« Home « Kết quả tìm kiếm

QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ, CỤ THỂ VỚI VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng -Năm 2014


Tóm tắt Xem thử

- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRẦN TRỌNG QUỲNH QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ, CỤ THỂ VỚI VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.80 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng - Năm 2014 Công trình được hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: TS.
- Trần Văn Ánh - Phản biện 2: PGS.TS Lê Văn Đính Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn họp tại Đại Học Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 03 năm 2014 Có thể tìm hiểu luận văn tại.
- Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế một cách văn minh.
- Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội.
- Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo.
- Bản thân tôi nhận thức được vai trò và vị trí to lớn của vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở nước ta nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Quan điểm lịch sử, cụ thể với vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành triết học.
- Tình hình nghiên cứu Về vấn đề công bằng xã hội thì đối với lĩnh lực này hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết đề cập tới như: Công trình nghiên cứu của TS Nguyễn Minh Hoàn đã viết cuốn sách “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- Trong cuốn sách này tác giả đã đề cặp tới khái niệm, vị trí và vai trò của công bằng xã hội và việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay một cách khá đầy đủ.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nội dung quan điểm lịch sử, cụ thể và thực trạng thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ giới hạn ở vấn đề về quan điểm lịch sử, cụ thể, cũng như sự vận dụng quan điểm đó vào việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Luận văn góp phần làm rõ nội dung quan điểm lịch sử, cụ thể, cũng như đánh giá một cách khoa học về thực trạng thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Đồng thời, đưa ra được các giải pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt công bằng xã hội ở nước ta.
- Chương 2: Thực trạng công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Các giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Nhưng do ảnh hưởng tư tưởng luân hồi của kinh Upanisad, do hạn chế của lịch sử, các nhà tư tưởng đã không tìm thấy nguyên nhân đau khổ của con người là trong đời sống kinh tế – xã hội mà là trong nhận thức, do “Vô minh”.
- Về mặt hình thái kinh tế - xã hội đó là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
- Trong hệ thống triết học của Hêghen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.
- Phương pháp lịch sử khoa học cho phép tái tạo lại sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào đó, tìm ra mối liên hệ tất yếu giữa các sự kiện lịch sử và nhờ đó mà tạo điều kiện cho sự tồn tại của khoa 8 học về xã hội – phương pháp lịch sử ấy không chỉ dựa trên cơ sở phép biện chứng.
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 9 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1.
- CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG BẰNG XÃ HỘI 2.1.1.
- Quan niệm về công bằng xã hội Khi bàn về công bằng xã hội thì trong lịch sử nhân loại có rất nhiều tư tưởng bàn về công bằng xã hội ngay từ thời cổ đại.
- Do có sự đa dạng ấy về nhu cầu nên xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau thực hiện các dạng phân công lao động khác nhau để thỏa mãn các nhu cầu của xã hội và do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa họ.
- Như vậy, trong quan niệm của Arixtốt dù công bằng là bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội hay bất bình đẳng của những người không có cùng địa vị xã hội thì cả sự bình đẳng và bất bình đẳng ấy đều là thước đo của sự công bằng.
- 10 C.Mác cho rằng, một sự phân phối thực sự công bằng chỉ có thể là phân phối theo lao động.
- Vì sao vậy? Theo Mác, trước hết, việc thực hiện công bằng xã hội không phải chỉ phụ thuộc riêng vào lĩnh vực phân phối, mà nó còn bị chi phối bởi toàn bộ tính chất của phương thức sản xuất, vì rằng, “bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất.
- tr.36- 37] Từ luận điểm trên, C.Mác đi đến phê phán những quan điểm nói đến công bằng xã hội nhưng lại muốn tách quan hệ phân phối khỏi quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất nhất định.
- C.Mác viết: “Chủ nghĩa xã hội tầm thường đã thừa hưởng được của những nhà kinh tế học tư sản cái thói xem xét và lý giải sự phân phối như một cái gì độc lập với phương thức sản xuất và vì thế mà họ quan niệm chủ nghĩa xã hội như là chủ yếu xoay quanh sự phân phối”.
- tr.36-37] Trong quan điểm của Hồ Chí Minh thì việc thực hiện công bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết, và yêu cầu đó lại càng bức thiết hơn khi cuộc sống còn nhiều khó khăn.
- Mặt khác, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, thực hiện công bằng xã hội với nguyên tắc ngang bằng nhau giữa người và người trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ,...trong hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn về kinh tế cũng không có nghĩa là có thể làm cho đời sống của nhân dân có ngay được sự no đủ.
- Do đó, không được coi việc thực hiện công bằng xã 11 hội như là một sự cào bằng trong nghèo khổ.
- Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng”.
- tr 568] Hơn nữa, với quan niệm coi công bằng xã hội thể hiện ở sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, một lần nữa, Người nhấn mạnh: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”.
- tr 226] Như vậy trong quan niệm của Hồ Chí Minh, công bằng và bình đẳng là một mục tiêu của sự sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới.
- Mục tiêu của chế độ xã hội mới là không ngừng nâng cao đời sống của dân, là phấn đấu: “Làm cho người nghèo có ăn.
- Vai trò của công bằng xã hội Trong bất cứ một chế độ xã hội nào thì công bằng xã hội luôn là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội như chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy.
- chủ nghĩa tư bản và công bằng xã hội trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Trong xã hội thời cộng sản nguyên thủy thì thiết chế xã hội phổ biến lúc bấy giờ là các thị tộc, sự phân công lao động là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, nó chỉ tồn tại giữa quan hệ giữa nam và nữ.
- Sự điều tiết của Nhà nước mới thực sự là “chìa khóa để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội”.
- TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1.
- Những thành tựu trong thực hiện công bằng xã hội *Về tăng trưởng kinh tế * Về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội 2.2.2.
- Những hạn chế trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay * Về kinh tế * Về xã hội 2.2.3.
- Những nguyên nhân Công bằng xã hội là mục tiêu đã được Đảng ta xác định ngay từ những ngày đầu khi nước ta tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trong quá trình thực hiện mục tiêu xã hội to lớn đó, chúng ta đã trải qua hai giai đoạn phát triển cơ bản, đó là: thời kỳ 13 trước đổi mới và thời kỳ sau đổi mới đến nay.
- Các thời kỳ có các đặc điểm phát triển kinh tế xã hội khác nhau, cũng như có nhận thức khác nhau về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ở chặng đường đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù vấn đề thực hiện công bằng xã hội không được trực tiếp bàn đến trong những chủ trương của Đảng, nhưng xuất phát từ những quan điểm cho rằng chế độ tư hữu là nguồn gốc của sự bóc lột, của tình trạng bất công và bất bình đẳng xã hội, nên trong thực tiễn, việc xoá bỏ chế độ tư hữu đã trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện công bằng xã hội ở thời kỳ này.
- Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
- tr.531-532] Trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70.
- tr.12] đã thẳng thắn tự phê bình về việc đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách sai lầm trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Báo cáo chính trị tại Đại hội đã vạch rõ những hạn chế và sai lầm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ chế quản lý.
- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Những nội dung về thực hiện công bằng xã hội ở nước ta đã được vạch ra trong các Văn kiện Đại hội của Đảng.
- Vậy thì hình thức để thực hiện những nội dung đó như thế nào? Hay nói cách khác là những nội dung thực hiện công bằng xã hội ở trên được thực hiện dưới hình thức nào?.
- Trong thời kỳ trước đổi mới, nguyên tắc phân phối theo lao Từ 14 khi đổi mới đến nay, việc nhấn mạnh trở lại yêu cầu cần phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động vừa khắc phục được nguyên tắc bình quân, vừa khắc được sự bất công xã hội.
- Chính vì vậy, nguyên tắc phân phối công bằng mà chúng ta đang thực hiện trở thành động lực quan trọng thúc đẩy cho sự phát triển của nền sản xuất của nước ta, nâng cao và cải thiện đáng kể đời sống của người lao động ở cả nông thôn và thành thị.
- Đây chính là kết quả tất yếu của việc vận dụng nội dung mới của công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 15 CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.
- CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.1.
- Bối cảnh trong nước Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay được thể hiện qua cách vận hành của nội dung và hình thức một cách đan xen lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
- Những nội dung mà Đảng và Nhà nước ta vạch ra về việc thực hiện công bằng xã hội và đi đôi với nó là hình thức tồn tại và vận hành của những nội dung về công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Nói cách khác, công bằng về cơ hội phải được hiểu là tạo ra cơ hội phù hợp với mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.
- Đây mới là sự công bằng về cơ hội cho mọi cá nhân.
- Xuất phát từ những chủ trương của Đảng về thực hiện công bằng xã hội, thêm nữa, nếu tính đến sự cống hiến cho sự phát triển xã hội là một quá trình thì thực hiện công bằng xã hội không chỉ dựa vào kết quả đã và đang có sự cống hiến để làm thước đo thực hiện 16 phân phối, mà còn cần phải tính đến cả kết quả sẽ có của sự công hiến để phân phối.
- Nhưng muốn thực hiện sự phân phối công bằng kết quả sẽ có của sự cống hiến, thì phải tạo ra cơ hội phù hợp cho mỗi cá nhân để mỗi cá nhân đều có điều kiện được cống hiến và phát huy được khả năng của mình, rồi sau đó có được sự hưởng thụ tương xứng với cống hiến ấy.
- Đó mới chính là thực hiện một sự công bằng xã hội thực sự vì sự phát triển ngày càng toàn diện phẩm giá con người.
- Tóm lại, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một phần của nội dung thực hiện công bằng xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Việc thực hiện mục tiêu đó là để đáp ứng các yêu cầu về phát triển lực lượng sản xuất xã hội (bồi dưỡng tài nguyên con người), đảm bảo phúc lợi xã hội (vai trò Nhà nước tạo cơ hội bình đẳng học tập cho mỗi người dân), và thực hiện dịch vụ xã hội (thực hiện xã hội hoá giáo dục, thu hút mọi nguồn lực vật chất và trí tuệ phát triển nền giáo dục).
- Do đó, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục cũng chính là sự tác động trực tiếp nhằm đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu giáo dục nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung 17 3.1.2.
- Bối cảnh quốc tế Công bằng không có nghĩa là cào bằng từ trên xuống, đánh đồng, bắt mọi người ai cũng giống nhau.
- Tiếp tục nhìn vào thực tế, trong nền kinh tế thị trường thời mở cửa, sự phân hoá giàu nghèo không hoàn toàn là biểu hiện của sự không công bằng.
- Bình đẳng là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng.
- Bình đẳng trước pháp luật là điều kiện cơ bản để đạt đến sự công bằng.
- Ngày trong khóa họp thứ 62 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua "Nghị quyết 62/10", quyết định lấy ngày 20 tháng 2 hàng năm - bắt đầu từ năm 2009 – làm "Ngày Công bằng xã 18 hội thế giới", kêu gọi các nước thành viên đưa ra các sáng kiến ở cấp quốc gia để hỗ trợ các mục tiêu mà "Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội" tại Copenhagen (từ ngày và Nghị quyết ở khóa họp đặc biệt thứ 24 của "Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc" tại Genève, mang tên "World Summit for Social Development and future years: achieving social development for all people in a globalized world" (Hội nghị thượng đỉnh Xã hội + 5) đặt ra.
- Như Hội nghị thượng đỉnh thế giới đã công nhận, việc phát triển xã hội hướng tới mục tiêu công bằng xã hội,đoàn kết, hòa hợp và bình đẳng bên trong và giữa các quốc gia và công bằng xã hội, bình đẳng và công tâm (không thiên vị) tạo thành các giá trị cơ bản của tất cả các xã hội.
- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI 3.3.
- CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.3.1.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện công bằng xã hội Tình hình thực tế và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đòi hỏi.
- Bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật và chính sách về công bằng xã hội Nhà nước cần ban hành những chính sách nhằm tạo điều kiện giảm dần sự phát triển mất cân đối giữa đô thị và nông thôn, đặc biệt là nông thôn ở vùng xa, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số.
- Huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với cách mạng và những người quá khó khăn, những người tật nguyền chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
- Hiệu quả của công bằng xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Để thực hiện chính sách xã hội đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả, phải có những điều kiện bảo đảm ở mức cần thiết để chính sách xã hội đi vào cuộc sống.
- Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục về công bằng xã hội Bình đẳng là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.” 3.3.4.
- Thực hiện công bằng trong phân phối và thu nhập theo nguồn phân phối theo lao động.
- Tạo ra những cơ hội như nhau cho tất cả các tầng lớp dân cư và cá nhân phát huy tài năng, tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
- Khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường về phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện cho những người thiệt thòi có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
- Đẩy mạnh xã hội hóa nguồn lực cho việc thực hiên công bằng xã hội Huy động các nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng chương trình xóa đói, giảm nghèo.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 22 KẾT LUẬN Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, liên tục và ổn định trong thời gian dài, đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa được tăng cường, tạo điều kiện triển khai các chính sách xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội.
- Để thực hiện tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
- Chính sách công bằng xã hội đúng đắn, công bằng xã hội vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
- phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.
- điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội.
- Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội.
- Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội.
- Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi.
- là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Việc thực hiện tốt hệ thống chính sách công bằng và an sinh xã hội qa nhiều tầng nấc là thước đo quan trọng của một xã hội tiến 24 bộ, công bằng, văn minh, đồng thời là nhân tố quan trọng khơi dậy tính tích cực, sự hăng hái của các tầng lớp nhân dân trong sản xuất, kinh doanh để thoát đói, vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho bản thân và cho đất nước.
- Để xây dựng và phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, Đảng và Nhà nước cần phải đầu tư vào xây dựng chiến lược xây dựng con người, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
- Phát triển kinh tế, làm tăng của cải vật chất của xã hội luôn cần thiết, nhưng sự phát triển kinh tế không được phép bỏ qua những nhu cầu cơ bản của con người.
- Giải pháp đột phá để bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường là nâng cao năng lực quản lý và điều tiết thu nhập xã hội hợp lý, nâng cao quyết tâm chính trị trong cuộc chiến chống tham nhũng và lãng phí, xây dựng Đảng, Chính quyền Nhà nước trong sạch, vững mạnh, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động, thu hút sự đồng thuận dân tộc trong xây dựng, phát triển đất nước.