Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch - Trường Đại học Văn Hiến
HỘI THẢO QUỐC TẾ
“Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
Bài tham luận:
NHỮNG YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH
THỜI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Tác giả: TS. Trần Văn Thông – ThS. Lê Thế Hiển
Khoa Quản trị Du lịch - Khách sạn, Trường Đại học Kinh tế - Tài chính
Tóm tắt:
Nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, ngành du lịch toàn cầu đã có cơ hội tối ưu hoá các
sản phẩm dịch vụ, phương thức xúc tiến quảng bá, phát triển nhanh và bền vững.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động
lực cho đất nước phát triển tương xứng với nguồn tài nguyên giàu tiềm năng, đồng
thời đáp ứng nhu cầu giao lưu, liên kết khu vực và hội nhập quốc tế. Một trong các yếu
tố then chốt hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội quốc gia chính là nguồn nhân lực
phục vụ cho ngành du lịch. Bài viết cung cấp một số thông tin tổng quan về công tác
đào tạo ở một số cơ sở giáo dục và thực trạng sử dụng nguồn nhân lực trong lĩnh vực
dịch vụ du lịch và nhà hàng, khách sạn. Qua tham khảo một số kinh nghiệm quốc tế,
nhóm tác giả đề xuất một số ý kiến, định hướng về hoạt động phối hợp liên ngành
trong công tác phát triển nguồn nhân lực theo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và thích ứng với Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Từ khoá: nguồn nhân lực, du lịch, Cách mạng Công nghiệp 4.0, chiến lược phát triển
---------------
1
1. Đặt vấn đề
1.1 Du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa trên thế giới và các thể chế hợp tác liên
minh khu vực đã và đang diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ và sâu rộng trong mọi lĩnh
vực trên toàn thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng, kể từ năm 1986 liên tục
đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tăng cường hội nhập quốc
tế với phương châm: “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Việt Nam sẵn
sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Du lịch Việt Nam đã kịp thời bắt nhịp và sớm có nhiều hoạt động hội nhập, hợp
tác đa phương trong khu vực Đông Nam Á từ rất sớm. Hợp tác đa phương với khối
ASEAN của ngành du lịch Việt Nam chính thức bắt đầu từ Hội nghị thượng đỉnh
Bangkok 1995. Hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam thời gian qua được triển
khai theo hướng thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp định thỏa thuận hợp tác cấp
chính phủ, cấp ngành song phương và đa phương, tranh thủ hợp tác, hỗ trợ của các
nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể và các cam kết mở cửa tự do hóa
thương mại dịch vụ du lịch trong các khuôn khổ WTO, ASEAN, APEC, GMS....
Trong đó, ASEAN là một trong những khuôn khổ hợp tác mà Du lịch Việt Nam tham
gia sâu rộng và có hiệu quả nhất. Đối với các lĩnh vực cụ thể, Việt Nam đã ký Thỏa
thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) tại ATF Hà Nội
2009 để làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN và tạo thuận lợi
cho dịch chuyển lao động trong khu vực. Du lịch Việt Nam đã chủ động đóng góp vào
việc triển khai MRA-TP chung của ASEAN thông qua việc xây dựng các tài liệu
hướng dẫn triển khai MRA-TP (2013).
2
1.2 Một số tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với
ngành du lịch Việt Nam
Các chuyên gia cho rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng
4.0) đang trong giai đoạn khởi phát và sẽ tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội,
mở ra nhiều cơ hội phát triển cho Việt Nam vì nó không chỉ nhằm vào công nghiệp và
những thành tựu vượt bậc công nghệ số đã ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực đời sống, trong
đó có du lịch. Thuật ngữ “du lịch thông minh” mới xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng
một vài năm trở lại đây, được nhắc đến nhiều khi cuộc Cách mạng 4.0 chính thức diễn
ra ở nước ta. Du lịch thông minh là ngành dịch vụ được phát triển trên nền tảng ứng
dụng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền
thông nhằm tạo ra những giá trị, lợi ích, dịch vụ tốt nhất, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
du khách, doanh nghiệp, cơ quan quản lý du lịch và cộng đồng. (Lê Quang Đăng, Viện
Nghiên cứu Phát triển Du lịch - Tổng cục Du lịch)
Theo PGS.TS Tạ Cao Minh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Tự động
hóa Việt Nam: “Đối với các đơn vị du lịch, đây cũng là một cơ hội để chúng ta có thể
tuyên truyền, quảng bá những thông tin lên mạng, lên website. Đưa những hình ảnh tốt
đẹp lên nhằm quảng bá điểm đến, đồng thời cũng nhận lại những thông tin xấu về
tuyến điểm như có chỗ nào chặt chém, chèo kéo hay đeo bám du khách để mình làm
giảm thiểu và đi đến giải quyết dứt điểm. Hiện nay, du lịch Việt Nam có lượng khách
khá nhiều và mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Tuy nhiên, du lịch vẫn chưa phát
triển tương xứng với tiềm năng”. Ngành du lịch được hình dung có rất nhiều khâu. Đối
với du khách, đầu tiên phải tìm địa chỉ, search trên mạng, tìm kiếm chỗ lưu trú, tìm các
phương tiện đi lại và giá cả hợp lý nhất. Tiếp theo là mua vé máy bay rồi các chỉ dẫn
đường đi. Trong mỗi khâu này, Cách mạng 4.0 đều có tác dụng rõ rệt.
Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện nhận định: “cuộc
Cách mạng 4.0 được dự báo sẽ tạo nên những thay đổi lớn đối với thế giới nói chung,
ngành du lịch nói riêng. Vấn đề cấp bách hiện nay là làm thế nào để phát triển du lịch
bền vững về kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường”. Theo Bộ trưởng Thiện, có thể
thấy rằng, mục tiêu đóng góp 10% GDP, thu hút 20 triệu lượt khách quốc tế vào năm
2020 cho thấy du lịch là một ngành trụ cột của kinh tế Việt Nam và đang thay đổi
mạnh nhờ Cách mạng 4.0. Nội dung đó đã được xác định rõ trong “Đề án tổng thể ứng
dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018-2010, định hướng đến
3
năm 2025” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày
30/11/2018.
Theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), doanh số du lịch trực
tuyến toàn cầu năm 2016 đạt khoảng 565 tỷ USD và tăng 14%, trong đó thị trường
châu Á - Thái Bình Dương vươn lên dẫn đầu thế giới về du lịch trực tuyến từ năm
20171. Tại khu vực Đông Nam Á, Google dự đoán giá trị của du lịch trực tuyến sẽ tăng
từ 22 tỷ USD năm 2015 lên 90 tỷ USD vào năm 2025. Tại Việt Nam, xu thế của du
lịch trực tuyến đã bắt đầu được ghi nhận tại Luật Du lịch sửa đổi (được Quốc hội khóa
XIV thông qua ngày 19/06/2017). Tổng cục Du lịch cho biết: theo thống kê năm 2017,
lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thông qua tham khảo thông tin điểm đến
trên Internet chiếm đến 71%, lượng du khách quốc tế đặt và mua dịch vụ trên mạng
Internet cho chuyến đi du lịch đến Việt Nam chiếm khoảng 64%. Gần 100% doanh
nghiệp du lịch Việt Nam đã sử dụng website để giới thiệu, quảng bá sản phẩm. Tuy
nhiên, mới chỉ có trên 50% áp dụng thành công việc bán hàng, thanh toán trực tuyến
qua mạng Internet và hiện Việt Nam chỉ có khoảng 10 sàn giao dịch điện tử về du lịch.
Nắm bắt xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và giảm thiểu những tác động tiêu cực của làn sóng
này ở Việt Nam, trong đó nêu rõ du lịch là một trong những ngành kinh tế được ưu
tiên xây dựng chiến lược chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm thúc đẩy
du lịch thông minh ở Việt Nam. Đây là định hướng chính sách quan trọng cho ngành
du lịch hướng tới các mục tiêu do Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát
triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn đã đặt ra.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đến tháng 6/2018, cả nước
có 25.600 cơ sở kinh doanh lưu trú, khoảng 30.000 doanh nghiệp du lịch, trong đó
100% các doanh nghiệp đã quan tâm sử dụng Internet trong hoạt động quảng cáo và
kinh doanh. Hầu hết các cơ sở lưu trú và doanh nghiệp du lịch đều có website riêng để
quảng bá dịch vụ và áp dụng song song thương mại điện tử để đặt tour, đặt phòng,
thanh toán trực tuyến. Tất cả đều đăng ký dịch vụ với các trang mạng trực tuyến hỗ trợ
đặt phòng. Sở Du lịch tại mỗi tỉnh thành, địa phương đều có website giới thiệu thông
tin du lịch. Tuy nhiên, kết quả ứng dụng công nghệ thông tin đạt được chưa cao, theo
1
Nguồn số liệu thống kê của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông Khoa học và Công nghệ quốc gia
4
báo cáo của Google&Temasek Holding (Singapore), thị trường du lịch trực tuyến tại
Việt Nam (bao gồm cả đặt phòng khách sạn và mua bán vé máy bay) đạt 2,2 tỷ USD
vào năm 2015 và dự kiến sẽ đạt tới 9 tỷ USD năm 2025, tốc độ tăng trưởng kép 15%
mỗi năm – nhưng so với mặt bằng chung các nước trong khu vực ASEAN, doanh thu
của các đại lý du lịch trực tuyến (OTA) tại Việt Nam còn khiêm tốn, chỉ cao hơn
Phillipines.
2. Khái quát hiện trạng nguồn nhân lực du lịch tại Việt Nam
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch mỗi năm, toàn ngành cần thêm gần 40.000
lao động; nhưng chỉ có khoảng 20.000 lao động tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo, trong
số đó chỉ có khoảng 1.800 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp, 2.100 sinh viên
cao đẳng nghề du lịch, còn lại là học sinh trung cấp, sơ cấp và đào tạo ngắn hạn dưới
ba tháng. Các con số này cho thấy, nguồn nhân lực không những thiếu về số lượng mà
còn thiếu trầm trọng đội ngũ được đào tạo bài bản. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực
do các cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh
nghiệp, nhất là nguồn nhân lực quản lý. Ngay cả khi tuyển đúng người học ngành du
lịch, các doanh nghiệp vẫn mất thời gian, công sức đào tạo lại. Trong quá trình này,
doanh nghiệp cũng vướng phải không ít khó khăn, khi mà người quản lý kiêm vai trò
đào tạo giỏi không nhiều, thường hướng dẫn theo kinh nghiệm là chủ yếu, thiếu kỹ
năng, kiến thức cụ thể. Ngoại ngữ, tin học được coi là chìa khóa để hội nhập, song đây
lại là điểm yếu lớn của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam.
GS, TS Nguyễn Văn Đính, Phó Chủ tịch Hiệp hội Đào tạo Du lịch Việt Nam
cho biết: “Hiện cả nước có khoảng 60% lực lượng lao động của ngành biết ngoại ngữ
nhưng chủ yếu là tiếng Anh (42%), tỷ lệ biết tiếng Trung Quốc chỉ 5%, tiếng Pháp
4%... Trong đó, số lao động có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ chỉ 15%, và
cũng chỉ tập trung chủ yếu ở bộ phận làm hướng dẫn viên du lịch, lễ tân khách sạn. Về
trình độ công nghệ thông tin, có khoảng hơn 60% lao động biết sử dụng máy tính,
nhưng phần lớn chỉ đáp ứng những công việc đơn giản. Cùng với những yếu kém trên
thì thực tế cho thấy, kỹ năng mềm, khả năng ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của lực
lượng lao động du lịch cũng chưa được trang bị đầy đủ”. Thực trạng này cho thấy số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện tại chưa thể đáp ứng được
những yêu cầu phát triển của du lịch trong giai đoạn mới.
5
Theo thống kê của Vụ Đào tạo (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tính đến năm
2016, cả nước có 156 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có: 48 trường đại học; 43 trường
cao đẳng và cao đẳng nghề. Tuy nhiên, chương trình đào tạo du lịch đến nay vẫn chưa
được thống nhất. TS Mai Hà Phương, Trưởng Khoa Du lịch trường Đại học Văn hóa
TP. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tình trạng kết cấu khung chương trình đào tạo giữa các cơ
sở rất khác nhau về tỷ lệ giữa khối kiến thức đại cương và chuyên ngành. Có cơ sở quá
thiên về trang bị kỹ năng mà không quan tâm đến trau dồi kiến thức nền, do đó chỉ tạo
đội ngũ “thợ” chứ không thể tạo ra những người quản lý giỏi. Ngược lại, có cơ sở tỷ lệ
dạy thực hành rất thấp, dẫn đến kỹ năng nghề của sinh viên yếu kém.
Ngay từ khâu tuyển sinh, sinh viên đã thiếu sự tư vấn về nghề, dẫn đến thiếu
định hướng, lựa chọn công việc không phù hợp năng lực bản thân. Theo ông Trần
Trung Vỹ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long (Quảng Ninh), hầu hết các cơ
sở đào tạo chưa có chiến lược liên kết với các doanh nghiệp du lịch, cho nên dẫn đến
tình trạng trường đào tạo một đằng, doanh nghiệp sử dụng cần một nẻo. Doanh nghiệp
là bộ phận bảo đảm đầu ra chủ yếu cho sinh viên nhưng mối quan hệ giữa cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp du lịch hiện nay vẫn chưa rõ ràng về lợi ích, dẫn đến việc phần
lớn doanh nghiệp kết hợp với cơ sở đào tạo còn mang tính chất quan hệ cá nhân, cả
nể…Thêm nữa, còn thiếu hệ thống giáo trình cốt lõi; tài liệu tham khảo khá phong phú
nhưng chất lượng hạn chế. Trong khi đó, không thể sử dụng giáo trình nước ngoài để
giảng dạy chính thức vì nội dung, tên môn học, hệ số tín chỉ… có sự khác biệt lớn,
nhiều lĩnh vực lại chưa phù hợp điều kiện phát triển và đặc điểm của nước ta. Bên
cạnh đó, trình độ sư phạm, chuyên môn của đội ngũ giảng viên cũng là điều đáng bàn.
Hiện cả nước có khoảng 5.000 người tham gia đào tạo về du lịch, trong đó có 2.000
giảng viên, giáo viên, 2.580 đào tạo viên và 540 cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo các
cấp. Thực tế cho thấy, đội ngũ này cũng chưa có trình độ chuyên sâu về du lịch. Nhiều
giảng viên chuyển từ ngành khác sang giảng dạy cho nên thiếu sự hiểu biết sâu sắc và
toàn diện về lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế. Trong 2.000 giảng viên và giáo
viên như đã thống kê, chỉ có 259 người có trình độ thạc sĩ trở lên (chiếm 13%). So với
những ngành đào tạo khác, đây là tỷ lệ rất thấp. Đồng thời, lực lượng lãnh đạo, quản lý
ở các cơ sở phần lớn còn yếu về năng lực chuyên môn, phương pháp quản lý.
Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác ASEAN và Ủy ban Châu Âu (EC), Việt
Nam đã hỗ trợ tổ chức một khóa đào tạo về áp dụng tiêu chuẩn 18531 - ISO 9000; cấp
6
học bổng cho 10 cán bộ quản lý nhà nước về du lịch của Việt Nam tham dự các khóa
bồi dưỡng tại Thái Lan, Indonesia, Philippines. Bên cạnh đó, trong khuôn khổ Dự án
“Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có Trách nhiệm với Môi trường và Xã hội”
do Liên minh Châu Âu tài trợ, Tổng cục Du lịch đã phê duyệt bộ Tiêu chuẩn nghề du
lịch Việt Nam (VTOS) phiên bản mới, dựa trên sáu lĩnh vực nghề chính: Lễ tân, Phục
vụ buồng, Phục vụ nhà hàng, Chế biến món ăn, Điều hành Du lịch & Đại lý lữ hành và
Hướng dẫn du lịch; ngoài ra, Bộ VTOS 2013 còn mở rộng cho 4 lĩnh vực nghề chuyên
biệt đáp ứng các nhu cầu cao của ngành gồm Thuyết minh du lịch, Phục vụ trên tàu
thủy du lịch, Quản lý khách sạn và Vận hành cơ sở lưu trú nhỏ. Dù vậy, vẫn còn thấy
rõ nhiều hạn chế, yếu kém trong cơ chế phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng một số bên liên quan
khác trong cách thức quản lý, giám sát và tổ chức hoạt động dạy - học, thực hành rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp cho các đối tượng học viên, sinh viên và nhân viên ngành
du lịch và nhà hàng - khách sạn. Hiện tồn tại đến ba khung tiêu chuẩn năng lực đối với
lao động ngành du lịch Việt Nam: Bộ Tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt Nam (VTOS)
phiên bản 2013 gồm 10 nghề chia thành 5 bậc với 241 đơn vị năng lực, Bộ Tiêu chuẩn
chung về nghề Du lịch trong ASEAN (ACCSTP) ban hành tháng 12/2015 có 6 nghề
phân thành 3 nhóm với 242 đơn vị năng lực, và Bộ Tiêu chuẩn nghề quốc gia có 8
nghề thuộc nhóm du lịch, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành năm 2017.
Theo thống kê hiện nay, mỗi doanh nghiệp chỉ có trung bình 1-2 nhân viên
chuyên phụ trách mảng Tiếp thị số (Digital Marketing) đạt trình độ đại học nhưng đến
từ các ngành khác và học thêm công cụ tiếp thị trực tuyến, ít nhân sự có trình độ
chuyên sâu. Hoặc nhân viên đang làm ở mảng tiếp thị, bán hàng thì làm luôn tiếp thị
số. Digital Marketing hay E-commerce là các lĩnh vực mới, nhân lực tham gia ngành
đông nhưng kinh nghiệm và chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu và quy trình tuyển dụng.
Nguồn nhân lực Việt Nam phải cạnh tranh với các nước trong khối ASEAN và một số
nước khác đã được đào tạo bài bản về ngành Số hóa và Thương mại điện tử – so ra
chúng ta còn thua kém nhiều. Để tham gia hiệu quả vào lĩnh vực du lịch Tiếp thị số,
nhân viên không chỉ cần có kiến thức và đam mê về lĩnh vực du lịch mà còn phải sở
hữu kỹ năng đọc và viết tiếng Anh thành thạo, kỹ năng về sử dụng công nghệ thông tin
và kỹ năng chăm sóc khách hàng tốt hơn nữa.
7
3. Những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh du
lịch thông minh thời Cách mạng 4.0
Ngày 09/8/2016, tại Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch diễn ra ở Quảng
Nam, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì và giao nhiệm vụ giải quyết
vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch: (1) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
khẩn trương ban hành khung trình độ nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch; công nhận
bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch và thực hiện Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về
nghề du lịch trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN); (2) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đánh giá tổng thể và dự báo nhu
cầu nhân lực các lĩnh vực trong ngành Du lịch, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào
tạo; có biện pháp bổ sung kịp thời số lượng, đảm bảo chất lượng hướng dẫn viên,
thuyết minh viên phục vụ khách du lịch, nhất là các địa bàn trọng điểm thu hút nhiều
khách quốc tế và hướng dẫn viên các ngoại ngữ hiếm; tăng cường giáo dục lý luận
chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử,
văn hoá, ngoại ngữ cho hướng dẫn viên du lịch.
Bên cạnh việc tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, ngành du lịch
Việt Nam cần ưu tiên đầu tư công tác xúc tiến, quảng bá, khẳng định thương hiệu và
hình ảnh điểm đến nước nhà nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường du lịch
thế giới. Công tác xúc tiến thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so
với các nước chung quanh thì còn nhiều hạn chế. Nguồn lực cho lĩnh vực này đã ít lại
bị phân tán, dẫn đến quy mô hoạt động xúc tiến,quảng bá du lịch Việt Nam ở nước
ngoài còn quá nhỏ bé, chưa tạo được sức ảnh hưởng lớn đối với truyền thông và tác
động đến thị trường khách mục tiêu. Do đó, cần tập trung ưu tiên nguồn lực đổi mới
hoạt động xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp, xứng tầm, đúng định hướng thị
trường và hiệu quả, trong đó cần đẩy mạnh quảng bá du lịch Việt Nam tại các thị
trường tiềm năng. Trong lĩnh vực du lịch thì trình độ, kỹ năng, thái độ phục vụ của đội
ngũ quản lý, nhân viên là một trong các yếu tố quyết định đối với sự phát triển của
ngành, vì vậy cần thường xuyên đào tạo, nâng cao nghiệp vụ để trở thành một nguồn
nhân lực chất lượng cao, có chuyên môn sâu và thật sự chuyên nghiệp.
Thứ nhất, để hoàn toàn làm chủ nền khoa học công nghệ tiên tiến, đội ngũ nhân
sự của ngành du lịch Việt Nam cần phải nắm vững các kiến thức và kỹ năng liên quan
đến ứng dụng Cách mạng công nghệ 4.0 vào hoạt động du lịch.
8
Đối với bộ máy quản lý nhà nước, cần tiếp cận những khái niệm về “du lịch
thông minh”, “đô thị thông minh”, “truyền thông đa phương tiện” hay “dữ liệu lớn Big Data” để có thể đưa ra các nhận định, phân tích hiện trạng hoạt động của ngành;
khai thác tối đa tiềm năng, tài nguyên du lịch; dự báo và hoạch định các chính sách,
chiến lược phát triển du lịch cho phù hợp từng đối tượng và hoàn cảnh. Các cơ quan
xúc tiến du lịch hay Trung tâm thông tin du lịch từ cấp trung ương đến địa phương cần
nhạy bén nắm bắt và vận dụng các thành tựu tiến bộ của cuộc Cách mạng 4.0 như
là IoT (Internet kết nối vạn vật), AI (dùng trí tuệ nhân tạo), thực tế ảo, robot, điện toán
đám mây, mạng xã hội, số hóa hay big data để có thể tạo nên nhiều hiệu quả truyền
thông và tiếp cận, tác động đến nhiều đối tượng đa dạng hơn, bao gồm: công tác quảng
bá hình ảnh thương hiệu du lịch Việt Nam, thống kê số lượng khách du lịch, đánh giá
nhu cầu của du khách, xu thế phát triển của khu vực và thế giới; khai thác triệt để thị
trường mục tiêu và thị trường tiềm năng, v.v...
Cụ thể, Nhà nước đã và đang đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, thông
tin cho ngành du lịch thông qua việc xây dựng các cổng thông tin điện tử nhằm quảng
bá các điểm đến, tỉnh thành và di tích văn hóa - lịch sử, danh lam thắng cảnh, cùng với
danh mục cơ sở lưu trú, doanh nghiệp lữ hành, đại lý du lịch, hãng hàng không và các
cơ sở kinh doanh dịch vụ ẩm thực/giải trí; đồng thời hình thành một hệ thống tích hợp
và trao đổi dữ liệu du lịch thông minh của Việt Nam nhằm khai thác hiệu quả, xứng
tầm với nguồn tài nguyên và những tiềm năng to lớn của đất nước. Đồng thời, cổng
thông tin trực tuyến này có thể cung cấp nhiều tính năng giúp các cơ quan quản lý nhà
nước, doanh nghiệp và khách du lịch tăng cường tương tác, nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch, từng bước nâng cao chất lượng,
thương hiệu và hình ảnh du lịch địa phương. Ví dụ như: tính năng thống kê, báo cáo
dữ liệu, thông tin (người dùng, doanh nghiệp, tin tức, sự kiện, hình ảnh…), quản lý
phản hồi, góp ý của du khách về chất lượng dịch vụ du lịch … cho cơ quan quản lý
chuyên ngành và công cụ quản lý chương trình khuyến mãi, đặt chỗ, quảng cáo… cho
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Các giải pháp du lịch thông minh tại Hà Nội được triển khai dựa trên phân tích
hành trình trải nghiệm của du khách, lợi ích của khách du lịch, doanh nghiệp, cơ quan
quản lý nhằm thúc đẩy du lịch phát triển. Các thành phần cơ bản của hệ thống này bao
gồm: cơ sở dữ liệu dùng chung tích hợp vào hệ thống của thành phố và cổng thông tin
9
du lịch Hà Nội; bản đồ số về điểm đến du lịch theo công nghệ GIS và hệ sinh thái các
ý tưởng hỗ trợ như xây dựng phần mềm ứng dụng về du lịch dùng trên thiết bị cầm
tay; phương tiện hỗ trợ truy nhập thông tin cho khách du lịch; phát triển hệ thống wifi
công cộng.
Cùng với Singapore thì Đà Nẵng là một trong hai thành phố đầu tiên tại Đông
Nam Á đưa ứng dụng công nghệ chatbot vào du lịch phục vụ du khách nhân dịp APEC
2017. Đây là sản phẩm được tích hợp trên ứng dụng nhắn tin Facebook Messenger,
giao tiếp được bằng hai ngôn ngữ Anh-Việt và tương thích với các điện thoại sử dụng
hệ điều hành Android, iOS… có kết nối internet thông qua 3G, wifi.
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tổng cục Du lịch đã phối hợp với
Đài truyền hình Việt Nam (VTV) để xây dựng Cổng Thông tin Du Lịch Thông minh –
VTV Travel. Đây sẽ trở thành cuốn “cẩm nang số” về du lịch Việt Nam cho du khách
lịch quốc tế, đồng thời là một kênh thông tin hỗ trợ người Việt Nam khi đi du lịch
nước ngoài. Đặc biệt, hệ sinh thái du lịch liên kết giữa Viettel-VTV với nhiều dịch vụ,
ứng dụng và tiện ích như hệ thống thanh toán, dịch vụ viễn thông và Internet giúp đảm
bảo thông tin liên lạc... đã góp phần làm tăng trải nghiệm của du khách khi đến Việt
Nam cũng như hỗ trợ người Việt khi đi du lịch nước ngoài (thuê bao Viettel được
miễn phí 4G khi truy cập cổng du lịch VTV Travel).
Từ tháng 11/2017, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã tư
vấn và phối hợp Tổng cục Du lịch xây dựng và triển khai Đề án tổng thể ứng dụng
Công nghệ thông tin tiếp cận Cách mạng công nghệ 4.0 trong ngành du lịch, cùng với
kiến trúc tổng thể phát triển Du lịch thông minh. Ngoài ra, hai bên cũng đã xây dựng
và triển khai chương trình hợp tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác
quản lý, điều hành, kết nối thông tin với các địa phương, doanh nghiệp trong phát triển
du lịch; xây dựng, cung cấp công nghệ, kết nối và mở rộng hợp tác với các địa
phương, doanh nghiệp trong phát triển du lịch; xây dựng các sản phẩm công nghệ số
phục vụ khách du lịch. Tập đoàn VNPT đảm nhận cung cấp giải pháp công nghệ và
dịch vụ viễn thông, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du
lịch điện tử (E-Marketing).
Từ những ví dụ nêu trên, cho thấy: để triển khai hiệu quả được các dự án về du
lịch thông minh nêu trên, Nhà nước cũng cần phải chuẩn bị một đội ngũ cán bộ,
chuyên viên am hiểu kiến thức về nền khoa học kỹ thuật hiện đại, có khả năng vận
10
hành máy móc, thiết bị công nghệ cao; đồng thời phải có tác phong làm việc chuyên
nghiệp, biết cách xử lý tình huống và linh hoạt trong công tác chuyên môn. Trong khi
Việt Nam đang nỗ lực thực hiện Chính phủ điện tử, thì ngành du lịch từ trung ương
đến địa phương cũng phải nhanh chóng bắt kịp xu thế để có thể vận hành tốt các trang
tin điện tử hay các phầm mềm ứng dụng để quản lý hoạt động du lịch đang phát triển
mạnh mẽ. Đó chính là yêu cầu đổi mới về phương pháp làm việc đối với bộ máy quản
lý của các cấp bộ, ngành để không còn vướng mắc vì những thủ tục giấy tờ nhiêu khê
và tốn kém thời gian, giảm năng suất, kém hiệu quả như trước đây.
Đối với các doanh nghiệp, Tập đoàn Mobifone đã giới thiệu những dịch vụ viễn
thông và giải pháp công nghệ mới như: “Giám sát hành trình nhân viên (mTracker)”
và “tổng đài chăm sóc khách hàng và bán hàng (Cloud Contact Center – 3C)”. Trong
đó, mTracker là ứng dụng di động trên nền tảng Cloud có thể giúp các doanh nghiệp
du lịch định vị được vị trí hiện tại, giám sát lộ trình hoạt động của nhân viên và quản
lý điểm trên tuyến. Ứng dụng mTracker có thể giúp người quản lý thu được những dữ
liệu giám sát nhân viên theo từng thời điểm đã lên kế hoạch. Giải pháp Cloud Contact
Center cũng có khả năng biến điện thoại di động trở thành tổng đài chăm sóc khách
hàng mà không phụ thuộc mạng wifi, 3G, 4G, hoạt động tốt trong môi trường sóng di
động thông thường. Giải pháp này có thể giúp các doanh nghiệp du lịch tiếp cận khách
hàng bởi nó có thể làm tăng tỷ lệ khách hàng bắt máy, gọi lại với tỷ lệ tới 95%, giảm
hơn 40% chi phí so với sử dụng tổng đài truyền thống2. Doanh nghiệp lữ hành sẽ được
Mobifone miễn phí cài đặt, bảo trì và phí tích hợp đầu số SIP Trunking. Do đó, các
doanh nghiệp lữ hành và công ty du lịch tại Việt Nam cần phải đảm bảo có được một
đội ngũ quản lý có trình độ chuyên môn cao, vừa phải thường xuyên đào tạo, thảo luận
và rèn luyện kỹ năng xử lý big data cho đội ngũ nhân viên của mình. Giờ đây, các
doanh nghiệp lữ hành Việt Nam không thể hoạt động động lập và sử dụng phương
pháp truyền thống theo cảm tính chủ quan nữa mà cần phải thường xuyên cập nhật
kiến thức mới về du lịch thông minh và nền công nghệ số, nghiệp vụ thương mại điện
tử của thị trường du lịch thế giới; tham gia các hội chợ du lịch, hội nghị khách hàng và
các sự kiện trong nước lẫn quốc tế của ngành du lịch; quan sát và theo dõi nhu cầu,
tâm lý của du khách nhằm nắm bắt kịp thời các xu hướng mới “hot trend”, đặc biệt là
2
Theo thông tin của đại diện Tổng đài chăm sóc khách hàng và bán hàng Mobifone
11
khai thác các điểm du lịch mới, để đưa ra những sản phẩm tour mới và cung cấp những
loại hình dịch vụ mới tương xứng tiềm năng và yêu cầu của thị trường.
Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo, bên cạnh việc quan trọng nhất đó là cập
nhật chương trình đào tạo để cung cấp cho cho sinh viên, học viên của mình những
kiến thức phù hợp với bối cảnh phát triển của xã hội và đáp ứng nhu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao thì nhà trường còn phải tiếp cận với các doanh nghiệp để nắm
rõ yêu cầu tuyển dụng, tự đánh giá chất lượng đào tạo và cần có các chủ trương, chính
sách khuyến khích sinh viên, học viên rèn luyện nâng cao năng lực thực hành xã hội.
Các ngành đào tạo về Quản trị dịch vụ du lịch, Hướng dẫn viên hay Quản trị khách
sạn, Quản trị ẩm thực đều cần bám sát các bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia, bộ tiêu chuẩn
VTOS 2013 của dự án EU hay khung tiêu chuẩn nghề ASEAN để xây dựng các môn
học cung cấp khối kiến thức nền tảng vững chắc và giúp sinh viên, học viên rèn luyện
các kỹ năng phù hợp. Các cơ sở giáo dục cũng cần xây dựng chương trình đào tạo theo
mô hình tích hợp CDIO và tham gia các chương trình kiểm định chất lượng của Bộ
Giáo dục và Đào tạo hay Hội đồng Đảm bảo chất lượng của AUN-QA. Bên cạnh đó,
bản thân mỗi sinh viên cũng cần phải tự trau đồi năng lực ngoại ngữ, tin học và tích
cực rèn luyện để có thái độ và tư duy phù hợp với yêu cầu của xã hội thời đại Công
nghiệp 4.0. Ngoài ra, nhà trường cần phải kết nối với các tổ chức chuyên môn trong và
ngoài nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ, tư vấn cho tác phong, kỹ năng nghề nghiệp; đồng
thời tăng cường hợp tác quốc tế, phối hợp nghiên cứu khoa học và giao lưu học thuật,
trao đổi sinh viên và các chương trình hội thảo, workshop, khóa đào tạo ngắn hạn cho
sinh viên với các trường đối tác nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Hai là, nhóm tác giả đề xuất là Việt Nam nên tăng cường tổ chức nhiều hoạt
động liên kết, phối hợp giữa các đơn vị là cơ quan quản lý nhà nước với các hiệp hội
nghề nghiệp như: Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Hiệp hội Du lịch ASEAN
(FATA), Hội đồng Du lịch Quốc tế (World Travel & Tourism Council - WTTC);
khuyến khích tổ chức các diễn dàn, hội thảo, đối thoại hợp tác giữa các doanh nghiệp
lữ hành và cơ sở giáo dục với các bên liên quan, ngay cả việc giao lưu kết nối với các
đối tượng du khách, chuyên gia nghiên cứu và ban biên tập các tạp chí du lịch, v.v...
Các hoạt động thường kỳ như Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF), Hội chợ Du lịch Quốc
tế Việt Nam (VITM), Diễn đàn Du lịch Mekong, Hội chợ Du lịch Quốc tế (ITE), v.v...
đều là cơ hội quý báu để các đơn vị, tổ chức, hội nhóm và các cá nhân có dịp chia sẻ
12
những kiến thức, kỹ năng; thực trạng và giải pháp phát triển ngành du lịch, chuyển
giao công nghệ và hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Để có thể ứng dụng tốt các
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đội ngũ quản lý và phục vụ trong ngành du
lịch cần được tạo điều kiện để được huấn luyện, đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc
biệt là cập nhật với kiến thức nền tảng, công nghệ mới của khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, việc hợp tác liên ngành giữa các lực lượng lao động của ngành du
lịch - khách sạn và công nghệ thông tin, truyền thông cũng đóng vai trò quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng không chỉ cho ngành du lịch nói riêng mà còn góp phần đáp
ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung. Các cơ sở giáo dục - đào tạo,
cần lồng ghép nhiều kỹ năng ngoại ngữ, tin học, truyền thông đa phương tiện để học
viên, sinh viên có thể đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng. Đặc biệt, đội ngũ nhân sự quản
lý của các doanh nghiệp lữ hành và lực lượng lao động lành nghề của các đơn vị nhà
hàng - khách sạn, dịch vụ hàng không và điểm du lịch cũng cần được tạo cơ hội tu
nghiệp, tham quan học tập kinh nghiệm thực tế mô hình hoạt động của các quốc gia
tiên tiến trên thế giới. Qua đó, các đơn vị có thể nâng cao nhận thức cho đội ngũ nhân
sự của mình, tạo động lực, khuyến khích người lao động tích cực đóng góp vào sự phát
triển của đơn vị cũng như sự sự phát triển chung của ngành du lịch nước nhà.
Ba là, ngành du lịch Việt Nam cần tham khảo các mô hình tiến bộ của ngành du
lịch các nước trong khu vực và thế giới như: Thái Lan, Singapore, Malaysia, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Dubai, Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, v.v... về việc đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực du lịch. Tốp 5 quốc gia có nền kinh tế du lịch phát triển nhất năm 2017
(tính theo lượt du khách quốc tế) do Tổ chức Du lịch Quốc tế UNWTO thống kê cho
thấy: Pháp liên tục giữ vị trí đầu bảng với 87 triệu khách, tiếp theo là Mỹ với 82 triệu
khách và Tây Ban Nha xếp thứ ba với 76 triệu khách, sau đó là Trung Quốc (61 triệu)
và Ý (58 triệu). Các quốc gia này đều có tiềm lực kinh tế phát triển hàng đầu khu vực
và dựa vào nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đặc sắc, giá trị cao góp phần phát
triển ngành công nghiệp không khói. Song song đó là chiến lược nhân sự hợp lý và
đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để ngành du lịch có thể đáp ứng
kịp thời với nhu cầu chung của khu vực và quốc tế. Đó là một số bài học kinh nghiệm
cho ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Từ năm 1965 đến nay, Chính phủ Singapore đã xây dựng và thực hiện thành
công 6 kế hoạch phát triển du lịch khác nhau: “Kế hoạch Du lịch Singapore” (năm
13
1968); “Kế hoạch Phát triển du lịch” (năm 1986); “Kế hoạch Phát triển chiến lược”
(năm 1993); “Du lịch 21” (năm 1996); “Du lịch 2015” (năm 2005); “Địa giới du lịch
2020” (năm 2012). Theo đó, “đảo quốc sư tử” này đã cải thiện chất lượng dịch vụ,
nâng cấp hạ tầng cơ sở du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp, đa
dạng các sản phẩm du lịch… Tương tự, Malaysia có “Kế hoạch chuyển đổi du lịch đến
năm 2020”. Trong chiến lược chung của Malaysia về chuyển dịch kinh tế, ngành Du
lịch xây dựng kế hoạch chuyển dịch phát triển du lịch đến năm 2020 tập trung vào thị
trường có khả năng chi trả cao, đẩy mạnh tiêu dùng của khách du lịch. Chính phủ nước
này rất coi trọng công tác quảng bá sản phẩm du lịch trên cơ sở đa dạng sản phẩm thỏa mãn khách hàng. Đồng thời, Chính phủ Malaysia thường xuyên nâng cấp trang
thiết bị cho ngành Du lịch (mỗi năm chi hàng triệu Ringgit cho công tác này) và duy
trì phát triển văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Ở Thái Lan, đội ngũ chuyên
gia và nhân viên làm việc trong ngành Du lịch được đào tạo một cách chuyên nghiệp.
Các hướng dẫn viên du lịch nước này được đào tạo ngoại ngữ một cách bài bản, một
hướng dẫn viên du lịch người Thái Lan thường biết 3 ngoại ngữ. Chính phủ Trung
Quốc xác định du lịch là một trong những trọng điểm tăng trưởng kinh tế mới; là một
ngành kinh tế trọng điểm, trụ cột cần ưu tiên đầu tư phát triển. Để quản lý và phát triển
tốt ngành du lịch, các chính sách về du lịch của Trung Quốc không ngừng được ban
hành, điều chỉnh và hoàn thiện. Trong quá trình phát triển ngành du lịch, Trung Quốc
chủ yếu phát triển mô hình nhà nước và lấy đó làm chủ đạo với hai nội dung chính:
một là Nhà nước và các địa phương dựa vào bộ máy quản lý hành chính quản lý du
lịch là chủ yếu để chỉ đạo phương hướng, chính sách phát triển của các doanh nghiệp
du lịch, tổ chức và tuyên truyền xúc tiến, quản lý thị trường; hai là phát huy tính chủ
động tích cực của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh trong việc phối hợp các
lực lượng, phát triển mạnh du lịch các địa phương.
Tóm lại, việc phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam không chỉ đơn giản là
từ góc nhìn của bộ phận quản lý đào tạo hay các cấp có thẩm quyền của Chính phủ, mà
cũng không phải là trách nhiệm riêng của các doanh nghiệp hay cơ sở giáo dục mà nó
còn đòi hỏi sự nhất quán trong cả một hệ thống các bên liên quan, với những nỗ lực và
quyết tâm cao nhất để tạo nên một sức mạnh đoàn kết và hiệu quả.
14
4. Kết luận
Ngành Du lịch Việt Nam đã xác định phương hướng và mục tiêu phát triển
nhân lực giai đoạn 2011 – 2020 là: “Xây dựng lực lượng lao động ngành Du lịch đủ về
số lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ
đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội nhập khu vực, góp
phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch”. Trong điều kiện các ngành kinh tế khác
còn khó khăn và hạn chế trong cạnh tranh với các nước, du lịch hoàn toàn có thể đóng
vai trò dẫn dắt nền kinh tế, tạo được thế mạnh trong cạnh tranh quốc gia. Việt Nam
hiện là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN và
tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), biết tranh thủ lợi thế cạnh
tranh để ngành du lịch thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng
trong thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy quá trình hội nhập và khẳng định
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các cơ quan quản lý du lịch cần hợp tác với
các tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp nhằm bảo đảm các lợi ích kinh tế, xã hội cho tất
cả mọi người dân về việc làm ổn định, cơ hội tăng thu nhập, góp phần gìn giữ các giá
trị văn hóa và khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch của quốc gia cũng như ứng dụng
khoa học công nghệ vào sứ mệnh phát triển du lịch bền vững. Mô hình liên kết đào tạo
nhà trường - doanh nghiệp - nhà nước - hiệp hội trước mắt có thể xem là giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ nhân sự ngành du lịch. Hoạt động hợp tác quốc
tế và phối hợp đào tạo liên ngành sẽ giúp cho ngành du lịch phát triển bền vững, học
hỏi tiếp thu và chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các quốc gia phát triển sẽ giúp cho
ngành du lịch Việt Nam bắt kịp xu thế, đáp ứng yêu cầu của thời đại toàn cầu hóa, hội
nhập khu vực và xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
-----------------
15
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị (2017). Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
2. Đào Anh Tuấn (2008). Công tác tuyên truyền quảng bá Du lịch Việt Nam. Tạp chí
Du lịch Việt Nam số 11.
3. Đoàn Mạnh Cương (2019). Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong
bối cảnh hội nhập quốc tế. Trang tin điện tử Tổng cục Du lịch Việt Nam.
http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/28647
4. Đoàn Thị Trang (2017). Bài học từ phát triển kinh tế du lịch ở một số nước. Tạp chí
Tài chính kỳ 1, số tháng 3/2017.
5. Hồng Nhung (2018). Du lịch tận dụng cơ hội bứt phá từ Cách mạng Công nghiệp
4.0. Trang tin điện tử Tổng cục Du lịch Việt Nam.
http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/27830
6. Lê Anh Tuấn (2015). Một số bàn luận về định hướng và giải pháp đối với đào tạo
nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hiện nay.
http://vitea.vn/nguon-nhan-luc-du-lich-dinh-huong-va-giai-phap/
7. Lê Văn Thông (2018). Đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu hội
nhập cộng đồng kinh tế ASEAN. Tạp chí Công Thương số
8. Nguyễn Văn Lưu (2013). Du lịch Việt Nam hội nhập trong ASEAN. NXB. Văn hóa
Thông tin. Hà Nội.
9. Phạm Trung Lương (2016). Đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối
cảnh hội nhập. Kỷ yếu Hội thảo Brexit và cộng đồng kinh tế ASEAN dưới góc nhìn
hội nhập. Trường Đại học Văn Hiến. Trang 89-91.
10. Thủ tướng Chính phủ (2013). Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
16