Mục lục
Câu 1. Chính trị học là một khoa học .................................................................................................................... 1
Câu 2. Đánh giá trào lưu tư tưởng chính trị cổ đại phương Đông và phương Tây ............................. 2
Câu 3. Biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống thông
qua hệ thống truyền thuyết thời đại Hùng Vương .......................................................................................... 4
Câu 4. Quản lý xã hội là hoạt động tất yếu của con người ............................................................................ 7
Câu 5. Nội dung và cơ sở hình thành văn hóa chính trị truyền thống phương Đông .......................... 9
Câu 6. Nhân định của anh/chị "DCTS là DC của số ít vs số đông/DCVS là DC của số đông vs số ít"
......................................................................................................................................................................................... 13
Câu 7.Phân tích, so sánh đặc điểm, phân biệt hệ thống chính trị TBCN quá độ vs hệ thống chính
trị CSCN quá độ .......................................................................................................................................................... 16
Câu 8. Quan điểm của anh/chị về mô hình xh lý tưởng trong tư tưởng chính trị p Đông & p Tây
cổ đại ............................................................................................................................................................................. 18
Câu 9. Ý kiến của anh/chị Chuyên chính dân chủ nhân dân là nền chuyên chính của CNXH .......... 22
2. Văn hóa chính trị còn tồn tại trong xã hội cộng sản chủ nghĩa không
3. Trong thế giới động vật có quản lý xã hội không? Phân biệt với quản lý xã hội của con
người
Câu 1. Chính trị học là một khoa học
Khoa học là một hệ thống những tri thức được tích lũy theo thời gian do con người tạo
ra và đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn, tương đối hoàn thiện và đầy đủ, có biểu hiện đối
tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, thì nhà nước ra đời.
Do vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của xã hội có giai cấp, là một trong bốn lĩnh vực cơ
bản cấu thành xã hội nên chính trị luôn thu hút các nhà tư tưởng chính trị lớn tiếp cận trên cơ
sở những lợi ích, mục đích, trình độ tư duy khác nhau ngay từ thời cổ đại. Do nhận thức được
ảnh hưởng to lớn ấy của chính trị đối với cuộc sống, các học thuyết chính trị, nhà tư tưởng
chính trị đã bỏ nhiều thời gian để suy nghĩ, tiếp cận, cảm nhận, tìm hiểu, bàn luận và làm sáng
tỏ bản chất của chính trị.
Các nhà triết học cổ đại đã đặt những viên gạch đầu tiên cho sự ra đời của Chính trị học.
Theo các nhà tư tưởng chính trị như Democrit quan niệm chính trị là kết quả những nỗ lực của
con người, là một nghệ thuật kỳ diệu đòi hỏi cơ quan điều hành, quản lý phải có hiểu biết, hay
như Platon lại chỉ rõ “Chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ cai trị bằng sức mạnh là sự độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới là chính trị”, hay không chỉ
theo Aristote “Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, giáo dục đạo đức và phẩm hạnh cao
thượng cho công dân với hoạt động trí tuệ cân đối và là khoa học làm chủ, khoa học kiến trúc
xã hội của mọi công dân” mà còn là “công việc của những người thống nhất trong mình quyền
uy và tài năng, biết hy sinh vì lợi ích chung và có tâm hồn hướng thượng” theo Xixeron.
Trong khi đó, theo trào lưu tư tưởng chính trị vô sản, chính trị lại là phạm trù lịch sử
xuất hiện và tồn tại song song với phạm trù giai cấp và phạm trù nhà nước, là sự tham gia của
công dân vào công việc của nhà nước và là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Từ đó, ta thấy,
chính trị là hoạt động của các chính đảng, tổ chức đại diện nhóm lợi ích xã hội gắn liền với
quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, nhóm xã hội, mà hạt nhân là việc giành –
giữ - thực thi – sử dụng quyền lực nhà nước.
1
Như vậy, chính trị vừa là mối quan hệ xã hội đặc biệt giữa các đảng phái chính trị, cộng
đồng xã hội, quốc gia, dân tộc về vấn đề nhà nước vừa là hình thức xã hội đặc thù nhằm theo
đuổi mục đích giành – giữ - thực thi – sử dụng quyền lực nhà nước.
Dựa trên kinh nghiệm được tích lũy từ thực tiễn chính trị, những cuộc đấu tranh giành
giật quyền lực chính trị trong những thiết chế chính trị có đối kháng giai cấp; xuất hiện và phát
triển ngày càng nhiều những quan niệm, tư tưởng về sự đối kháng chính trị. Các quan hệ chính
trị ngày càng tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội và được nghiên cứu một cách sâu sắc hơn
như xác định nhiều hơn những mối quan hệ khác nhau giữa các giai cấp, dân tộc, đảng chính
trị - đảng cầm quyền, đảng chính trị - nhà nước, nhà nước – công dân, công dân – công dân liên
quan tới việc hình thành, phát triển của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; từ đó, vạch
rõ cơ sở của sự liên minh, đấu tranh, hợp tác giữa các chủ thể chính trị.
Có thể nói sau hàng ngàn năm phát triển như một khoa học, hệ thống tri thức cơ sở về
chính trị dần được hình thành và hoàn thiện, đặc biệt tại Pháp và Đức.
Để có một hệ thống tri thức đầy đủ về chính trị, cần phải nghiên cứu nó như một chỉnh
thể có cấu trúc bao gồm các thiết chế chính trị, thể chế chính trị, đảng chính trị, các mối quan
hệ con người chính trị trong lịch sử giữa thủ lĩnh chính trị và công dân, các quá trình chính trị,
quy luật chính trị, chính sách chính trị của các thể chế chính trị. Ngoài ra còn cần được nghiên
cứu dưới góc độ những vấn đề có tính quy luật tuần hoàn, khái quát nhất về quyền lực nhà
nước, việc sử dụng – giành – giữ - thực thi quyền lực chính trị trong đời sống xã hội.
Nghiên cứu các hiện tượng, quá trình chính trị phải đạt được nhận thức logic khách
quan, bản chất của chính trị, quy luật chung nhất về giành – giữ - thực thi – sử dụng quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước. Phương pháp logic lịch sử cho thấy tính quy luật – nguyên nhân
nội tại và cơ chế vận động của quá trình chính trị thì phương pháp hệ thống lại coi đời sống xã
hội như một chỉnh thể gồm nhiều quá trình, yếu tố khác nhau, có liên hệ hữu cơ và tác động
lẫn nhau một cách chặt chẽ giữa các nhân tố chính trị cùng loại chủ thể. Trong nghiên cứu lĩnh
vực chính trị đời sống xã hội cũng cần áp dụng phương pháp so sánh và thực nghiệm để rút ra
cái ưu, khuyết, tích cực và hạn chế của từng loại thiết chế, đối tượng chính trị để từ đó đề xuất
được những giải pháp khoa học khách quan phát huy những giá trị tích cực, khắc phục những
giá trị hạn chế trong đời sống chính trị.
Như vậy, chính trị học là một khoa học; có đối tượng nghiên cứu rõ ràng, phương pháp
nghiên cứu cụ thể, lịch sử hình thành và phát triển lâu dài như mọi khoa học khác; nghiên cứu
chính trị của đời sống xã hội như một chỉnh thể nhằm làm sáng tỏ nhận thức và vận dụng
những quy luật chung nhất của chính trị trong các mối quan hệ liên quan đến sự hình thành và
phát triển của quyền lực giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia, tổ chức, đặc biệt là quy luật về
việc giành – giữ - thực thi – sử dụng quyền lực trong đời sống xã hội.
Câu 2. Đánh giá trào lưu tư tưởng chính trị cổ đại phương Đông và phương Tây
Lịch sử tư tưởng chính trị là một phần quan trọng của chính trị học nhằm tìm hiểu thực
chất của vấn đề chính trị, của các cuộc đấu tranh giành – giữ - thực thi – sử dụng quyền lực
chính trị giữa các giai cấp, lực lượng chính trị - xã hội từ khi xuất hiện xã hội có phân chia giai
cấp, thông qua hệ thống các quan điểm, tư tưởng, học thuyết chính trị khác nhau ứng với mỗi
thời đại, khu vực địa lý, giai tầng – tập đoàn xã hội và thế giới hiện thực khác nhau. Đồng thời
còn nhằm nghiên cứu, chắt lọc, tiếp biến và vận dụng sáng tạo những giá trị phổ biến trong
lịch sử tư duy chính trị của nhân loại vào đời sống hoạt động chính trị trên cơ sở những học
thuyết, tư tưởng chính trị đó.
2
Ở phương Đông, nhà nước ra đời rất sớm do nhu cầu thống nhất quản lý trị thủy đòi
hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước có tính tập quyền, chuyên chế lớn. Xã hội chiếm hữu nộ
lệ Trung Hoa cổ đại được hình thành từ giữa thiên niên kỉ thứ II TCN, đã xây dựng nên chế độ
Tông pháp làm rường cột cho thể chế cai trị. Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc diễn ra sự quá
độ từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến sơ kỳ. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm
hữu nô lệ như giữa địa chủ - nông nô, quý tộc bị bần cùng hóa – trọc phú mới nổi tiếm quyền,
những mâu thuẫn xã hội xâu xé giữa các nước chư hầu trong phong trào thất hùng – ngũ bá
cũng như sự suy thoái đạo đức xã hội nghiêm trọng và xu hướng quan học dần mở rộng thành
tư học đã tạo tiền đề chính trị - xã hội quan trọng cho cuộc đấu tranh của một loạt trường phái
tư tưởng chính trị đa dạng, sôi nổi.
Trong khi đó ở phương Tây, lịch sử tư tưởng chính trị Hy La gắn bó chặt chẽ với quá
trình ra đời, củng cố, hưng thịnh và suy tàn của nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp, với cuộc
đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa chủ nô dân chủ - chủ nô quý tộc, chủ nô – nô lệ. Dưới ảnh
hưởng to lớn của các phong trào đấu tranh sâu rộng của nô lệ nghèo đói, bị mất quyền con
người, nhiều quan niệm về quyền bình đẳng, tự do cho tất cả người dân đã ra đời và có giá trị
cho đến ngày nay.
Khác với xu hướng đi tìm thể chế chính trị hỗn hợp, chắt lọc, dung chứa những yếu tố
tích cực của các thể chế chính trị ở dòng tư tưởng chính trị cổ đại phương Tây, các học thuyết
chính trị Trung Hoa cổ đại thường xuất phát từ con người là trung tâm và đề ra cách dùng
người trong chính trị, từ ông vua cao nhất đến thần dân đều trở thành những người tu ép
mình vào khuôn phép mẫu người lý tưởng.
Về phương diện dân chủ pháp lý, các học thuyết chính trị Trung Hoa cổ đại đều đề cao
chủ nghĩa tôn quân như nguyên tắc đạo đức hàng đầu nhằm duy trì, bảo vệ tôn ti trật tự của
một xã hội phong kiến. Do nhu cầu thống nhất mạnh mẽ, hành động chuyên chế trong cai trị
dân là hành động có giá trị thực tiễn duy nhất có thể làm được của tất cả các triều đại phong
kiến Trung Hoa. Vì vậy, Trung Hoa là kiểu dáng điển hình nhất của chế độ quân chủ chuyên
chế phương Đông, trong đó thần dân chỉ là đối tượng chăn dắt trong mắt giai cấp thống trị chứ
không phải là vì dân, dụng dân, dưỡng dân theo đúng ý nghĩa của nó. Trong khi đó, lịch sử tư
tưởng chính trị phương Tây cổ đại xét quyền lực chính trị thực chất là quyền lực của dân, nhà
nước là công cụ quyền lực của dân nhằm tạo ra môi trường xã hội cho từng công dân có thể
phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo cuas3 mình để mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, vấn đề cá
nhân con người và khai thác tính sáng tạo của từng cá nhân cũng luôn là đối tượng cơ bản của
quyền lực. Tuy nhiên, do bản chất bóc lột giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản nên trên thực tế chưa có một nhà nước dân chủ tư sản nào thực hiện đầy đủ được những
giá trị tư tưởng trên trong hiện thực đời sống chính trị.
Bên cạnh những giá trị phổ biến mà những tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại đã đạt
được và ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ lịch sử phát triển tư tưởng chính trị cận hiện đại, tác
động đến nhiều nước phương Đông, kế thừa và thúc đẩy xã hội phát triển; không ít tư tưởng
chính trị Trung Hoa cổ đại chỉ toát lên giá trị đích thực từ chiều sâu chiếc áo tôn giáo thần bí
mà nhiều khi chỉ nhìn vào câu chữ, vỏ khái niệm rất khó phát hiện. Chính những hạn chế đó đã
kìm hãm sự phát triển của xã hội Trung Hoa và làm cho nó trì trệ hơn so với thế giới sau hàng
ngàn năm.
Tóm lại, mặc dù những học thuyết chính trị Trung Hoa cổ đại còn nhiều hạn chế, song
trong đó vẫn có những nhân tố hợp lý mà giá trị của chúng vẫn được bảo tồn. Chúng ta cần
3
khai thác, chọn lọc những tư tưởng đó để làm giàu kiến thức của mình trong công cuộc xây
dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 3. Biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống
thông qua hệ thống truyền thuyết thời đại Hùng Vương
Văn hóa chính trị là một dạng hoạt động đặc thù của xã hội con người, là thuộc tính của
sản phẩm văn hóa tinh thần, biểu hiện của hoạt động văn hóa trong lĩnh vực chính trị. Như vậy,
văn hóa chính trị xuất phát từ văn hóa tinh thần, phản ánh năng lực, phẩm chất, trình độ của
các chủ thể chính trị trong hoạt động chính trị, vì vậy, nó có tầm ảnh hưởng quan trọng đến
nền chính trị của quốc gia. Gibrel Almond, nhà chính trị học phương Tây đầu tiên từng nhận
xét “Văn hóa chính trị là một dạng đặc biệt của định hướng chính trị, phản ánh đặc thù của mỗi
hệ thống chính trị”. Trong khi đó, từ điển bách khoa của Nga lại nhìn nhận “Văn hóa chính trị là
kinh nghiệm lịch sử, kí ức cộng đồng xã hội và nhóm người chính trị, là phong tục tập quán –
xu hướng ảnh hưởng đến hành vi cá nhân trong hoạt động chính trị”. Đây là định nghĩa khá
phổ biến và gần gũi với các nước phương Đông, coi chủ thể của văn hóa chính trị là con người.
Như vậy, văn hóa chính trị bắt nguồn từ quá khứ, tiếp diễn trong hiện tại, và không ngừng
phát triển đến tương lai. Bao gồm cả những phong tục, tập quán, thói quen có khả năng ảnh
hưởng đến các hoạt động chính trị của chủ thể.
Tóm lại, văn hóa chính trị gắn liền với hệ thống chính trị, định hướng cho hoạt động
chính trị, điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội, thúc đẩy và chi phối hoạt động của các chủ
thể chính trị, từ đó góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả cho hoạt động chính trị của quốc
gia, dân tộc.
Văn hóa chính trị là một động thái luôn phát triển, biến đổi phong phú nhờ lịch sử và
hoạt động của con người. Ngoài ra, văn hóa chính trị chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp và
đã hình thành nhà nước. Vì vậy, văn hóa chính trị mang tính lịch sử, và tính giai cấp, có tính kế
thừa và luôn biến đổi để phát triển theo sự phát triển của xã hội và nhận thức của chủ thể
chính trị. Nói đến văn hóa chính trị là nói đến văn hóa chính trị truyền thống, văn hóa chính trị
hiện đại của cộng đồng người chính trị cũng như ảnh hưởng của nó trong hoạt động chính trị.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm truyền thống, nhưng nhìn chung có thể
được hiểu là những cái “vốn có”, “tự có”, “tại chỗ”, được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Vì vậy, một thuộc tính đặc trưng của văn hóa chính trị truyền thống là tính bảo thủ rất cao.
Việt Nam nằm ở vị trí địa lý nhiệt đới gió mùa ẩm, địa hình sinh thái “rừng vàng biển
bạc” chứa đựng nhiều tiềm năng và thách thức to lớn đối với con người Việt Nam. Trong quá
trình dựng nước và giữ nước, con người vừa được khai phá tài nguyên thiên nhiên, mở mang
ruộng đồng, phát triển nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, tiểu thủ công nghiệp vừa phải thích
nghi, liên kết khắc phục trở ngại của tự nhiên, phòng chống thiên tai. Do vậy, từ rất sớm, nhân
dân ta đã biết đắp đê phòng lũ, làm thủy lợi chống rạn nứt ruộng đồng. Công cuộc xây dựng
đất nước, phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện tự nhiên đa dạng, phức tạp đã sớm tạo nên
sự cố kết cộng đồng với nhau, với quê hương xứ sở cũng như bề dày lịch sử đấu tranh phòng
chống thiên tai chính là cơ sở của tình yêu quê hương đất nước, đồng thời là cơ sở đầu tiên
của văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam.
Cơ sở thứ hai của sự hình và phát triển văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam là tính
đặc thù của lịch sử phòng chống ngoại xâm. Hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải chống
ngoại xâm nhiều lần như Việt Nam. Kể từ kháng chiến chống Ân (Thương) giữa thiên niên kỷ
thứ I TCN đến kháng chiến chống Tần, chống Triệu và các thế lực phương Bắc khác cuối thiên
4
niên kỷ thứ I TCN. Do đó, con đường sống còn của dân tộc Việt Nam là phải huy động sức
mạnh vật và tinh thần của toàn dân. Những đặc điểm trên đã tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến
trình phát triển của tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc, tự tôn dân tộc và của nền
văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam.
Cơ sở thứ ba của sự hình thành và phát triển văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam
đó là vị trí đầu mối giao thông của Đông Nam Á, nối liền những nền văn minh lớn trên thế giới
giúp Việt Nam có cơ hội hội nhập, tiếp biến, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tinh
thần độc lập tự chủ đã kết tinh thành những giá trị tiêu biểu chi phối sự phát triển của văn hóa
chính trị truyền thống Việt Nam.
Cuối cùng đó là quá trình thống nhất dân tộc gắn liền với sự hình thành nhà nước để
tập hợp lực lượng phòng chống thiên tai và ngoại xâm đã tạo nên tinh thần cố kết cộng đồng,
đại đoàn kết toàn dân tộc sâu đậm tính nhân văn, hình thành nên đặc trưng của văn hóa chính
trị truyền thống Việt Nam.
Có thể nói, toàn bộ hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc là những thành tố cơ bản
đã tạo nên văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam mà bản sắc chính là những giá trị lắng
đọng, sâu thẳm nhất của các giá trị truyền thống trong lĩnh vực hoạt động chính trị của dân tộc.
các điều kiện tự nhiên – xã hội, tâm lý con người Việt Nam trong suốt lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo nên diện mạo những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam. Đó là một
nền văn hóa chính trị nhân đạo, nhân văn, tất cả vì con người, lấy dân làm gốc; là một nền văn
hóa chính trị lấy chủ nghĩa dân tộc và truyền thống nhân ái làm cốt lõi chi phối mọi học thuyết,
tư tưởng chính trị ngoại lai. Tóm lại, văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam được tạo dựng
từ sự đồng thuận xã hội của các tầng lớp nhân dân và được cấu thành từ 8 giá trị tư tưởng tinh
thần vô giá làm nên sức mạnh đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đó là tư tưởng độc
lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, các tinh thần tự cường – tự tôn – đoàn kết dân tộc, tư tưởng
nhân ái, tư tưởng lấy dân làm gốc và tinh thần thượng hiền. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam. Ở chủ nghĩa yêu nước, bản chất Việt Nam được
biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, và tập trung nhất. Chủ nghĩa yêu nước là động lực thúc đẩy biết bao
người Việt Nam xả thân cứu nước.
Truyền thuyết là loại hình sáng tác nghệ thuật kết hợp giữa sự thật lịch sử với sức sáng
tạo theo tư duy nghệ thuật của nhân dân, gửi gắm trong đó tâm tình thiết tha của nhân dân
qua nhiều thế kỷ. Vì vậy, để hiểu đúng về nội dung của truyền thuyết, phải biết gạn lọc những
yếu tố hoang đường, thần kỳ để thấy được những giá trị lịch sử ẩn chứa bên trong truyền
thuyết.
Vào cuối giai đoạn văn minh sông Hồng, trên cơ sở văn minh Đông Sơn rực rỡ, nhà
nước phôi thai Văn Lang ra đời. Kết cấu công xã nguyên thủy chưa hoàn toàn bị thủ tiêu, quá
trình phân hóa giai cấp, phân công lao động phát triển chế độ tư hữu đều chỉ vừa mới bắt đầu.
Vì vậy, thời đại Hùng Vương là thời kỳ công xã thị tộc có tổ chức cao nhưng chưa hình thành
một tổ chức phong kiến có phân biệt giai cấp rõ ràng. Chính từ thời đại này, các nền tảng văn
hóa chính trị truyền thống Việt Nam vững chắc đã bắt đầu được định hình rõ nét qua một loạt
các truyền thuyết có sức sống vĩnh cửu trong lòng dân tộc.
Ở thời đại Hùng Vương, truyền thuyết mang tính sử thi anh hùng và chịu ảnh hưởng
nhiều của thần thoại. Tính chất huyền thoại, hoang đường đậm nét nhất trong các truyền
thuyết Vua Hùng dựng nước, Thánh Gióng, … Ở truyền thuyết, các nhân vật là hình ảnh siêu
nhân hóa của các vị anh hùng lịch sử. Hình ảnh của con người nổi bật ở mọi lĩnh vực: vua Hùng
5
dựng nước và quản lý xã hội, Sơn Tinh trị thủy, Thánh Gióng chống ngoại xâm, … Họ gắn bó
mật thiết với cuộc sống cộng đồng, phi thường, mạnh mẽ với sức mạnh tiềm ẩn. Với tinh thần
đoàn kết của dân làng Phù Đổng, dân núi Tản sông Đà mà Thánh Gióng có thể thắng giặc Ân,
Sơn Tinh thắng Thủy Tinh mà đều không cần đến thần linh hay thượng đế yểm trợ. Các truyền
thuyết về sự xuất hiện của cư dân Lạc Việt cũng như nhà nước Văn Lang đã được khắc sâu, gìn
giữ và phát huy trong mọi thế hệ người Việt.
Truyền thuyết thời đại Hùng Vương không chỉ phản ánh lịch sử, thể hiện lòng tự tôn
dân tộc qua nguồn gốc con Rồng cháu Tiên mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng của
những người con vốn có chung nguồn gốc, cùng sinh ra từ “bọc trăm trứng” dù một nửa theo
mẹ lên rừng, một nửa theo cha xuống biển. Như vậy, truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên đã trở
thành bản anh hùng ca ngợi ca công lao vua Hùng đã có công dựng nước, ngợi ca nguồn cội
dân tộc cũng như truyền thống đoàn kết của dân tộc.
Ngoài ra, truyền thuyết thời đại Hùng Vương còn thể hiện tinh thần dũng cảm chiến
thắng mọi khó khăn, thảm họa khắc nghiệt của thiên nhiên mà Sơn Tinh – Thủy Tinh là một
biểu tượng cho sức mạnh của toàn thể nhân dân đoàn kết đấu tranh bảo vệ xóm làng, mùa
màng, thành quả lao động (Sơn Tinh) với sức mạnh hủy hoại, tàn phá của tự nhiên (Thủy
Tinh). Lược bỏ màu sắc thần thoại, Sơn Tinh – Thủy Tinh là thiên anh hùng ca về cuộc chiến
đấu của cư dân Lạc Việt chinh phục thiên nhiên, giành lấy những mảnh đất màu mỡ để trồng
lúa, trồng dâu. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao cho thấy sản xuất, chăn nuôi gia
súc kéo theo tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải và giao lưu kinh tế rất phát triển. Ngoài
ra, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh cũng đã khẳng định chủ quyền dân tộc trên cả ba vùng
biển, đồng bằng và trung du miền núi.
Việc con người bắt đầu có ý thức với cộng đồng, xuất hiện một số ngành nghề mới như
luyện đồng, rèn sắt, … đã tạo tiền đề ổn định – phát triển văn hóa – xã hội cùng với lượng lớn
vũ khí được tìm thấy chứng tỏ chiến tranh đã xảy ra và gắn chặt với việc dựng nước, tất cả đều
được thể hiện tiêu biểu trong truyền thuyết Thánh Gióng. Chi tiết cậu bé sinh ra ba năm không
nói cười, không khóc nhưng tiếng nói đầu tiên lại là tiếng nói hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước
thể hiện tinh thần cứu nước là lên trên tất cả ở mọi người già – trẻ, gái – trai. Sức mạnh ấy là
sức mạnh tổng hợp của tinh thần và vật chất, của cơm – gạo – củi – mắm – cà và tinh thần
đồng tâm hiệp lực hun đúc lại nuôi Gióng lớn khôn trong hoàn cảnh đất nước nguy nan, là sức
mạnh của sự kết hợp giữa vũ khí – lương thực của một đội quân sơ khai và ý chí quật cường
của dân tộc. Gióng ra trận có người dân cày đang cầm vồ đập đất, người đi săn, đoàn trẻ trăn
trâu, … nghĩa là Gióng ra trận cùng toàn dân, chiến đấu chống ngoại xâm cùng toàn dân. Đó là
sức mạnh làm nên chiến thắng lẫy lừng của nhân dân trước giặc Ân hung bạo. Nhân dân trong
truyền thuyết Thánh Gióng có sức mạnh tập thể to lớn mà nhà nước cần phải dựa vào như
nong cơm, vại cà, vồ đập đất, tre đằng ngà, … mói có thể bảo vệ được đất nước. Vì vậy, ý nghĩa
của truyện đã chứa đựng tư tưởng lấy dân làm gốc từ trước khi tiếp thu Nho giáo. Hiền tài là
tinh hoa văn hóa dân tộc, truyện Thánh Gióng cũng chứa đựng tư tưởng thượng hiền ở chi tiết
tiếng mõ rao cầu hiền tài đi đánh ngoại xâm ngay từ đầu cuộc chiến tranh chống giặc Ân,
không phân biệt già – trẻ - gái – trai, giàu sang – nghèo khó; bởi vì nhờ có trọng dụng hiền tài
như vậy nên đất nước đã tạo nên kỳ tích không tưởng. Cuối cùng, hình ảnh Thánh Gióng cưỡi
ngựa sắt bay về trời thể hiện triết lý sống vị tha, cao cả của nhân dân, sẵn sàng chiến đấu – hy
sinh vì đất nước, vì hạnh phúc của cộng đồng như một nghĩa vụ bình thường của mỗi thành
viên trong bộ tộc mà không cần đợi vinh danh. Thánh Gióng còn là hình ảnh của dân tộc Việt
6
Nam, mới ra đời được ba đời Hùng Vương đã sớm phải trưởng thành trong gian lao, nặng trĩu
hai vai gánh dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản nhất trong đời
sống xã hội của cư dân Lạc Việt.
Không chỉ ca ngợi tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm, truyền thuyết thời đại Hùng
Vương còn nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu thâm độc, đen tối của kẻ thù, dù là nhỏ
nhất cũng có thể dẫn đến mắc mưu địch mà mất nước như truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng
Thủy. Đó còn là triết lý sâu sắc về bài học giữ nước của ông cha, khi đề cao cảnh giác, phòng bị
chắc chắn, trên dưới đồng lòng bảo vệ đất nước thì tất sẽ chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. còn
khi lơ là trước mưu đồ của giặc thì sớm muộn cũng sẽ mất nước. Đó đã thành kinh nghiệm quý
giá của cha ông trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước.
Các truyền thuyết thời đại Hùng Vương đã trở thành cơ sở hình thành truyền thống yêu
nước quý báu của dân tộc, truyền thống tự hào về nguồn cội đoàn kết toàn dân trước mọi khó
khăn, thiên tai, dịch bệnh.
Văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam đã có lịch sử hàng ngàn năm. Trong quá trình
xây dựng và bảo vệ đất nước, người Việt đã tạo nên nhiều tư tưởng giá trị như tư tưởng độc
lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, các tinh thần tự cường – tự tôn – đoàn kết dân tộc, tư tưởng
nhân ái, tư tưởng lấy dân làm gốc và tinh thần thượng hiền. Những giá trị tư tưởng ấy là tài
sản tinh thần vô giá góp phần làm nên sức mạnh cho đất nước trong quá trình hội nhập quốc
tế.
Câu 4. Quản lý xã hội là hoạt động tất yếu của con người
Ngay từ giai đoạn sơ khai của xã hội loài người, con người đã tập hợp thành nhóm
nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình trước tự nhiên. Sự cộng sinh đó ban đầu còn
đơn giản, mang đậm tính tự nhiên. Tuy nhiên, nó dần được tổ chức chặt chẽ thành xã hội với
các hoạt động lao động phong phú. Lao động của con người mang tính tập thể/xã hội sâu sắc,
mỗi cá nhân luôn giữ vị trí nhất định khi tương tác với nhau trong tập thể cũng như với tập thể
khác trong quá trình lao động. Do đó, cần có sự quản lý để duy trì tổ chức, phân công lao động
trong quá trình sản xuất vật chất xã hội nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Do tính chất xã hội
của lao động quản lý tồn tại trong mọi lĩnh vực, ở mọi giai đoạn phát triển. Quản lý còn cần
thiết vì nó giúp các tập thể, cộng đồng, tổ chức và các thành viên nắm rõ mục tiêu và hướng đi
của họ, biết làm gì, làm lúc nào và cùng bước về một hướng. Đó là yếu tố tiên quyết giúp con
người thực hiện được sứ mệnh của chính mình và tồn tại, phát triển không ngừng.
Quản lý nhìn chung được thống nhất là sự tác động mang tính tổ chức, mục đích của
chủ thể tới đối tượng quản lý nhằm làm cho đối tượng quản lý vận hành theo ý chí đã định từ
trước của chủ thể quả lý thì quản lý xã hội lại là một dạng hoạt động quản lý đặc thù từng khía
cạnh đời sống xã hội, từng nhóm – tổ chức – thiết chế - cộng đồng của các cá nhân, nhóm xã
hội nhằm sắp xếp, duy trì trạng thái vận hành bình thường hệ thống xã hội cũng như các phẩm
chất xã hội đặc thù mà đáp ứng được sự tồn tại – phát triển của xã hội. Con người vừa là chủ
thể vừa là khách thể của quản lý xã hội. Một mặt, họ là khách thể quản lý tương quan với cấp
độ lớn hơn luôn chịu sự quy định của chính năng lực và phẩm chất hiện có của bản thân. Mặt
khác, họ cũng là chủ thể quản lý chính bản thân công việc, hành vi, vai trò của mình trong hệ
thống quản lý. Đây cũng la một đặc trưng của quản lý xã hội.
Ngoài ra, quản lý xã hội cũng phản ánh khách quan hình thái kinh tế - xã hội nên mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một phương thức quản lý xã hội đặc trưng. Thời kỳ xã hội nguyên
thủy, quản lý xã hội đã xuất hiện nhưng còn thô sơ, chủ yếu quản lý xã hội bằng phương tiện
7
bất thành văn. Chỗ dựa cơ bản để giải quyết các mối quan hệ xã hội là luật tục, tập quán, thói
quen; sự thay đổi hết sức chậm và hiếm, làm cho chủ thể của quyền lực công cộng không mang
màu sắc chính trị nào cả. Hơn nữa, các luật tục rất đơn giản về khái niệm, đơn điệu trong cách
qui định hành vi ứng xử, chế tài hình phạt. Tóm lại, quyền lực công cộng được sinh ra từ nhu
cầu, ý chí chung của cộng đồng để duy trì trật tự của xã hội cũng như các mối liên kết giữa các
thành viên trong xã hội. Với ý nghĩa hướng nỗ lực, hành vi của mọi thành viên vào hiện thực
hóa những chuẩn mực giá trị chung được cộng đồng chấp nhận, khi xã hội phân chia giai cấp
và hình thành nhà nước, việc nhận thức và sử dụng quản lý xã hội cũng như quyền lực công
cộng dần bị chi phối bởi lợi ích giai cấp, quản lý xã hội dần phải thay đổi theo. Tới xã hội phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa quá độ, các hình thức quản lý xã hội phát triển
mạnh mẽ, luật pháp trở thành công cụ thành văn chính thức được sử dụng để phục vụ cho
hoạt động quản lý xã hội.
Quản lý xã hội là sản phẩm ở mức độ cao vừa mang tính vật chất vừa mang tính tinh
thần, vừa cho người vừa cho mình, được hình thành từ trong thực tiễn lao động, không chỉ thể
hiện năng lực – phẩm chất – sản phẩm đặc trưng của con người khi bước vào xã hội mà còn
góp phần ổn định, phát triển xã hội. Vì vậy, để xã hội vận hành năng động, quản lý xã hội là
một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Quản lý xã hội cũng phụ thuộc rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan để hình thành
mô hình quản lý xã hội theo đơn vị xã hội phương Đông hay phương Tây, truyền thống hay
hiện đại. Tóm lại, quản lý xã hội là sự tác động, điều khiển, chỉ huy các quá trình biến đổi xã hội
và hành vi con người để chúng phát triển theo quy luật nhằm đạt được mục đích và ý định của
chủ thể quản lý.
Văn hóa quản lý xã hội là tổng thể những giá trị hình thành từ quan niệm, chuẩn mực,
nguyên tắc, phương pháp quản lý xã hội trong hoạt động quản lý xã hội để đạt mục tiêu chung.
Đó là kết quả hoạt động của các tập đoàn người, giai tầng, thiết chế xã hội trong quản lý. Văn
hóa quản lý xã hội có vai trò tạo nên những hệ giá trị chuẩn mực xã hội định hướng cho con
người lựa chọn để phát triển. Văn hóa quản lý xã hội mang tính hệ thống (góp phần điều chỉnh
các quan hệ chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng quản lý của chủ thể), tính giá trị (định
hướng năng lực, phẩm chất con người vào thực hiện các giá trị lý tưởng đã lựa chọn), tính lịch
sử giáo dục (nâng cao nhân thức, rèn luyện và thúc đẩy tính tích cực của cá nhân, tập thể và
cộng đồng) và tính nhân sinh (đấu tranh đảm bảo thực hiện dân chủ, chống mọi biểu hiện suy
thoái về chính trị).
Văn hóa quản lý xã hội truyền thống xuất hiện khi trình độ kinh tế - xã hội và lực lượng
sản xuất cùng chưa phát triển, xã hội được tổ chức theo nguyên tắc nhất trí cộng đồng, người
lãnh đạo bằng hệ thống luật tục văn hóa truyền thống là người am hiểu tập tục, có kinh
nghiệm và tinh thần trách nhiệm. Ngoài ra, tư tưởng chi phối sự tự giác của mỗi cá nhân còn
mang tính tâm linh, dựa vào niềm tin của con người với các lực lượng siêu nhiên. Mối quan hệ
dựa trên sự sùng bái quyền lực, tôn sùng cá nhân; các mối quan hệ bạn bè và quan hệ “bầu chủ
- phụ thuộc” giữ vai trò quan trọng đến các hoạt động xã hội. Đến khi xã hội phân chia giai cấp,
hình thành nhà nước, hoạt động quyền lực chính trị hàng đầu được dùng để giải quyết các
tranh chấp đối kháng về lợi ích không còn là văn hóa quản lý xã hội truyền thống, mà là văn
hóa chính trị. Văn hóa chính trị được biểu hiện qua các nguyên tắc quan hệ chính trị - xã hội,
phong tục tập quán, phương thức sản xuất, hình thức tổ chức quản lý nhà nước và chế độ
chính trị. Trong hệ thống chinh trị hiện đại vững chắc, văn hóa quản lý xã hội truyền thống, với
8
tính bảo thủ cao và không ngừng biến đổi, vẫn luôn được duy trì và ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống sinh hoạt, sự ổn định kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc như người Akha ở Tây
Bắc bán đảo Đông Dương, người Arbor ở Ấn Độ, người Khmer, Chăm, Raglai ở Việt Nam.
Như vậy, con người đã biết nương tựa vào nhau đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn
và sinh ra nhu cầu phân công lao động để phát triển, cải thiện đời sống cá nhân ngay từ buổi
đầu của nhân loại. Vì vậy, quản lý xã hội ra đời đã điều phối hoạt động của cộng đồng, mang lại
kết quả cao hơn, đáp ứng nhiều hơn nhu cầu về mọi mắt đời sống của con người. để thích ứng
với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, đảm bảo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, quản lý xã hội ngày càng được củng cố, hoàn thiện và hình thành nhiều dạng
khác nhau . Như vậy, quản lý xã hội ra đời là tất yếu khách quan cùng với quá trình hình thành
nhà nước, đồng thời là nhu cầu, hoạt động tất yếu của con người.
Câu 5. Nội dung và cơ sở hình thành văn hóa chính trị truyền thống phương Đông
Văn hóa chính trị là một dạng hoạt động đặc thù của xã hội con người, là thuộc tính của
sản phẩm văn hóa tinh thần. nói cách khác, đó là biểu hiện của hoạt động văn hóa của con
người trong lĩnh vực chính trị. Nhà khoa học chính trị Gabriel Almond nhìn nhận Văn hóa
chính trị là một dạng đặc biệt của định hướng chính trị, phản ánh đặc thù của mỗi hệ thống
chính trị”. Nó phản ánh sự khắc biệt đặc thù trong mỗi nền chính trị khác nhau cũng như tầm
quan trọng của văn hóa chính trị ở các quốc gia. Từ điển bách khoa của Nga cho rằng Văn hóa
chính trị là kinh nghiệm lịch sử, ký ức cộng đồng xã hội và nhóm người trong lĩnh vực chính trị,
là phong tục tập quán thói quen và các xu hướng ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân, nhóm
người trong hoạt động chính trị. Nó khá gần gũi và phổ biến với các nước phương Đông khi
cho rằng chủ thể của văn hóa chính trị là con người, khẳng định văn hóa chính trị bắt nguồn từ
quá khứ, tiếp diễn trong hiện tại, không ngừng phát triển đến tương lai. Tóm lại, văn hóa chính
trị là một phạm trù chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, torng quá trình thực
hiện quản lý xã hội của con người chính trị và góp phần chi phối, định hướng hoạt động của
con người chính trị, để ph5uc vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời góp phần định
hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức chính trị.
Văn hóa chính trị không ngừng biến đổi, vận động và phát triển hướng đến những giá
trị mới phù hợp với từng thời kỳ lịch sử nhất định, nên người ta chia văn hóa chính trị thành
hai bộ phận cấu thành là văn hóa chính trị truyền thống và văn hóa chính trị hiện đại.
Có nhiều cách hiểu về truyền thống nhưng nhìn chung có thể được hiểu đó là những cái
“vốn có”, “tại chỗ”, “tự có” và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. vì vậy, thuộc tính nổi
bật của văn hóa chính trị truyền thống là không ngừng biến đổi theo môi trường xã hội song
cũng rất bảo thủ. ở phương Đông, các thành tố của văn hóa chính trị truyền thống đã trở thành
nguyên tắc đặo lý – tiêu chuẩn pháp lý xã hội, biểu hiện qua các nguyên tắc quan hệ chính trị
xã hội, phương thức sản xuất vật chất, phương thức quản lý xã hội, còn in đậm dấu ấn trong
sinh hoạt chính trị, thậm chí tác động trở lại và chi phối đến hành vi của các chủ thể. Chúng
trở thành nền tảng của hệ thống chính trị, tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chính quyền và hệ
thống quyền lực.
Dưới góc độ chính trị học cho thấy, chủ nghĩa gia trưởng – gia đình trị, sự sùng bái nhà
nước – tôn sùng cá nhân – tập trung quyền lực, các mối quan hệ bạn bè – bầu chủ và phụ thuộc
– thỏa hiệp là ba nội dung giữ vai trò quan trọng, thậm chí chi phối quyết định đến các hoạt
động chính trị - xã hội của văn hóa chính trị truyền thống phương Đông.
9
Nội dung nổi bật của văn hóa chính trị truyền thống phương Đông là sự sùng bái cá
nhân, các lãnh tụ chính trị, sùng bái nhà nước và tôn sùng quyền lực. ở các nước phương Đông,
tên tuổi, công dânh và quyền lực của thủ lĩnh chính trị được cộng đồng công nhận, tôn vinh,
thậm chí nâng lên thành các nhân vật bất tử có sức mạnh siêu nhiên, tôn vinh đến mức thần
thánh hóa mà hình ảnh Thiên hoàng ở Nhật Bản, Thiên tử ở Trung Hoa và các anh hùng giải
phóng dân tộc ở Ấn Độ là điển hình nhát. Xuyên suốt lịch sử, Thiên hoàng là hình ảnh bất khả
xâm phạm, có uy quyền tuyệt đối và thần bí ăn sâu trong tư tưởng người Nhật, thậm chí còn
được xem như một thánh sống. Ảnh hưởng sức mạnh chính trị của Thiên hoàng không lớn,
nhưng vai trò xã hội của Người vẫn không hề suy suyễn, không một cá nhân, lực lượng xã hội
nào có thể thay thế được. Mặc dù chỉ còn là biểu tượng tượng trưng cho nhà nước, Thiên
hoàng vẫ là biểu tượng sức mạnh đoàn kết thống nhất dân tộc Nhật Bản. Hay như Thiên tử của
xã hội Trung Hoa truyền thống nắm toàn bộ sức mạnh chính trị, được cả xã hội phục tùng và
tuân thủ tuyệt đối một cách nghiễm nhiên, vô điều kiện, và mệnh lệnh của Thiên tử ban hành
là quy luật để duy trì trật tự xã hội từ đời này sang đời khác. Trong thời cận đại, các anh hùng
giải phóng dân tộc như Rammohan Roy được giới trí thức Ấn Độ coi là cha đẻ tinh thần,
Ramarkrishna là Thánh điển hay Gandhi là người cha – vị thánh của dân tộc Ấn Độ thống nhất.
đề cao vai trò cá nhân và tôn sùng quyền lực có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp các lực lượng
chính trị - xã hội dưới ngọn cờ đoàn kết thống nhất nhằm giúp các dân tộc có bản lĩnh vững
vàng để bảo vệ và phát triển đất nước trong suốt tiến trình lịch sử.
Chủ nghĩa gia trưởng – gia đình trị ngự trị lâu đời, xuyên suốt tiến trình lịch sử chính trị
phương Đông không chỉ trong gia đình mà còn cả trong các mối quan hệ chính trị - xã hội của
đất nước. trong các hoạt động nhà nước, sinh hoạt của các đảng phái chính trị, tổ chức chính
trị bị chi phối một cách mạnh mẽ, rất đậm nét bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa gia trưởng và
bởi quyền lực độc tôn của người lãnh đạo chính trị. Tiêu biểu cho chủ nghĩa này chính là hiện
tượng các đại gia đình giàu có và thế lực ở Ấn Độ chi phối giới quan liêu chính trị trong việc
ban hành và thực thi đường lối, chính sách bằng tiem62l ực kinh tế, chính trị ảnh hưởng
truyền thống của gia đình. Những biểu hiện khác trong lịch sử văn hóa chính trị truyền thống
Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng là trường hợp điển hình như hiện tượng hình thành chế
độ phân chia đẳng cấp “quân tử” – “tiểu nhân”, lời nói của người bề trên, người cao tuổi hơn,
người có quyền lực là mệnh lệnh ăn sâu vào tư duy và cách ứng xử hàng ngày trong xã hội.
Mối quan hệ “bầu chủ - người phụ thuộc” bao trùm toàn bộ đời sống trở thành nền tảng
của các quan hệ xã hội, góp phần quan trọng trong duy trì sự ổn định và trật tự xã hội và duy
trì ảnh hưởng – vị thế trong đời sống chính trị - xã hội của các đại gia đình giàu có và quyền
thế. Bởi vì mặc dù là những người có thế lực, địa vị nhưng các “quân tử” vẫn cần sự ủng hộ, hỗ
trợ của các “tiểu nhân” vốn cũng cần “quân tử” để đảm bảo cho cuộc sống ổn định. Đây là mối
quan hệ hai bên cùng có lợi, đã tạo ảnh hưởng sâu sắc trong các quan hệ chính trị ở phương
Đông. ở Nhật Bản, chính mối quan hệ “bầu chủ - người phụ thuộc” đã giúp Nhật Bản luôn giữ
được trật tự và ổn định. Mối quan hệ này đã tạo nên sự thỏa hiện trong các hoạt động chính trị
xã hội của Nhật Bản. nhờ đó, giúp cấu trúc xã hội của Nhật Bản trở thành một khối vững chắc
khó phá vỡ.
Nhìn chung, văn hóa chính trị truyền thống phương Đông hình thành từ nhiều yếu tố về
điều kiện địa lý, dân cư, đặc biệt là tôn giáo tín ngưỡng. Ngay từ thời cổ đại, con người phương
Đông đã đặt niềm tin vào một thế giới siêu thực, từ đó nảy sinh tâm lý tôn thờ người lãnh tụ,
sùng bái quyền lực và nhà nước. Những nội dung chính thể hiện rõ nét hơn cả văn hóa chính
10
trị truyền thống phương Đông là sự sùng bái cá nhân, chủ nghĩa gia trưởng – gia đình trị và
mối quan hệ “bầu chủ - người phụ thuộc”. Bộ máy chính quyền truyền thống phương Đông
cũng đã sử dụng tôn giáo như công cụ đắc lực để đạt được sự trung thành tuyệt đối của nhân
dân đối với giai cấp thống trị.
Văn hóa chính trị truyền thống phương Đông được hình thành và phát triển gắn liền
với đời sống chính trị. Khi nhắc đến phương Đông truyền thống, người ta thường liên tưởng
đến ngay một thế giới rộng lớn, huyền bí, có số lượng đất canh tác nông nghiệp và tài nguyên
khoáng sản dồi dào, bao chiếm trọn vùng châu Á lục địa và hải đảo, vùng Trung Đông – Tiểu Á
và châu Đại Dương. Toàn bộ phía Đông, Nam, Bắc đều giáp biển, được bao bọc bởi Bắc Băng
Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Với vị trí như vậy, phương Đông đã có sự giao lưu
văn hóa kinh tế từ lâu đời. Chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn như vậy, nên điều kiện địa lý tự
nhiên ở phương Đông rất đa dạng, phong phú. Chính đặc trưng của tự nhiên đã tạo ra phương
thức sản xuất vật chất đa dạng và đặc tính tộc người độc đáo ở phương Đông.
Về mặt dân tộc học, cư dân phương Đông thuộc về các đại chủng Negroid, Mongoloid,
và Australoid. Người ta căn cứ sự tiến bộ khoa học kĩ thuật để phân chia các giai đoạn hình
thành và phát triển của cư dân phương Đông thành thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng và thời kỳ
đồ sắt tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển khác nhau khi con người còn trong thời kỳ
mông muội, khi xã hội chưa phân chia giai cấp và có nhà nước, rồi khi các dân tộc, nhóm sắc
tộc hợp nhất lại với nhau thành tổ tiên của người Ai Cập, Ả Rập, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Trung Hoa.
Phương Đông là cái nôi của nhiều tôn giáo tín ngưỡng lớn có ảnh hưởng rộng, thậm chí
chi phối đời sống sinh hoạt văn hóa chính trị. Trước hết phải kể đến Phật giáo ra đời ở Ấn Độ
vào giữa thiên niên kỉ thứ I TCN. Tư tưởng của Phật giáo khơi dậy ở con người cách sống bao
dung, độ lượng, vị tha, ý thức về cội nguồn dân tộc, tinh thần đoàn kết dân tộc và ý thức giữ gìn
các giá trị văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, triết về kiếp luân hồi của Phật giáo lại đem đến
cho con người sự thờ ơ với chính trị. Đến những thế kỹ đầu Công nguyên, Phật giáo đã nhanh
chóng được truyền bá đến các nước châu Á và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị của
các dân tộc phương Đông. Ở bán đảo Triều Tiên, từ 1392 – 1910, Phật giáo trở thành quốc
giáo. Sau đó, vị thế của Phật giáo bị suy yếu, các phật tử chỉ còn giữ lại những hoài niệm về thời
kỳ hoàng kim đó, thời kỳ mà Phật giáo có sức ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ tới tất cả mọi
người dân, chưa bị đàn áp triệt để và sụp đổ hoàn toàn về vị thế xã hội. Ở Nhật Bản, Phật giáo
vừa là tôn giáo cho những người bình dân đau khổ, mong được giải thoát khỏi cuộc đời bế tắc
vừa là công cụ để giới cầm quyền khai thác nhằm củng cố quyền lực, góp phần to lớn vào công
cuộc xây dựng xã hội. Như vậy, Phật giáo không chỉ ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của xã
hội , tạo ra những thay đổi trong xã hội mà còn ảnh hưởng đến tâm lý, tư tưởng của cư dân
phương Đông. Tại Lào, trên nền tảng văn hóa Môn Khmer, người Lào đã tạo nên một thiết chế
chính trị - xã hội liên mường năng động, bao dung, hòa đồng và nhân ái, mang đậm tính chất
của Phật giáo.
Học thuyết chính trị xã hội Nho giáo là trường phái tư tưởng nền tảng quan trọng bậc
nhất ở phương Đông, được sử dụng như một công cụ đắc dụng để cai trị đất nước suốt hơn hai
mươi thế kỷ. Tư tưởng chính trị đã đặt cơ sở đầu tiên cho Nho giáo là các vấn đề Nhân – Lễ Tư tưởng thượng hiền. Nhân dùng để khôi phục Lễ , người Nhân không thể không giữ Lễ và
người biết và người biết giữ Lễ thì có Nhân. Nhưng Nhân và Lễ là đạo được trời phú, không
phải ai cũng có Nhân và Lễ nên trong xã hội tồn tại hai hạng người: quân tử là kẻ sĩ, quý tộc
quan liêu thuộc tầng lớp thống trị, và tiểu nhân là những người lao động chân tay, nô lệ thuộc
11
tầng lớp bị trị. Tuy không phải cứ quân tử là có Nhân, có Lễ do phụ thuộc quá trình tu thân, tập
nhiễm, gìn giữ bản tính của mỗi người, nhưng vẫn hơn tiểu nhân là trời đất đã an bài bản chất
kém cỏi, không thể có Nhân, có Lễ được. Tư tưởng thượng hiền chủ trương nhà nước nên
dùng người hiền tài, không kể thân thích. Tuy nhiên, điều hạn chế của Nho giáo là đối với ngôi
vua thì không thể có sự lựa chọn hay tiến cử. Học thuyết chính trị xã hội Nho giáo cơ bản
muốn đưa xã hội trở lại thời Tây Chu và điều hòa mâu thuẫn giữa quý tộc thị tộc với quý tộc
phong kiến. Mặt khác, Nho giáo cũng khuyến khích cai trị bằng nhân nghĩa, phải làm cho dân
giàu và giáo dục dân. Ở bán đảo Triều Tiên, ảnh hưởng của Nho giáo nên tư tưởng trung hiếu
thể hiện rõ nét, là nền tảng đạo lý trong các quy tắc ứng xử xã hội. Bên cạnh đó, cũng điển hình
là chủ nghĩa gia trưởng – gia đình trị được đề cao và phát triển mạnh mẽ. Còn tại Nhật Bản,
Nho giáo được tiếp thu có chọn lọc và đề cao những đặc điểm phù hợp với truyền thống dân
tộc. Mặt khác, Nho giáo còn kết hợp với Thần đạo, trở thành nền tảng thẩm mỹ trong văn hóa
truyền thống Nhật Bản.
Như vậy, tư tưởng Nho giáo đã tạo ra ở cư dân phương Đông sự chấp nhận trật tự tôn ti
đẳng cấp, sự sùng bái cá nhân và tập trung quyền lực, sự hiểu biết về các giá trị nhân văn sâu
sắc trong quan hệ giữa con người với nhau, và nghĩa vụ phấn đấu, không ngừng tu thân tự
hoàn chỉnh bản thân. Tóm lại, Nho giáo ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt đời sống của cư dân
phương Đông.
Xuất thân là một tôn giáo độc thần của các dân tộc thuộc thế giới Ả Rập, Islam giáo đã
nhanh chóng phát triển thành một tôn giáo thế giới đáp ứng sự cố kết chặt chẽ về chính trị - xã
hội của các cộng đồng tôn giáo người Islam so với sức mạnh áp đảo của các đội quân chinh
phục khác. Các đặc điểm của cộng đồng tôn giáo đặc biệt này được xuất phát từ giáo lý cũng
như lịch sử hình thành của Islam giáo. Islam giáo truyền vào Ấn Độ vẫn giữ được những nét
đặc trưng trong đời sống sinh hoạt chính trị xã hội như: mọi tín đồ đều xác nhận nghĩa vụ bổn phận – trách nhiệm một cách không miễn cưỡng, đồng nhất công nhận thủ lĩnh chính trị
với lãnh tụ tôn giáo, biết thể hiện sự tự do – bình đẳng – khoan dung – độ lượng trong quan hệ
xã hội. Ngoài ra, trong đời sống sinh hoạt, nguyên tắc nhất trí cộng đồng đã trở thành tập quán
truyền thống của cộng đồng Islam giáo tại Ấn Độ. Islam giáo được chính thức truyền vào
Trung Hoa dưới thời Đường thông qua đường bộ từ bán đảo Ả Rập tới Tân Cương và dưới thời
Tống thông qua đường biển từ vịnh Persia tới Hàng Châu, Quảng Châu. Một số người thuộc
tầng lớp trên, có địa vị cao thời Nguyên và không ít khai quốc công thần thời Minh là người
Islam giáo, vừa đề xướng giáo dục giáo đường, truyền bá văn hóa học thuật vừa giới thiệu,
biên soạn, tuyên truyền kinh tịch và giáo lý Islam giáo.
Như vậy, đời sống tôn giáo tín ngưỡng đa dạng, cùng tồn tại hòa trộn, ôn hòa đã làm cội
nguồn cho sự hình thành những tư duy, đặc trưng riêng biệt định hướng cho hành vi chính trị
- xã hội của con người phương Đông. Văn hóa chính trị truyền thống phương Đông đã sử dụng
tôn giáo như một loại vũ khí lợi hại để cai trị đất nước thông qua các cương vị chủ chốt trong
bộ máy quyền lực vì nó vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của con người vừa tạo ra sự cố kết
chặt chẽ về chính trị - xã hội trong cộng đồng tôn giáo. Tóm lại, tổng hợp các nhân tố về điều
kiện địa lý tự nhiên, tộc người, đặc trưng tôn giáo – lịch sử - xã hội đã tạo nên một diện mạo
chính trị xã hội phương Đông đầy phức tạp, phong phú từ các quan hệ chính trị xã hội ràng
buộc, đan xen, góp phần thúc đẩy nhau cùng phát triển.
12
Câu 6. Nhân định của anh/chị "DCTS là DC của số ít vs số đông/DCVS là DC của số đông vs
số ít"
Dân chủ là một danh từ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (demoskratos) nghĩa là quyền
công dân. Nền móng của dân chủ xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại với điển hình là nền dân chủ
Athen. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, khái niệm “dân chủ” đã được
định hình từ thời cổ đại bởi Democrit, Aristote và từng bước được hoàn thiện qua các thời kỳ.
Democrit cho rằng nhà nước là sự thể hiện các quyền lợi chung của công dân, trong đó mọi
người phải tuân thủ pháp luật, được tham gia vào công việc quản lý nhà nước, còn hoạt động
nhà nước cũng phải có sự bình đẳng – nhất trí của tất cả người dân và vì quyền lợi của nhân
dân. Về Aristote, trong quá trình tìm hiểu nền dân chủ Athen, đã đưa ra một số nét nổi bật có
giá trị của chế độ dân chủ như ưu thế thuộc về những người dân nghèo, giá trị đạo đức chính
trị của dân chủ chính là sự bình đẳng, tự do và nguyên tắc đa sô thống trị. Đây là những quan
điểm tiến bộ được nhiều nhà tư tưởng chính trị về sau kế thừa và hoàn thiện. Như vậy, rõ ràng,
ngay từ thời cổ đại, những nguyên tắc cơ bản nhất về “dân chủ” đã được nêu lên để chống lại
sự cai trị chuyên chế của một cá nhân. Đây là những cống hiến vĩ đại đối với sự hình thành và
phát triển nhà nước dân chủ. Từ khi nhà nước Hy – La cổ đại sụp đổ, những tư tưởng dân chủ
tiến bộ ấy cũng bị chìm vào quên lãng đến thế kỷ XVIII mới được phục hồi và hoàn thiện.
Jean Jacque Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” cho rằng trong chế độ
dân chủ, quyền lực quản lý nhà nước phải được trao lại cho toàn dân, vì vậy, chính phủ dân
chủ phải chịu ảnh hưởng từ xáo động xã hội nhiều hơn bất cứ chính phủ nào. Song ông cũng
nêu được quan điểm quan trọng về quyền tự do con người. Đó là “Hất bỏ được cái ách áp bức
thì còn hay hơn nữa vì họ giành lại tự do mà họ vốn có quyền được hưởng”. Như vậy, quan
điểm về dân chủ của Rousseau tuy chưa được hoàn thiện, chưa có cơ sở vững chắc nhưng
những tư tưởng của ông về quyền lực của nhân dân, quyền tự do của con người đã tạo điều
kiện cho nền dân chủ tiếp tục phát triển về sau. Các nhà khoa học Marxist cũng có những nhận
định khác nhau về “dân chủ”. Marx cho rằng nhà nước là của dân, do dân lập ra và phục vụ vì
sự nghiệp của nhân dân. Những tư tưởng ấy được kế thừa và phát huy từ ba đặc tính cốt yếu
của dân chủ được Abraham Lincoln phát biểu từ thế kỷ XIX. Theo Lenin, dân chủ là nhà nước
thừa nhận quyền bình đẳng công dân trong quản lý nhà nước, là nhà nước của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động nắm quyền thống trị và đàn áp với thiểu số để thực hiện bình đẳng, xóa
bỏ người bóc lột người.
Như vậy, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm “dân chủ”. Tuy nhiên, cơ bản nhất,
dân chủ là chế độ chính trị mang tính giai cấp, bảo vệ cho giai cấp nắm quyền thống trị. Ở đó,
quyền làm chủ thuộc về nhân dân được thể hiện bằng việc nhân dân tham gia quản lý nhà
nước và bầu ra người đại diện để quản lý nhà nước. Đồng thời, mọi vấn đề quan trọng của
quốc gia đều phải được nhân dân bàn bạc, thảo luận trong khuôn khổ pháp luật để có quyết
định đúng đắn nhất.
Dân chủ là sản phẩm của sự tiến bộ xã hội, là quá trình mở rộng môi trường tự do cho
hoạt động sáng tạo của cá nhân, và là con đường tìm kiếm phương hướng giải quyết vấn đề
phát triển xã hội theo lợi ích của đa số. Một đóng góp quan trọng của việc thực hiện dân chủ là
phương pháp bầu ra người đại diện lãnh đạo của nền dân chủ. Trải qua các hình thái kinh tế xã hội có giai cấp và nhà nước, nhân loại hiện nay có dân chủ tư sản – dân chủ của giai cấp bóc
lột, dân chủ cho số ít người cầm quyền chi phối dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và
13
dân chủ xã hội chủ nghĩa – dân chủ của đại đa số nhân dân lao động chi phối dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Chế độ dân chủ tư sản là thành quả chung của sự phát triển của nhân loại trên tất cả
mọi lĩnh vực sau nhiều thế kỷ liên tiếp với nhiều thành quả to lớn như thủ tiêu quan hệ sản
xuất phong kiến phản động, xây dựng một xã hội dân chủ, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát
triển. Từ sau Thế chiến 2, ở phương Tây, chế độ dân chủ tư sản là kết quả của sự thỏa hiệp
giữa giai cấp tư sản với phong trào công nhân và phong trào dân chủ xã hội. Ở Nhật Bản, chế
độ dân chủ tư sản lại xuất hiện trên nền tảng tôn ti trật tự đẳng cấp xã hội của chế độ phong
kiến nên bản chất vẫn là sự chuyên chính của giai cấp tư sản để củng cố cơ sở xã hội và nền
tảng chính trị của chủ nghĩa tư bản. Chế độ dân chủ tư sản không chỉ biết đề cao vai trò của
nhà nước và các thiết chế của nó mà còn biết dựa trên cơ sở nền văn hóa chính trị cao của
quần chúng nhân dân để trở thành nguyên tắc chính trị được thừa nhận rộng rãi.
Mặc dù “quyền lực thuộc về nhân dân” được tuyên bố mạnh mẽ và được ghi nhận một
cách phổ biến trong hiến pháp của các nhà nước dân chủ tư sản, nhưng nó chỉ được thực thi
hạn chế bên ngoài giai cấp tư sản và các tập đoàn tư bản lũng đoạn. Thực tế sự bất ổn chính trị
xã hội, tranh giành quyền lực giữa các đảng phái chính trị, đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của
nền dân chủ là tôn trọng ý kiến số đông toàn cầu và tự ý đem quân đi đánh Iraq của Mỹ đã
chứng minh sự không hoàn chỉnh, nửa vời, thiếu triệt để của nền dân chủ tư sản chỉ phục vụ
lợi ích của giai cấp tư sản bóc lột. Do đó, Lenin đã khẳng định bản chất nhà nước dân chủ tư
sản là bộ máy trấn áp đặc biệt của thiểu số đối với đa số, còn chế độ dân chủ tư sản là chế độ
dân chủ đối với thiểu số những người giàu có, và cơ cấu của nền dân chủ tư sản vẫn còn những
“hạt sạn” trong quyền tự do bầu cử - ứng cử - tự ứng cử như quy định về điều kiện cư trú, giới
tính, … Vì vậy, chế độ dân chủ tư sản là chế độ chà đạp lên người nghèo khổ một cách ngấm
ngầm, âm thầm, êm ái, phức tạp và chứng tỏ là một chế độ dân chủ bó hẹp, là “dân chủ của số ít
với số đông”.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa là “dân chủ của
đại đa số nhân dân, gắn với công bằng xã hội, chống áp bức bất công, được thực hiện trên tất
cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa – xã hội, và được thể chế hóa – bảo đảm bởi pháp
luật”. Theo Lenin, dân chủ xã hội chủ nghĩa là “dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, đông đảo
quần chúng lao động trấn áp tất yếu đối với thiểu số bóc lột, bọn phản cách mạng, chống phá
chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa biến nhà nước thành cơ quan phụ
thuộc hoàn toàn vào xã hội, do nhân dân tạo ra theo ý chí, nguyện vọng của cộng đồng xã hội
và trở thành nhà nước do dân lập ra. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, các hoạt động nhà
nước luôn hướng tới con người hiện thực và được xác định là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, do đó, trở thành nhà nước của dân và vì dân. Ngoài ra, việc bầu cử trở thành hành động
chính trị cơ sở để nhân dân tổ chức hệ thống chính trị. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa còn được biểu hiện ở những đặc trưng như:
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp công nhân trên cơ sở liên minh với
nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Hai là, cơ sở kinh tế - xã hội của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tức lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, hoàn toàn gắn bó mật
thiết với lợi ich của toàn thể xã hội. Ba là, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đi liền với chuyên
chính vô sản với thiểu số những kẻ tay sai, bán nước, phản động, chống lại lợi ích của nhân dân.
Dân chủ và chuyên chính luôn bổ sung, làm điều kiện tồn tại cho nhau, đảm bảo cùng nhau
phát triển lành mạnh, đúng hướng. Bốn là, dân chủ xã hội chủ nghĩa phản ánh và bảo đảm mối
14
quan hệ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân trước pháp luật không chỉ qua
văn bản luật mà cả trong cuộc sống.
Như vậy, chê độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ nhà nước của dân, do dân, vì dân,
tồn tại vì quyền lợi của đại đa số nhân dân trong xã hội. Giai cấp vô sản thông qua Đảng Cộng
sản lãnh đạo và liên kết các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành đấu tranh chống lại bọn tư
sản thống trị và xóa bỏ hoàn toàn áp bức giai cấp, xây dựng xã hội công bằng – dân chủ - văn
minh. Tóm lại, vì những đặc điểm nổi bật trên, chế độ dân chủ xã hội được xem là chế độ dân
chủ đầy đủ, rộng rãi nhất, là “dân chủ của số đông với số ít”.
Tuy nhiên, dù là chế độ dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa, đều là dân chủ
mang tính giai cấp, những người lãnh đạo bộ máy nhà nước đều do nhân dân bầu ra thông qua
các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu, vai trò của luật pháp đều được đề cao, quyền tự do của
con người đều được tôn trọng và phát huy trong khuôn khổ của pháp luật.
Ngoài ra, xét về quá trình hoạt động, mục đích của nhà nước, tính chất của nền dân chủ
và tính giai cấp thì giữa dân chủ tư sản với dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn có sự khác biệt:
Về bộ máy nhà nước: bộ máy nhà nước dân chủ tư sản tồn tại phổ biến ở các nước tư
bản chủ nghĩa như Anh – Pháp – Mỹ - … hoạt động theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”, các
cơ quan lập pháp (Nghị viện) – hành pháp (Chính phủ) – tư pháp (Tòa án) tồn tại và hoạt động
tương đối độc lập nhau. Trong khi đó, ở chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại phổ biến tại
các nước đang quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, bộ máy
nhà nước hoạt động theo nguyên tắc “tập trung dân chủ” với sự phân định thành nhiều cơ
quan chuyên trách dưới sự lãnh đạo chung duy nhất của Đảng Cộng sản.
Về đảng chính trị, chế độ dân chủ tư sản thừa nhận đa đảng nhưng chung đường lối
chính trị là bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản và bóc lột nhân dân lao động; trong khi chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ thừa nhận sự lãnh đạo tối cao duy nhất của Đảng Cộng sản – đội
quân tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện đường lối chính trị là
bảo vệ quyền lợi cho giai cấp vô sản, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác chống
lại sự bóc lột của tư sản.
Về kinh tế, khác với sự công nhận và đề cao chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất để xây
dựng nền kinh tế tư bản độc quyền của chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất để xây dựng nền kinh tế hàng hóa đa
thành phần do kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo và quản lý.
Về xã hội, giai cấp tư sản trong chế độ dân chủ tư sản nắm tư liệu sản xuất cũng như
quyền thống trị đối với giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Ngược lại, giai
cấp vô sản trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa liên minh với nông dân, trí thức và các tầng
lớp nhân dân lao động khác cùng nắm tư liệu sản xuất cũng như quyền thống trị, trấn áp, xóa
bỏ áp bức bóc lột đối giai cấp tư sản.
Tóm lại, dân chủ là một chế độ chính trị mà quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có
quyền tự do trong các hoạt động của mình. Nhưng do tồn tại nhiều yếu tố khách quan khác
nhau về điều kiện kinh tế - chính trị - lịch sử - xã hội nên dân chủ thế giới hiện đại hình thành
hai loại điển hình khác nhau là dân chủ tư sản (nền dân chủ của thiểu số thống trị đa số) và
dân chủ xã hội chủ nghĩa (nền dân chủ của đa số thống trị đối với thiểu số).
15
Câu 7.Phân tích, so sánh đặc điểm, phân biệt hệ thống chính trị TBCN quá độ vs hệ thống
chính trị CSCN quá độ
Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa học chính trị đương đại phản ánh đặc trưng
của những quan hệ quyền lực chính trị; các bộ phận, nhân tố tham gia vào các quá trình chính
trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại. Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác
nhau: Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội bao gồm Nhà nước, các
Chính đảng, các Nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị khác - trong đó Nhà nước là yếu tố cơ
bản, được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội.
Hay hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội.
Trên quan điểm hệ thống cấu trúc có thể xem Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao
gồm các tổ chức như đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp; với
những quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình
hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực
lượng cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội.
HTCT được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác nhau: Đảng chính trị, Nhà nước,
Các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp;
Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Đảng chính trị - yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị, tổ chức quyền lực chính trị, chế
độ chính trị - là công cụ tập hợp của một giai cấp; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục
tiêu giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị cho phát triển xã hội.
Đặc trưng cơ bản ở các nước tư bản chủ nghĩa quá độ là hệ thống “đa nguyên đa đảng”:
Hệ thống đa đảng ở các nuớc tư bản chủ nghĩa có thể chia thành các nhóm: Hệ thống nhiều
đảng không có sự độc quyền của đảng tư sản thống trị - các Đảng phải liên minh để lập ra
chính phủ liên hiệp (Italia, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch…); Hệ thống đa đảng có một đảng tư sản độc
quyền và đảng này lập ra chính phủ một đảng (Pháp, Nhật Bản…); Trong hệ thống đa đảng,
đấu tranh chủ yếu để tranh giành và chia sẻ quyền lực là hình thức Nghị trường: Đảng nào
giành được đa số ghế trong nghị viện theo luật định, thì trở thành đảng cầm quyền. Về mặt
hình thức phương thức giành quyền lực này tỏ ra rất “dân chủ” và “bình đẳng”; nhưng trên
thực tế pháp luật luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các đảng lớn đại diện cho giới tài phiệt và
quan chức tư sản được các tập đoàn tư sản có thế lực hậu thuẫn thắng cử. Tuy “đa nguyên”,
nhưng về cơ bản nằm trong tay các Đảng tư sản: Trong đó Nghị viện được xem là dân chủ nhất
và là nơi diễn ra cuộc đấu tranh công khai giữa các đảng phái - nghị sĩ do dân bầu, với nhiều
đặc quyền, đặc lợi, nhưng lại không chịu trách nhiệm trước cử tri mà chỉ biểu quyết theo chỉ
thị của Đảng và chịu trách nhiệm trước Đảng. Chính phủ về hình thức thì được thành lập trên
cơ sở Nghị viện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện; nhưng trên thực tế thì Đảng cầm quyền
thường đứng ra thành lập Chính phủ, thao túng toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Các Nhóm lợi ích chính trị , xét đến cùng, cũng chỉ là công cụ để giai cấp tư sản thực hiện
quyền lực chính trị của mình. Một cách khái quát, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa “đa nguyên
chính trị” bề ngoài có vẻ dân chủ nhưng về thực chất thì đều là “nhất nguyên chính trị”. Ngay
cả trường hợp có một số đảng liên minh cầm quyền; vẫn chỉ có đảng lớn nhất, có thế lực nhất
nắm quyền quyết định, và suy đến cùng là bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ tư
bản chủ nghĩa:
16
Trong thể chế chính trị của Nhật Bản có các Đảng phái chính trị là: Đảng Dân chủ - Tự
do, Đảng Dân chủ Nhật Bản, Đảng Dân chủ - Xã hội, Đảng, Đảng Cộng sản, Đảng mới Nhật Bản,
Đảng Tiên phong, Đảng Dân chủ - Xã hội thống nhất. Và thực tế cho thầy, hầu như chỉ có các
đảng Đảng Dân chủ - Tự do, Đảng Dân chủ Nhật Bản thay nhau cầm quyền.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thể chế Đảng chính trị có thể khái quát với những đặc
trưng: “nhất nguyên chính trị” là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản chống lại tư sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Khi đã trở thành lực lượng cầm quyền, Đảng
cộng sản có vai trò trách nhiệm to lớn, đối với giai cấp và vận mệnh của dân tộc; là lực lượng
lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành vai trò to lớn đó, điều kiện tiên quyết là
Đảng phải không ngừng vươn lên. Hiện nay; ở một số nước xã hội chủ nghĩa, theo điều kiện
“đặc thù” đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng “nhất nguyên chính trị” dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản nhằm lắng nghe nhiều hơn những quan điểm khác nhau, tiếp thu nhiều các
đảng phái, giảm bớt thiếu sót trong quyết sách. Tuy nhiên; Đảng Cộng sản vẫn cầm quyền, các
Đảng dân chủ chỉ tham chính.
Ở các nước đang phát triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa, hình thức thể chế Cộng
hòa có loại: Cộng hòa Đại nghị, Cộng hòa hỗn hợp. Ở các nước xã hội chủ nghĩa phổ biến là mô
hình Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm của thể chế Cộng hòa hỗn hợp Tiêu biểu là Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Mông
Cổ… là: Tổng thống và Nghị viện đều do nhân dân bầu ra. Tổng thống toàn quyền Hành pháp,
có quyền giải tán Nghị viện. Tuy vậy Nghị viện có quyền can thiệp vào quá trình thành lập
Chính phủ, buộc Tổng thống phải bổ nhiệm lãnh tụ của Đảng đa số trong Nghị viện làm Thủ
tướng.Ưu điểm của thể chế này là hạn chế sự tập trung quyền lực vào tay Tổng thống; tránh
hiện tượng độc tài và vẫn đảm bảo một nền Hành pháp mạnh. Nhiều nước ở Đông Âu và Châu
Phi sau khi cải cách đã áp dụng mô hình chính thể này.
Ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị được tổ chức
theo mô hình Cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của mô hình thể chế này là: Quyền lực nhà
nước là thống nhất; nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lực tối cao thuộc về Quốc hội; có quyền
quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước như tuyên bố chiến tranh hay hòa bình; giám
sát tối cao việc thi hành pháp luật. Chính phủ là cơ quan hành chính chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, quản lý hành chính và bảo đảm sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trong
hệ thống Tư pháp của thể chế chính trị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa có hệ thống Viện kiểm sát.
Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm các tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa mang
tính xã hội. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể; các các đoàn thể nhân dân có đặc
điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường các đoàn thể nhân dân không
đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; thường vì lợi ích của các thành viên trong tổ
chức mà tìm cách tác động, gây ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị
Ở các nước tư bản chủ nghĩa quá độ, trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị bên
cạnh Đảng cầm quyền, Nhà nước, còn có các Nhóm lợi ích chính trị là tổ chức gồm nhiều thành
viên của xã hội cùng quan điểm, nhu cầu lợi ích liên kết với nhau tự nguyện, hoạt động ảnh
hưởng ở mức độ phương thức nhất định tác động đến quyền lực nhà nước vì lợi ích, nhu cầu
của thành viên bằng cách tác động vào việc hoạch định chính sách của các đảng chính trị và
17
của chính quyền. Các nhóm lợi ích chính trị, ở một khía cạnh nào đó là đoàn thể nhân dân tổ
chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, đoàn thể nhân dân tổ chức chính trị - xã hội nằm ngoài nhà
nước; Nhóm lợi ích chính trị thì tồn tại trong nhà nước. Các Nhóm lợi ích chính trị là một thể
chế chính trị không thể thiếu trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản. Về
lý thuyết, các nhóm lợi ích chính trị đấu tranh để đảm bảo lợi ích của quần chúng; nhưng trên
thực tế nó cũng chỉ là thiết chế của tầng lớp trung thượng lưu có xu hướng thỏa hiệp với nhà
nước vì lợi ích của giai cấp tư sản. Một số nhóm lợi ích chính trị tiêu biểu ở các nước tư bản
chủ nghĩa: Ở Singapore có Hiệp hội nhân dân Singapore thuộc Bộ phát triển cộng đồng, thanh
niên và thể thao của Chính phủ Singapore. Thủ tướng là người đứng đầu Hiệp hội và Chủ
nhiệm văn phòng chính phủ là Giám đốc điều hành. Các tổ chức trong Hiệp hội nhân dân
Singapore có thể kể: Ủy ban Quản lý Câu lạc bộ cộng đồng; Uỷ ban khu dân cư chung; Ủy ban
láng giềng; Đoàn thanh niên; Câu lạc bộ thiếu niên; Câu lạc bộ thể thao cộng đồng;
Ở nước ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội của nhân dân
lao động là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai tầng, dân tộc, tôn giáo. là một
bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là thành viên vừa là lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Các đoàn thể nhân dân tuỳ
theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên
chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng
cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ
mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt
trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội
HTCT ở mỗi nước khác nhau có những mô hình, cấu trúc, vận hành khác nhau. Ở một số
nước vấn đề tôn giáo rất đặc biệt, nhưng ở nhiều nước khác thì không đến mức như vậy. Vì thế
về HTCT có cách tổ chức và vận hành khác nhau. Mặc dù vậy, HTCT vẫn bị chi phối bởi những
quy luật chung, phổ biến, nếu không tuân thủ không thể hiểu các HTCT được.
Nghiên cứu HTCT và các thể chế chính trị không chỉ nó cho phép chúng ta nắm được
bản chất phương thức tồn tại và hoạt động của đời sống chính trị, mà nó còn cung cấp những
căn cứ lý luận và thực tiễn để góp phần vào việc đổi mới và hoàn thiện HTCT ở nước ta.
Câu 8. Quan điểm của anh/chị về mô hình xh lý tưởng trong tư tưởng chính trị p Đông &
p Tây cổ đại
Mối quan tâm hàng đầu của Platôn trong chính trị học là vấn đề phẩm hạnh. Bốn phẩm
hạnh thường xuyên là tiết độ, can đảm, khôn ngoan, công bằng. Tiết độ là phẩm hạnh cần có
với tất cả công dân. Can đảm không nhất thiết phổ biến. Chỉ cần các chiến binh có để bảo vệ an
ninh quốc gia. Khôn ngoan thể hiện đặc quyền phẩm hạnh của các triết gia. Có thể gọi công
bằng là “đức hạnh xã hội”, vì nó thể hiện trong đời sống cá nhân lẫn cộng đồng, đóng vai trò
thước đo của chế độ chính trị.
Platôn đưa ra các kiểu thị quốc sau đây: 1) quân chủ - sự cai trị của một người tốt, và
hình thức xuyên tạc của nó - bạo chính gồm có quyền lực của nhà thông thái hay quý tộc, hoặc
kẻ độc tài; 2) quý tộc - sự cai trị của một số người tốt, và hình thức xuyên tạc của nó - tập đoàn
thống trị bằng phương tiện không hợp lòng dân; quyền lực chính trị của những nhóm, tập
18
đoàn nhất định; 3) dân chủ - sự cai trị của nhiều người, hay toàn thể dân chúng. Điều đặc biệt
là Platôn không nêu lên hình thức xuyên tạc của dân chủ, mà cho rằng bản thân nó đã tồi tệ
nhất. Tất cả những nhà nước tốt đẹp trong lịch sử chưa phải những nhà nước công bằng lý
tưởng. Một nhà nước công bằng lý tưởng phải được xây dựng từ những thành tố công dân
khác nhau, chiếm những địa vị xã hội khác nhau, thực hiện đúng chức phận của mình theo
năng lực cá nhân. Công bằng là “phù hợp với trật tự tự nhiên”. Sự phân chia đẳng cấp không
chỉ dựa trên sự phân chia cơ cấu linh hồn, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, mà còn nhất trí với sự
phân công lao động xã hội. Trong nhà nước lý tưởng quyền lực tập trung vào những bậc thông
thái đại diện cho trí tuệ của cộng đồng. Về tổ chưc đời sống xã hội, mọi người sống có kỷ luật,
các chiến binh tập trung trong doanh trại, phụ nữ và trẻ em tách ra riêng. Gia đình chỉ còn là
sự liên kết nhất thời nam nữ để sinh con. Mọi tài sản của chiến binh đều là của chung. Họ chỉ
có quyền sử dụng những gì thiết yếu nhất cho cuộc sống để hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ tổ
quốc; và không thể chiếm hữu ruộng đất, gây thù chuốc oán với các công dân. Như vậy nhà
nước lý tưởng là tổ chức đạo đức - chính trị hoàn hảo, giải quyết các nhiệm vụ cơ bản, định
hướng giáo dục và nghiên cứu khoa học. Nguyên lý của nhà nước lý tưởng là Công bằng, mục
tiêu cái thiện, phương tiện - giáo dục. Có thể nhận thấy trong nhà nước lý tưởng của Platon tư
tưởng nhân văn - khai sáng đan xen với một số yếu tố của chủ nghĩa cộng sản không tưởng.
Aristotle đưa ra mot quan điem bao quat hơn ve nha nươc “la mot hon hơp do nhieu bo
phan ch nh la cong dan tao thanh.” Ong cho rang cong dan khong co ngh a la ngươi dan song ơ
mot quoc gia mà la “Ngươi co quyen tham gia vao viec thưc thi cong ly va đam nhiem cac chưc
vu trong ch nh quyen.” Do nha nươc ch h nh thanh khi “cac cong dan hơp lai nham đat tơi
muc đ ch đơi song”, moi ch nh quyen co mo h nh khac nhau cong dan lai giơi han trong cac
nhom khac nhau. xa hoi dan chu, ngươi dan thương co the la cong dan. Nhưng ơ xa hoi đoc
tai, dan khong co quyen tham ch nh, nen khong the goi la cong dan. Ve can ban, cac mo h nh
nha nươc thơi đo đươc chia thanh hai loai: qua đau va dan chu . Aristotle th phan loai theo
kieu: tư te va hu bai. Quyen lưc khi tap hơp vao ca nhan la quan chu, ma h nh thưc “hu bai” la
bao chua. Quyen lưc tap trung vao nhom ngươi la tinh hoa tri, va h nh thưc “hu bai” la qua đau.
Quyen lưc cho nhieu ngươi la dan chu. Nhưng ca ba the che nay đều khong quan tam đen
quyen lơi quoc gia, v “Bao chua hu bai v ch cham lo vương that, qua đau ch lo ke giau, dan
chu chi lo dan ngheo” Sư khac biet giưa qua đau va dan chu ơ tai san đat ra cac van đe ve b nh
đang. Neu che đo dan chu đươc sư dung, so đong cam quyen. Lieu co the lay tai san cua ngươi
giau chia cho ngươi ngheo Ch nh quyen dan chu ưu viet, nhưng van co nhieu van đe, ma chu
chot la dan tr . V đam đong vơi dan tr thap se tao ra mot the che sai lam. Va neu nhom giau co
cam quyen, ho sẽ nhan danh nhieu thư đe tươc đi tai san cua ngươi dan. Ca hai che đo đeu bo
qua van đe đao đưc cot loi trong xa hoi. Bơi đe xa hoi van hanh, khong ch dưa tren nhom cam
quyen, ma con dưa vao đao đưc.
Vay, du che đo qua đau hay dan chu, cac quy đinh phap luat la thươc đo quan trong bu
đap khiem khuyet cua dan tr ơ che đo dan chu va rang buoc nhom lơi ch lạm quyen ơ che đo
qua đau. Aristotle phan t ch rang Hien phap co vai tro cot loi đe xem xet cơ cau ch nh quyen.
Thong qua Hien phap, ta biet đươc cơ cau ch nh quyen “gan ly tương nhat, trong hoan canh ly
tương nhat” va xem cach thưc thi tren cac quoc gia. Nha lap phap can phai phan t ch va chon
lưa cơ cau ch nh tri dưa tren thưc te. Tư đo, ch nh quyen đươc thiet lap đung đan se co luat
phap cong ch nh, ch nh quyen đươc thiet lap sai lam se co bat cong. Aristotle cho rang luat
phap b nh đang vơi moi cong dan. Nhưng cung cho rang luat phap b nh đang ch tac dung vơi
19
ngươi co tai nang hang trung, ngang nhau ve kha nang. khong tac dung vơi ngươi sieu tuyet,
bơi kiem soat ngươi bac cao la khong the.
Theo Aristotle, mo h nh quan chu đươc lap nen bơi phap luat la đung đan nhat. Quyen
lưc cua vua khong tuyet đoi, trư trương hơp xuat chinh hoac cac van đe ton giao. Vua co the do
ke vi hoac do dan bau. Theo Aristotle che đo quan chu chuyen che đươc phương Đong ap
dung ”ben vưng va khong sơ bi lat đo v hơp phap va đơi cha xuong đơi con”. Tai đay, ngươi
dân tôn vua that sư, cam ve quan đươc tuyen tư dan; khac han vơi che đo bao chua, la l nh
đanh thue va dan bi cương bưc tuan phuc.
Aristotle rat ca ngơi mo h nh quy tộc đieu hanh bơi nhưng ngươi tai đưc tuyet đoi nhat.
Mo h nh quy toc hoan hao nhưng qua kho đe đi theo bơi rat kho khang đinh tai nang va đưc đo
cua mot ngươi. Tren thưc te, chưa co mot nha nươc nao đat đen quy toc tri. Thong thương, nha
nươc chuyen sang he thong Hien đinh phưc hơp giưa che đo qua đau va che đo dan chu hương
con ngươi đen sư trung dung. Mo h nh Hien đinh đươc quy đinh bơi hien phap chung, thoa
thuan giưa nhom đa so va nhom thieu so. Do đo cac ch nh sach se khong hoan toan đi theo
quyet đinh cua so đong. Mo h nh Hien đinh đươc xay dưng bơi lơp trung lưu. Aristotle phan
t ch rang ngươi qua giau hoac qua tai se de pham toi lơn. Ngươi qua ngheo se bi long tham chi
phoi, thanh lưu manh. V vay, trung lưu, nen chiem đa so, b nh đang se de dang dien ra hơn.
Ong ket luan: “Mot nươc đươc thanh lap bơi đa so thanh phan trung lưu chac chan phai
co che đo ch nh tri tot nhat bơi v ho cung giong như nhưng sơi ch de t thanh tam vai quoc gia.
Thanh phan trung lưu la on đinh va chac chan nhat, v ho khong them thuong tai vat, ma cung
khong ai them thuong cua ho. Ho cung chang them am mưu hai nhau, ma cung chang ai them
am mưu lam hai ho, cho nen , ho song mot đơi an toan. Tren thưc te, mo h nh trung dung nay
rat kho thưc hien. Như Aristotle th ch co Theramenes, lanh đao Athens nam 11TCN thưc
hien đươc. Bấy giơ, quyen lưc ch nh tri nam trong tay
cong dan co kha nang tư chien đau.
Mặc du khong th ch so đong nam quyen, nhưng ong van thưa nhan so đong se ưu viet
hơn thieu so tai nang. Bơi v , mot tap hơp nhưng ngươi dan đươc to chưc tot se co kha nang
thưc thi tot hơn. Đương nhien, khong the tranh khoi nguy cơ nhưng ke dot nat se de dang
tham ch nh. Nhưng neu khong cho nhưng ke dot nat ay tham ch nh th ch nh quyen con phai
đoi mat vơi nguy cơ nguy hiem hơn, đo la t nh trang đoi nghich va phan loan.
Tương tự các học thuyết chính trị xã hội phương Tây, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm
về xã hội lý tưởng với các đặc điểm cơ bản, con đường và giải pháp xây dựng và duy trì xã hội
ấy. Trước hết, đặc trưng của xã hội lý tưởng ổn định, thái bình, đại đồng, nhân ái và bình đẳng
là ở đó có vua thánh, tôi hiền, mọi người đều vì quyền lợi, sản nghiệp chung và đều được chăm
sóc. Theo Khổng Tử, xã hội đại đồng là xã hội không còn phân chia giai cấp và mọi người đều
bình đẳng. Song những chủ trương giáo hóa, giáo dục con người bằng các nguyên lý Tam
cương Ngũ thường như biện pháp duy trì trật tự kỷ cương ổn định xã hội một cách cơ bản
nhất là tiền đề, điều kiện để bảo vệ, duy trì vĩnh viễn địa vị thống trị của Thiên tử, ổn định trật
tự giai cấp của xã hội phong kiến, không phải là nhằm mục đích đem lại một gia đình mà mọi
người đều bình đẳng hoàn toàn. Vì vậy, có thể nói xã hội lý tưởng đó luôn đặt trong vòng trật
tự có lợi cho giai cấp thống trị, duy trì được nguyên tắc địa chủ mãi là giai cấp cai trị và được
người phụng dưỡng, còn các giai tầng khác mãi bị người cai trị và phải phụng dưỡng người.
Xét đến cùng thì đó là sự bảo vệ vĩnh viễn quyền lợi và địa vị thống trị của địa chủ phong kiến
một cách hà khắc, hình thức, đi ngược lại với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Ngoài ra,
theo Nho giáo, xã hội lý tưởng còn là xã hội bảo đảm được sự kết hợp hài hòa giữa đời sống
20
kinh tế với đời sống tinh thần và đạo đức lành mạnh. Bởi sự hài hòa lợi ích kinh tế - tinh thần
ấy là một trong những yếu tố căn bản để giữ vững ổn định, trật tự của xã hội phong kiến. Bên
cạnh đó, theo Nho giáo, xã hội lý tưởng phải có giáo dục, mọi người phải được giáo dục và có
đạo đức bởi đạo đức có vai trò quyết định đến sự hoàn thiện con người, hoàn thiện và ổn định
xã hội. Để làm cho dân tuân phục, làm tròn trách nhiệm của người Thiên tử, giới cầm quyền
phải là người được giáo dục trước tiên, biết tự mình tu thân và giữ được bản tính của người
“quân tử”. Nội dung giáo hóa cơ bản của Nho giáo là những chuẩn mực đạo đức xã hội dùng để
giáo dục con người hành động và suy nghĩ theo danh phận, địa vị xã hội của chính mình. Có
như vậy, xã hội mới ổn định, kỉ cương. Vì vậy, xét về tính giai cấp và mục đích chính trị, giáo
dục còn là phương tiện chính trị để bảo vệ và duy trì sự tồn tại của chế độ phong kiến, trong
đó đòi hỏi người cầm quyền không chỉ có đạo đức mà còn phải có tri thức cầm quyền. Tuy
nhiên, nền giáo dục đó chỉ thu hẹp hiểu biết về đạo đức, quan hệ chính trị - xã hội cũng như
cách ứng xử của con người mà không thúc đẩy đóng góp nhiều đối với sự phát triển của khoa
học kĩ thuật. Tóm lại, xã hội lý tưởng của Nho giáo được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở đạo
đức, nhân cách của mỗi con nguời có trách nhiệm với gia đình, quê hương đất nước, có lối
sống biết giữ gìn trật tự kỷ cương, phép nước. Từ đó góp phần tạo dựng một cộng đồng xã hội
có tôn ti trật tự, hòa mục từ “nhà” đến “nước”.
Bên cạnh đó, Mặc gia chủ trương xây dựng xã hội “kiêm ái” không phân biệt sang hèn,
trên dưới, mọi người đều yêu thương và làm lợi cho nhau vì lợi ích chung của đồng bào, xã hội.
Mặc Tử cũng chủ trương nhà nước lý tưởng nên dùng người tài đức do dân cử lên, không cần
đảng phái, từ trên xuống dưới nhất loạt như một để xây dựng được một quốc gia thống nhất,
tập trung, một thế giới đại đồng “chính bình dân an”. Còn Pháp gia lại muốn có quốc gia thống
nhất, quyền hành tập trung vào một người chỉ cần biết thuật trị người; kinh tế phải khuếch
trương để thắng được nước khác, không cần văn cao, chỉ cần binh nhiều; vua cứ ngồi trên điều
khiển guồng máy bằng pháp luật nghiêm khắc và công bằng. Đây chính là lý tưởng “quốc
cường quân tôn”; ai giữ luật cẩn thận thì thưởng, ai trái lệnh thì phạt công minh. Ông nêu yêu
cầu cần kiên trì, kiên quyết đổi mới chế độ theo con đường pháp trị để đất nước được cường
thịnh (tư tưởng trên đã được nước Tần thực thi triệt để thành nước hùng mạnh, thôn tính sáu
nước lớn còn lại, lần đầu tiên thống nhất Trung Hoa trong lịch sử).
So sánh học thuyết về nhà nước lý tưởng của bốn trường phái trên ta thấy rõ: chủ
trương của Nho gia thực tế hơn Mặc gia; Đạo gia nhân văn hơn học thuyết của Pháp gia và văn
hóa chế độ phong kiến phương Đông hơn hai ngàn năm qua thì Nho gia ảnh hưởng rõ nhất,
sâu sắc nhất. Hạn chế chung cơ bản của bốn trường phái trên trong quan điểm về mô hình nhà
nước-quốc gia lý tưởng ở chỗ: chỉ xuất phát từ lập trường giai cấp đề ra những chủ trương
phiến diện, cực đoan- phi thực tế. Tuy nhiên, từ quan điểm về mô hình nhà nước lý tưởng nêu
trên của bốn trường phái, thấy rõ những điểm tiến bộ ưu việt: Ở Nho gia là tư tưởng ai ở địa vị
nào thì làm tốt cương vị đó, coi trọng gia đình là nền tảng, danh chính ngôn thuận; mọi người
cư xử với nhau bằng nhân, nghĩa, lễ.Ở Mặc gia là tư tưởng mọi người thương yêu nhau, cần cất
nhắc và sử dụng người tài bổ nhiệm không phân chia bè cánh. Ở Pháp gia là tư tưởng thượng
tôn pháp luật trong mọi mặt đời sống, là tinh thần độc lập tự cường dân tộc. Đó là những “hạt
nhân hợp lý” trong học thuyết xây dựng nhà nước lý tưởng và có giá trị sâu sắc trong điều kiện
hiện nay. Và suy cho cùng, muốn đánh giá một học thuyết tiến bộ hay không thì phải đặt nó
trong bối cảnh đương thời, thấy được nó tiến bộ so với các học thuyết khác, và sau một
khoảng thời gian vẫn thấy còn hợp lý thì có thể coi là vĩ đại, vượt tầm thời đại.
21
Câu 9. Ý kiến của anh/chị Chuyên chính dân chủ nhân dân là nền chuyên chính của CNXH
22
23
24
25
26
27
28