến hành ngoài khoang sau phúc mạc vì vậy dễ thực hiện hơn và thời gian ngắn hơn.
- So với phẫu thuật robot, thời gian mổ của chúng tôi cũng ngắn hơn và chi phí cũng thấp hơn..
- Kết quả can thiêp qua theo dõi cho thấy.
- Kết quả siêu âm trong thời gian theo dõi cho thấy hình ảnh túi sa niệu quản không còn tồn tại ở cả 6 bệnh nhân có túi sa.
- Điều này cho thấy phương pháp phẫu thuật này không cần phải xử lý túi sa niệu quản cùng lúc hoặc sau khi nối niệu quản-niệu quản.
- Tuy nhiên chúng tôi cần thời gian theo dõi dài hơn nữa để có kết luận chính xác..
- Từ những kết quả thu được có thể kết luận phương pháp nối niệu quản-niệu quản có nội soi sau phúc mạc hỗ trợ sử dụng một 1 trocar hỗ trợ là phương pháp khả thi, an toàn, hiệu quả, có nhiều ưu điểm so với phương pháp mổ mở hay mổ nội soi truyền thống trong điều trị dị tật TNQĐ.