Academia.eduAcademia.edu
ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HỌC SINH THPT I. THỜI KỲ TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG TOÀN BỘ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN 1. Mục tiêu Hoạt động này giúp người học nắm được những đặc điểm tính chất của các mối quan hệ tạo ra hoàn cảnh xã hội cho sự phát triển tâm lý ở tuổi học sinh Trung học phổ thông người học có thể hiểu được vị trí của giai đoạn lứa tuổi trung học phổ thông bối cảnh xã hội các yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến tâm lý của của lứa tuổi này từ đó có được những định hướng cho việc tiếp cận và tìm hiểu tâm lý của học sinh Trung học phổ thông Test đầu vào Hoạt động này được bắt đầu với việc học viên nhớ lại và kể tên các giai đoạn trong toàn bộ quá trình phát triển tâm lý của cá nhân 1. Theo sự phân chia của tâm lý học toàn bộ quá trình phát triển tâm lý cá nhân được chia thành bao nhiêu thời kỳ, tên gọi của mỗi thời kỳ? 2. Tên gọi của mỗi thời kỳ có thể gợi ý những điều gì về đặc điểm tâm lý nổi bật của mỗi lứa tuổi? 2. Nội Dung Tâm lý học phân chia toàn bộ quá trình phát triển tâm lý cá nhân thành các thời kỳ (hay các giai đoạn) mỗi giai đoạn được xác định bởi các dấu mốc tương đối về thời gian. có nhiều cách phân chia các thời kỳ tùy thuộc vào các tiêu chí của mỗi tác giả, tuy nhiên hiện nay một cách phân chia được chấp nhận rộng rãi như sau: - Tuổi Hài nhi: từ 0 đến 1 - Tuổi Ấu nhi: từ 1 đến 3 - Tuổi Mẫu giáo: từ 3 đến 6 - Tuổi Nhi đồng: từ 6 đến 11 12 - Tuổi thiếu niên: 11 12 đến 13 14 - Tuổi thanh niên: 14 15 đến 25 - Tuổi trưởng thành: từ 25 đến 40 Điểm phân biệt về bản chất giữa các giai đoạn chính là những đặc trưng tâm lý phổ biến ở độ tuổi đó được hình thành cơ sở hoạt động chủ đạo Hoạt động 1. Xác định giới hạn độ tuổi trung học phổ thông 1. Theo nhận định của tâm lý học, tuổi học sinh Trung học phổ thông trùng với độ tuổi nào? 2. Dấu mốc về thời gian của tuổi học sinh Trung học phổ thông? Thông Tin Phản Hồi Dựa trên các giai đoạn tuổi nêu ở phần trên, có những cách xác định tuổi trung học phổ thông khác nhau: Tuổi vị thành niên bao hàm cả tuổi thiếu niên và tuổi đầu thanh niên: từ 10, 12 đến 19 tuổi. Như vậy, theo cách phân định này, tuổi trung học phổ thông nằm trong độ tuổi vị thành niên và là giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên. Thái độ cần phải có ở phụ huynh trong ứng xử với con ở độ tuổi trung học phổ thông: 3. Quan hệ của học sinh Trung học phổ thông với bạn bè có điểm gì nổi bật? giáo viên cần có thái độ như thế nào với các nhóm bạn của học sinh Trung học phổ thông? Đặc điểm nổi bật trong quan hệ với bạn bè của học sinh Trung học phổ thông: Thái độ của giáo viên đối với những nhóm bạn của bạn học sinh Trung học phổ thông: 4. Quan hệ xã hội của học sinh Trung học phổ thông có điểm gì nổi bật? Học sinh Trung học phổ thông có khả năng nhận biết các quan hệ xã hội của bản thân không? Thông Tin Phản Hồi Khái niệm hoàn cảnh xã hội của sự phát triển: Hoàn cảnh xã hội của sự phát triển được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ và tính chất các mối quan hệ mà trẻ tham gia vào những tính chất của sự tương tác giữa trẻ với các quan hệ xã hội đó. Hoàn cảnh xã hội của sự phát triển, do vậy, không chỉ được hiểu đơn giản là các điều kiện ngoài thể hiện trong các mối quan hệ xã hội và sự tác động của các yếu tố bên ngoài mà phải hiểu là sự tác động của các điều kiện bên ngoài thông qua các thuộc tính tâm lý bên trong xuất hiện đó, bao gồm cả các đặc điểm lứa tuổi và sự tác động của chủ thể với các điều kiện đó. Mở các thời kỳ phát triển lứa tuổi, hoàn cảnh xã hội của sự phát triển được thể hiện ở các mối quan hệ và tính chất các mối quan hệ cơ bản của cá nhân: quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, quan hệ giáo viên, quan hệ xã hội. Đặc biệt cần chú ý tới sự tương tác của học sinh trong những mối quan hệ này. Thông qua sự tương tác của học sinh với các chủ thể khác trong mối quan hệ đó mà hoàn cảnh xã hội có thể tác động theo các chiều hướng khác nhau đối với sự phát triển tâm lý của học sinh: tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển tập làm phát sinh các trở ngại đối với sự phát triển. Đặc trưng lớn nhất của hoàn cảnh xã hội của sự phát triển của lứa tuổi học sinh Trung học phổ thônglà các quan hệ có tính mở và sự chuyển đổi vai trò vị thế xã hội. Đặc trưng này được thể hiện cụ thể như sau: Ở lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông, các mối quan hệ tích tính mâu thuẫn hơn so với độ tổ chức đó. quan hệ với cha mẹ, thầy cô, bạn bè đã trở nên thuận lợi hơn do sự trưởng thành nhất định trong nhận thức của học sinh và sự thay đổi trong cách nhìn nhận của người lớn. tuy vậy, tính chất Cách xác định về quan hệ xã hội vẫn còn. Một mặt học sinh đã có những sự độc lập nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử, mặt khác học sinh lại chưa có được sự độc lập về kinh tế do vẫn phụ thuộc vào gia đình. Quan hệ với phụ huynh, trong gia đình học sinh có thể có được quan hệ tương đối dân chủ hơn, được tôn trọng và lắng nghe. Học sinh có thể tự quyết định một số vấn đề của bản thân hoặc được tham gia vào việc ra các quyết định đó như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Việc can thiệp trực tiếp theo kiểu ra lệnh, ép buộc của cha mẹ với trẻ không phù hợp và cũng không có hiệu quả nữa. Gần đây có sự kiện học sinh Trung học phổ thông tự tử vì cha mẹ ép buộc lựa chọn nghề em không yêu thích. Điều này cho thấy nhu cầu được thực hiện các mong muốn, quyết định của bản thân ở học sinh Trung học phổ thông rất mạnh, người lớn cần hiểu điều này để có thể ứng xử phù hợp. Sự tôn trọng và trò chuyện của phụ huynh với học sinhcó thể tạo được mối quan hệ tốt giữa cha mẹ và con cái. Sự tin cậy, thẳng thắn từ phụ huynh giúp các em có thể nhanh chóng trưởng thành theo chiều hướng tích cực. Mức độ đồng nhất hóa của học sinh với cha mẹ ở tuổi này thấp hơn ở trẻ nhỏ. Nói đơn giản, tấm gương của cha mẹ không được chấp nhận một cách tuyệt đối và không phê phán như ở trẻ nhỏ. Học sinh đã có khả năng nhất định trong việc nhìn nhận đánh giá hành vi của cha mẹ và đôi khi có thể bộc lộ thái độ phê phán một số hành vi nào đó. Do vậy, việc phụ huynh áp đặt các hành vi và cách suy nghĩ của mình có thể gây ra phản ứng của các em. Học sinh lớn chủ yếu mong muốn cha mẹ là những người bạn, người cố vấn bên cạnh mong muốn và xu hướng tự lập học sinh vẫn rất cần đến những kinh nghiệm sống và sự giúp đỡ của người lớn. Những người cha mẹ tốt vẫn là những khuôn mẫu hành vi quan trọng đối với trẻ. Nếu thiếu sự định hướng và những khuôn mẫu hành vi từ phía cha mẹ, các em có thể tìm kiếm các khuôn mẫu khác ngoài môi trường gia đình để làm theo bởi các mối quan hệ xã hội và khả năng tiếp xúc với những người khác đã mở rộng hơn. Trong quan hệ với bạn bè, học sinh Trung học phổ thông có thể tham gia vào nhiều nhóm bạn đa dạng hơn. Nhóm bạn có các định hướng giá trị rõ rệt hơn và có điều kiện tồn tại lâu dài hơn, đặc điểm này không rõ học sinh Trung học cơ sở. Học sinh trung học phổ thông có thể vừa tham gia vào các nhóm có tổ chức như lớp học, chi đoàn và tham gia vào các nhóm bạn bè tự phát, trong đó có những nhóm thường xuyên, ổn định và các nhóm tạm thời tình huống. Các nhóm thường xuyên có sự phân hóa vai trò ổn định hơn và một số trường hợp có sự gắn kết rất mạnh, các nhóm này hình thành do nhiều lý do, tuy nhiên lý do lớn nhất là sự thân thiện, chia sẻ và đồng cảm lẫn nhau. Yếu tố vị thế trong nhóm có ảnh hưởng nhiều đến học sinh. Vị thế không thuận lợi trong các nhóm có tổ chức (không được bạn thừa nhận, không có điều kiện để thể hiện bản thân) dễ làm các em rơi vào vòng ảnh hưởng xấu từ các nhóm ở bên ngoài. Một trong số các nguyên nhân dẫn tới việc học sinh tham gia vào các nhóm bên ngoài là nhớ được tổ chức một cách chính thức trong nhà trường không đủ sức hấp dẫn và không giúp thỏa mãn các nhu cầu tâm lý xã hội của học sinh. Do vậy, tổ chức các hoạt động cho học sinh có hiệu quả chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của người làm công tác giáo dục. Trong các nhóm bạn, nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu lớn của thanh niên học sinh. Khi mà các hình thành tổ chức giao tiếp trong nhà trường khá hạn chế thì nhóm bạn là nơi có được sự thu hút rất lớn đối với học sinh thanh niên. Ở đây, học sinh có thể bày tỏ thoải mái các ý tưởng của mình, chia sẻ các vấn đề học sinh quan tâm… gặp gỡ, tiếp xúc có thể đem lại những cảm xúc tích cực ở thanh niên. Trong xã hội hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc tham gia vào các nhóm riêng trên mạng trở nên rất phổ biến. Đây là một môi trường nhóm hết sức phức tạp với những ưu thế vượt trội so với các nhóm tồn tại thật xung quanh học sinh như tính mở của nhóm, tính độc lập của các thành viên, tin đa chiều của các quan điểm, sự tự do bày tỏ suy nghĩ… bên cạnh đó, các nhóm ảo cũng chứa đựng nhiều thách thức rủi ro chưa thể hình dung trước với học sinh. Việc tham gia vào các nhóm tự phát đôi khi có thể hiện tính hiện đại của thanh niên. Sự tôn sùng một kiểu ăn mặc, một phong cách của nhóm thanh niên cho họ cảm giác họ thuộc về một nhóm nổi bật so với những cá nhân riêng lẻ. Trong các nhóm bạn bè, nhu cầu tạo sự khác biệt rất lớn và được bộc lộ rõ ràng. Một nhóm học sinh muốn mình khác biệt với người lớn, muốn mình khác với các nhóm bạn khác có thể hình thành mốt chung, một thần tượng chung, một cách sử dụng ngôn ngữ chung. Những điều này làm cho học sinh được nhìn nhận không thiện cảm từ phía người lớn. Tuy vậy, tạo ra cái gì đó của mình khác với người trưởng thành là nhu cầu bên trong của thanh niên, việc dẹp bỏ chúng là không hợp quy luật. Chính vì vậy, quan hệ bạn bè, nhóm có thể ảnh hưởng rất mạnh đến tâm lý của học sinh Các quan hệ xã hội, học sinh Trung học phổ thông có điều kiện để tham gia vào nhiều quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp hơn. Xuất hiện nhiều vai trò xã hội mới mà trước đây các em chưa có. Học sinh đang trở thành một công dân, có các quyền và nghĩa vụ nhất định, phải chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân. Vị trí xã hội của học sinh Trung học phổ thông không đồng nhất. giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (14, 15 đến 18) còn được gọi là giai đoạn cuối của quá trình “xã hội hóa ban đầu”. Đại đa số thanh niên còn là học sinh. Như vậy, tính mở trong hoàn cảnh xã hội tạo điều kiện cho sự mở rộng và thay đổi tính chất của các mối quan hệ. Đây là điều kiện tương đối thuận lợi cho sự phát triển của học sinh, nó cho phép học sinh có thể bộc lộ tính tích cực cao, bộc lộ những cái riêng của bản thân. Nhưng hoàn cảnh xã hội này cũng tiềm ẩn những thách thức và rủi ro nhất định đối với học sinh. Hoạt động 3: Các dạng hoạt động học tập xã hội 1. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh Trung học phổ thông như thế nào? 2. Đặc điểm hoạt động xã hội của học sinh Trung học phổ thông như thế nào? Thông Tin Phản Hồi Tuổi học sinh Trung học phổ thông hoạt động học tập có những điểm khác biệt cơ bản của hoạt động học tập ở tuổi thiếu niên. Hoạt động học tập có động cơ gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Học sinh cũng có ý thức rõ hơn về động cơ học tập của bản thân, điều này là tính thực dụng của việc học tập cũng rõ nét hơn. Học sinh có xu hướng bỏ qua, ít quan tâm đến các môn học không phục vụ trực tiếp cho mục đích thi vào các trường cao đẳng, đại học. Do vậy, việc ít chú ý đến các môn học này hay môn học khác không hẳn là sự coi thường thầy cô hay coi thường môn học mà đơn giản là sự lựa chọn mang tính thực dụng của học sinh. Đặc điểm này có thể coi là đặc điểm mang tính lịch sử trong toàn bộ lịch sử đường đời của mỗi cá nhân, nhìn rộng hơn hiện tượng này là sự phản ánh của xã hội. Đây là điều khó có thể khắc phục bằng cách thu phục hay cổ vũ chung chung mà phải có sự điều chỉnh mang tính hệ thống. Bên cạnh hoạt động học tập, hoạt động xã hội của công dân có vai trò lớn hơn. Học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội như là biểu hiện về sự trưởng thành dần về nhân cách công dân. Đây là hoạt động có nhiều ý nghĩa, một mặt giúp cho học sinh có sự trưởng thành về ý thức công dân, mặt khác giúp học sinh thể hiện được các quan điểm, thái độ của bản thân trước các vấn đề xã hội. Gần đây những hoạt động ủng hộ Trường Sa trên mạng, các hoạt động bảo vệ môi trường thể hiện rất rõ điều này. Tạo điều kiện, khuyến khích các hoạt động xã hội tích cực chính là cách thức quan trọng để phát triển và hình thành nhân cách lành mạnh cho học sinh. Hoạt động 4. Ý nghĩa của giai đoạn Trung học phổ thông trong toàn bộ cuộc đời của cá nhân. Nêu cách khái quát ý nghĩa của giai đoạn tuổi trung học phổ thông trong toàn bộ cuộc đời của cá nhân. Thông Tin Phản Hồi Giai đoạn này có sự trùng khớp giữa sự phát triển cá thể và giai đoạn đường đời. Sự phát triển cơ thể (sinh học) đạt tới mức trưởng thành, trong khi sự trưởng thành và xã hội- nhân cách đòi hỏi phải có thêm thời gian. Sự trùng khớp này cũng làm việc này sinh một số vấn đề như tồn tại một số các hành vi chưa phù hợp với các chuẩn mực xã hội ở học sinh. Học sinh chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của bản thân, việc chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội còn hạn chế. Học sinh ở lứa tuổi này đứng trước một quyết định quan trọng của cuộc đời: lựa chọn nghề nghiệp tương lai, đây là thử thách lớn. Tính dị thời trong lứa tuổi quá độ có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn cơ bản trong tâm lý của thanh niên. Tuổi đầu thanh niên là tuổi của những người đã lớn nhưng chưa thành người lớn, những người thu nhận nhiều thông tin nhưng chưa phải là người uyên bác, những người đam mê nhưng chưa phải là say mê, đây là đặc điểm lứa tuổi của thanh niên mới lớn. Hãy xác định sự khác biệt của học sinh Trung học phổ thông hiện nay và thế hệ các anh chị khi anh chị ở vào độ tuổi đó. Giải thích tại sao có sự khác biệt đó? II. NHẬN THỨC VÀ TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.Mục tiêu Hoạt động này giúp người học nắm được những quan điểm khác nhau về trí tuệ, xác định được sự phát triển nhận thức của học sinh, từ đó có định hướng thích hợp cho việc dạy học, phát triển năng lực cho học sinh, định hướng cho học sinh chọn nghề. Test đầu vào 1. Từ kinh nghiệm dạy học của bản thân, hãy cho biết anh chị thường xác định trình độ nhận thức của học sinh bằng cách nào? Theo tiêu chí nào? 2. Anh (chị) thường quan tâm đến các năng lực trí tuệ nào của học sinh trong môn học mà mình dạy? Tại sao phải quan tâm đến các năng lực trí tuệ đó? Vai trò của dạy học đối với sự phát triển trí tuệ đã được thừa nhận rộng rãi trong khoa học giáo dục. Hình thức, tính chất, phương pháp tổ chức dạy học có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ. Cùng với sự phát triển của khoa học tâm lý, khái niệm trí tuệ đã có nhiều thay đổi, các định dạng trí tuệ ngày càng đa dạng hơn. Do vậy, việc dạy học nhằm thúc đẩy sự phát triển các năng lực trí tuệ và nhận thức của học sinh cũng dần thay đổi theo. Hoạt động 1. Nhận biết các kiểu trí tuệ, các giai đoạn phát triển trí tuệ. Trong sách báo, cuộc sống hàng ngày, người ta thường nói đến trí tuệ. Vậy trí tuệ là gì? các giai đoạn phát triển trí tuệ? Học sinh nằm trong giai đoạn nào của sự phát triển trí tuệ? Thông Tin Phản Hồi Có nhiều cách hiểu về trí tuệ trong tâm lý học: Truyền thống: Trí tuệ là tư duy lôgic. Trí tuệ là khả năng học tập tốt, thể hiện ở kết quả học tập. Trí tuệ là khả năng thích ứng chung nhất của cá nhân với các điều kiện sống thay đổi Hiện nay, trong tâm lý học, lý thuyết đa trí tuệ được quan tâm và được coi là cách hiệu đầy đủ hơn và bao quát hơn về trí tuệ. Lý thuyết này cho rằng có thể có nhiều tí thể khác nhau: trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ lôgic, trí tuệ không gian, trí tuệ vận động, trí tuệ tương tác, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ nội tâm. Mỗi cá nhân có một kiểu trí tuệ nào đó so với các kiểu trí tuệ khác. Nhờ đó, các cá nhân có thể có khả năng hoạt động và thành công ở các lĩnh vực không giống nhau. Cách hiểu này về trí tuệ cho phép nhìn nhận các năng lực đa dạng của con người, cung cấp một cách hiểu và tiếp cận nhân văn, từ đó là các tác động đa dạng kích thích sự phát triển độc đáo của mỗi cá nhân. Như vậy, người giáo viên cần có cách nhìn nhận hợp lý, từ đó xác định và giúp học sinh có thể xác định được kiểu trí tuệ nổi trội của mình. Đây là cơ sở cho hàng loạt các định hướng thực tiễn như lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện và phát triển khả năng riêng cho học sinh. Các giai đoạn phát triển trí tuệ cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Một quan điểm khá phổ biến là quan điểm của Piaget với các giai đoạn sau: - Giác động: từ 0 đến 2 tuổi - Tiền thao tác: từ 2 đến 6 tuổi - Thao tác cụ thể từ 6 11, 12 tuổi. - Thao tác hình thức: 11, 12 đến 14, 15 tuổi. - Học sinh Trung học phổ thông có sự phát triển trí tuệ ở giai đoạn sau thao tác hình thức- loại trí tuệ được coi là ngang bằng với người lớn. Hoạt động 2. Đặc điểm nhận thức và phát triển trí tuệ của học sinh Trung học phổ thông. Nêu những đặc điểm nổi bật về nhận thức và trí tuệ của học sinh Trung học phổ thông. Những đặc điểm đó có liên quan gì đến hoạt động dạy học? Thông Tin Phản Hồi Nhận thức của học sinh Trung học phổ thông có nhiều đặc điểm nổi bật: Phạm vi nhận thức rộng hơn rất nhiều, học sinh quan tâm nhiều đến các vấn đề ngoài nội dung học tập, các vấn đề xã hội, các vấn đề tự nhiên. Tuy vậy, nhận thức còn tản mạn ít hệ thống. Hệ thống các tri thức, hiểu biết rộng hơn và phong phú hơn. Tính độc lập, sáng tạo thể hiện rõ nét. Học sinh có thể nhìn nhận, đánh giá, phê phán một vấn đề từ những góc độ khác nhau. Học sinh cũng đã có khả năng phát hiện ra các vấn đề cần giải quyết. Học sinh có thể tỏ ra nghi ngờ về tính chất đầy đủ và đúng đắn của các lời giải thích. Trong thời gian gần đây, một số học sinh Trung học phổ thông đã tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, tạo ra các sáng chế có ích cho cuộc sống. Sự phân hóa hứng thú nhận thức rõ nét ổn định hơn. Hứng thú có tính ổn định và sâu sắc hơn trong vai trò quan trọng Trong việc thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh, giúp học sinh có được sự bền bỉ, say sưa và khả năng vượt qua những khó khăn trong học tập. Sự khác biệt cá nhân trong trình độ, năng lực và khuynh hướng nhận thức rất rõ. Một số học sinh trung học phổ thông hứng thú với các môn khoa học xã hội, số học sinh khác ham thích môn khoa học tự nhiên, số khác cho rằng những môn học trong nhà trường buồn tẻ và kém thú vị so với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Số khác nữa thể hiện sự lãnh đạm, chán nản với học tập. Sự phát triển trí tuệ đã đạt đến mức cao, một số nhà nghiên cứu cho rằng, về cơ bản, trí tuệ của học sinh Trung học phổ thông nhanh bằng với người lớn trên phương diện thao tác. Các thao tác trí tuệ như so sánh, phân tích, tổng hợp, đặc biệt là thao tác trừu tượng hóa và khái quát hóa ở mức cao. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng năng lực phát hiện và đặt vấn đề của học sinh Trung học phổ thông còn chưa phát triển đầy đủ. Sự phát triển trí tuệ liên quan chặt chẽ với năng lực sáng tạo. Năng lực này thể hiện ở chỗ học sinh không chỉ lĩnh hội thông tin mà còn phải tạo ra cái mới nào đó, năng lực sáng tạo hình thành muộn hơn so với sự phát triển trí tuệ nói chung. Khi học sinh có thể có được khối lượng lớn kiến thức kinh nghiệm sống và các phẩm chất khác. Tuy nhiên, ở độ tuổi này học sinh đã bắt đầu và chạm với nhiều vấn đề của cuộc sống thực tiễn khi những tiềm năng sáng tạo bắt đầu được kích hoạt. Sở dĩ có thể nói tiềm năng sáng tạo ở lứa tuổi này được kích hoạt bởi lẽ các vấn đề, các mâu thuẫn đa dạng trong cuộc sống cho phép có thể có nhiều câu trả lời đúng, đây là đặc trưng của tư duy phân kì (một bộ phận quan trọng của năng lực sáng tạo), chứ không phải chỉ có một câu trả lời duy nhất. Sự phát triển nhận thức và trí tuệ không giống nhau ở mỗi cá nhân. Đặc biệt tính chất của sự phát triển đó phụ thuộc nhiều vào cách dạy học. Dạy học có thể quyết định mạnh mẽ đến sự phát triển trí tuệ và nhận thức. Thực hành hoạt động 2 Xác định những học sinh có khó khăn trong học tập môn học của bạn. Giải thích nguyên nhân có thể liên quan đến mặt nhận thức của học sinh. Hãy nhận diện và phân loại học sinh trên cơ sở các kiểu trí tuệ đã được trình bày? III. ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM- Ý CHÍ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Mục tiêu Hoạt động này giúp người học nắm được những đặc trưng trong đời sống tình cảm, ý chí của học sinh Trung học phổ thông, hiểu được những nét cơ bản trong những chuyện tình cảm phức tạp và mới lạ xuất hiện ở Học sinh trung học phổ thông: tình bạn, tình yêu, các tình cảm cấp cao... Từ đó có thái độ và cách ứng xử đúng đối với học sinh. Test đầu vào Hãy quan sát, suy ngẫm và chia sẻ xúc cảm, tình cảm của những học sinh khác nhau: sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các xúc cảm, sự khác biệt rõ nét ở các cá nhân, hãy tìm những ví dụ về các hành vi thể hiện nghị lực, ý chí, mục đích sống của học sinh. Hoạt động 1. Tình cảm học sinh Trung học phổ thông: một số tình cảm cấp cao (tình cảm thẩm mỹ, tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ) như tình bạn, tình yêu. Đời sống tình cảm của học sinh Trung học phổ thông khá phức tạp, ảnh hưởng đến học tập và cuộc sống tinh thần của các em. Bạn hãy cho biết thái độ của mình về một số hiện tượng trong đời sống tình cảm của học sinh? THÔNG TIN PHẢN HỒI Đời sống tình cảm của học sinh Trung học phổ thông đã đạt tới mức độ cao với các đặc điểm nổi bật: So với lứa tuổi thiếu niên, các xúc cảm ở lứa tuổi thanh niên có tính phân hóa sâu, tính tự chủ và được điều chỉnh tốt hơn. Ở lứa tuổi thiếu niên, do các tác động của sự phát triển sinh lý thiếu niên có xu hướng tăng hưng phấn nhẹ, căng thẳng xúc cảm đạt tới đỉnh điểm vào khoảng 14, 15 tuổi. Xu hướng này bắt đầu giảm đi khi bước vào tuổi trung học phổ thông. Sự bộc lộ của tính xã hội trong các xúc cảm ngày càng rõ nét hơn so với tính sinh học. Những xúc cảm ở cá nhân có sự phân hóa rõ rệt về phạm vi, đối tượng cường độ. Có những học sinh Trung học phổ thông có thể dễ rung cảm trước các hành vi đạo đức của người khác, số khác lại có thể dửng dưng. Một số học sinh có các trải nghiệm sâu sắc về các sự kiện xung quanh, số khác không để tâm tới bất kỳ điều gì liên quan đến bản thân. Sự phân hóa xúc cảm lúc này là kết quả của các điều kiện giáo dục từ trước đó. Các tình cảm cấp cao là những tình cảm liên quan đến các nhu cầu tinh thần của con người như tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, … được bộc lộ một cách rõ ràng. Một học sinh lớn vi phạm những chuẩn mực JL;J;hành vi của bản thân đã chấp nhận sẽ gây ra sự cắn rứt, cảm giác lỗi lầm. Có sự mở rộng rõ rệt phạm vi của tình cảm thẩm mỹ. Học sinh Trung học phổ thông có thể bảo vệ một cách mạnh mẽ thái độ của mình đối với việc lựa chọn cách ăn mặc gu thẩm mỹ. Các em cũng sẵn sàng bộc lộ thái độ với các hành vi đạo đức của người khác, đôi khi một cách thái quá. Đặc biệt, học sinh Trung học phổ thông rất nhạy cảm với sự tương phản, với cái mới. Ở độ tuổi học sinh Trung học phổ thông, cùng với sự phát triển của trí tuệ, đặc biệt là tính phê phán của tư duy, óc hài hước, chấm bíếm, mỉa mai bộc lộ rõ nét. Những biểu hiện của sự châm biếm ở đây cần được nhìn nhận như là hiện tượng bình thường chứ không nên vội vàng quy kết như là một vấn đề đạo đức. Học sinh cũng có sự nhận biết về các nội dung tình cảm của mình rõ ràng hơn. Học sinh say sưa học tập, tìm kiếm tri thức. Các em có thể giải thích khá rõ tại sao các em thực hiện những việc như vậy, điều gì đem lại cho các em các tình cảm mạnh mẽ. Ở một số học sinh, sự tò mò ngây thơ đã chuyển thành sự ham muốn sáng tạo. Sự phát triển tình cảm không diễn ra một cách đơn giản theo một đường thẳng, mỗi cá nhân sẽ có một sự phát triển tình cảm khác nhau phụ thuộc rất lớn vào các đặc điểm và thuộc tính khác của nhân cách. Tình bạn: Tình bạn là một dạng quan trọng nhất của sự gắn bó xúc cảm và quan hệ liên nhân cách ở tuổi thanh niên. Tình bạn ở tuổi trung học phổ thông phát triển mạnh ở cả 3 dấu hiệu: mức độ lựa chọn, độ bền vững và độ thân. Các quan hệ bạn bè càng được lựa chọn bao nhiêu thì càng bền vững bấy nhiêu. Tình bạn của học sinh Trung học phổ thông không đơn giản là cùng tính cách, cùng thói quen hay sở thích mà đã có những cơ sở tâm lý sâu sắc hơn, đó là sự tương đồng về các định hướng giá trị sống, tương đồng mục đích sống và sự tương đồng hoàn cảnh sống. Dễ dàng nhận thấy các nhóm bộ tam, bộ tứ và diện mạo tâm lý của các nhóm đó. Có những nhóm động viên giúp đỡ học tập, lại có những nhóm khác theo đuổi sự sành điệu thể hiện đẳng cấp. Đằng sau sự tương đồng đó chính là nhận thức của học sinh về các giá trị mà học sinh theo đuổi, vì thế việc tìm kiếm và kết bạn khó hơn nhưng khi đã kết bạn thì sự ổn định và bền vững của tình bạn cao hơn so với lứa tuổi thiếu niên. Tình bạn học sinh Trung học phổ thông có thể đi suốt cả cuộc đời. Tình bạn chiếm một vị trí ưu tiên trong các quan hệ gắn bó ở tuổi thanh niên. Tuổi thanh niên được coi là tuổi dành cho tình bạn. Học sinh tìm kiếm và khao khát tình bạn chân chính. Hồi tưởng về tuổi thanh niên học sinh của những người đã trưởng thành, không phải ngẫu nhiên nhắc nhiều đến bạn bè chứ không phải gia đình. Mặc dù có thể xuất hiện tình yêu từ tình bạn, tình bạn có thể làm nảy nở tình yêu học sinh Trung học phổ thông nhưng không phải tình yêu mà tình bạn mới là chủ đạo trong đời sống của học sinh Trung học phổ thông. Tình Yêu Đây là dạng tình cảm nam nữ lần đầu xuất hiện đúng nghĩa của nó ở lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông. Từ trước đó, khi bước vào tuổi dậy thì, học sinh Trung học cơ sở đã có những trải nghiệm, rung cảm đối với bạn khác giới nhưng tính xã hội và độ ổn định rõ ràng của các trải nghiệm tình yêu chưa có. Học sinh Trung học cơ sở có thể đơn giản thấy thích một bạn khác giới, để ý đến bạn đó và rồi xúc cảm đó có thể qua nhanh. Tình yêu ở tuổi trung học phổ thông là một tất yếu của sự phát triển cả về cơ thể, thể chất, cả về xã hội. Nó xuất hiện trên nền tảng nhu cầu được chia sẻ, được quan tâm, thương yêu người khác, được người khác quan tâm và cả sự cuốn hút về thể chất. Tính chất của tình yêu và cách thức ứng xử của học sinh đang yêu phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh xã hội mà học sinh đang sống. Tuy vậy, có những biểu hiện cơ bản về mặt tâm lý thường xuất hiện ở những học sinh đang yêu như: quan tâm đến người yêu, mong muốn được bên cạnh người yêu, mong muốn được giúp đỡ người yêu, khoan dung, độ lượng, dễ dàng chấp nhận và bỏ qua các sai lầm, khuyết điểm của người yêu, mong muốn thể hiện và khẳng định tình cảm của mình trước người khác. Các hiệu ứng khi yêu cũng bộc lộ rõ rệt: chỉ nhìn thấy nét đẹp của người yêu, dễ dàng từ bỏ cái tôi cái riêng để làm đẹp lòng người yêu. Đôi khi các hiệu ứng này làm học sinh có các hành vi lệch lạc. Vấn đề ứng xử của người lớn với tình cảm này ở học sinh cần rất tinh tế vì đây là dạng quan hệ nhạy cảm. Một mặt cần tôn trọng tình cảm này ở học sinh, không thể ngăn cấm, can thiệp thô bạo vào tình yêu của học sinh. Mặt khác không thể buông lỏng hay không để ý đến quan hệ này. Do vậy, người lớn một mặt có thái độ tôn trọng, đề cao những tình cảm đẹp giúp học sinh định hướng đúng trong tình yêu, mặt khác cần có sự chú ý, nhắc nhở để điều chỉnh một cách hợp lý tránh để quan hệ tình yêu của học sinh trở nên lệch lạc và ảnh hưởng đến học tập cũng như cuộc sống của học sinh sau này. Hoạt động 2: Đặc điểm ý chí của học sinh Trung học phổ thông. Thông Tin Phản Hồi Ở tuổi thanh niên, xu hướng nhân cách, phẩm chất ý chí bộc lộ rõ ràng. Cường độ của ý chí phát triển cao. Học sinh có thể quyết tâm vượt qua nhiều trở ngại để đạt tới các mục đích đã đặt ra. Những tấm gương về học sinh có hoàn cảnh khó khăn những nỗ lực lâu dài để thi đỗ đại học hay sẵn sàng hi sinh những sở thích, những mong muốn riêng của mình để giúp đỡ gia đình là không hiếm. Cường độ của ý chí không chỉ thể hiện ở việc học sinh có khả năng nỗ lực vượt qua khó khăn bên ngoài mà còn thể hiện ở việc đấu tranh động cơ, kiềm chế hay thay đổi chính bản thân. Tính đạo đức của hành động ý chí cũng được học sinh ý thức hơn. Các em đã có khả năng hiểu và lựa chọn điều gì cần nỗ lực và điều gì thì không. Tính đạo đức của hành động ý chí được thể hiện ở các mục đích mà các em đặt ra cho bản thân. một số học sinh có định hướng và mục đích rất rõ như lựa chọn nghề nào, định làm gì trong tương lai. Với những học sinh này, nhu cầu thành đạt nổi bật: học sinh biết đặt cho mình mục tiêu, biết nỗ lực, biết lên kế hoạch và phân phối sức lực để thực hiện. Nói cách khác, sự nỗ lực ý chí bộc lộ rõ nét. Nhưng cũng có những học sinh không đặt ra cho mình các mục đích, không nghĩ tới tương lai, thụ động chờ đợi. Những học sinh này thường không có động cơ và khó có thể thành đạt trong cuộc sống. Đáng tiếc là vẫn còn trong những học sinh Trung học phổ thông bị lôi kéo vào các nhóm tiêu cực, không tuân thủ các chuẩn mực, giá trị xã hội, coi sự thể hiện tính ngang ngược, xâm hại người khác, chống đối xã hội là bản lĩnh ý chí. Thực hành cho hoạt động 3: 1.Hãy xác định trong lớp học bạn đang dạy có những nhóm bạn thân nào? đặc điểm của những nhóm bạn đó? Có những điểm nào cần chú ý đặc biệt? 2. Tìm kiếm một tình huống trong đó người giáo viên có cách ứng xử với những cặp đôi học sinh trong lớp mà bạn cho là hợp lý và có hiệu quả. Phân tích tình huống đó. 3. Hãy trò chuyện với một vài học sinh để tìm hiểu: mục đích tương lai của các em là gì? Các em có kế hoạch hay dự kiến thực hiện như thế nào? Khó khăn mà các em gặp phải là gì? IV. CÁC ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1. Mục tiêu Hoạt động này giúp người học nắm được những vấn đề cơ bản trong nhân cách của học sinh Trung học phổ thông mà nhà giáo dục cần tìm hiểu. Người học được cung cấp những đặc điểm nổi bật trong nhân cách của học sinh Trung học phổ thông nhưng khả năng tự ý thức của học sinh, hình ảnh cái tôi, định hướng giá trị... những vấn đề cốt lõi của nhân cách. Từ đó có thể giải thích, dự báo hành vi và xu hướng phát triển nhân cách của học sinh. Test đầu vào Hãy xác định: trong số học sinh ở các lớp anh (chị) đang dạy, có học sinh nào có thể coi là người hướng nội? hướng ngoại? Ai là người thực tế? ... từ đặc điểm nào của mỗi học sinh đó mà cho rằng họ thuộc kiểu này hay kiểu kia? Ở độ tuổi trung học phổ thông, nhân cách đã khá ổn định và bộc lộ khá rõ. Nhân cách thể hiện ở hình ảnh tổng thể và thống nhất của mỗi học sinh mà ta có thể quan sát và nhận biết được: sự khác biệt, dấu ấn riêng về hành vi, cách ứng xử với người khác, hoạt động xu hướng hoạt động các xúc cảm, tình cảm, cách suy nghĩ giải quyết vấn đề, cách quan hệ với chính bản thân... đã trở thành ổn định và có thể dự đoán được ở mức độ nhất định. Hoạt động 1. Tự ý thức và hình thành cái tôi của học sinh Trung học phổ thông. Tự ý thức là gì? Những đặc điểm nổi bật về tự ý thức của học sinh Trung học phổ thông? Cái tôi trong tâm lý học có điểm gì khác với các Tôi thường được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. tại sao cần phải quan tâm đến sự hình thành cái tôi ở học sinh Trung học phổ thông? Thông Tin Phản Hồi Trong tâm lý học, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “tự ý thức” và “cái tôi”, tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, có thể hiểu chung nhất như sau: Tự ý thức là khả năng học sinh Trung học phổ thông tự tách ra khỏi bản thân, lấy bản thân mình làm đối tượng để nhận thức, để đánh giá, từ đó hình thành nên biểu tượng khái quát về chính bản thân. Biểu tượng ổn định của cá nhân về chính bản thân có thể gọi là cái tôi. Cá nhân tự ý thức giúp học sinh có thể hình thành biểu tượng đúng hay sai, đầy đủ hay thiếu hụt về chính bản thân mình. Ngược lại, khi cái tôi được hình thành, nó lại đóng vai trò định hướng, thúc đẩy và điều chỉnh hành vi của học sinh. Như vậy, học sinh có thể tự nhận thức bản thân và hình thành hình ảnh của bản thân ở nhiều phương diện: bên ngoài, bên trong, thân thể hay năng lực, năng lực hay phẩm chất; và nhiều mức độ: đơn giản hay phức tạp, đầy đủ hay phiến diện... tự đánh giá là một khả năng được hình thành trong suốt quá trình phát triển nhân cách và được coi là một dấu hiệu cơ bản để nhận biết mức độ trưởng thành của nhân cách. Tuổi học sinh Trung học phổ thông tự đánh giá có những điểm nổi bật, thể hiện sự trưởng thành nhất định của nhân cách: Học sinh Trung học phổ thông đã có sự đối chiếu bản thân với các chuẩn mực xã hội và có những quan điểm riêng của mình. Sự đánh giá của học sinh Trung học phổ thông của tính phê phán và đòi hỏi cao của bản thân. Học sinh có thể băn khoăn trăn trở với câu hỏi: mình là ai? mình là người như thế nào? mình muốn trở thành người như thế nào? Đặt câu hỏi và trả lời bằng cách phân tích so sánh đối chiếu bản thân với người khác là cơ sở quan trọng để học sinh có thể tu dưỡng, tự điều chỉnh bản thân. nhu cầu trò chuyện với chính mình để khám phá phát hiện ra mình là nhu cầu nổi bật. Những nhu cầu đó được thể hiện trong các trang nhật ký, hoặc hiện đại hơn và đa dạng hơn là blog hoặc mạng xã hội. Tự đánh giá ở học sinh Trung học phổ thông có chiều sâu và khái quát hơn so với học sinh Trung học cơ sở. Điều này liên quan với viễn cảnh cuộc sống mà học sinh Trung học phổ thông Đông lựa chọn và hướng tới, đặc biệt liên quan đến các hình mẫu nghề nghiệp, các vị trí xã hội trong tương lai. Học sinh không chỉ tự đánh giá bản thân trong hiện tại mà còn tạo ra cái tôi lý tưởng. So sánh đối chiếu với tôi hiện tại với cái tôi lý tưởng. Các em cũng không chỉ dừng lại ở việc đánh giá một số nét nhân cách riêng lẻ mà đánh giá một cách tổng thể về bản thân, so sánh đối chiếu với một hình mẫu nào đó. Tự đánh giá của học sinh Trung học phổ thông được thực hiện theo 3 cách: So sánh mức độ kỳ vọng với kết quả của bản thân. Do đó các em sẵn sàng thực hiện các hành động thậm chí các hành động nguy hiểm để khẳng định năng lực của mình. Xu hướng này là các em đôi khi có nghĩa những việc làm thường ngày, có xu hướng cường điệu hóa một số hoạt động... Đối chiếu so sánh với ý kiến của người khác về bản thân, học sinh Trung học phổ thông nhạy cảm với ý kiến của người khác và thường có xu hướng khái quát hóa các ý kiến đó. Một nhận xét về công việc cụ thể có thể được khái quát cho toàn bộ con người. Do vậy, khi nhận xét học sinh Trung học phổ thông cần thận trọng, theo hướng phát triển không nên quy kết. Một số thước đo mới được sử dụng trong tự đánh giá như sự thành thạo trong công việc, sự hấp dẫn trong tình yêu và tình bạn thân thiết. Các yếu tố này đóng góp quan trọng cho việc thanh niên đánh giá tổng thể về bản thân. Đánh giá học sinh Trung học phổ thông còn mang tính chủ quan và có xu hướng cao hơn hiện thực. Nguyên nhân của hiện tượng này là do nhận thức của các em về vấn đề xã hội chưa sâu, sự va chạm và trải nghiệm trong cuộc sống chưa nhiều. Bên cạnh đó, mơ ước, hoài bão của các em rất lớn nhưng chưa được kiểm chứng. Do vậy, không nên đề cao thái quá năng lực nào đó của học sinh (như sự lăng xê thái quá của báo chí với một số vận động viên mới nổi). Thừa nhận, tôn trọng và khuyến khích các em khẳng định, bộc lộ các năng lực của bản thân nhưng cần có chừng mực. Quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành cái tôi tương đối bền vững. Cái tôi không chỉ là biểu tượng về những thuộc tính đã được cá nhân xây dựng mà còn là tâm thế xã hội, bao gồm: nhận thức về bản thân, xúc cảm với bản thân và hành vi. Cái tôi hay hình ảnh về cái tôi có nhiều nội dung và nhiều mức độ như cái tôi thể chất, cái tôi hiện thực, cái tôi lý tưởng… Hình ảnh về thân thể: Thanh niên rất quan tâm đến hình ảnh thân thể của mình trong mắt người khác và có ý thức rèn luyện hoặc tạo ra các điệu bộ, cử chỉ để tạo ra hình ảnh hấp dẫn. Một trong những mối quan tâm của học sinh Trung học phổ thông là vẻ bề ngoài của họ phù hợp như thế nào với mẫu người của phái nam hay nữ. Nam học sinh quan tâm đến tầm vóc cao- thấp, dáng hình nam tính. Nữ sinh quan tâm đến làn da, độ béo gầy...vẻ bề ngoài trở thành một phương diện của cuộc sống. Việc bắt chước cách ăn mặc hoặc cử chỉ có nhân vật nào đó cũng không nằm ngoài hiện tượng này. Hình ảnh cái tôi được đánh giá qua nhiều tiêu chí khác nhau: tính bền vững, mức độ rõ ràng. Ở học sinh Trung học phổ thông tính bền vững cao hơn tuổi thiếu niên, tuy vậy vẫn có thể thay đổi nhanh. tính tương phản: sự khác biệt của bản thân với người khác. Ở học sinh Trung học phổ thông, những phẩm chất bên trong được chú ý nhưng được nhận thức chậm hơn những phẩm chất bên ngoài. Học sinh có thể lo lắng về ấn tượng mà mình có thể gây ra đối với người khác thể hiện ở tính cả thẹn. - Sự cường điệu tính độc đáo riêng của mình là đặc điểm của học sinh Trung học phổ thông. Mặc dù hình ảnh của học sinh về bản thân bao giờ cũng tương quan với hình ảnh của nhóm nhưng không hoàn toàn. - Cái tôi của nữ và nam khác biệt, nữ có xu hướng hướng nội và nhạy cảm hơn, xu hướng tìm kiếm sự tương đồng với vai trò giới rõ nét hơn. Hoạt động 2. Định hướng giá trị của học sinh Trung học phổ thông 1. Định hướng giá trị là gì, vai trò của định hướng giá trị? 2. Đặc điểm định hướng giá trị của học sinh Trung học phổ thông? Thông Tin Phản Hồi Định hướng giá trị được hiểu là thái độ, sự lựa chọn của cá nhân với các giá trị vật chất hay tinh thần nào đó có ý nghĩa với cá nhân, được cá nhân nhận thức. Như vậy, các cá nhân khác nhau có thể có các định hướng giá trị không giống nhau. Với các cá nhân này, một đối tượng vật chất hay tinh thần có thể được nhận thức là có ý nghĩa, nghĩa là có giá trị đối với họ, họ hoạt động để đạt tới các giá trị đó. Với các cá nhân khác, đối tượng vật chất hay tinh thần khác mới có giá trị với họ... trong đời sống các giá trị mang tính phổ biến, cũng có các giá trị chỉ có một số ít người nào đó theo đuổi. Do đó, bên cạnh tính chung của các định hướng giá trị, màu sắc chủ quan và tính chất cá nhân của định hướng giá trị cũng rất rõ nét. Định hướng giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Thứ nhất, định hướng giá trị là một trong các yếu tố hoạt động mà con người hướng tới. Định hướng giá trị được cụ thể hóa trong các mục đích hoạt động cụ thể và chi phối xu hướng hoạt động chung của con người. Ví dụ, một cá nhân đó định hướng giá trị cơ bản là tiền bạc, người đó sẽ có xu hướng tiến hành các hoạt động cụ thể nhằm đem lại tiền bạc và xu hướng hoạt động chung của người đó cũng nhằm tới giá trị này. Thứ hai, định hướng giá trị thúc đẩy cá nhân thực hiện các hoạt động hướng tới giá trị đó. Thứ ba, định hướng giá trị cũng đóng vai trò tiêu chuẩn, nguyên tắc của hành vi. Do vậy, tìm hiểu định hướng giá trị của cá nhân nói chung và học sinh nói riêng là vô cùng quan trọng. Hiểu được định hướng giá trị của học sinh, người giáo viên có thể hiểu được động cơ nào thúc đẩy học sinh thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác, xu hướng hoạt động của học sinh và những điểm có thể tác động đến để mang lại hiệu quả. Có thể phân loại như định hướng giá trị khác nhau, tuy nhiên có một số loại định hướng giá trị hay được đề cập tới: - Căn cứ vào ý nghĩa xã hội ý nghĩa cá nhân của các mục đích: định hướng giá trị xã hội khi cá nhân hướng tới các mục đích vì xã hội, vì người khác; định hướng giá trị cá nhân khi cá nhân hướng tới các mục đích về bản thân. - Căn cứ vào đối tượng của định hướng giá trị: định hướng giá trị vật chất, giá trị tinh thần. - Căn cứ vào ý nghĩa, tính chất của giá trị: định hướng giá trị tiêu cực, tích cực. Sự hình thành định hướng giá trị là quá trình lâu dài, đó là kết quả của mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố riêng của cá nhân và các yếu tố xã hội. Ở giai đoạn học sinh Trung học phổ thông, định hướng giá trị vừa được bộc lộ rõ nét, vừa có điều kiện để hình thành nhanh chóng, vừa tác động mạnh đến đời sống của học sinh. Để hình thành định hướng giá trị, học sinh phải có hệ thống những hiểu biết về thế giới xung quanh, phải trải nghiệm về các quan hệ xã hội. Những điều kiện này bắt đầu hiện diện ở lứa tuổi trung học phổ thông với các mối quan hệ xã hội mới. Trong quá trình tương tác với các vai xã hội, nhận biết các quan hệ và các giá trị trong đời sống xã hội, học sinh Trung học phổ thông hình thành và cũng có bản thân những giá trị nhất định. Có thể đó là những giá trị được nhiều người đề cao, có thể đó là những giá trị riêng mặc dù có thể chưa được học sinh Trung học phổ thông nhận thức một cách đầy đủ. Chính vì vậy, các giá trị ở học sinh Trung học phổ thông có thể mang tính tích cực nhưng cũng có những giá trị tiêu cực. Việt bắt đầu va chạm với cuộc sống, hứng thú với đời sống xã hội mở rộng có thể dẫn tới việc học sinh Trung học phổ thông tiếp nhận một số giá trị nào đó không thực sự phù hợp và thiếu nhận thức cặn kẽ. Trong giai đoạn xã hội hiện nay, điều này thể hiện khá rõ cho học sinh trung học phổ thông bắt chước, chạy theo các giá trị ngoại lai, thời thượng mà bỏ quên các giá trị truyền thống nhân bản. Để học sinh hiểu được các chân giá trị không hề dễ dàng trong bối cảnh các giá trị xã hội cũng đang chưa định hình rõ nét. Định hướng giá trị của học sinh Trung học phổ thông được thể hiện qua các hoạt động và các mối quan hệ cơ bản của các em. Trong hoạt động học tập, định hướng giá trị cơ bản cuộc sống của học sinh Trung học phổ thông được thể hiện trong mục đích gần là thi được vào các trường cao đẳng và đại học. Nói cách khác, định hướng giá trị phổ biến ở học sinh Trung học phổ thông trong học tập là các giá trị cá nhân. Học sinh mong muốn học tập để có được cuộc sống của bản thân tốt đẹp hơn. Điều này có tính lịch sử của nó trong quá trình phát triển cá nhân. Cũng vì định hướng giá trị này mà những học sinh Trung học phổ thông đã nhận thức được ý nghĩa của việc học tập, sẽ nỗ lực không biết mệt mỏi để đạt được mục đích đó. Ngược lại, những học sinh không có định hướng giá trị gắn với việc học hành sẽ thờ ơ, chểnh mảng và có thái độ học tập thiếu tích cực. Việc học tập để có kiến thức, để trở thành người có tri thức phục vụ xã hội trở thành giá trị nền ở phía xa. Trong các quan hệ, định hướng giá trị của học sinh Trung học phổ thông cũng thể hiện rõ nét. Trong quan hệ gia đình, mặc dù vẫn còn là thành viên phụ thuộc vào gia đình những học sinh Trung học phổ thông đề cao và mong muốn có được sự tự lập và độc lập trong việc giải quyết các vấn đề của bản thân và mong muốn khẳng định bản thân. Trong quan hệ với bạn bè, giá trị mà các em đề cao là sự tôn trọng, bình đẳng, sự thừa nhận lẫn nhau. Hoạt động 3. Tự xác định xã hội- hình thành thế giới quan và “kế hoạch cuộc đời”. Thế giới quan là gì? Đặc điểm nổi bật về thế giới quan của học sinh Trung học phổ thông? Thông Tin Phản Hồi Thế giới quan là hệ thống những quan điểm chung về thế giới được hình thành từ các tri thức mà cá nhân có được, để có được thế giới quan cần có: Hệ thống các tri thức nhất định được cá nhân lĩnh hội và khả năng tư duy để gắn các tri thức thành hệ thống. Tuy vậy, thế giới quan không đơn thuần là hệ thống tri thức mà còn là hệ thống các niềm tin, nó lên thái độ và định hướng của con người đối với thế giới. thế giới quan hệ sâu hay nông, đúng hay sai, khoa học hay tôn giáo. Tuổi thanh niên là giai đoạn cực kỳ quan trọng đến việc hình thành thế giới quan vì lứa tuổi này các tiền đề nhân cách và nhận thức của thế giới quan đang chín muồi. Các tiền đề nhân cách thể hiện ở chỗ thanh niên học sinh có nhu cầu rất lớn là nhu cầu tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, lựa chọn con đường cuộc đời một cách có ý thức. Các tiền đề nhận thức thể hiện ở chỗ tầm nhìn trí tuệ không chỉ được mở rộng mà còn theo hướng lý luận hóa các kinh nghiệm thành nguyên tắc chung. Tuổi thanh niên thể hiện thái độ đối với thế giới với màu sắc nhân cách rõ rệt. Sự tìm tòi thế giới quan bao gồm định hướng xã hội của nhân cách- nhận biết bản thân là một bộ phận, là một thành tố của cộng đồng và sự lựa chọn vị trí xã hội tương lai cho bản thân và các phương thức đạt được mục đích ấy. Vấn đề ý nghĩa của cuộc sống là một trong những tiêu điểm của sự hình thành thế giới quan. Ai cần tôi? Tôi sinh ra để làm gì?... là câu hỏi thanh niên học sinh tự đặt cho bản thân. Đa số học sinh Trung học phổ thông có khuynh hướng sống cuộc sống tích cực có ích cho bản thân và xã hội. Bên cạnh đó cũng có một số học sinh Trung học phổ thông chưa xác định được ý nghĩa của cuộc sống của bản thân và có thái độ bị động. Tâm thế bị động này là nguyên nhân của sự ỷ lại, thiếu ý chí và nỗ lực. Sự hình thành thế giới quan đòi hỏi kết hợp viễn cảnh gần và viễn cảnh xa, kết hợp cái có thể và cái mong muốn. Một thanh niên không có hoài bão ước mơ đó không phải là thanh niên. Hoạt động 4. Kế hoạch cuộc đời và xác định nghề nghiệp Qua thực tiễn dạy học và giáo dục học sinh, bạn hãy chỉ ra những đặc điểm trong việc xác định, lựa chọn nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông? Sự trưởng thành nhất định về nhân cách Sự cụ thể hóa ít nhiều có tính hiện thực các ước mơ lý tưởng. Thông Tin Phản Hồi Kế hoạch cuộc đời vừa là hiện tượng xã hội gọi là hiện tượng có tính đạo đức. Khái niệm này bao gồm từ sự xác định các giá trị đạo đức, mức độ kỳ vọng vào tương lai, nghề nghiệp của cuộc sống sau này. Kế hoạch cuộc đời thường hình thành một cách mơ hồ của tuổi thiếu niên, dần có đường nét rõ hơn ở tuổi thanh niên và đến cuối tuổi thanh niên có thể được định hình và trở thành lẽ sống ở họ. Vấn đề bận tâm nhất đối với thanh niên học sinh trong kế hoạch đường đời là chọn nghề. Việc chọn nghề chính là một khâu trong kế hoạch cuộc đời của các em. Việc xác định nghề nghiệp là quá trình có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc, ảnh hưởng của nhiều yếu tố và được học sinh Trung học phổ thông quan tâm. Xu hướng và hứng thú nghề có thể đã xuất hiện ở tuổi thiếu niên nhưng chỉ trở thành cấp thiết và mang tính hiện thực hơn ở học sinh Trung học phổ thông bởi thời gian phải đưa ra quyết định cụ thể không còn nhiều. Việc chọn nghề đòi hỏi phải kết hợp được nhiều yếu tố: nhu cầu xã hội, năng lực, sở thích của bản thân và yêu cầu đòi hỏi của nghề. Thế nhưng học sinh Trung học phổ thông chưa có được thông tin về cả ba yếu tố này. Đa phần cơ sở của thái độ lựa chọn nghề nghiệp của học sinh dựa trên các khái quát mang tính kinh nghiệm học được từ những người xung quanh, còn trừu tượng chưa được trải nghiệm. Do vậy, việc chọn nghề của học sinh Trung học phổ thông mang tính tự phát, theo trào lưu xã hội mà chưa có cơ sở chắc chắn. Học sinh Trung học phổ thông thường chưa có cái nhìn đầy đủ về nghề. Nghề tốt thì mọi thứ điều hay, nghề xấu thì mọi thứ đều dở. Học sinh Trung học phổ thông thường có ít thông tin về nghề và với bản thân. Các em ít biết về đặc điểm của nghề, về mạng lưới nghề trong xã hội. Học sinh cũng chưa phân biệt rõ nghề và trường đào tạo nghề. Nhiều học sinh ngay cả khi đã vào trường vẫn chưa hiểu rõ nghề của mình sau này sẽ làm gì. Chọn nghề là quá trình phức tạp và lâu dài, có hai cực của quá trình này ở học sinh Trung học phổ thông: Một là tạm gác hay kéo dài việc chọn nghề do không có hứng thú rõ rệt và ổn định. Sự chậm trễ này thường đi đôi với sự trưởng thành nói chung, với tính cách trẻ con trong định hướng xã hội. Cực khác của quá trình chọn nghề là áp đặt sớm từ phía gia đình, cách này thường đem lại sự sợ hãi, từ chối một cách tiêu cực từ phía học sinh. Do vậy, tổ chức để giúp học sinh có điều kiện tiếp cận, mở rộng nhãn quan và có thể có được sự lựa chọn phù hợp công việc hết sức cần thiết. Thực hành hoạt động 4: 1. Hãy giải thích những trường hợp học sinh quá tự ti hoặc tự kiêu. ta có thể làm gì giúp các em có được sự nhận thức và đánh giá đúng về bản thân? 2. Hãy xác định các định hướng giá trị phổ biến ở học sinh Trung học phổ thông mà ta đang dạy. ta có suy nghĩ gì về các định hướng giá trị đó? 3. Nếu được chia sẻ với học sinh Trung học phổ thông về việc lựa chọn nghề và kế hoạch cuộc đời ta sẽ chia sẻ điều gì? Hoạt động 5. Tính tích cực xã hội của học sinh Trung học phổ thông: các vai trò và hoạt động xã hội 1. Bằng kinh nghiệm công tác giáo dục học sinh và qua các tài liệu đại học, bạn hãy Hiểu biết của mình về đặc điểm tính tích cực xã hội của học sinh Trung học phổ thông, các hoạt động xã hội mà học sinh Trung học phổ thông tham gia; vai trò của học sinh Trung học phổ thông trong các hoạt động xã hội? Thông Tin Phản Hồi Tính tích cực xã hội của thanh niên rất cao như là hệ quả của vị thế xã hội mới và tính mở rộng trong các quan hệ xã hội. Đứng trước ngưỡng cửa của hoạt động xã hội và đời sống xã hội, thanh niên có nhiều cơ hội để tham gia vào nhiều hoạt động xã hội khác nhau. Qua đó thanh niên không chỉ có được các kinh nghiệm xã hội mà còn có cơ hội để thể hiện năng lực của bản thân, thể hiện được vai trò của mình trong các hoạt động xã hội. Thông qua các hoạt động xã hội, học sinh Trung học phổ thông hoàn thiện và củng cố nhân cách. Tính tích cực xã hội của học sinh Trung học phổ thông được thúc đẩy bởi các nhân tố sau: - Nhu cầu tìm hiểu, nắm bắt các sự kiện trong đời sống xã hội đã rõ nét. Học sinh có sự quan tâm đến các sự kiện kinh tế, chính trị của đất nước, có nhu cầu thể hiện quan điểm của bản thân về các vấn đề đó. Với nhu cầu này, học sinh Trung học phổ thông không còn đơn thuần chỉ gắn bó với các hoạt động học tập mà giờ nó thể hiện dấu hiệu người công dân. - Các thứ liên quan đến đời sống xã hội, các hoạt động xã hội mở rộng. Học sinh ngày nay có thể tham gia vào các nhóm trên mạng rất khác nhau: nhóm bảo vệ môi trường, những cổ động viên thể thao, các diễn đàn về rất nhiều các vấn đề xã hội. Đây là môi trường thuận lợi cho việc bày tỏ quan điểm, đề xuất các ý tưởng và nhận được sự phản hồi rộng rãi. Tính tích cực xã hội được thể hiện trong các nhóm xã hội mà học sinh Trung học phổ thông tham gia. Có thể đó là các các nhóm ủng hộ xã hội: thực hiện các hoạt động của một xã hội tốt đẹp như các nhóm từ thiện, nhóm về môi trường, nhóm hiến máu nhân đạo. Các nhóm này thúc đẩy sự phát triển tính tích cực của thanh niên, đồng thời góp vào sự phát triển của xã hội. Tồn tại cả những nhóm khác: Các nhóm phi xã hội như các nhóm cùng vui chơi, giải trí với sự gắn bó bên ngoài mang tính xúc cảm đơn thuần, các nhóm này có thể coi là trung tính. Tuy vậy, có những nguy cơ nhất định. Nhóm chống đối xã hội: càn quấy, vi phạm trật tự xã hội, say rượu, cờ bạc, cá độ... các nhân vật này thường hình thành ngoài nhà trường (còn gọi là nhóm đường phố) là nguy cơ đối với xã hội, cần được quan tâm hạn chế. Học sinh Trung học phổ thông rất quan tâm đến các vai xã hội, đặc biệt từ khía cạnh các chuẩn mực hành vi, thái độ của các vai xã hội. Học sinh thường nhìn nhận đánh giá các vai xã hội một cách khá nghiêm khắc và cứng nhắc. Vai xã hội được quan tâm nhiều hơn cả là vai nghể nghiệp tương lai mà họ chọn lựa. Vai người công dân cũng được chú ý. Do tính chất cứng nhắc trong cách nhìn nhận về các vấn đề xã hội mà thanh niên học sinh chưa có được sự linh hoạt khi tham gia các vai. Học sinh thường khó chuyển từ vai này sang vai khác. V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG: TÌNH DỤC, CĂNG THẲNG TÂM LÝ, LẠM DỤNG CHẤT, CHỐNG ĐỐI XÃ HỘI, TỰ TỬ… Mục tiêu Giúp người học tiếp cận với một số vấn đề tâm lý cụ thể đặc trưng ở học sinh Trung học phổ thông nhưng vấn đề tình dục, căng thẳng tâm lý…. hiểu được các nguyên nhân, từ đó xác định được thái độ đúng đắn và cách ứng xử thích hợp. Test đầu vào Hãy kể lại những trường hợp học sinh Trung học phổ thông gặp các vấn đề về tâm lý liên quan đến tình dục, lạm dụng chất, chống đối xã hội hay tự tử mà ta biết. Cách xử lý đã được thực hiện trong các trường hợp đó ta đánh giá như thế nào về cách xử lý đó. Ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có những vấn đề tâm lý cần quan tâm tới mức độ và biểu hiện khác nhau. Xác định được những vấn đề cụ thể xuất hiện ở từng độ tuổi giúp người làm công tác giáo dục có được sự chủ động trong việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý vấn đề khi chúng ngày sinh. Hoạt động 1. Tình dục ở tuổi trung học phổ thông 1. Đặc điểm tính dục của học sinh Trung học phổ thông? 2. Hậu quả của việc quan hệ tình dục sớm? 3. Người lớn Cần có thái độ như thế nào đối với các biểu hiện tình dục của học sinh Trung học phổ thông? Thông Tin Phản Hồi Phát dục là quá trình trung tâm của tuổi thiếu niên. Sự tiết hoóc môn androgen gia tăng làm tăng xu hướng tình dục, làm gia tăng sự quan tâm về tình dục của bản thân. Đây là hiện tượng sinh học xã hội phức tạp, là sản phẩm của sự tác động các lực lượng sinh học và lực lượng xã hội. Bước vào tuổi thanh niên, đa số học sinh đã trải qua thời kỳ dậy thì, do đó xét về phương diện cơ thể, học sinh đã có sự trưởng thành, đã có khả năng thực hiện chức năng duy trì nòi giống. Xét về phương diện xã hội, sự đồng nhất giới tính (nhận biết giới tính và lĩnh hội được các hành vi tương ứng, hình thành tâm thế và định hướng tâm lý tình dục) vẫn tiếp diễn. Do vậy, hiện tượng tình dục ở tuổi thanh niên học sinh có cá tính chất của hai mặt này. Điều đó buộc người lớn, các nhà giáo dục phải có cách nhìn đúng đắn và khách quan. Đặc biệt, khi cuộc sống hiện nay đã đặt ra một loạt các vấn đề đạo đức và thực tiễn liên quan đến đời sống tình dục của học sinh mà nhà trường không thể quan tâm. Đối với vấn đề tình dục ở trung học phổ thông có 3 mặt cần quan tâm: - Hành vi tính dục: Các cử chỉ, hành vi thể hiện và thực hiện các nhu cầu tình dục (khi nào bắt đầu quan hệ tình dục, các giai đoạn phát triển, cường độ…). - Các định hướng và tâm thế tình dục: Thái độ đối với các vấn đề giới tính, các chuẩn mực đạo đức. - Các cảm nghiệm và ảo tưởng tình dục. Các nhà giáo dục quan tâm nhiều đến các chuẩn mực lứa tuổi của hành vi tính dục: Khi nào học sinh quan tâm đến vấn đề giới tính, khi nào bắt đầu có quan hệ... không có câu trả lời chung cho các vấn đề này. Có thể có các biến dạng cá thể, các chuẩn văn hóa, các bối cảnh xã hội khác nhau chi phối hiện tượng này ở học sinh. Xu hướng chung giới tính và các hành vi quan hệ giới tính ngày càng được bắt đầu sớm hơn. Nguyên nhân của thực trạng này chính là sự trưởng thành sớm hơn về mặt cơ thể và sự phức tạp của các mẫu hành vi tính dục được lan truyền trong các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện tượng trào dâng tình dục ở thanh niên có thể gắn với hiện tượng thủ dâm, sự chín muồi sinh dục sớm thường gắn với thủ dâm. Đây là phương tiện làm giảm bớt căng thẳng tình dục ở thanh niên do các nguyên nhân sinh lý gây ra. Hiện tượng này có hai mặt: Một mặt có thể coi đây là hiện tượng bình thường do tác động của yếu tố sinh lý và tâm lý (muốn có sự thỏa mãn cơ thể, kiểm tra năng lực của bản thân), mặt khác, một sự thái quá có thể làm yếu cơ thể và tạo ra các rối nhiễu tâm lý. Việc cấm đoán thái quá, coi đó là hiện tượng tội lỗi và hư hỏng có thể gây ra mặc cảm ở thanh niên học sinh, hoài nghi về giá trị của bản thân. Do vậy, cách ứng xử được coi là phù hợp không phải là nhồi nhét vào đầu óc học sinh rằng đây là hiện tượng không chấp nhận được mà là khéo léo giúp học sinh có thêm các hoạt động, cơ hội giao lưu, các công việc hấp dẫn, từ đó hiện tượng này sẽ dần qua đi. Hiện tượng tính dục gắn liền với việc lĩnh hội vai trò giới. mặc dù sự nhận dạng giới tính bắt đầu từ rất sớm, khi trẻ được vài tuổi nhưng đó là sự nhận dạng bề ngoài. Ở tuổi trung học phổ thông, sử dụng dạng vai trò giới mang tính chất tâm lý xã hội sâu sắc hơn. đó là sự phân cực “Đàn ông”- “đàn bà”. Trong đó đàn ông chủ động hơn. Bối cảnh xã hội với mức độ bình đẳng giới cao hơn dần xóa bớt sự phân cực. Tuy nhiên sự phân cực giới trong hành vi xã hội vẫn tồn tại. Cùng với quá trình đô thị hóa, gia tốc phát triển, sự du nhập văn hóa ngoại lai, tính tự lập của thanh niên... cuộc sống tình dục, hướng thú tình dục có xu hướng sớm hơn ở thanh niên và cách nhìn nhận về cuộc sống tình dục cũng có phần thoải mái hơn. Nghiên cứu tại các nước châu Âu cho thấy thanh niên ngày nay có thái độ tự do hơn đối với tình dục, do vậy quan điểm chung của thanh niên vẫn cho rằng lạm dụng tình dục hoạt tình dục ngẫu nhiên là sai trái. Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn đến việc sinh hoạt tình dục lần đầu tiên có thể là do tò mò hoặc muốn khẳng định bản thân. Thái độ đối với vấn đề tình dục phản ánh sự lúng túng của xã hội đối với các chuẩn mực tình dục. Thanh niên có thể nhận được những thông điệp trái ngược nhau về vấn đề này: Một mặt, bố mẹ- thầy cô và nhà trường khuyên học sinh nên nêu cao giá trị của sự trinh trắng, mặt khác phim ảnh và các thông tin cuộc sống là cho thấy quan hệ tình dục trước hôn nhân là hiện tượng không còn quá hiếm. Điều này đặt thanh niên vào tình huống phải tự mình quyết định và điều khiển hành vi của bản thân. Có sự khác biệt nhất định về thái độ giữa nam và nữ trong vấn đề tình dục. Nữ sinh trường đòi hỏi tình dục và tình yêu gắn liền nhau và mong muốn có sự bền vững trong quan hệ với người yêu đầu tiên khi đã có quan hệ tình dục. Nam sinh thường không muốn có sự ràng buộc và đôi khi không cần tình yêu. Sự khác biệt này có thể làm tổn thương nữ giới và tạo ra sự hiểu lầm giữa hai bên. Những hậu quả có thể có liên quan đến hoạt động tình dục ở tuổi thanh niên: Đa phần thanh niên khi bắt đầu hoạt động tình dục không biết sử dụng các phương tiện tránh thai vì họ không có được các hiểu biết về cơ chế sinh sản. Mặt khác, do chưa có sự trưởng thành về nhận thức xã hội để hiểu rằng hành vi của mình có thể tạo ra hậu quả nghiêm trọng và lâu dài, sợ người khác nghĩ rằng mình “có kinh nghiệm” trong quan hệ tình dục nếu sử dụng các phương tiện tránh thai... tình dục không an toàn sẽ đặt thanh niên trước các nguy cơ bị lây nhiễm các bệnh tình dục, mang thai vị thành niên và sau đó là các hệ lụy lâu dài không thể lường hết. Đối với vấn đề tình dục ở học sinh Trung học phổ thông, cấm đoán không phải là biện pháp hữu hiệu. Vấn đề cần tập trung là thuyết phục, giúp học sinh hiểu được các nguy cơ có thể có và ngăn ngừa các hậu quả tiêu cực. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản hết sức cần thiết trong giai đoạn này. Hiện tượng quan hệ tình dục sớm là điều không mong muốn nhưng khi phải đối mặt với sự gia tăng của xu hướng này thì phải đối diện với vấn đề này và tìm kiếm cách ứng xử phù hợp. Ví dụ như phổ biến kiến thức về tình dục an toàn. Hoạt động 2. Hiện tượng lạm dụng chất và chống đối xã hội. Lạm dụng chất (rượu, chất gây nghiện…) là hành vi nguy hiểm đến cá nhân học sinh và gia đình, xã hội. Bạn hãy chỉ ra những yếu tố thúc đẩy học sinh Trung học phổ thông có hành vi lạm dụng chất hay chống đối xã hội. 1. Những yếu tố thúc đẩy học sinh Trung học phổ thông lạm dụng chất? 2. Những yếu tố thuộc đại học sinh Trung học phổ thông có hành vi chống đối xã hội? 3. Vai trò của người lớn trong việc ngăn ngừa những hành vi trên ở học sinh? Thông Tin Phản Hồi Hiện tượng lạm dụng chất là hiện tượng gắn liền với sự phát triển nhanh và phân hóa xã hội. thanh niên có thể lạm dụng chất (cồn, chất gây nghiện) có thể vì các nguyên nhân sau: - Muốn chứng tỏ bản thân là người lớn; - Bị lôi kéo bởi các nhóm bạn xấu; - Gặp phải các thất bại trong cuộc sống, có tâm trạng chán nản buông xuôi, tuyệt vọng…. - Tò mò thử và không có bản lĩnh để dừng lại. Việc lạm dụng chất đem lại các hậu quả tiêu cực với các mức độ rất khác nhau. Hành vi chống đối xã hội có thể xuất hiện ở cái tuổi thiếu niên và bộc lộ ở tuổi thanh niên. Hành vi chống đối xã hội có thể được hiểu là những hành vi đi ngược lại các chuẩn mực hành vi của xã hội, xâm phạm lợi ích người khác và đem lại thiệt hại cho người khác. Nếu hành vi chống đối xã hội diễn ra thường xuyên và khó loại bỏ thì được gọi là rối nhiễu nhân cách chống đối xã hội. Các hành vi chống đối xã hội thường nảy sinh trong nhóm. Các yếu tố rủi ro cao là hoàn cảnh gia đình như gia đình không đầy đủ (Không có cả bố và mẹ), không có sự quan tâm và kiểm soát từ gia đình, các thành viên trong gia đình có các hành vi chống đối xã hội, việc tham gia vào các nhóm bạn xấu. Hoạt động 3. Căng thẳng tâm lý 1. Những nguyên nhân gây căng thẳng tâm lý? 2. Cách thức giảm bớt căng thẳng? Thông Tin Phản Hồi Căng thẳng (stress) là trạng thái tâm lý khá phổ biến ở học sinh Trung học phổ thông. Khác với học sinh Trung học cơ sở, stress xuất hiện do các mâu thuẫn xung đột trong quan hệ với người lớn, ở tuổi trung học phổ thông stress liên quan chủ yếu đến việc thi đại học và chọn nghề. Những yếu tố cơ bản tham gia vào việc gây ra stress là sức khỏe của bản thân và của người khác về việc thi đại học và chọn nghề tương lai. Áp lực thi đại học càng gia tăng đối với các lớp cuối cấp, hiện tượng stress càng phổ biến. Trạng thái stress có thể là học sinh mệt mỏi, mất sức lực về cơ thể, kéo theo đó là sự mất tập trung, không có khả năng duy trì ý chí, hoạt động trí tuệ kém hiệu quả. Quan tâm, chú ý giúp học sinh giải quyết xả stress: Giúp học sinh diều chỉnh nhận thức của bản thân, suy nghĩ tích cực, tạo tự tin, có kế hoạch học tập hợp lý, không gây sức ép thái quá lên học sinh, thay đổi các hoạt động gây stress. Hoạt động 4. Hiện tượng tự tử ở học sinh Trung học phổ thông. Chúng ta đã từng nghe, chứng kiến những cảnh đau buồn của học sinh tự tử. bằng hiểu biết của mình bạn hãy chỉ ra những dấu hiệu có thể có học sinh Trung học phổ thông có ý định tự tử? cách ứng xử của người lớn để ngăn chặn? Thông Tin Phản Hồi Hiện tượng tự tử đã được quan tâm từ rất lâu trên thế giới và người tự tử là thanh niên chiếm tỷ lệ lớn. Đối với đa số mọi người, những người không bao giờ có ý nghĩ và hành động tự tử thì tự tử là điều khó có thể hiểu được. Hiện tượng này khá phổ biến ở các nước như Mỹ, Nhật và đã được các nhà nghiên cứu cảnh báo. Ở nước ta gần đây cũng xuất hiện các trường hợp rất đáng tiếc ở học sinh Trung học phổ thông. Nhìn chung tự tử ở nữ nhiều hơn nam, tuy nhiên nam thanh niên được cứu sống sau khi tự tử lại ít hơn nữ do các hành vi tự tử của nam thanh niên mang tính bạo lực hơn. Tự tử ở thanh niên phần lớn các trường hợp có thể được coi là sự kêu cứu, họ sử dụng tự tử như là cách thức để những người khác chú ý, xem xét vấn đề của họ một cách nghiêm túc, hành động tự tử diễn ra theo một xung động nhất thời và hành động kêu cứu ấy rất không may là không thể sửa chữa được. Hiện rất khó có thể nhận biết được những thanh niên có ý định tự sát. Hiện tượng tự tử có thể diễn ra ở mỗi giai tầng và ít có sự khu trú ở một nhóm xã hội cụ thể. Tuy nhiên, có thể có một số biểu hiện không rõ rệt: Những thanh niên có thể tự sát thường bị trầm cảm nghiêm trọng, sử dụng các chất gây nghiện hoặc có hành động chống đối xã hội. Họ thường có quan hệ xấu với bố, mẹ, bạn bè hoặc người yêu, có kết quả học tập không tốt và không còn quan tâm cũng như hứng thú với các hoạt động giải trí và mọi người xung quanh. Họ bị phân rã nhân cách và cảm thấy không vượt qua được các vấn đề của bản thân. Nhận biết được các dấu hiệu đáng ngại, bạn bè, xã hội có thể giúp ngăn ngừa hành động tự tử của thanh niên. Một trong các cách thức ngăn ngừa quan trọng là giúp thanh niên bị trầm uất nói ra các vấn đề của họ. Nếu thanh niên bày tỏ ý định tự tử về bạn bè, người lớn cần khuyên giải và chỉ ra cho họ những cách giải quyết vấn đề khác. Cha mẹ cũng cần có thái độ nghiêm túc và chú ý tới những ý định tự tử có thể được thanh niên nói ra theo những cách khác nhau: Đe dọa hoặc tự phát. Nên có những sự trợ giúp tâm lý như trị liệu tâm lý khi thanh niên có ý định tự tử không thành vì thanh niên vẫn có thể tiếp tục hành vi tự tử nếu vấn đề của họ không được giải quyết. Thực hành nội dung 5. 1. Tìm kiếm và đề xuất các biện pháp giúp học sinh Trung học phổ thông có thể tránh được tình trạng căng thẳng có hại. 2. Hãy xây dựng những câu hỏi theo chủ đề quan hệ tình dục ở học sinh Trung học phổ thông cho một buổi sinh hoạt ngoại khóa. 3. Tìm hiểu hiện tượng lạm dụng chất ở học sinh trong trường. Nội dung 6.  Tổng kết. 1.Thế nào là tính chất mở và sự chuyển đổi vai trò, vì thế trong hoàn cảnh xã hội của học sinh Trung học phổ thông? 2. Nhận diện về trí tuệ và nhận thức của học sinh như thế nào? 3.Những điểm tích cực và tiêu cực trong đời sống tình bạn, tình yêu của học sinh Trung học phổ thông? 4. Khả năng tự đánh giá của học sinh Trung học phổ thông ở mức độ nào? 5. Định hướng giá trị và định hướng nghề nghiệp thể hiện trong các hoạt động và quan hệ của học sinh Trung học phổ thông như thế nào? 6. Có những vấn đề tâm lý nào cần chú ý học sinh Trung học phổ thông hiện nay? Thực hành 1: xây dựng hồ sơ tâm lý của một học sinh Trung học phổ thông với các nội dung sau: 1. Tên 2. Tuổi 3. Giới tính 4. Hoàn cảnh gia đình: + Bố mẹ: gia đình đầy đủ hay không đủ? có bao nhiêu anh chị em? là con thứ mấy? + Trình độ, nghề nghiệp của bố mẹ? + Điều kiện kinh tế, điều kiện sống? + Quan hệ giữa bố- mẹ- con cái? + Sự quan tâm của bố mẹ với con cái? 5. Các đặc điểm tiểu sử + Lực học các cấp trước: + Hạnh kiểm: + Các sự kiện đặc biệt trong tiểu sử (tâm lý, sinh lý): 6. Trình độ nhận thức- trí tuệ hiện nay +  Lực học + Năng lực nổi trội (So với chính bản thân học sinh) trong một lĩnh vực nào đó: +  Hứng thú nhận thức trong lĩnh vực nào: 7. Cảm nhận về bản thân: tự tin hay tự ti trong quan hệ với bạn bè, với giáo viên? mức độ thể hiện bản thân: mạnh mẽ hay e ngại? 8. Quan hệ với bạn bè- tình cảm 9. Xu hướng với ý định chọn nghề 10. Các vấn đề tâm lý + Mức độ căng thẳng: + Biểu hiện về lạm dụng chất: + Biểu hiện về trầm cảm: 29