QUÂN TÌNH NGUY N VI T NAM SÁT CÁNH V I NHÂN DÂN LÀO ANH
EM TRÊN NH NG CHẶNG Đ
NG L CH S
PGS,TS. Hồ Khang
Vi n L ch s quân sự Vi t Nam
Là những nước có chung đư ng biên giới, có vị trị địa lý kề cận, có những nét
lịch sử - văn hóa tương đồng, Việt Nam, Lào sớm có mối quan hệ mật thiết gắn bó máu
thịt. Tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Lào không chỉ có từ rất sớm, mà
còn khá bền chặt. Trong những năm tháng đấu tranh vì sự nghiệp độc lập, tự do và xây
dựng đất nước, trên tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam
luôn trước sau th y chung kề vai, sát cánh cùng nhân dân Lào vững bước vượt qua mọi
thách thức, khó khăn, góp phần c ng cố và phát triển vững chắc tình hữu nghị giữa hai
dân tộc anh em.
1- Ng ợc dòng th i gian
Gần một thế kỷ dưới ách thống trị c a thực dân Pháp, hai dân tộc Việt – Lào đã gắn
bó với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Có chung cảnh ngộ mất độc lập, tự
do, từ rất sớm, tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và Lào được hình
thành như một lẽ tự nhiên tất yếu, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã tự nguyện liên
kết nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp với những hình thức khác nhau1.
Tháng 2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đ i và tháng 10-1930, đổi tên thành
Đảng Cộng sản Đông Dương, nhận trách nhiệm lãnh đạo cách mạng Đông Dương,
đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh nơi đây. Nghị quyết Hội
nghị tháng 10-1930 xác định phải khuếch trương phong trào cách mạng cho đều khắp các
xứ Đông Dương, nhân dân Đông Dương cần đoàn kết chống ách thống trị c a thực dân
Pháp, giành độc lập dân tộc. Trên nguyên tắc “dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với
dân tộc Miên, Lào thì sức mạnh đ đánh tan thực dân Pháp”2, những ngư i cộng sản
Đông Dương đã nhanh chóng xây dựng và c ng cố liên minh đoàn kết chiến đấu giữa
các dân tộc đảo Đông Dương.
Việt Nam, có phong trào Cần Vương (1885-1895) – phong trào xây dựng nhiều căn cứ vùng núi giáp biên giới Việt
– Lào. Lào, có phong trào chống Pháp Áttapư do ông Khi Volảlạt lãnh đạo (1900-1901) hòa chung với phong trào
Phùmibun Trung Lào c a Phò Càđuột (1901-1902) và cuộc kh i nghĩa Hạ Lào do ông Kẹo, ông Cômmađăm lãnh
đạo (1901-1937). Các cuộc kh i nghĩa đã có sự liên kết với các cuộc nổi dậy chống Pháp c a bộ tộc Xơ đăng Kon Tum
năm 1918, c a ngư i Mông Tây Bắc Việt Nam do Chậu Phạpắtchây lãnh đạo, lan rộng ra nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây
Bắc Việt Nam. Mặc dù phát triển khá mạnh mẽ, nhưng cuối cùng những cuộc kh i nghĩa này vẫn thất bại.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 1. tr 532.
1
1
Cuộc đấu tranh c a nhân dân Việt Nam và Lào càng tr nên gắn bó, khi Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai
đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”; chỉ rõ lúc này vấn đề đấu tranh
không phải là giải phóng riêng rẽ từng xứ, mà các dân tộc Đông Dương phải thành lập các
đoàn thể phản đế để đi đến thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
minh) đồng th i ch trương hết sức giúp đỡ Lào tổ chức Ai Lao độc lập đồng minh.
Tháng 3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp,
cứu nước mạnh mẽ. Cao trào kháng Nhật cứu nước
Việt Nam dấy lên cao trào kháng Nhật
Việt Nam đã tác động và cổ vũ mạnh
mẽ các lực lượng yêu nước Lào đang đấu tranh vì quyền độc lập tự do thiêng liêng. Tháng
8-1945, Việt Nam Tổng khỏi nghĩa thắng lợi. Cùng th i gian đó, nhân dân Lào đã tiến hành
giành chính quyền
một số thành phố, thị xã như Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xa vẳn na khệt,
Sầm Nưa, Luông Pha băng. Tháng 9-1945, tổ chức Lào Ítxala và Việt kiều yêu nước nhất trí
thành lập Liên quân Lào – Việt đặt dưới sự chỉ huy c a một Bộ tham mưu chung do Quản
Xỉng và Vũ Hữu Bỉnh đứng đầu, các y ban phòng th Lào – Việt cũng được tổ chức các
địa phương. Đây là cơ s quan trọng đầu tiên, thuận lợi cho việc Quân tình nguyện Việt
Nam sang giúp đỡ nhân dân Lào sau này trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập.
2- Kề vai, sát cánh cùng nhân dân Lào đấu tranh vì đ c lập, tự do và xây
dựng đất n
c
Các nước Đông Dương độc lập chưa bao lâu, thực dân Pháp đã nổ súng đánh chiếm
Sài Gòn, Phnôm pênh, xúc tiến xâm lược Lào, m rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông
Dương.
Sau khi Chính ph lâm th i Ítxala được thành lập1, ngày 14-10-1945, Việt Nam
Dân ch Cộng hòa chính thức công nhận Chính ph độc lập Lào, thiết lập quan hệ
ngoại giao với Nhà nước Lào. Ngày 16-10-1945, hai nước ký kết Hiệp ước tương trợ
Việt Nam – Lào, lấy đó làm cơ s ký Hiệp định thành lập Liên quân Lào – Việt Nam
(30-10-1945) do Hoàng thân Xuphanuvông làm Tổng chỉ huy.
Sớm xác định “Đông Dương là một chiến trường, chiến đấu theo một chiến
lược chung”, ngày 25-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị "Kháng chiến
Ngày 10-10-1945, Chính ph Lào Ítxalạ được thành lập do Hoàng thân Phết xa rạt đứng đầu, ông Khăm Mạo Vilay làm
Th tướng, đến ngày 12-10-1945 Đại hội dân chúng Lào bầu ra Chính ph Lào độc lập, thông quan Hiến pháp, tuyên bố
nền độc lập c a Lào.
1
2
kiến quốc", ch trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ Tư lệnh
Lào - Miên. Ban Thư ng v Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ thị cho Xứ
y Lào đẩy mạnh võ trang tuyên truyền vận động quần chúng, phát triển chiến tranh du
kích, “đặng bao vây lại quân Pháp
những nơi sào huyệt c a chúng và quét sạch
chúng khỏi đất Lào”1. Để đối phó với kế hoạch đánh chiếm các cứ điểm trên các tr c
đư ng chính c a Lào nối liền một số thị xã, Liên quân Lào – Việt đã được tổ chức
nhiều nơi2 và đến đầu năm 1947, nhiều tỉnh thuộc chiến khu IV Việt Nam đã tổ chức
Ban Biên chính để liên hệ, phối hợp và giúp đỡ các địa phương Lào kề cận đẩy mạnh
đấu tranh. Đầu năm 1948, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phân công Tổng
tư lệnh quân đội Võ Nguyên Giáp chỉ đạo công tác giúp cách mạng Lào thành lập căn
cứ địa, khu giải phóng, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng và c ng cố, phát triển
chính quyền... Ngày 30-10-1949, Ban Thư ng v Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương quyết định tổ chức các lực lượng quân sự Việt Nam được cử sang giúp Lào
chiến đấu thành hệ thống riêng, lấy tên là Quân tình nguyện.
Thực hiện nhiệm v quốc tế
Lào, cán bộ và quân tình nguyện Việt Nam đã
giúp đỡ nhân dân Lào xây dựng cơ s chính trị và vũ trang quần chúng, phát động
chiến tranh du kích rộng khắp. Thực hiện ch trương đẩy mạnh chi viện quân sự cho
các chiến trư ng Lào, riêng năm 1951, lực lượng cán bộ và bộ đội Việt Nam chi viện
cho chiến trư ng Lào tăng lên đến 12.000 ngư i.
Những năm 1953-1954, phối hợp với quân dân Lào, bộ đội Việt Nam m chiến
dịch Thượng Lào, Phong Xa Lỳ, Trung và Hạ Lào. Thắng lợi c a những chiến dịch
này đã nối thông hậu phương kháng chiến c a cách mạng Lào với vùng tự do c a cách
mạng Việt Nam, m rộng vùng giải phóng sau lưng Sài Gòn; đánh thông đư ng chiến
lược Bắc – Nam Đông Dương; giành địa bàn chiến lược Tây Nguyên, làm phá sản kế
hoạch Nava c a Pháp, buộc Pháp phải rút về cố th tại Điện Biên Ph .
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.32.
Các đơn vị bộ đội địa phương (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị) được điều động lên hoạt động tại
vùng giáp biên giới Việt – Lào; xây dựng lực lượng các thành phố, thị xã Lào. Tại Viêng Chăn, tập hợp được
hơn 600 ngư i tổ chức thành 4 đại đội chiến đấu gồm 3 đại đội Việt kiều và một đại đội Lào Ítxalạ. Xa vẳn na
khệt tập hợp được hơn 200 quân tổ chức thành hai đại đội chiến đấu c a Lào Ítxalạ và Việt kiều giải phóng quân.
Thà Khẹc tập hợp được hơn 800 quân tổ chức thành 4 đại đội chiến đấu gồm 2 đại đội Lào Ítxalạ và 2 đại đội
Việt kiều giải phóng quân. Với sự giúp đỡ c a Liên quân Lào – Việt, quân dân Lào đã chiến đấu và bảo vệ các
thành phố, thị trấn: Viêng Chăn, Khăm Cợt, Na Pê, đư ng 9, Bản Cơn, làm thất bại một bước kế hoạch tấn công
lấn chiếm c a Pháp, buộc Pháp phải co về phòng th , giữ các địa bàn đang chiếm đóng.
1
2
3
Điện Biên Ph thất th và những thắng lợi liên tiếp trên mặt trận quân sự đã tạo
đà để Việt Nam và Lào giành thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, buộc Pháp phải ký
Hiệp định Geneve. Một giai đoạn quan trọng trong lịch sử hợp tác chiến đấu dành và
giữ độc lập c a hai dân tộc Việt – Lào đã kết thúc thắng lợi. Tuy nhiên, là kết quả c a
một cuộc hoà giải không vững chắc, các giải pháp c a Hội nghị Geneve đã tạo kẽ h
cho Mỹ vào Đông Dương. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, chính sách c a Mỹ Nam
Việt Nam và Lào là chính sách can thiệp và xâm lược thông qua những kế hoạch và chiến
lược chiến tranh khác nhau. Từ năm 1954 tr đi, đế quốc Mỹ tr thành đối tượng ch yếu c a
cách mạng Việt Nam và Lào; nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào cùng bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ hết sức ác liệt. Có chung một kẻ thù, tình đoàn kết, quan hệ
chiến đấu keo sơn giữa nhân dân Việt Nam và Lào th i kỳ chống thực dân Pháp, nay
cùng chung chiến hào chống Mỹ, tiếp t c được kế thừa, nâng lên và phát triển.
Thực hiện điều khoản trong Hiệp định Geneve, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam
sẽ rút khỏi Lào trong vòng 120 ngày, lực lượng Pa thét Lào hoàn thành việc chuyển quân tập
kết về hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Xa Lỳ1. Trong điều kiện Mỹ đẩy mạnh chuẩn bị lực
lượng vũ trang để tấn công quân sự hai tỉnh tập kết nhằm tiêu diệt lực lượng Pa thét Lào và
Theo yêu cầu c a Chính ph kháng chiến Lào, Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết
định để lại một bộ phận chuyên gia tiếp t c giúp đỡ cách mạng Lào, chuyển từ chế độ
quân tình nguyện sang chế độ cố vấn quân sự bên cạnh các cấp y và các đồng chí ch
trì c a Lào từ Trung ương đến khu2.
Nhằm giúp nhân dân Lào xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng từng bước
vững mạnh, đảm bảo việc thực hiện Hiệp định Geneve, tháng 10-1954, Bộ Tổng tham
mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ch trương chấn chỉnh bộ đội tình nguyện Việt
Nam. Trên tinh thần không tổ chức thêm lực lượng mà chỉ kiện toàn các đơn vị hiện có
Hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Xa Lỳ và một dãy hành lang nối liền hai tỉnh, xuyên qua phía đông tỉnh Luông Phra
Băng, gọi là “Đàn Pẹt” (tiểu khu 8) - một vùng rừng núi hiểm tr với diện tích khoảng 32.770 km2, nơi cư trú c a
32 vạn dân gồm nhiều bộ tộc sống xen kẽ nhau, từng là vùng căn cứ Trung ương cách mạng Lào trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, nối liền với khu Tây Bắc và Liên khu 4 (Việt Nam) tr thành chỗ đứng chân c a lực
lượng cách mạng Lào sau Hiệp định Geneve. Trong khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, quân Pháp triệt
thoái khỏi Lào trong th i hạn 120 ngày (kể từ ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ), các lực lượng cách mạng Lào từ
khắp nơi trong cả nước chuyển về tập kết hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Xa Lỳ, ch hai phái Pa-thét Lào và
Chính ph Vương quốc Lào đàm phán tìm giải pháp chính trị hoà hợp dân tộc, bảo đảm quyền tự do cho nhân
dân xây dựng lại cuộc sống ấm no hạnh phúc.
2
Tổng số chuyên gia gồm 964 ngư i, trong đó có 314 ngư i thuộc đoàn chuyên gia quân sự, 650 cán bộ các
ngành dân, chính, đảng.
1
4
các địa bàn Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Luông Pha Băng, Viêng Chăn, Bộ Tổng tham
mưu tiến hành chỉnh huấn chính trị, quân sự, sắp xếp kiện toàn đội ngũ cán bộ, kiện
toàn cơ quan chỉ huy và phân chia lại các khu vực chỉ huy Quân tình nguyện Việt Nam
cho thích hợp. Thi hành Hiệp định Geneve và Hiệp định đình chiến
Lào, các lực
lượng quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang Lào Ítxala khẩn trương chuẩn
bị về mọi mặt, chuyển trọng tâm hoạt động phù hợp với tình hình cách mạng.
Từ giữa năm 1959, Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt
Lào.
Trên chiến trư ng Đông Dương, bước vào Xuân Hè năm 1960, một c c diện mới đã
xuất hiện. Phong trào Đồng kh i
miền Nam Việt Nam góp phần đưa cách mạng
Đông Dương từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Trong thế phát triển chung
c a cách mạng Đông Dương, trên chiến trư ng Lào, Quân tình nguyện Việt Nam cùng
lực lượng Pa thét Lào đã m chiến dịch cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng (1961), Nậm
Thà (1962), đư ng số 8, đư ng 12 (1963), Nậm Bạc (1968), cánh đồng Chum (1964,
1969)… Bộ đội tình nguyện Việt Nam ch động phối hợp với lực lượng vũ trang yêu
nước Lào đẩy mạnh tác chiến
khu vực hành lang phía Tây Trư ng Sơn, xây dựng,
c ng cố và không ngừng m rộng tuyến đư ng Trư ng Sơn, bất chấp sự đánh phá,
ngăn chặn quyết liệt c a đối phương. Để bảo vệ và m rộng tuyến đư ng, Bộ đội tình
nguyện Việt Nam và lực lượng Pa thét Lào đã tổ chức nhiều đợt chiến đấu giải phóng
Mư ng Phìn, Bản Đông (1960- 1961), Đư ng 12, từ M Dạ đến đư ng 9 (19621963), Pha Lam- Đồng Hến (1964- 1965)…
Từ năm 1969, Mỹ tiếp t c đẩy mạnh các hoạt động quân sự, đưa chiến tranh đặc
biệt
Lào lên một bước mới với sự tham gia c a lực lượng không quân Mỹ, đồng th i
tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
Việt Nam, hy vọng cản tr sự phối
hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào. Đáp trả, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với
lực lượng Pa thét Lào tổ chức chiến dịch cánh đồng Chum (1970, 1972), đư ng 9- Nam
Lào (1971), giải phóng Atôpơ, cao nguyên Bôlôven, Saravan…. Các chiến dịch trên
cùng hàng loạt trận chiến đấu c a liên quân Lào- Việt không những đã đánh bại từng
bước cuộc “chiến tranh đặc biệt” rồi “chiến tranh đặc biệt phát triển cao” c a Mỹ
Lào, tạo những bước nhảy vọt cho chiến tranh cách mạng bạn, mà đồng th i hỗ trợ to
lớn, đắc lực, tạo th i cơ thuận lợi cho các bước chuyển biến c a chiến tranh cách mạng
Việt Nam. Những thắng lợi to lớn cả về chính trị, quân sự, ngoại giao, đặc biệt là
5
quân sự trên chiến trư ng ba nước Đông Dương đã buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri
(27-1-1973) rút quân khỏi Việt Nam, ký hiệp định Viên Chăn về Lào (28-2-1973).
Tháng 12-1973, tại cuộc hội đàm giữa hai đoàn đại biểu cấp cao Đảng Lao động
Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, hai Đảng đã thống nhất đưa các đơn vị
quân tình nguyện Việt Nam đứng chân
tuyến sau, giúp bảo vệ, giữ vững vùng giải
phóng, hỗ trợ cho bộ đội giải phóng Lào chiến đấu
trên, Việt Nam từng bước rút chuyên gia
phía trước. Thực hiện ch trương
tỉnh và huyện về nước (rút trước tháng 5-
1974); đồng th i, điều chỉnh các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn lại để
phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm v trong giai đoạn cách mạng mới.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, tình hình chính trị c a Lào rất phức
tạp, các lực lượng chống đối trỗi dậy, quấy phá, làm cho tình hình chính trị c a Lào
luôn căng thẳng. Trước tình hình đó, tháng 12-1976, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân
cách mạng Lào chính thức yêu cầu bộ đội Việt Nam tr lại hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân
Lào ổn định tình hình an ninh trật tự. Với tinh thần đó, ngày 22-9-1977, Hiệp định
hợp tác phòng thủ giữa hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Lào được ký kết, hợp pháp
hóa về mặt pháp lý quốc tế cho sự có mặt c a quân đội Việt Nam trên đất nước Lào.
Quân tình nguyện Việt Nam tiếp t c kề vai, sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng và
bảo vệ đất nước cho đến năm 1987 mới rút hết về nước, hoàn thành trách nhiệm lịch sử
c a mình.
Đánh giá cao những cống hiến và nhằm thể hiện sự khen ngợi chân thành đối
với những ngư i đã cống hiến trí tuệ, sức lực, mồ hôi, xương máu, tuổi trẻ ng hộ sự
nghiệp cách mạng c a nhân dân Lào, cho đến năm 2007, Nhà nước Lào đã tiến hành
15 đợt khen thư ng, trao các huân chương, danh hiệu cao quý cho chuyên gia và quân
tình nguyện Việt Nam.
3- “Ôn cố tri tân”
Đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa các dân tộc Đông Dương là một yêu cầu
khách quan, là quy luật sống còn c a các dân tộc Đông Dương, trong đó tình đoàn kết
chiến đấu Việt – Lào hết sức đặc biệt. Suốt chiều dài hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, liên minh, phối hợp chiến đấu với quân và dân Lào
luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng và thực hiện nhất quán. Trong những
bước ngoặt c a kháng chiến, liên minh, phối hợp chiến đấu giữa Việt Nam và Lào góp
phần tạo ra c c diện mới có lợi cho cách mạng Đông Dương. Phối hợp hành động với
6
quân và dân Lào, Quân tình nguyện Việt Nam đã đóng góp tích cực vào những thắng
lợi to lớn trong chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước c a hai dân tộc
Việt – Lào.
Ngày nay, trong tình hình mới với những điều kiện lịch sử c thể c a mỗi nước,
vấn đề đoàn kết và hợp tác giữa hai dân tộc Việt - Lào lẽ đương nhiên cần được giải
quyết trên nguyên tắc mới, phù hợp với lợi ích chính đáng c a nhân dân mỗi nước
cũng như sự ổn định, hoà bình trong khu vực và trên thế giới. Để quan hệ đặc biệt Việt
– Lào luôn bền chặt, phát huy hiệu quả
hiện tại, soi rọi từ quá khứ, có thể đúc rút một
vài kinh nghiệm lịch sử như sau:
Thứ nhất, dù Lào và Việt Nam thống nhất trong m c tiêu chống kẻ thù chung,
song Việt Nam và Lào đều là những quốc gia độc lập. Vì thế, giúp đỡ nhân dân Lào vì
lợi ích c a mỗi nước cũng như vì lợi ích chung c a hai nước cần tuân th nguyên tắc
tôn trọng ch quyền, độc lập, tự ch c a Lào, đồng th i giữ quan hệ bình đẳng, nêu cao
tinh thần quốc tế, luôn ý thức “giúp bạn là tự giúp mình”. Những nguyên tắc này phải
được thấm nhuần, quán triệt từ trong tư duy, nhận thức cho tới hành động.
Thứ hai, để sự giúp đỡ đối với nhân dân Lào phát huy tối đa tác d ng, đạt kết quả
cao, cần thấy rõ những đặc điểm, điều kiện c thể c a Lào, c a quân đội Lào, từ đó đưa
ra những biện pháp phối hợp hành động phù hợp. Đặc biệt, phải luôn phát huy nỗ lực
ch quan, ch động giành phần khó về mình. Luôn luôn duy trì các hình thức trao đổi,
bàn bạc tập thể với lãnh đạo Lào một cách thư ng xuyên, để hai bên nắm vững, hiểu rõ
phương hướng chỉ huy, nhiệm v và kế hoạch hành động, nhất trí, đồng thuận cao trong
công tác.
Thứ ba, các cán bộ và lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tham gia công tác,
hoạt động trên đất Lào cần có sự hiểu biết, chấp hành đầy đ , nghiêm chỉnh các đư ng
lối, chính sách c a Lào; tôn trọng phong t c tập quán c a Lào cũng như chấp hành
nghiêm chỉnh các chính sách và kỷ luật chính trị c a Nhà nước Việt Nam, Nhà nước
Lào. Điều đó cho phép tránh các vấp váp, hiểu lầm không cần thiết, tránh sự kích động
tinh thần dân tộc hẹp hòi từ phía các lực lượng chống đối nhằm chia rẽ và làm suy yếu
quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt – Lào.
Thứ tư, trong công tác giúp đỡ nhân dân Lào, bên cạnh việc ra sức thực hiện
nhiệm v đã đề ra, phải hết sức chú trọng giúp Lào phát triển lực lượng, c ng cố thực
lực mọi mặt theo yêu cầu và ch trương c a Lào, tăng cư ng khả năng tự lực cánh sinh
7
c a Lào. Bên cạnh đó, cần chú trọng tổng kết kinh nghiệm các mặt công tác, đặc biệt là
công tác quân sự, công tác vận động quần chúng, tìm hiểu sâu những đặc điểm và quy
luật c a đấu tranh cách mạng
Lào.
Như vậy, đi qua những “đắng cay, ngọt bùi”, sát cánh cùng nhân dân Lào trên
những chặng đư ng chiến tranh chông gai, hay xây dựng trong hòa bình, Quân tình
nguyện Việt Nam đã luôn nỗ lực chiến đấu, “thương ngư i như thể thương thân”, coi
độc lập, tự do c a Lào như c a chính Việt Nam. Đó chính là biểu hiện cao đẹp c a
nghĩa tình Việt – Lào th y chung son sắt, trước sau như một, “tình sâu hơn nước Hồng
Hà, Cửu Long”. Trải qua những vận động thăng trầm c a lịch sử, quan hệ Việt – Lào
thêm gắn bó keo sơn. Sự gắn bó ấy được thử thách, tôi rèn trong trư ng kỳ đấu tranh vì
m c tiêu hòa bình, độc lập, tự do, phồn vinh và phát triển. Đó cũng là quan hệ hợp tác,
giúp đỡ hai chiều, “giúp bạn là tự giúp mình” như “lửa đã thử vàng”. Trên nền tảng ấy,
tình hữu nghị đặc biệt Việt – Lào trư ng tồn mãi với th i gian, như ngọn lửa ấm áp
nghĩa tình soi sáng những chặng đư ng cùng “đồng cam cộng khổ” c a hai dân tộc anh
em trước đây cũng như hiện nay và mãi mãi về sau.
8