Academia.eduAcademia.edu
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM HƯỚNG ĐẾN TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG ASEAN: THỜI Ơ VÀ THÁCH THỨC ThS. Lê Thế Hiển Trường Đại học Kinh tế - Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh Email: hienlt@uef.edu.vn TÓM TẮT: trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 và quá trình toàn cầu hóa đã và đang diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, cùng với sự ra đời của Cộng đồng ASEAN năm 2015 và những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội nổi bật của Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực nói chung và của bậc giáo dục đại học nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề đ ng quan tâm cho toàn xã hội. Bài viết trình bày những vấn đề lý thuyết và thực tiễn về thời cơ và thách thức của công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại Việt Nam, dưới góc nhìn đa chiều của giáo dục học, xã hội học, du lịch học và quản trị học. Thông qua việc đ nh giá những thời cơ thuận lợi cùng với các thế mạnh của giáo dục đại học Việt Nam, xem xét những lợi thế so sánh với các nước Đông Nam Á, tác giả nhận định và phân tích thực trạng “v a thiếu lại v a yếu” về mặt chất lượng lẫn số lượng của sinh viên ngành du lịch và lực lượng lao động ngành du lịch tại Việt Nam hiện nay. Qua đó, tác giả đề xuất một số ý kiến đóng góp cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hướng tới việc chuẩn hóa và đ p ứng nhu cầu hội nhập khu vực. Từ khóa: nguồn nhân lực du lịch, giáo dục đại học, hội nhập quốc tế, cộng đồng ASEAN. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nguồn nhân lực du lịch ngày càng khẳng định vai trò quan trọng và là nhân tố chủ chốt quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát triển ổn định về mặt văn hóa - xã hội của đất nước, trong đó có sự phát triển của du lịch - ngành mũi nhọn, động lực phát triển kinh tế quốc gia. 432 Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đ xác định “ ây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và từng ngành, lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho công tác giáo dục và đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.” Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 16/01/2017 đ xác định “phát triển nguồn nhân lực du lịch là vấn đề cấp bách và cần thiết nhằm hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Mới đây, tháng 04/2021, Tổng cục Du lịch cũng đ xây dựng và trình bày dự thảo hương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế–xã hội giai đoạn 2021–2025 trong lĩnh vực du lịch. Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lưu ý việc chú trọng nhóm giải pháp về thể chế chính sách, đặc biệt là chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp, cộng đồng tham gia du lịch để phục hồi sau đại dịch Covid-19, nhóm giải pháp công nghệ và số hoá trong du lịch, cải thiện hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm du lịch đặc th Nhìn rộng hơn, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đ và đang diễn ra nhanh chóng, ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực góp phần định hình rõ nét cho du lịch Việt Nam mang nhiều đặc điểm, tính chất và đặt ra yêu cầu mới trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập liên minh khu vực Đông Nam Á. Kể từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đ tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”. Đến nay, du lịch Việt Nam đ kịp thời bắt nhịp và sớm có nhiều hoạt động hợp tác quốc tế hiệu quả, thiết thực tại khu vực châu Á - Thái Bình ương và nhiều các quốc gia đối tác chiến lược trên thế giới. Hợp tác khu vực với khối ASEAN của ngành du lịch Việt Nam chính thức bắt đầu từ Hội nghị Thượng đỉnh Bangkok 1995. Hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam thời gian qua được triển khai theo hướng thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp định thỏa thuận hợp tác cấp chính phủ, cấp ngành song phương và đa phương, tranh thủ hợp tác, hỗ trợ của các nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể và các cam kết mở cửa tự do hóa thương mại dịch vụ du lịch trong các khuôn khổ WTO, 433 ASEAN, APEC, ASEM, GMS. Chúng ta đều đang kỳ vọng rằng Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ giúp tạo ra một nền kinh tế mở, đổi mới, cạnh tranh và năng động, một cộng đồng văn hóa-xã hội có tính gắn kết và chia sẻ cao, lấy người dân làm trung tâm và hướng đến các xã hội văn minh, hiện đại, phồn vinh và thịnh vượng. Cụ thể, Việt Nam đ ký Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong ASEAN (MRA-TP 2009) để làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch nước nhà đồng thời tạo thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động trong khu vực Đông Nam Á. Theo đó, các yếu tố nền tảng và mục tiêu cơ bản đ được đặt ra cho các quốc gia Đông Nam Á đó là: (1) Đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo điều kiện cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, thương mại hoá sản phẩm; (2) Phát triển hạ tầng kết nối, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu lớn (big data) bao gồm hạ tầng kỹ thuật số, kết nối Internet tốc độ cao; (3) Phát triển nền kinh tế tri thức, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng về số lượng cho thị trường lao động trong nước và cả xuất khẩu nước ngoài. 2 Ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 2.1 Các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và du lịch Sự nghiệp giáo dục đại học từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đ trải qua quá trình gần 80 năm hình thành và phát triển, đ gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đ góp phần tạo ra các thế hệ nguồn lực con người Việt Nam - nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, vấn đề đổi mới nền giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục đại học nói riêng, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Văn kiện Đại hội XI của Đảng năm 2011 khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”. Luật Giáo dục năm 2012 đ nhấn mạnh sự thay đổi rõ rệt: “ ác định quan niệm, mục đích của giáo dục đại học là đào tạo nhân tài”. 434 Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đ đề ra 9 mục tiêu và định hướng giải pháp nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 22/06/1993 của Thủ tướng Chính phủ cũng đ xác định phương hướng, nhiệm vụ của ngành Du lịch cần: “đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học phát triển du lịch”. Bên cạnh đó, Chiến lược Phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (theo Quyết định số 2473- Đ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 30/12/2011) cũng đặt mục tiêu cụ thể về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch là phải “đa dạng hóa phương thức đào tạo, khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu của các doanh nghiệp”. Trên cơ sở đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đ ban hành Quyết định số 3066/ Đ-BVHTTDL ngày 29/09/2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020, trong đó đặt ra mục tiêu tạo ra 3 triệu việc làm, với khoảng 870.000 việc làm trực tiếp và tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm 6%. Đây được xem là ước đi đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020 trong lĩnh vực du lịch, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển nhân lực ngành du lịch trong giai đoạn 2011-2020 và tương lai sau này. Gần đây nhất là Nghị quyết số 45/NQ-CP ban hành ngày 16/04/2021 công bố kết luận sau phiên họp triển khai công việc của Chính phủ sau khi được kiện toàn tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, chỉ đạo thực hiện hai nhiệm vụ trọng tâm: “tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số” và “phát huy giá trị văn hóa và con người Việt Nam trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội”. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là phải đổi mới từ một nền giáo dục nặng về lý thuyết, trang bị kiến thức nền tảng cho người học sang nền giáo dục giúp phát triển kỹ năng, thúc đẩy tư duy đổi mới sáng tạo. Ở thế kỷ XXI, các cơ sở giáo dục 435 đại học sẽ không còn chỉ là thầy, trò, giảng đường, thư viện, các phòng thí nghiệm mà sẽ là môi trường sinh thái với ba đặc trưng cốt lõi xuyên suốt và tác động lên mọi hoạt động của nhà trường là: số hóa, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo theo phương châm giáo dục khai phóng, lấy người học làm trọng tâm, tích cực chủ động và phát triển bền vững. Chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 là nguồn nhân lực có năng lực, tinh thần đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Trước xu thế và nhu cầu cấp thiết đó, Thủ tướng Chính phủ đ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 và Quyết định số 67 / Đ-TTg ngày 30/11/2018 về việc phê duyệt “Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 202 ”. Đây là những chính sách nền tảng mang tính định hướng quan trọng cho ngành du lịch nhằm hiện thực hóa các mục tiêu do Nghị quyết số 08-NQ/TW đ đề ra. 2.2 Một số lý luận, quan điểm về nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao và công dân toàn cầu Theo Liên hợp quốc: “ guồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế-xã hội trong một cộng đồng”. Giáo trình Nguồn nhân lực của Nhà xuất bản Lao động Xã hội (2005) đưa ra định nghĩa “ guồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội”. GS. Phạm Minh Hạc (1996) nêu quan điểm về nguồn nhân lực chất lượng cao phải là “đội ngũ lao động có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta”. Còn Phạm Thị Khanh (2021) thì cho rằng nguồn nhân lực chất lượng cao là “nguồn nhân lực có khả năng (hay năng lực) tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh tốt, đảm bảo cho nền kinh tế hội nhập sâu rộng và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới”. Theo Tổ chức Giáo dục và phát triển quốc tế của Úc, “ ông dân Toàn cầu Global itizen” là một khái niệm mới, nhưng vẫn được hình thành trên nền tảng của khái niệm thời cổ đại: một công dân toàn cầu là bất kỳ một cá nhân 436 nào có mong muốn đóng góp cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn”. Richard (2014) cho rằng “chúng ta phải phát triển hiểu biết và thể chế chính trị trên khắp hành tinh, theo cách mà mỗi chúng ta trước tiên phải là một công dân toàn cầu. Parker, Ninomiya & Cogan (1999) đ đưa ra nhận định về những đặc điểm của một “ ông dân toàn cầu” như sau: - Có khả năng xác nhận các vấn đề trên toàn cầu cũng như tại địa phương. - Khả năng cùng làm việc với mọi người một cách hợp tác và chịu trách nhiệm. - Khả năng hiểu, chấp nhận, trân trọng và khoan dung với các khác biệt văn hóa. - ăng lực tư duy một cách hệ thống và có tính phản biện. - Quyết tâm giải quyết mâu thuẫn theo những phương cách phi bạo lực. - Quyết tâm tham gia các hoạt động chính trị tại địa phương, quốc gia và toàn cầu. - Quyết tâm thay đổi lối sống và thói quen tiêu dùng để bảo vệ môi trường. - Khả năng nhạy bén và hiểu biết cũng như bảo vệ quyền con người. Công trình nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh hội nhập của PGS.TS. Phạm Trung Lương (2016) đ khái quát hóa về công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch hiện nay và phân tích những ảnh hưởng của quá trình hội nhập khu vực ASEAN đến hoạt động du lịch. ưới tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 nhiều lĩnh vực du lịch mới ra đời (như du lịch trực tuyến, du lịch thông minh, du lịch công nghệ 4.0) đem lại hiệu quả vượt trội so với trước đây. Bài viết của tác giả Trần Văn Anh và Hà Thị Hải (2019) tập trung phân tích những tiêu chuẩn, tiêu chí của nguồn nhân lực du lịch trong thời kỳ hội nhập, từ đó xác định vai trò của nhà trường và doanh nghiệp trong sứ mệnh phát triển bền vững nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Trong kỷ yếu hội thảo “ hát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế” tại TP. Hồ Chí Minh năm 2019, PGS.TS. Lê 437 Anh Tuấn đ phân tích các vấn đề về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển ngành du lịch nhưng còn nhiều vấn đề tồn tại. Bàn về những hạn chế và lợi thế của công tác giáo dục và hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch, TS. Vũ Văn Viện (2020) đ đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch nhằm nâng cao chất lượng lao động và đáp ứng yêu cầu hội nhập trong giai đoạn hiện nay. 3 THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH CỦA VIỆT NAM 3.1 Những ưu điểm và mặt hạn chế ăm 2019, theo công bố của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Chỉ số ăng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI9) của Việt Nam đạt 61,5/100 điểm, xếp vị trí 67 trên tổng số 141 quốc gia và nền kinh tế. So với năm 2018, Chỉ số GCI của Việt Nam tăng 3,5 điểm và xếp hạng tăng 10 bậc, mức tăng cao nhất trên thế giới trong năm qua (Chu Thị Thảo, 2019). Theo báo cáo thường niên năm 2019 của Tổng cục Du lịch, trước khi xảy ra đại dịch SARS-CoV 2, toàn ngành đ đóng góp trên 9,2% vào GDP cả nước; tạo ra 2,9 triệu việc làm, trong đó có 927.000 việc làm trực tiếp. Tính chung trong giai đoạn 20152019, ngành du lịch nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao 22,7%. Hiện nay, cả nước có hơn 190 cơ sở đào tạo du lịch và tham gia giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo ngắn hạn, cả nước có 62 trường đại học, 80 trường cao đẳng, trong đó có 8 trường cao đẳng nghề, 117 trường trung cấp, trong đó có 12 trường trung cấp nghề, 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm có tham gia đào tạo nghiệp vụ du lịch. hư vậy, hàng năm, các cơ sở đào tạo chỉ có thể cung cấp khoảng 2.000 sinh viên cử nhân đại học, 3.000 sinh viên cao đẳng, còn lại là học viên trung cấp nghề (hệ ngắn hạn). Điều này còn quá ít ỏi cả về số lượng lẫn chất lượng đối với nhu cầu xã hội về nguồn lao động trực tiếp lẫn gián hỉ số G I được F sử dụng như một công cụ để đo lường các yếu tố inh tế vi mô và vĩ mô ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia, những điểm mạnh, điểm yếu của các nền inh tế. 9 438 tiếp trong ngành du lịch tại Việt Nam. Tổng cục Du lịch Việt Nam dự báo: với đà tăng trưởng hiện tại, mỗi năm ngành du lịch cần có thêm 40.000 lao động nhưng thực tế, các trường chỉ có thể cung cấp tối đa là 15.000 lao động, trong đó chỉ hơn 1,2% có trình độ tốt nghiệp đại học, cao đẳng. ăm 2025 số lao động các loại làm việc trực tiếp trong ngành du lịch ước tính theo nhu cầu dự báo là trên 1.165.000 người với tốc độ tăng trưởng là 6,2% năm (Bảng 1). Bảng 1. Nhu cầu nhân lực trực tiếp trong ngành du lịch đến năm 2020 Tăng trưởng TB (%) Nă 2020 Tăng trưởng TB (%) 418.250 620.100 9,6 870.300 8,1 207.600 312.100 10,1 440.300 8,2 65.800 92.700 8,2 128.000 7,6 146.200 215.300 9,4 302.000 8,1 Nă 2010 hỉ tiêu Tổng số Nă 2015 ĩn vự hách sạn, nhà hàng Lữ hành, vận chuyển ịch vụ hác t ìn độ đ tạ Trên đại học 1.450 2.400 13,1 3.500 9,2 Đại học, cao đẳng 53.800 82.400 10,6 113.500 7,5 Trung cấp và tương đương 78.200 115.300 9,5 174.000 10,2 ơ cấp 98.700 151.800 10,7 231.000 10,4 ưới sơ cấp 187.450 268.200 8,6 348.300 5,9 32.500 14,5 83.300 9,7 ại động Lao động quản l 56.100 439 hỉ tiêu Nă 2010 Nă 2015 Tăng trưởng TB (%) Nă 2020 Tăng trưởng TB (%) Lao động nghiệp vụ 387.100 564.000 9,2 787.000 7,9 1) Lễ tân 37.200 51.000 7,4 69.500 7,2 2) Phục vụ uồng 48.800 71.500 9,3 98.000 7,4 3) Phục vụ àn, ar 68.400 102.400 9,9 153.000 9,8 4) Chế iến món ăn 35.700 49.300 7,6 73.400 9,7 5) Hướng dẫn 20.600 30.800 9,9 45.000 9,2 6) VPDL, DL lữ hành 31.100 52.600 13,8 81.400 10,9 7) Nhân viên khác 145.300 206.400 8,4 266.700 6,09 Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch - ITDR Có thể thấy, mặc dù năng suất lao động Việt Nam đ được cải thiện nhiều trong thời gian qua, nhưng vẫn còn thấp và có khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Nếu năm 2011, năng suất lao động của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp năng suất lao động của Việt Nam 17,6 lần; 6,3 lần; 2,9 lần và 2,4 lần thì đến năm 2019 khoảng cách tương đối này giảm xuống tương ứng còn 13,1 lần; 5,1 lần; 2,6 lần và 2,2 lần (Nguyễn Thị Thu Trang, 2020). Xét trong ngành du lịch, năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 so với Singapore và 1/10 của Nhật Bản và 1/5 của Malaysia năm 2018. 440 Biểu đồ 1. Mức thu nhập bình quân của lực lượng lao động du lịch các nước ASEAN năm 2018 Nguồn: Đại học Fulbright Việt Nam Ngày 05/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đ ban hành Quyết định số 68 / ĐTTg phê duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Theo đó, với quan điểm phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, vận hành theo cơ chế thị trường, là động lực thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực khác, tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với mục tiêu cơ cấu lại ngành du lịch nhằm khai thác tối đa lợi thế về sản phẩm, thị trường, các nguồn lực, hệ thống quản lý ngành, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập khu vực. Mặt khác, chương trình đào tạo Cử nhân Du lịch ở các trường còn nặng nề lý thuyết, dàn trải nhiều môn học về quản trị và đại cương, nhiều môn cơ sở ngành chưa thật sự thiết thực; thời lượng thực hành nghiệp vụ còn rất hạn chế. Nhiều sinh viên ra trường mà vẫn chưa có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, chưa hình dung được sở trường và năng lực cá nhân phù hợp thế nào so với yêu cầu 441 thực tiễn của các vị trí trong ngành nghề, chưa nắm rõ quy trình chuyên môn nghiệp vụ của môi trường làm việc thực tế. Báo cáo của Tổng cục Du lịch cũng chỉ ra rằng: tỷ lệ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch còn thấp (chỉ khoảng 43% so với tổng nguồn nhân lực), trong đó, hơn một nửa lại không biết ngoại ngữ (Biểu đồ 2). Đa số các bạn trẻ còn thiếu kỹ năng mềm, thiếu tự tin trong giao tiếp với công chúng và đặc biệt là hạn chế khá nhiều về năng lực ngoại ngữ như nghe, nói, đọc, viết. Biểu đồ 2. Nhu cầu đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho nguồn nhân lực ngành lữ hành Nguồn: Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM Theo phản ánh của các doanh nghiệp, nguồn nhân lực Việt Nam sau khi được tuyển dụng đều cần phải đào tạo lại; cụ thể như năm 2018, Công ty Vietravel đ phải bỏ ra gần 10 tỷ đồng cho việc đào tạo nhân sự mới, Tập đoàn FLC thường phải dành tối thiểu 3-6 tháng để tập huấn, đào tạo cho các nhân viên (ngay cả những người đ có bằng cấp nghề hoặc cử nhân ngành du lịch). Bên cạnh đó, hầu hết các cơ sở đào tạo về du lịch trong cả nước còn rất khó hăn để nâng cấp các phòng thực hành, máy móc, trang thiết bị dụng cụ, phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin, v.v. hiện đang còn quá thiếu thốn và lạc hậu so 442 với tiêu chuẩn đưa ra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đó là còn chưa kể đến các chuẩn quốc tế như ISO10, HCERES11 hay AUN-QA12, QS Ranking. Kết quả khảo sát gần đây của tác giả cho thấy, chỉ có hơn 67% trong tổng số 225 đối tượng là sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện sự hiểu biết những vấn đề cơ bản về toàn cầu hóa, về Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc (SDGs) và Cộng đồng ASEAN. Trong đó, có đến 72% câu trả lời cho biết giới trẻ Việt Nam chưa sẵn sàng hoặc chưa đủ tự tin để tham gia hội nhập quốc tế hay đi du học, làm việc ở nước ngoài. Khoảng 80% đối tượng phỏng vấn cho rằng, chất lượng giáo dục của Việt Nam còn thấp kém so với mặt bằng chung của khu vực. Đa số ý kiến đều nhận thấy mặt hạn chế của giáo dục chính là do chương trình đào tạo còn nặng về tính lý thuyết, chưa cập nhật kiến thức mới; phương pháp giảng dạy chưa thật sự sinh động, thu hút và thiếu những định hướng nghề nghiệp rõ ràng từ phía nhà trường, thiếu cơ hội thực hành, thực tập và còn ít dịp cho sinh viên rèn luyện kỹ năng tay nghề, thực tập thực tế. Đạo đức, phẩm chất, lý tưởng sống của đại bộ phận thanh niên Việt Nam ngày nay đang gây ra nhiều vấn đề nhức nhối, đáng quan ngại trong xã hội như chủ nghĩa cá nhân, thiếu ý thức cộng đồng, thờ ơ, ích kỷ, lối sống thực dụng, xu hướng bạo lực và mất lòng tin, dễ sa vào các tệ nạn xã hội, v.v. 3.2 Những ơ hội và thách thức đối với sinh viên ngành du lịch của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Thành tựu và nỗ lực của của du lịch Việt Nam đ được thế giới đánh giá cao, Tổ chức Du lịch thế giới (UNTWO) xếp Việt Nam đứng thứ 6 trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới. Trong năm 2019, du lịch Việt Nam cũng đạt nhiều giải thưởng danh giá mang tầm vóc châu lục và thế giới. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Du lịch Việt Nam 10 ệ thống quản l chất lượng theo Tiêu chuẩn Việt am I O 900 20 và các cơ quan quản l nhà nước về du lịch có 28 thủ tục. 11 R ENQA. 12 là một tổ chức iểm định uy tín được công nhận ởi Bộ tiêu chuẩn về iểm định chất lượng giáo dục đại học nước ết an hành từ năm 200 . áp dụng cho hệ thống hành chính iệp hội đảm ảo chất lượng châu Âu được ội đồng Bộ trưởng Giáo dục các 443 năm 2019 được vinh danh ở 5 hạng mục giải thưởng của tổ chức giải thưởng Du lịch thế giới (World Travel Awards), bao gồm: điểm đến di sản hàng đầu thế giới; điểm đến golf tốt nhất thế giới; điểm đến hàng đầu châu Á; điểm đến văn hóa và ẩm thực hàng đầu châu Á. ăng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam đ được cải thiện đáng kể: xếp hạng 63/140 nền kinh tế toàn cầu, so với xếp hạng 67/136 năm 2017. Đặc biệt, Việt Nam vượt qua Indonesia để đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á về lượng khách quốc tế đến. Hiện nay trong quá trình triển khai thực hiện MRA-TP, lực lượng lao động Việt Nam có thể làm việc ở lĩnh vực du lịch của tất cả các quốc gia thành viên ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam có thể tuyển dụng nhân lực du lịch chất lượng cao trong Khối. Đây là cơ hội lớn, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ đối với ngành du lịch nói chung và đội ngũ nhân lực du lịch nói riêng. Theo Amadeus (2018), 64% khách du lịch Việt Nam cho rằng, mạng xã hội cung cấp cho họ các khuyến nghị du lịch phù hợp. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 và kỷ nguyên số hóa - tự động hóa trên toàn cầu, tiếp thị số - Digital Marketing là một lĩnh vực mới, nhân lực tham gia ngành đông nhưng kinh nghiệm và chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu và quy trình tuyển dụng. Các siêu ứng dụng (Super apps), công nghệ thực tế ảo (VR) hay tương tác người với máy là ba xu hướng công nghệ được dự báo sẽ thống trị ngành du lịch trong năm 2020. Nghiên cứu từ Google và Phocuswright (2019) chỉ ra rằng: người Việt trung bình dành khoảng 4-5 giờ để sử dụng smart phone, trong đó 65% truy cập các ứng dụng như Facebook, Youtube, Zalo và Messenger. Tuy nhiên, nguồn nhân lực Việt Nam đang phải cạnh tranh với các nước trong khối ASEAN và một số nước khác đ được đào tạo bài bản về ngành Tiếp thị số (Digital Marketing), Thương mại điện tử (e-Commerce) và điều hành Đại lý du lịch trực tuyến (Online Travel Agency - OTA); so ra chúng ta còn thua kém nhiều với họ. Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đ có văn bản hướng dẫn áp dụng cơ chế đặc thù trong đào tạo các ngành về du lịch, theo hướng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, chương trình đào tạo du lịch đến nay vẫn chưa thống nhất, hiện tồn tại ba khung tiêu chuẩn năng lực đối với lao động ngành du lịch Việt Nam: Bộ Tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt 444 Nam (VTOS) phiên bản 2013 gồm 10 nghề do Dự án EU hỗ trợ xây dựng, Bộ Tiêu chuẩn chung về nghề Du lịch trong ASEAN (ACCSTP) tháng 12/2015 có 6 nghề, và Bộ Tiêu chuẩn nghề quốc gia 2017 có 8 nghề thuộc nhóm du lịch, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành. Hiện nay, hầu hết các cơ sở đào tạo về du lịch và các công ty, doanh nghiệp còn chưa có sự gắn kết, giao lưu chặt chẽ và tương tác thường xuyên. Hai bên chưa tìm được tiếng nói chung và chưa có nhiều cơ hội để nắm bắt nhu cầu lẫn nhau và điều chỉnh định hướng đào tạo, tuyển dụng phù hợp. Một khó hăn khác nữa trong bối cảnh chung toàn cầu hiện nay đó là, đại dịch Covid-19 đang ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế sản xuất và các ngành thương mại dịch vụ ở hầu hết các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam. Theo báo cáo cuối năm của Tổng cục Thống kê, năm 2020, do việc đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch, khách quốc tế đến Việt Nam chỉ đạt khoảng 3,7 triệu lượt, giảm 79,5% so với 2019; khách nội địa đạt 56 triệu lượt, giảm 34,1%; tổng thu du lịch đạt 312 nghìn tỷ đồng, giảm 58,7% - mức giảm tương đương 19 tỷ USD. Khoảng 40-60% lao động bị mất việc làm hoặc cắt giảm ngày công. Khoảng 95% doanh nghiệp lữ hành quốc tế đ ngừng hoạt động. Nhiều khách sạn phải đóng cửa, công suất sử dụng phòng có thời điểm chỉ đạt từ 10-15%. Điều này đ ít nhiều ảnh hưởng tâm lý của hầu hết sinh viên đang theo học ngành du lịch và cả phụ huynh lẫn các em học sinh phổ thông có ý định dự tuyển. Không những thế, tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu và thời tiết cực đoan tại Việt Nam luôn là điều khiến cho lực lượng lao động của ngành du lịch khó bám trụ, theo nghề một cách đam mê, ổn định, lâu dài. Theo tác giả, việc tạo động lực, chăm lo hỗ trợ cho đội ngũ nhân lực du lịch chính là một thách thức, yêu cầu thường xuyên cần được các cấp quản lý Nhà nước và lãnh đạo doanh nghiệp quan tâm giải quyết. 445 4 MỘT SỐ Ý KIẾN TRAO ĐỔI, THẢO LUẬN VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH TẠI TP.HCM, SẴN SÀNG HỘI NHẬP KHU VỰC Để thực hiện mục tiêu giúp các sinh viên ngành du lịch trở thành công dân toàn cầu, thực hiện sứ mệnh là những đại sứ văn hóa trẻ của Việt Nam góp phần quảng bá đất nước, tác giả đề xuất một số giải pháp hoạt động như sau: Thứ nhất, nhằm nâng cao nhận thức và tạo động lực khuyến khích cho sinh viên ngành du lịch tích cực, chủ động hội nhập trong Cộng đồng ASEAN, Việt Nam nên tăng cường tổ chức nhiều hoạt động liên kết, phối hợp giữa các đơn vị là cơ quan quản lý Nhà nước với các hiệp hội nghề nghiệp như Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Hiệp hội Du lịch ASEAN (FATA), Hội đồng Du lịch Quốc tế (World Travel & Tourism Council - WTTC); thường xuyên tổ chức các diễn dàn, hội thảo, đối thoại hợp tác giữa các doanh nghiệp lữ hành và cơ sở giáo dục với các bên liên quan, ngay cả việc giao lưu kết nối với các đối tượng du khách, chuyên gia nghiên cứu và ban biên tập các tạp chí du lịch, v.v. Các hoạt động thường kỳ như Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF), Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam (VITM), Diễn đàn Du lịch Mekong, Hội chợ Du lịch Quốc tế (ITE), v.v. đều là cơ hội quý báu để các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên, đội nhóm tình nguyện và các cá nhân có dịp chia sẻ những kiến thức, kỹ năng; thực trạng và giải pháp phát triển ngành du lịch, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Để có thể ứng dụng tốt các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đội ngũ quản lý và phục vụ trong ngành du lịch cần được tạo điều kiện để được huấn luyện, đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là cập nhật với kiến thức nền tảng, công nghệ mới của khu vực và thế giới. Hai là, cần trang bị thêm kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin: tuy các sinh viên chuyên ngành du lịch không cần phải biết lập trình hoặc công nghệ thông tin chuyên sâu nhưng để tham gia thực hiện mục tiêu số hóa và ứng dụng CMCN 4.0, nhân sự ngành du lịch cũng cần phải hiểu và nắm được những kiến thức cơ bản về công nghệ và thực hiện tốt các thao tác tin học văn phòng, hiểu biết về thiết kế đồ họa cơ bản, quản trị thông tin mạng hay một số kỹ năng lập 446 trình và sử dụng phần mềm ứng dụng dịch vụ du lịch-khách sạn (tùy vị trí công việc). Tác giả đề xuất đưa vào chương trình đào tạo Cử nhân Du lịch giảng dạy thêm các môn như Tin học nâng cao (MOS), Thiết kế website du lịch (yêu cầu thân thiện, đẹp mắt, đầy đủ chức năng, có hiệu quả kinh doanh tốt) và Thực hành công cụ Digital Marketing, các Phần mềm Quản trị khách sạn (PMS, SMILE, OPERA). Ngoài ra, sinh viên cũng cần có kỹ năng thống kê số liệu để đưa ra kết luận về mức độ hiệu quả của chiến dịch quảng bá du lịch số qua các kênh; từ đó, cải thiện và tối ưu hóa hiệu quả của quảng cáo du lịch. Hình 1. Những kỹ năng cần thiết đối với sinh viên thế kỷ XXI Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2015 Nhà trường cần triển khai huấn luyện các khóa đào tạo kỹ năng mềm trong thời đại công nghệ số (xử lý tình huống, giao tiếp và chăm sóc khách hàng trực tuyến, travel logger . Đề xuất giảng dạy thêm các môn như Thương mại 447 điện tử (e-Commerce), Marketing du lịch số (e-Tourism), quản trị mạng Internet, Marketing căn bản, Phân tích dữ liệu số - Digital Analytics, Kỹ năng chăm sóc khách hàng thời .0 Ba là, tăng cường phổ biến kiến thức về hội nhập quốc tế: thông qua việc phổ biến cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về Bản sắc Cộng đồng ASEAN và đặc trưng văn hóa của các nước Đông Nam Á nói riêng cũng như các quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới, chia sẻ tri thức về “luật chơi” của thị trường chung ASEAN trong lĩnh vực du lịch hiện nay, kiến thức về cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, đồng thời chuẩn bị cho sinh viên Việt Nam tâm thế sẵn sàng để cạnh tranh và thi đua với nguồn nhân lực trong khối AEC. Cuối cùng, cần thiết phải rèn luyện thêm nhiều kỹ năng sống thiết thực và quan trọng khác như: tăng cường năng lực ngoại ngữ, làm việc nhóm, tư duy phản biện (Hình 1 và 2); lồng ghép vào chương trình đào tạo những kỹ năng mềm bổ ích như quản lý thời gian, lập kế hoạch và phát triển bản thân, năng lực tham gia các dự án nghiên cứu khoa học, năng lực đổi mới sáng tạo, hướng đến hoàn thiện phẩm chất đạo đức cá nhân để trở thành những đội ngũ cung cấp dịch vụ du lịch chuyên nghiệp, chịu áp lực tốt trong môi trường cạnh tranh đa văn hóa phức tạp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban thư ký ASEAN (2016), Kế hoạch và Chiến lược Du lịch ASEAN 2016-2025, Tài liệu “ ội nghị Phổ biến Chiến lược Du lịch ASEAN giai đoạn 2016-2025 và các nội dung liên quan đến hội nhập khu vực của Việt Nam. [2] Chu Thị Thảo (2019). ăng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 của Việt Nam qua các tiêu chí đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ. [3] Lê Anh Tuấn (2019). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “ hát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, TP. Hồ Chí Minh, tr.83. 448 [4] Lê Thị Lệ (2019). Đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong xu thế hội nhập và cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Tạp chí Khí tượng Thủy văn số 10/2019, tr.76-78. [5] Lưu Đức Kế (2016). Thực trạng và các giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, Tọa đàm Giải pháp phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, TP. Hồ Chí Minh. [6] Nguyễn Minh Thảo (2019). ăng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam qua từng chỉ số, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. [7] baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nang-luc-canh-tranh-toan-cau-40-cua-VietNam-qua-tung-chi-so/377006.vgp, truy cập ngày 20/5/2021. [8] Nguyễn Thị Thu Trang (2020). Thực trạng năng suất lao động của Việt Nam và một số giải pháp tăng năng suất lao động, Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Tạp chí Công Thương số 12, tháng 05/2020. [9] Nguyễn Tiệp (2005). Giáo trình Nguồn nhân lực, NXB. Lao động Xã hội, Hà Nội, tr.7. [10] Parker W.C., Ninomiya A. & Cogan J. (1999). Educating World Citizens: Toward Multinational Curriculum Development. doi.org/10.3102/00028312036002117, truy cập ngày 21/06/2021. [11] Phạm Công Nhất (2014). Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị số 10/2014, tr.53-56. [12] Phạm Minh Hạc (1996). Phát triển giáo dục - phát triển con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB. Khoa học Xã hội, tr.29. [13] Phạm Thị Khanh (2021). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 02/2021, tr.33-35. 449 [14] Phạm Trung Lương (2015). Phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Toàn cầu hoá du lịch và địa phương hoá du lịch”. Trường Cao đẳng Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch, TP. Hồ Chí Minh. [15] Du lịch tận dụng cơ hội bứt phá từ Cách mạng Công nghiệp 4.0, trang tin điện tử Tổng cục Du lịch Việt Nam: vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/27830, truy cập ngày 21/05/2021. [16] Du lịch Việt Nam 2020: phát huy nội lực trong “ o Covid- 9”, Báo điện tử Nhân dân, nhandan.vn/dien-dan-dulich/du-lich-viet-nam-2020-phathuy-noi-luc-trong-bao-covid-19-630469, truy cập ngày 31/05/2021. [17] Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch. Một số giải pháp đào tạo nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng cho ngành Du lịch trong bối cảnh hiện nay. Trang tin điện tử Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch. daotaovhttdl.vn/articledetail.aspx?sitepageid =628&articleid=858 (truy cập ngày 31/5/2021). [18] Thủ tướng Chính phủ (2013). Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. [19] Tổng cục Du lịch Việt Nam (2020), Báo cáo thường niên Du lịch Việt Nam năm 2019. NXB. Lao động, Hà Nội. [20] Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (2017). Tài liệu Hội thảo quốc tế “ ăng suất và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam: Phát hiện từ nghiên cứu thực chứng”, Hà Nội. [21] Trần Văn Anh & Hà Thị Hải (2019). Phát triển bền vững nguồn nhân lực du lịch trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “ hát triển chương trình đào tạo du lịch phù hợp cơ chế đặc thù tại các trường đại học, cao đẳng Việt am”, Đại học Đông Á, Đà Nẵng, tr.92-97. 450 [22] Trần Văn Thông & Lê Thế Hiển (2018). Những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “ hát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Đại học Văn Hiến, TP. Hồ Chí Minh. [23] Vũ Văn Viện (2020), Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập, Kỷ yếu hội thảo quốc gia “Liên kết giữa các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”, Đại học Hạ Long, tr.1-5. [24] World Tourism Organization (2018). UNWTO Tourism Highlights 2018, Madrid, Spain. 451