Academia.eduAcademia.edu
ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI ĐÔNG Á Ở NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC CHO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÚC LỢI Ở VIỆT NAM HỌC PHẦN: MÔ HÌNH NHÀ PHÚC LỢI SINH VIÊN: TRẦN TOÀN MINH MÃ SINH VIÊN:19050178 LỚP:QH-2019-KINH TẾ CLC 2 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP HÀ NỘI, 2021 MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................................ 3 DANH MỤC HÌNH VẼ ................................................................................................................. 3 MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 4 1. Lý do , tầm quan trọng của vấn đề cần nghiên cứu ................................................. 4 2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5 NỘI DUNG ..................................................................................................................................... 6 Phần 1 : Đặc điểm nhà nước phúc lợi Đông Á ............................................................ 6 Phần 2 : Mô hình nhà nước phúc lợi Đông Á tại Nhật Bản ..................................... 9 2.1. Đặc điểm độc đáo trong mô hình nhà nước phúc lợi Nhật Bản ........................... 9 2.2. Đặc điểm các lĩnh vực phúc lợi xã hội trong quốc gia Nhật Bản......................... 9 2,2,1. Chế độ phúc lợi trong chăm sóc sức khỏe ..................................................... 9 2.2.2. Chế độ phúc lợi đối với bà mẹ và trẻ em..................................................... 10 2.2.3. Chế độ phúc lợi đối với người già ............................................................... 11 2.2.4. Chế độ phúc lợi đối với người tàn lật .......................................................... 11 2.2.5. Chế độ phúc lợi đối với người có thu nhập thấp ......................................... 11 Phần 3 : Liên hệ với Việt Nam ................................................................................... 12 3.1. Vai trò quan trọng của hệ thống phúc lợi đối với Việt Nam .............................. 12 3.2. Điều kiện cần thiết để vận dụng mô hình nhà nước phúc lợi Đông Á ............... 13 3.3. Bài học rút ra cho Việt Nam ............................................................................... 13 KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................... 16 2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT 1 2 3 Ký hiệu chữ viết tắt ASXH BHXH GDP 4 OCED 5 PLXH Chữ viết đầy đủ An sinh xã hội Bảo hiểm xã hội Gross Domestic Product : Tổng sản phẩm quốc nội Organization for Economic Cooperation and Development: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Phúc lợi xã hội DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1: Bình quân chi tiêu chính phủ về an sinh xã hội , y tế và giáo dục giai đoạn 1970 -2000 ở các nước Đông Á so với các nước khác thuộc nhóm OECD ,Tây Âu và Mỹ Latin ............................................................................................................................. 7 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do , tầm quan trọng của vấn đề cần nghiên cứu Kể từ khi khởi sự công cuộc đổi mới vào năm 1986 để thoát ra khỏi mô hình quản lý theo phương thức kế hoạch hóa tập trung và quan liêu bao cấp, chuyển sang mô hình quản lý dựa trên nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thể chế kinh tế và xã hội đã thay hình đổi dạng một cách khá ngoạn mục. Trong khuôn khổ của những giải pháp cải tổ sâu rộng ấy, diện mạo của hệ thống phúc lợi xã hội nói chung cũng như hệ thống an sinh xã hội nói riêng cũng thay đổi gần như toàn diện : hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội của thời quan liêu bao cấp đã bị giải thể để nhường bước cho sự hình thành của một hệ thống mới. Tuy nhiên, cho đến nay, các định chế của một hệ thống an sinh xã hội mới vẫn chưa được xác lập một cách vững chắc, ổn định, và người ta dễ dàng nhận ra rằng vẫn còn đang chất chứa nhiều tình trạng mâu thuẫn và bất ổn ở nhiều mặt . Bài chuyên đề này sẽ đi vào tìm hiểu một số đặc trưng chính của hệ thống an sinh xã hội theo mô hình nhà nước phúc lợi Đông Á và điển hình là một nước có nền văn hoá phương Đông , Nhật Bản . Việt Nam cũng là một nước thuộc nền văn hoá phương Đông , do vậy có thể rút ra được nhiều những nguyên tắc và bài học kinh nghiệm từ mô hình từ Nhật Bản trong việc xây dựng an sinh xã hội vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam đương đại . 2. Mục tiêu nghiên cứu Trong bài nghiên cứu này , mục tiêu của bài viết là giải quyết những vấn đề sau : - Mục tiêu thứ nhất : Phân tích ý nghĩa phúc lợi xã hội , so sánh sự giống và khác nhau giữa phúc lợi xã hội và an sinh xã hội - Mục tiêu thứ hai : Nêu ra phân tích về đặc điểm cơ bản của các mô hình phúc lợi các nước Đông Á từ đó nêu ra đặc điểm chính của mô hình , đặc biệt phân tích sâu sự hình thành và phát triển qua các giai đoạn , đặc điểm nổi bật riêng biệt ,các lĩnh vực phúc lợi toàn xã hội của nhà nước phúc lợi Nhật Bản - Mục tiêu thứ ba : Đưa ra các gợi ý cho quá trình xây dựng hệ thống phúc lợi ở Việt Nam 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các hình thức tổ chức phúc lợi ở nước Nhật Bản , một nước thuộc mô hình phúc lợi Đông Á , bài viết này tập trung phân tích rõ các đặc điểm thể chế phúc lợi cơ bản của quốc gia này và có sử dụng mô hình một số quốc gia lân cận hoặc có sự tương đồng để đối chiếu và so sánh . Bài viết này cũng tổng hợp các quan điểm của các học giả nghiên cứu về thể chế nhà nước của quốc gia này . Tuy nhiên , với giới hạn thời gian của bài nghiên cứu , việc tổng hợp hết tất cả các nghiên cứu và quan điểm trước đây là vô cùng khó khăn . Do đó , trong khuôn khổ nghiên cứu hiện tại chỉ bao gồm các nhóm quan điểm chính và có thể không đầy đủ về hình thức tổ chức nhà nước này . 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thu thập sô liệu qua tài liệu có sẵn , xử lý số liệu thứ cấp . Thêm vào đó , phương pháp thu thập các quan điểm trong tài liệu nghiên cứu trước đây cũng được sử dụng để làm nền tảng phân tích các đặc trưng của loại hình nhà nước phúc lợi Nhật Bản và chủ thể là mô hình Đông Á . Bài viết có sử dụng một số phân tích và trích dẫn từ các tài liệu nghiên cứu từ các học giả trên thế giới . Tuy nhiên cách phân tích tìm hiểu có nhược điểm là tính tổng quát không cao , vẫn có dấu ấn về quan điểm cá nhân của các chuyên gia và cách đánh giá đôi khi có cái nhìn thiên kiến theo quan điểm chủ quan của tác giả . Với sự kết hợp của các số liệu và hệ thống các quan điểm đánh giá , mong rằng bài nghiên cứu sẽ bớt đi được tính máy móc của số liệu và giảm được thiên kiến nếu chỉ nhìn vào ý kiến của các học giả đi trước . 5 NỘI DUNG Phần 1 : Đặc điểm nhà nước phúc lợi Đông Á Thứ nhất , nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển thể chế phúc lợi xã hội dựa trên chủ thuyết coi phúc lợi phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế . Sự thành công trong việc nhanh chóng phát triển kinh tế ở một số nước Đông Á như Nhật Bản , Hàn Quốc có nguyên nhân cơ bản từ sự điều hành tiến trình công nghiệp hoá của “ nhà nước phát triển . Tuy nhiên , không chỉ chính sách kinh tế mà còn cả chính sách xã hội được thể chế hoá đã đóng góp một phần vào chiến lược tổng thể phát triển kinh tế . Các nước Đông Á đã bắt đầu áp dụng những chương trình an sinh xã hội đầu tiên ngay ở trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp hơn so với các nước châu Âu . Các chương trình an sinh xã hội được sử dụng như những công cụ chính sách để phát triển kinh tế . Goodman và White nhấn mạnh đặc điểm của các nhà nước phúc lợi Đông Á bao gồm : dựa trên một chủ thuyết phát triển coi phúc lợi phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế ; không khuyến khích dựa vào nhà nước mà chủ trương đẩy mạnh nguồn phúc lợi từ khu vực tư nhân ; và chuyển hướng các nguồn lực tài chính của bào hiểm xã hội vào đầu tư cho kết cấu hạ tầng( Segura – Ubiergo,2007 ) . Sự ưu tiên cho phát triển kinh tế này dẫn đến nhà nước phúc lợi chủ yếu ban hành các chương trình bảo hiểm xã hội cho công nhân công nghiệp – lực lượng lao động chính có năng suất lao động cao của xã hội , trong đó người lao động buộc phải đóng góp trước khi được hưởng các phúc lợi xã hội . Để tránh nhu cầu hưởng thụ phổ cập , nhà nước không cung cấp tài chính cho các chương trình phúc lợi mà chỉ để rà quy định , cả chính thức và không chính thức , để điều tiết việc đóng góp và chi trả quyền lợi xã hội cho các công ty và người lao động . Các chương trình bảo hiểm xã hội được điều hành bởi những đại lý gần như là của nhà nước , hoạt động như những cánh tay nối dài của nhà nước . Hai là , nhà nước chi tiêu ngân sách hạn chế cho phúc lợi xã hội . Chi tiêu ngân sách cho phúc lợi ở các nước Đông Á rất khiêm tốn so với các khu vực khác trên thế giới . Nhiều nghiên cứu đã dẫn ra số hiệu cho thấy tổng chi tiêu của chính phủ cho các vấn đề xã hội ở các nước Đông Á thấp hơn nhiều so với các khu vực như OECD , Tây Âu , của nhà nước . Mỹ Latin ( Kim , 2013 ) . Nếu chỉ dùng con số chi tiêu chính phủ cho các vấn đề xã hội 6 để đánh giá sự phát triển của nhà nước phúc lợi thì các nước Đông Á sẽ nằm trong số những nhà nước phúc lợi kém phát triển nhất . Hình 1: Bình quân chi tiêu chính phủ về an sinh xã hội , y tế và giáo dục giai đoạn 1970 -2000 ở các nước Đông Á so với các nước khác thuộc nhóm OECD ,Tây Âu và Mỹ Latin Hình 1.1 cho thấy tổng chi tiêu của các nước Đông Á cho các vấn đề xã hội thấp hơn nhiều so với các nước khác thuộc nhóm OECD , Tây Âu , hay thậm chí là các nước khu vực Mỹ Latin . Trong khi chi tiêu trung bình cho phúc lợi xã hội từ 8,7 % đến 18,9 % GDP và từ 37,6 % đến 52,6 % tổng chi tiêu ngân sách ở các khu vực khác thì các nước Đông Á chỉ chi tương ứng là 6,2 % và 29,6 % . Có thể nói , các nước Đông Á thuộc nhóm nước chi tiêu ít nhất cho phúc lợi xã hội . Ngay cả Nhật Bản , một nước chi tiêu ngân sách cao nhất cho phúc lợi xã hội trong nhóm nước Đông Á ( khoảng 23 % ngân sách ) , con số này vẫn là thấp hơn so với các tiêu chuẩn chi tiêu của Tây Âu và Bắc Mỹ ( Jones , 1993 ) . Nhưng điều đáng chú ý không chỉ là mức chi tiêu thấp của chính phủ cho phúc lợi xã hội mà còn là cách thức chi tiêu . So với các nước phát triển khác , nơi mà phúc lợi xã hội là khu vực chiếm tỷ trọng nhiều nhất của chi tiêu công , thì các nước châu Á chi tiêu nhiều hơn vào việc tạo dựng vốn con người trên các lĩnh vực như y tế , giáo dục ,... hay nói cách khác là tập trung vào chức năng “ hiệu suất ” của chính sách xã hội . Ở Đông Á , phát triển kinh tế và tạo dựng vốn con người là những chính sách chiếm vị trí trung tâm , trong khi lợi ích về phúc lợi chỉ được duy trì ở mức hạn chế . Bảng ……. cho thấy các nước Đông Á chi nhiều hơn cho các chương trình phát triển kinh tế , giáo dục so với chi cho y tế hay an sinh xã hội . Một số học giả nhấn mạnh ảnh hưởng của yếu tố văn hoá , đặc biệt là những giá trị của Nho giáo trong xã hội phương Đông . Điều này có liên quan đến đặc điểm thứ ba của mô hình nhà nước phúc lợi phát triển , đó là vai trò của gia đình theo kiểu truyền thống 7 châu Á với chức năng tự chăm lo cho các thành viên của mình trong suốt quá trình phát triển . Ba là , gia đình truyền thống có vai trò quan trọng trong tương quan với nhà nước và thị trường về cung ứng phúc lợi . Ảnh hưởng của Nho giáo là yếu tố chính phân biệt các nhà nước phúc lợi Đông Á với các nhà nước phúc lợi phương Tây . Chữ “ Nhân ” trong Nho giáo nhấn mạnh vai trò của gia đình và mạng lưới phi chính thức trong việc cung cấp và chuyển giao phúc lợi . Dựa vào bản thân ( tự lập ) , có trách nhiệm lẫn nhau , sẵn sàng hỗ trợ gia đình và cộng đồng là những giá trị cốt lõi của Nho giáo . Mức chi tiêu thấp của nhà nước cho các vấn đề xã hội ở Đông Á chịu ảnh hưởng của cấu trúc gia đình truyền thống . Theo đó , mô hình nhà nước phúc lợi phương Tây không vận dụng được ở Đông Á vì các nước châu Á theo truyền thống Nho giáo thường nhấn mạnh trách nhiệm của gia đình trong việc chăm sóc và bảo vệ các thành viên của mình . Vì vậy , nhà nước không phải chịu nhiều áp lực đối với việc cung cấp và duy trì phúc lợi phổ cập cho mỗi người dân . Mặt khác , Nho giáo trong truyền thông cũng đề cao vai trò của giáo dục , điều này rất phù hợp với yêu cầu của các nước Đông Á trong thời kỳ công nghiệp hoá để tạo ra nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế . 8 Phần 2 : Mô hình nhà nước phúc lợi Đông Á tại Nhật Bản 2.1. Đặc điểm trong mô hình nhà nước phúc lợi Nhật Bản Nhà nước phúc lợi kiểu Nhật Bản được cho là độc đáo bởi vì mặc dù những chỉ phí xã hội tương đối ít nhưng lại thành công trong việc duy trì tỉ lệ thất nghiệp và nghèo đối thấp. Tỉ lệ thất nghiệp trong những năm đầu thập kỷ 90 đưới 3%, thấp gần bằng Thụy Điển. Tỉ lệ thất nghiệp thấp ở Thụy Điển dễ dàng giải thích được là do chỉ phí tiêu dùng cao trong chính sách thị trường lao động. Các nước châu Âu sử dụng các chương trình phúc lợi để giảm nguồn cung lao động. Đức dùng các loại trợ cấp cho người già để khuyến khích công nhân cao tuỗi rời bỏ thị trường lao động. Tương tự, Hà Lan dùng lợi ích người khuyết tật để đạt mục đích. Tuy nhiên, trong trường hợp Nhật Bản, tiêu dùng xã hội, kể cả chính sách tiêu dùng cho thị trường lao động thấp nhất trong các nước OECD bới vì họ không dùng trợ cấp hưu trí, thất nghiệp hay lợi ích người khuyết tật để hạn chế nguồn cung về lao động. Ngay từ trước năm 1990 , chỉ số Gini trước và sau thuế của Nhật bản đều nhỏ . Điều đó chứng tỏ rằng ảnh hưởng của việc phân phối lại không đáng kê, khác hẳn so với các nước tư bản phát triển khác hệ sô , Gini tương đối nhỏ do có những chính sách kinh tế hữu hiệu làm giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp xã hội. Nói cách khác, ở nhà nước phúc lợi Nhật Bản, một số chính sách kinh tế thay thể chức năng của nhà nước phúc lợi thông thường. Hệ thống tuyển dụng suốt đời tại các công ty lớn làm cho tỉ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản thấp. Bên cạnh đó công ty mở rộng lợi ích người công nhân dược hướng tới những thành viên trong gia đình khiến người đàn ông trở thành người nuôi sống cả gia đình Chính sách bảo vệ những công ty vừa và nhỏ cũng góp phần đảm bảo việc làm cho người lao động. Công nhân xây dựng (chiếm khoảng 10% lực lượng lao động) được đảm bảo việc làm nhờ vào chính sách đầu tư nhiều vỗn vào các công trình công cộng của nhà nước. 2.2. Đặc điểm các lĩnh vực phúc lợi xã hội trong quốc gia Nhật Bản 2,2,1. Chế độ phúc lợi trong chăm sóc sức khỏe Trong các chương trình phúc lợi xã hội ở Nhật Bản thì chương trình về y tế và chăm sóc sức khỏe được hình thành sớm nhất và lớn nhất về kinh phí. Hai chương trình Bảo hiểm sức khỏe công nhân và Bảo hiểm sức khỏe quốc gia đã thu hút phần lớn người dân Nhật Bán tham gia, chiếm tới hơn 90% đân số Nhật Bản. Bảo hiểm sức khỏe quốc gia bao gồm những người kinh doanh và nông đân. Bảo hiểm này thường bị thâm hụt tài chính so với Bảo hiểm sức khỏe công nhân luôn có số đư tài chính. Bởi vì Báo hiểm sức khỏe quốc 9 gia còn phải đâm nhận cả việc bảo hiểm cho người già, người thất nghiệp và những người có thu nhập thấp. Hệ thống phúc lợi xã hội về sức khỏe ở Nhật Bản có những chương trình chăm sóc sức khỏe cho các nhóm dân cư rất cụ thể. Ví dụ, như hệ thống địch vụ sức khỏe cho người giả, chương trình bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho bả mẹ và trẻ em, chương trình chăm sóc sức khỏe cho người tàn tật, cho những nạn nhân của bom nguyên tử. Những chương trình này đã đám bảo quyền được hướng phúc lợi về y tế cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội Nhật Bản. 2.2.2. Chế độ phúc lợi đối với bà mẹ và trẻ em Trước đây, Nhật Bản cho rằng việc nuôi đưỡng và chăm sóc trẻ em thuộc về gia đình. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, quan niệm này đã thay đổi và đã ban hành luật phúc lợi trẻ em (người dưới 18 tuổi) (năm 1947) và luật phụ cấp nuôi đưỡng trẻ (năm 1961). Cũng sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, phụ nữ Nhật Bản tham gia lao động xã hội nhiều hơn. Điều này buộc xã hội phải tham gia trực tiếp vào công tác chăm sóc trẻ em. Chính vì vậy, một số chính sách vả biện pháp phúc lợi bả mẹ trẻ em ở Nhật Bản đã được thực hiện: Cải thiện môi trường sống xung quanh trẻ em. Chính phủ đã phát triển loại nhà cho thuê dành cho hộ gia đình có từ 3~5 người, ưu tiên cho gia đình có con nhỏ. Xây dựng nhiều nơi vui chơi công cộng cho trẻ em (sân chơi), kế cả chỗ vui chơi ở cửa hàng, khách sạn, nhà ga vả bảo tàng... Chế độ phụ cấp cho trẻ em. Hệ thông này được bắt đầu từ năm 1972 và có chế độ phụ cấp hàng tháng (khoảng vài nghìn yên/trẻ em) cho việc nuôi mỗi đứa trẻ đưới 5 tuổi cho đến khi học xong lớp 9 (hoặc lớp 6) tùy theo sự điều chính của chế độ phúc lợi này (sự điều chỉnh chế độ phúc lợi trẻ em cũng đã xảy ra ở năm 1992). Hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo rất đa đạng, bao gồm cả trông trẻ sơ sinh. Tăng thời gian trông trẻ cho phù hợp với điều kiện làm việc của mẹ (có thể trông trẻ tới 7 giờ tối, hoặc 10 đêm). Có nhà trẻ cho trẻ tản tật vả trông trẻ theo thời vụ. Lệ phí gửi trẻ được quy định tùy theo mức thu nhập của từng người gửi. Nội dung đạy trẻ theo để cương thống nhất của Bộ Giáo dục Nhật Bản. Chế độ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em. Năm 1965, luật sức khỏe bà mẹ trẻ em ra đời. Ngoài ra còn có dịch vụ phúc lợi cho các bà mẹ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, như: không nơi nương tựa (bố mẹ ly dị, hoặc bị chết), trẻ em thiếu cha, bị tản tật, bị thần kinh, bị rối loạn tình cảm. Nhà nước đã lập ra các trung tâm tư vấn và cung cấp các địch vụ phục hồi chức năng cho những đối tượng trẻ em này. Đối với các bà mẹ trong trường hợp này, nhà nước cũng có những ưu tiên về việc làm cho họ, tư vấn về nghề nghiệp và giúp đỡ về kinh tế (cho vay không lãi đề kinh doanh, giảm thuế thu nhập). 10 2.2.3. Chế độ phúc lợi đối với người già Việc xã hội chăm sóc người giả chủ yếu là do nhà nước và xí nghiệp đảm bảo là chính. Sự chăm sóc này được thực hiện thông qua hai hình thức là bảo hiểm xã hội và các dịch vụ xã hội. Bảo hiểm xã hội lại bao gồm hai dạng là trợ cấp hưu trí và chăm sóc sức khỏe. Dịch vụ phúc lợi cũng có hai dạng là dịch vụ dành cho người già sống ở nhà dưỡng lão và dịch vụ tại nhà (Nguyễn Duy Dũng, 1998). Từ tháng 4/2000, ở Nhật Bản đã lập nên Chế độ bảo hiểm chăm sóc lâu đời (cho người già từ 65 tuôi trở lên, hoặc từ 40~64 tuổi nếu có bảo hiểm y tế). Mục đích của chế độ báo hiểm này là giải quyết nỗi lo của xã hội về tình trạng người già ngày cảng gia tăng và bảo đảm cho người già nhận được sự chăm sóc sức khỏe khi cần thiết. Chế độ này cũng nhằm để chia sẻ gánh nặng chăm sóc người già giữa các thành viên trong xã hội và giảm gánh nặng cho gia đình. Nguồn tài chính cho bảo hiểm chăm sóe lâu đài là người tham gia đóng góp lệ phí, trợ cấp của chính phú và người sử dụng địch vụ phải trả 10% phí. Chế độ này đã thay đối cơ bán chế độ phúc lợi cho người già mà trước đây thường do dịch vụ của cơ sở phúc lợi công cộng cung cấp (hoặc của cơ sở y tế) chuyển sang dịch vụ của cơ sở chăm sóc của nhà nước (hoặc của tư nhân và cơ sở y tế) (Trần Thị Nhung,2003). 2.2.4. Chế độ phúc lợi đối với người tàn lật Trước đây, nơi tiến hành phúc lợi cho người tản tật thường ở các bệnh viện vả trung tâm phục hồi chức năng. Hiện nay, người ta đã thay đổi và thu hút người tàn tật vào các cơ sở phúc lợi chuyên môn (giống như các ký túc xá) để giúp họ sống tự lập, tự thấy được giá trị của bản thân mình và cảm thấy được sống trong cộng đồng một cách bình thường. Điều này nhằm thực hiện khái niệm “Normalization” (bình thường hóa) được đưa ra vào năm quốc tế người tàn tật với ý nghĩa mở rộng cuộc sống cho những người tàn tật. Hơn nữa, dịch vụ tại nhà cho người tàn tật đang được mở rộng ở Nhật Bản hiện nay (Nguyễn Duy Dũng, 1998). 2.2.5. Chế độ phúc lợi đối với người có thu nhập thấp Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu Việt Nam về lĩnh vực phúc lợi xã hội ở Nhật Bản thì hiện chưa thống nhất được khái niệm người “nghèo” ở đất nước này. Cùng với sự phát triển kinh tế thần kỳ sau chiến tranh, cái gọi là “người nghèo” hầu như không được nhắc đến. Do vậy, các nhà nghiên cứu Nhật Bản thường sử dụng khái niệm những người được bảo trợ đời sống, hoặc là người có “thu nhập thấp”. Số liệu toàn quốc về tỉ lệ người có mức sống thấp cần hỗ trợ trong các năm tài chính là như sau: năm 1974 có tỉ lệ là 1,19%; con số tương ứng trong các năm 1975 là 1,2%; năm 11 1984 là 1,24%; năm 1985 là 1,18% và năm 1993 là 0,71%. Bức tranh tổng thể về người có thu nhập thấp luôn biến động theo thời gian. Khi kinh tế phát triển thì số người cần hỗ trợ giảm xuống, còn khi kinh tế suy thoái thì số người cần hỗ trợ lại tăng lên. Phần lớn trong số những người có thu nhập thấp là người giả trên 65 tuổi, trẻ em dưới 13 tuổi, phụ nữ mang thai và người tàn tật về cơ thê và tỉnh thần. Ngoài ra, còn có những người thất nghiệp, không có việc làm ổn định. Ở Nhật Bản có hai loại chính sách nhằm hễ trợ cho những đối tượng này. Thứ nhất, đó là chính sách đối với người có thu nhập thấp, và thứ hai là chính sách hễ trợ của cộng đồng (Nguyễn Duy Dũng, 1998). Phần 3 : Liên hệ với Việt Nam 3.1. Vai trò quan trọng của hệ thống phúc lợi đối với Việt Nam Ở Việt Nam , quá trình xây dựng hệ thống trải qua nhiều giai đoạn với những mô hình và thể chế khác nhau . Trước khi thời kỳ đổi mới , nhà nước cung cấp phúc lợi cho toàn người dân bằng ngân sách nhà nước nhưng vấp phải sự hạn chế về nguồn lực cung cấp phúc lợi , Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường , vai trò cung ứng phúc lợi phần nào được xã hội , các hệ thống phúc lợi tư nhân đảm nhiệm , hệ thống phúc lợi của Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, đó là: Thứ nhất, PLXH góp phần ổn định đời sống của người lao động. Hệ thống này phần nào thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống. Thứ hai, PLXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, hệ thống ASXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất. Tất cả những yếu tố này góp phần ổn định nền kinh tế - xã hội. Thứ ba, hệ thống PLXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Các quỹ, trong đó có quỹ BHXH là nguồn tài chính tập trung khá lớn, được sử dụng để chi trả các chế độ cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ... 12 3.2. Điều kiện cần thiết để vận dụng mô hình nhà nước phúc lợi Đông Á - Về chiến lược tổng thế quốc gia , nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển thể chế phúc lợi xã hội, điểu tiết chặt chẽ và ưu tiên tăng trưởng theo chiến lược “tăng trưởng trước, phân phối lại sau” , hạn chế chi tiêu ngân sách cho các chương trình phúc lợi , đẩy mạnh nguồn phúc lợi từ khu vực tư nhân . Chuyển hướng các nguồn lực tài chính của bảo hiểm xã hội vào đầu tư cho kết cấu hạ tầng . - Nhà nước không cung cấp tài chính cho các chương trình phúc lợi mà chỉ ban hành quy định điều phối việc đóng góp tài chính cho quỹ phúc lợi từ các doanh nghiệp và người lao động . - Hoạch định các chính sách phúc lợi ở những khu vực hạn chế như bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm ý tế thoe nghề nghiệp . - Những chính sách chiếm vị trí trung tâm phải là phát triển kinh tế và tạo dựng vốn nhân lực , biểu hiện ở việc ưu tiên đầu tư cho cho giáo dục phổ thông và giáo dục hướng nghiệp . - Phát huy truyền thống Nho giáo trong việc đề cao vai trò của giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá nhằm tạo ra nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế . - Thị trường và gia đình đóng vai trò quan trọng trong tổng thể cung ứng phúc lợi . Phân phối lại tập trung vào việc chuyển nguồn lực tài chính từ người nộp thuế ( các doanh nghiệp , chủ sở hữu tài sản và gười tiêu dùng ) sang đối tượng thụ hưởng phúc lợi là các gia đình có con trong độ tuổi đi học , sinh viên đại học , những người có vấn đề về sức khoẻ và một số đối tượng yếu thế . 3.3. Bài học rút ra cho Việt Nam Trên cơ sở đánh giá, nghiên cứu học hỏi và những kinh nghiệm quản lý, triển khai thành công mô hình phúc lợi xã hội Đông Á nói chung của Nhật Bản nói riêng, thời gian tới Việt Nam cần lựa chọn những đặc điểm phù hợp từ vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo phúc lợi và ASXH ở Nhật Bản để vận dụng phù hợp với thực tế Việt Nam Cần thường xuyên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi chính sách ASXH. Theo đó, mặc dù áp dụng mô hình phúc lợi , an sinh xã hội nào thì vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo chế độ luôn là cần thiết. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hay gián tiếp trên cơ sở hoạch định các chiến lược, xây dựng hệ thống luật pháp. 13 Đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng tăng cường đào tạo và đào tạo lại cho người lao động; tập trung giải quyết việc làm cho lao động khu vực phi chính thức, nhất là lao động nông nghiệp chuyển đổi ngành nghề Để bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội cùng với thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng và Nhà nước cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm... Trong các giải pháp lớn được đưa ra, có giải pháp về cải cách chính sách tiền lương theo hướng tiệm cận với giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc. Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững. Đồng thời, cần điều chỉnh chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản cho người dân. Các cấp, các ngành và các địa phương cần nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, triển khai có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi , bảo đảm an sinh xã hội đối với các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và người dân tham gia thực hiện chính sách ASXH; chú trọng đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ASXH; Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; Phát triển kinh tế xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường… kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. 14 KẾT LUẬN Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển . Trong thời kỳ hội nhập đổi mới , Việt Nam cần vận dụng các kinh nghiệm của các mô hình trên thế giới để áp dụng cải thiện cho thể chế phúc lợi nước ta , bên cạnh tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách và phát triển . Bài tiểu luận đã nghiên cứu ở trên đã nêu rõ tác động của hệ thống phúc lợi đối với xã hội cực kỳ quan trọng . Đảm bảo an sinh xã hội , phúc lợi xã hội , đem lại cuộc sống ấm no , hạnh phúc cho nhân dân không chỉ là mục tiêu của thể chế nhà nước ta , mà còn là trách nhiệm tuyệt đối đối với mỗi cán bộ , đảng viên . Phúc lợi xã hội ổn định với toàn dân sẽ góp phần lớn củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng , Nhà nước , với chế độ xã hội chủ nghĩa . 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Phú Hiệp, & Nguyễn Duy Dũng (chủ biên). (1996). Một số vấn đề phúc lợi xã hội của Nhật Bản. In N. D. Dũng. Hà Nội: Trung Tâm Nghiên cứu Nhật Bản. 2. Esping Andersen, & Gosta. (1997). "Hybrid or Unique ? The Japanese Welfare State between Europe and America ". Journal of European Social Policy 7 (3), 179 - 190. 3. Esping-Anderson, & Gosta. (1996). Welfare States in Transition : National Adapation in Global Economies, Thousand Oasks. CA:Sage. 4. Holiday, Ian. (2000). "Productivist Welfare Capitalism : Socil Policy in East Asia ". Political Studies 48(4) : 706 - 23. 5. Nguyễn Duy Dũng. (2005). Một số vấn đề xã hội bức xúc của Nhật bản hiện nay. Tạp chí nghiên cứu Nhật bản và Đông Bắc Á . Số 2(56)/4-2005, 17-19. 6. Nguyễn Duy Dũng, & Bùi Thị Liên. (1998). "Về cải cách và điều chỉnh phúc lợi ở Nhật Bản , giai đoạn từ 1979 đến nay". Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản.Số 6(18)/121998: 26-28, Hà Nội. 7. Phạm Thị Hồng Điệp. (2020). Mô hình nhà nước phúc lợi. Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 8. Segura-Ubiego, & Alex. (2007). The Political Economy os the Welfare in Latin America: Globalization, Democracy, and Development. New York : Cambridge University Press. 9. Statistics Bureau. (1997). Stastistical Handbook of Japan 1997. Tokyo : The Japan Statistical Association. 10. The Constitution of Japan. (n.d.). Retrieved from http://japan.kantei.go.jp/constitution_and_government_of_japan/constitution_e.ht ml 11. Trần Thị Nhung. (2003). "Vấn đề bảo đảm xã hội Nhật Bản trong tình hình kinh tế , xã hội hiện nay ". Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á .Số6(48)/6-2013: 17 -22, Hà Nội. 12. TS. Phạm Ngọc Anh. (2021). Tạp chí tổ chức nhà nước. Retrieved from https://tcnn.vn/news/detail/37891/Chinh_sach_an_sinh_xa_hoi_o_Nhat_Banall.ht ml 13. Walker A; Wong C-k;. (2005). East Asian welfare regimes in transition: from Confucianism to globalisation. Bristol: Policy Press. 16